Post by vietnam on Jun 1, 2009 11:00:27 GMT -5
Sơ Lược Kích Thích Tố Giáp Trạng
Ngo Manh Tran, M.D Ph.D.
www.yduocngaynay.com
15/01/2009
Một trong nhưng tiên quyết khi dùng đồng vị phóng xạ trong y khoa là phải hiểu đại khái sinh lý tuyến giáp trạng.
Kích thích tố tuyến giáp trạng:
Tổng hợp kích thích tố giáp trạng gồm 4 giai đoạn: từ lúc Iod được hấp thụ vào cơ thể, Iod được chuyển vào tuyến giáp trạng, oxýt-hóa Iod, phối hợp với iodotyrosine và tiết kích thích tố giáp trạng.
1) Cơ nguyên muối Iod chui vào tế bào giáp trạng liên hệ sự vận chuyển của sodium nhờ độ ion sinh ra từ Na+, K+, ATPase. Đó là cơ nguyên giúp muối Iod trong huyết tương vào tế bào giáp trạng. Muối Iod tích tụ nơi biên giới nằm giữa chất keo (colloid) và tế bào giáp trạng, kích thích bởi TSH và thyroid stimulating hormone (TSI), và cân bằng bởi những ions lớn như ClO4-, SCN-, và TcO4-.
2) Oxýt-hóa Iod: Muối Iod (Iodide) trong tế bào giáp trạng chuyển thành Iod (Iodine) nhờ phân hóa tố thyroidal peroxidase. Iod sẽ dính vào những phân tử thyroglobulin-bound tyrosine. Khi một phân tử Iod dính vào tyrosine thì gọi là monoiodotyrosine (MIT). Khi 2 phân tử Iod dính vào, gọi là diiodotyrosine (DIT). Hiên tượng sẩy ra thật mau lẹ, chỉ chừng mấy phút, kích thích bởi TSH. Nhưng hiện tượng thành lập diiodothyrosine có thể bị bị kìm hãm bởi methimazole, lithium, muối iod thặng dư, hay hóa chất sinh bướu giáp trạng có trong đồ ăn.
3) Tổng hợp kích thích tố T4, T3: Đó là hiện tượng oxýt-hóa tổng hợp 2 phân tử diiodotyrosine thành một phân tử tetraiodothyronine (T4). Hay tổng hợp một phân tử MIT với một phân tử MIT thành một phân tử triiodothyronine (T3). Hiện tượng tổng hợp cần có mặt phân hóa tố thyroidal peroxidase.
4) Kích thích tố giáp trạng tiết ra nhờ phân hóa tố tên là protease tách rời T4 và T3 khỏi phân tử thyroglobulin rồi vào máu. TSH kích thích phản ứng, nhưng ngược lại thặng dư Iod và lithium kìm hãm phản ứng.
Nói tóm lại, trong cả bốn hiện tượng kể trên, TSH giữ nhiêm vụ quan trọng nhất.
Vài thí dụ về tuyến giáp trạng không tổng hợp được kích thích giáp trạng, như hiện tượng di truyền làm cho tuyến giáp trạng không thể sản xuất được kích thich tố giáp trạng. Có nhiều phản ứng đã không thành hình thí dụ: Iod không thể vào được bên trong tuyến giáp trạng, phản ứng kết đôi (coupling) không thực hiện được, sản xuất thyroglobin không xong, hay kích thích tố không vào được trong máu. Có những trường hợp khác như thiếu phân hóa tố peroxidase, dehalogenase, deiodinase, v...v... Kết quả là sẽ gây nên tình trạng thặng dư TSH, do đó kích thích tăng trưởng tuyến giáp trạng và sinh ra bệnh bướu cổ.
Kích thích tố giáp trạng trong máu: Kích hích tố thyroxine T4 vừa rời tuyến giáp trạng tức khắc dính vào bạch đản thyroxine binding protein (TBG) trong máu. Khi thử nghiệm đo mức T4 là định lượng thyroxine tự do và T4 dính với TBG T4-TBG) trong máu. Nhưng vì lượng T4 tự do chỉ bằng 1/1000 lượng T4 dính với TBG cho nên trong thực tế khi đo T4 tức là đo phải đo T4-TBG.
Tuyến giáp trạng tiết T3 và đẩy T3 vào máu. T3 cũng dính với TBG trong máu. T3 lên cao hay xuống thấp liên hệ tới tuyến giáp trang hoạt động mạnh hay yếu.
70-80% T3 trong máu sản xuất từ T4, khi T4 mất một nguyên tử Iod ngoài giáp trạng. (còn tiếp)
Trần Mạnh Ngô, M.D.
American Board of Nuclear Medicine
Ngo Manh Tran, M.D Ph.D.
www.yduocngaynay.com
15/01/2009
Một trong nhưng tiên quyết khi dùng đồng vị phóng xạ trong y khoa là phải hiểu đại khái sinh lý tuyến giáp trạng.
Kích thích tố tuyến giáp trạng:
Tổng hợp kích thích tố giáp trạng gồm 4 giai đoạn: từ lúc Iod được hấp thụ vào cơ thể, Iod được chuyển vào tuyến giáp trạng, oxýt-hóa Iod, phối hợp với iodotyrosine và tiết kích thích tố giáp trạng.
1) Cơ nguyên muối Iod chui vào tế bào giáp trạng liên hệ sự vận chuyển của sodium nhờ độ ion sinh ra từ Na+, K+, ATPase. Đó là cơ nguyên giúp muối Iod trong huyết tương vào tế bào giáp trạng. Muối Iod tích tụ nơi biên giới nằm giữa chất keo (colloid) và tế bào giáp trạng, kích thích bởi TSH và thyroid stimulating hormone (TSI), và cân bằng bởi những ions lớn như ClO4-, SCN-, và TcO4-.
2) Oxýt-hóa Iod: Muối Iod (Iodide) trong tế bào giáp trạng chuyển thành Iod (Iodine) nhờ phân hóa tố thyroidal peroxidase. Iod sẽ dính vào những phân tử thyroglobulin-bound tyrosine. Khi một phân tử Iod dính vào tyrosine thì gọi là monoiodotyrosine (MIT). Khi 2 phân tử Iod dính vào, gọi là diiodotyrosine (DIT). Hiên tượng sẩy ra thật mau lẹ, chỉ chừng mấy phút, kích thích bởi TSH. Nhưng hiện tượng thành lập diiodothyrosine có thể bị bị kìm hãm bởi methimazole, lithium, muối iod thặng dư, hay hóa chất sinh bướu giáp trạng có trong đồ ăn.
3) Tổng hợp kích thích tố T4, T3: Đó là hiện tượng oxýt-hóa tổng hợp 2 phân tử diiodotyrosine thành một phân tử tetraiodothyronine (T4). Hay tổng hợp một phân tử MIT với một phân tử MIT thành một phân tử triiodothyronine (T3). Hiện tượng tổng hợp cần có mặt phân hóa tố thyroidal peroxidase.
4) Kích thích tố giáp trạng tiết ra nhờ phân hóa tố tên là protease tách rời T4 và T3 khỏi phân tử thyroglobulin rồi vào máu. TSH kích thích phản ứng, nhưng ngược lại thặng dư Iod và lithium kìm hãm phản ứng.
Nói tóm lại, trong cả bốn hiện tượng kể trên, TSH giữ nhiêm vụ quan trọng nhất.
Vài thí dụ về tuyến giáp trạng không tổng hợp được kích thích giáp trạng, như hiện tượng di truyền làm cho tuyến giáp trạng không thể sản xuất được kích thich tố giáp trạng. Có nhiều phản ứng đã không thành hình thí dụ: Iod không thể vào được bên trong tuyến giáp trạng, phản ứng kết đôi (coupling) không thực hiện được, sản xuất thyroglobin không xong, hay kích thích tố không vào được trong máu. Có những trường hợp khác như thiếu phân hóa tố peroxidase, dehalogenase, deiodinase, v...v... Kết quả là sẽ gây nên tình trạng thặng dư TSH, do đó kích thích tăng trưởng tuyến giáp trạng và sinh ra bệnh bướu cổ.
Kích thích tố giáp trạng trong máu: Kích hích tố thyroxine T4 vừa rời tuyến giáp trạng tức khắc dính vào bạch đản thyroxine binding protein (TBG) trong máu. Khi thử nghiệm đo mức T4 là định lượng thyroxine tự do và T4 dính với TBG T4-TBG) trong máu. Nhưng vì lượng T4 tự do chỉ bằng 1/1000 lượng T4 dính với TBG cho nên trong thực tế khi đo T4 tức là đo phải đo T4-TBG.
Tuyến giáp trạng tiết T3 và đẩy T3 vào máu. T3 cũng dính với TBG trong máu. T3 lên cao hay xuống thấp liên hệ tới tuyến giáp trang hoạt động mạnh hay yếu.
70-80% T3 trong máu sản xuất từ T4, khi T4 mất một nguyên tử Iod ngoài giáp trạng. (còn tiếp)
Trần Mạnh Ngô, M.D.
American Board of Nuclear Medicine