|
Post by vietnam on May 11, 2009 14:57:08 GMT -5
Hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam chia hai Tác giả: Nguyên Anh Danh Mục: • Tài Liệu - Tủ Sách Ngày đăng: 10/16/2008
Ngày 7-5-54 Pháp đại bại tại Điện Biên Phủ, chỉ một ngày sau đó Hội Nghị Genève khai mạc, ngày 8-5-54. Người ta vẫn thường nghĩ HĐ Genève là hệ quả của sự thất trận trên mà ra. Sự thật lịch sử không có một dẫn chứng nào ghi lại như vậy cả.
HĐ này đã manh nha từ hội nghị tay ba ngày 7-12-53 và được quyết định ngày 25-1-54 bởi tứ cường (Anh, Pháp, Mỹ và Nga) tại Bermudes và sẽ họp tiếp tại Genève ngày 26-4-54 bàn về hai cuộc chiến tại Á Châu: Đại Hàn và Đông Dương, chỉ điều này không thôi đã chứng minh được là Hội Nghị Genève có trước khi Pháp thất trận tại ĐBP.
Cả hai sự kiện ĐBP và HĐ đều do Pháp khởi xướng nhưng lại do hai cơ quan khác nhau của Pháp quyết định, HĐ thì do Bộ ngoại giao, ĐBP thì do tướng Henri Navarre tại Đông Dương quyết định thông qua toàn quyền Dejean tại Đông Dương
Hội nghị tứ cường: 25-1-54 bốn vị bộ trưởng ngoại giao Anthony Eden - Anh, Foster Dulles - Mỹ, Georges Bidault - Pháp, và Molotov - Nga, họp tại Bermudes bàn về các vấn đề của Âu Châu. Vấn đề Âu Châu thì không có kết quả gì trong lần họp này, nhưng lại nẩy sinh ra vấn đề thuộc về Á Châu là tứ cường sẽ triệu tập tại Genève ngày 26-4-54 cho 2 hội nghị với 2 thành phần khác nhau để bàn về 2 vấn đề cũng khác nhau là:
1/ Hội nghị tứ cường (Mỹ, Nga, Anh, Pháp) bàn về cuộc chiến tại Đại Hàn và các phe tham chiến trừ Tầu. Sau này hội nghị được triệu tập tại Pan Mun Jom ( Bàn Môn Điếm – Đại Hàn )
2/ Sau đó là hội nghị tái lập hòa bình ở Đông Dương (Việt Nam quen gọi là Hiệp Định Đình Chiến Genève) có tứ cường và thêm Tầu, các nước liên quan Việt, Miên, Lào. Riêng VN sẽ có cả hai chính phủ Hồ Chí Minh (VM ) và Bảo Đại (QGVN ) tham dự.
Xét từ những dữ kiện nêu trên có lẽ phải đặt lại là vì Hội Nghị Genève mà đưa đến sự thất trận của Pháp tại ĐBP, như nhận định của tướng Navarre, ông này gọi sự thiếu phối hợp giữa bộ ngoại giao Pháp và giới quân sự tại Đông Dương (ĐD) là một sự phản bội của chính quyền Paris với chính quyền Pháp ở thuộc địa.
Nguyên Nhân:
a/ Chính Trị:
· Tại Pháp: Đệ tứ Cộng Hòa Pháp theo thể chế đại nghị, có quá nhiều đảng phái nên nội các cầm quyền rất là bấp bênh và lúng túng vì phải đối diện với những đe dọa bị lật đổ bởi các phe đối nghịch trong quốc hội.
· Tại Đông Dương: Chính quyền Pháp tại thuộc địa được thả lỏng, nên nẩy sinh ra nhiều phản kháng của dân bản xứ: Việt, Miên, Lào vì chính quyền này áp dụng chính sách thực dân trái ngược với chính quyền tại Paris.
· Dư luận của Pháp nhóm thì cho là cuộc chiến 8 năm qua (45-54) tại ĐD là cuộc chiến bẩn thỉu, có nhóm lại cho là cuộc chiến xấu hổ.
· TT Laniel (6-1953) công khai tuyên bố là sẽ tìm thương thuyết về vấn đề ĐD.
· Tháng 7-1953 nội các của Laniel ra tuyên ngôn: “Nước Pháp sẵn sàng hoàn tất nền độc lập và chủ quyền của ba quốc gia hội viên và điều đình với từng quốc gia trên căn bản bình đẳng những dây liên hệ song phương”
· Tại Sàigòn: Tháng 10-1953. Hội Đồng Nhân Sĩ đưa ra biểu quyết: “Nước Việt Nam độc lập không gia nhập Liên Hiệp Pháp.”
· Tháng 11-1953. Hội đồng Cộng Hòa nỗ lực tìm kiếm giải pháp danh giá về ngoại giao cho Pháp, như Mỹ đã đạt được ở Đại hàn.
b/ Quân Sự:
· Tháng 11-1953. Tại ĐD tướng Navarre quyết định mở cuộc hành quân Castor đánh chiếm ĐBP, chủ trương của Navarre là sau vài tháng khi có thế mạnh tại mặt trận sẽ có thế mạnh tại bàn thương thuyết.
· Nội các Laniel bèn ngưng thương thuyết, nhưng lại không tăng viện quân sự cho chiến trường, thế tất bại đến với tướng Navarre bởi quyết định này.
· 29-11-1953 sau 8 ngày khi quân Pháp chiếm ĐBP, trên tờ báo của Thụy Điển đăng bài phỏng vấn HCM có câu:” Nếu chính phủ Pháp muốn thảo luận về đình chiến, thì chính phủ VNDCCH sẵn sàng nghiên cứu những đề nghị của nước Pháp”. Laniel tuyên bố không thể nghiên cứu với những tuyên bố trên báo chí hay phát thanh.
· Chờ viện trợ của Mỹ vì hội nghị tay ba ở Bermudes được dự định vào đầu tháng 12-53. TT Mỹ Eisenhower hứa với TT Laniel là Mỹ sẽ viện trợ kế hoạch Navarre 100 tỷ quan, theo quan niệm của chính phủ Mỹ thà giúp Pháp thắng VM còn hơn tự tay nhúng vào chiến tranh (vả lại Pháp không muốn Mỹ hiện diện tại Đông Dương).
· Tháng 12-53 chỉ có đại đoàn 316, 3 tuần sau đã có thêm 3 đại đoàn 312, 308, 304 cùng với đại đoàn nặng 315 kéo đến đóng chặt chung quanh lòng chảo ĐBP.
· Pháp chỉ có 12 tiểu đoàn, không thể triệt thoái quân ra khỏi ĐBP bằng bất cứ phương tiện nào, chỉ còn chấp nhận đối đầu với VM bất cứ điều kiện nào.
· Navarre cầu cứu với Paris viện trợ thêm máy bay vận tải và oanh tạc, nhưng chỉ được hứa suông.
Những Sự Kiện Quan Trọng Trước Hiệp Định:
Ngày 26-4-54 Vua Bảo Đại khăng khăng không chịu chấp thuận lời năn nỉ của trưởng phái đoàn Bidault của Pháp tại Genève để QGVN ngồi chung với bọn “phiến loạn“. Đại sứ Mỹ tại VN phải đến khuyên thì nhà vua đòi:” Quốc gia VN phải được 3 cường quốc Tây phương mời tham dự”, nhưng chỉ là sơ bộ để thảo luận về việc tham dự của VM.
Trong bản thông cáo ngày 3-5-54 đã thỏa thuận nước VN sẽ tham gia hội nghị Genève.
Đồng thời với các nước Tây phương VN thỏa thuận cho VM được có mặt trong hội nghị ấy, nhưng không có nghĩa là một sự thừa nhận pháp lý. Nhưng mọi điều thực sự đã được giàn xếp giữa Mỹ và Cộng Sản, nhà vua tiết lộ trong hồi ký Le Dragon D’Annam như vậy. Nhà Vua cũng đòi hỏi Pháp phải bảo đảm sự thống nhất VN. Một đoạn trong thư của Bidault gửi cho vua bảo Đại:”Ngay bây giờ, tôi xin cam kết với Bệ Hạ rằng nước Pháp không chuẩn bị một việc chia cắt VN ra thành hai quốc gia có tư cách quốc tế."
Ngày 4-6-54: Hiệp Ước Độc Lập Nước Việt Nam được ký kết tại Paris giữa Thủ Tướng Bửu Lộc và Thủ Tướng Pháp Joseph Laniel, tóm lược 4 điều trong hiệp ước Traité D’indépendance Du VietNam như sau:
1- Nước Pháp thừa nhận nước Việt Nam như là một quốc gia hoàn toàn độc lập có đủ mọi thẩm quyền công nhận bởi công pháp quốc tế.
2- Nước Việt Nam thay thế nước Pháp trong mọi quyền hành trong các hiệp ước, giao ước mà nước Pháp đã nhân danh nước VN mà ký kết về những khoản liên quan đến VN.
3- Nước Pháp cam kết trả lại mọi công vụ mà Pháp đang chuyên trách tại VN.
4- Hiệp ước này có hiệu lực kể từ ngày ký, hủy bỏ mọi văn kiện và quy định trước trái ngược với hiệp ước này.
Hiệp Ước thứ hai: là hiệp ước liên hiệp Việt-Pháp (Traité d’association Franco Vietnamienne). VN thuận ở lại liên Hiệp Pháp, Pháp và Việt Nam đều bình đẳng. Hai bên hợp tác tại Thượng hội đồng Liên Hiệp Pháp. Mọi xung đột, nếu có sẽ được xử tại Hội Đồng, Trọng Tài do hai bên cử ra.
Trong bài diễn văn ngày 12-5-54 của ông Nguyễn Quốc Định nhấn mạnh Việt Minh không có quyền nhân danh dân tộc VN mà phát biểu ý kiến, chỉ có Quốc Gia VN mới có quyền này. Pháp và VN đã thỏa hiệp về vấn đề độc lập cho VN, và ông cũng cực lực phản đối việc chia cắt nước VN ra làm hai,
Ngày 26-5-54 Tại hội nghị Genève, Pháp và VM đã thỏa hiệp: ngưng bắn, thu quân về những khu vực chỉ định. VM muốn sự chia khu vực được giản dị, nghĩa là cắt đôi VN. VM rút về Bắc, Pháp rút về Nam. Pháp chưa trả lời. Anh tán thành. Mỹ phản đối. QGVN giữ nguyên lập trường: chỉ có một VN thống nhất.
Theo sự đòi hỏi của Tạ Quang Bửu vào đêm ngày 10-6 với Pháp là chia 2 nước VN , ông N.Q. Định cho rằng làm như vậy thì tương lai VN sẽ lại xẩy ra chiến tranh*
Ngày 12-6-54: Hội nghị Genève bế tắc VM không chịu sự kiểm soát của quốc tế, chỉ nhận sự kiểm soát Pháp và Việt Minh. Anh (đồng chủ tịch hội nghị với Nga) tỏ ý bất bình, tuy từ trước vẫn mềm dẻo.
Trước ngày ký Hiệp Định Genève vua Bảo Đại cho giải tán nội các Bửu Lộc, cử ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng, ngày 7-7-1954 ông Diệm nhậm chức, nội các gồm có 16 Tổng, Bộ Trưởng và 1 Thủ Tướng
Phái đoàn thứ ba của QGVN tham dự hội nghị từ ngày 20-6 đến 27-7-54 do ông Trần văn Đỗ làm trưởng phái đoàn, đúng vào dịp hội nghị nghỉ hè, sẽ tái nhóm vào ngày 10-7 (ngày chia đôi nước VN ra làm 2 đã được Tạ Quang Bửu và Deltheil mặc cả với nhau từ đêm ngày 10-6, ngày 24-6 là ngày Pháp chính thức chấp nhận chia hai VN, tức là cuộc mặc cả này đã 10 ngày và quyết định chung cuộc 4 ngày sau khi phái đoàn của ông Trần văn Đỗ đến phó hội, trước 16 ngày hội nghị tái nhóm).
Hội Nghị:
Tổng cộng có 9 thành phần tham dự hội nghị: Anh, Nga, Mỹ, Pháp, Trung Cộng, Lào, Miên, Quốc Gia Việt Nam (Bảo Đại), Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Hồ Chí Minh). Anh, Nga trung lập trong cuộc chiến nên là đồng chủ tịch của Hội Nghị.
· Phái đoàn Anh, do Anthony Eden làm trưởng đoàn.
· Phái đoàn Mỹ, do Bedell Smith làm trưởng đoàn.
· Phái đoàn Liên Xô, do Viacheslav Molotov làm trưởng đoàn.
· Phái đoàn Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Chu Ân Lai làm trưởng đoàn.
· Phái đoàn Pháp, do Georges Bidault làm trưởng đoàn.
· Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (chủ tịch HCM) do Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn.
· Phái đoàn Quốc gia Việt Nam (Vua Bảo Đại) do Nguyễn Quốc Định làm trưởng đoàn sau Trần Văn Đỗ thay thế.
· Phái đoàn Lào, do Phumi Sananikone làm trưởng đoàn.
· Phái đoàn Campuchia, do Tep Than, làm trưởng đoàn.
Hiệp Định Đình Chiến Genève: Gồm có 47 điều, tóm tắt các điều chính như sau:
· Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
· Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương.
· Từ cửa Sông Bến Hải đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào-Việt được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt Việt Nam làm hai miền. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Liên Hiệp Pháp tập trung về miền Nam.
· 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa 2 miền.
· Tổ chức tổng tuyển cử tự do cho cả ba nước Việt Miên Lào (Miên Lào năm 1955). Hai năm sau, tức ngày 20 tháng 7 năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cho cả nước Việt Nam.
· Thành lập Ủy ban Quốc tế giám sát và kiểm soát việc thi hành hiệp định gồm Ấn Độ, Ba Lan và Canada, do Ấn Độ làm chủ tịch.
· Cấm ngược đãi, trả thù các thành phần đã phục vụ cho phía đối phương
· Cấm phá hủy trước khi rút về nơi tập kết.
Phê Bình:
1- Ngoại trưởng Anh- Anthone Eden (21-7-54)
“… Những thỏa hiệp này không thỏa mãn hoàn toàn một ai. Song chúng đã chận đứng được một cuộc chiến đã kéo dài 8 năm và đã làm đau khổ hàng triệu người. Chúng làm dịu bớt sự căng thẳng quốc tế đang đe dọa hòa bình thế giới…Chúng là những thỏa hiệp tốt nhất mà bàn tay chúng ta có thể tạo nên (Penguin Special, tr.167)”
2- TT Mỹ Eisenhower (21-7-54)
“ Tôi không chê trách những gì đã làm ở Genève, bởi tôi không thể đề nghị một giải pháp nào thay thế” (Devillers Laccuture, tr. 333)
3- Th.T Mendès France tại QH Pháp (22-7-1954)
“ … Tôi mong rằng đừng ai mong tưởng hão huyền về nội dung những hiệp định vừa ký ở Genève. Bản văn có lúc đã tàn nhẫn bởi vì có lúc nó xác nhận những sự kiện tàn nhẫn. Không thể làm chi khác” (Devillers Laccuture, tr.331)
4- Quốc Trưởng bảo Đại
“… Đó là chuyện giữa Việt Minh và Pháp…Việt Minh sẽ cứ tiếp tục, một cuộc chiến mới sẽ tàn phá toàn quốc…với hy vọng hão huyền đặt một ý thức hệ không hợp với cá tính người Việt nam ( Le Dragon D’Annam, tr 333-334)
5- Th.T Phạm văn Đồng
“ Ba triệu (?) đồng bào ở trung bộ và nam bộ, từ năm 1945 chỉ biết có chánh quyền nhân dân, nay bị trao bảo vệ cho nhóm cầm quyền Pháp-Bảo Đại (Devillers Laccuture, tr 334)
6- Ủy ban Quốc Gia An Ninh Hoa Kỳ (12-8-54)
“ Thỏa hiệp Genève là một thất bại đã chấp nhận một bước tiến quan trọng của chủ nghĩa Cộng Sản và có thể đưa đến sự mất toàn thể Đông Nam Á Châu” (Hồ sơ Mật Pentagon, tr 41).
7- Lời Kêu Gọi Của Hồ Chí Minh
Trong cuốn Việt nam, những sự kiện 1945-1975 của Viện Sử học Hà Nội trích lời kêu gọi của Hồ Chí Minh như sau: “ Tôi thiết tha kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đã đứng về phe nào, chúng ta phải thật thà công tác, vì dân vì nước mà phấn đấu thực hiện, hòa bình thống nhất độc lập dân chủ trong nước Việt nam yêu quý của chúng ta. Cả nước đồng lòng muôn người như một, chúng ta nhất định thắng lợi”
Kết Luận:
Cài lại cán bộ nằm vùng, tiến đánh miền Nam từ năm 1963 - Ngày 2-1-63 khởi đầu là Trận Ấp Bắc-Định Tường (Mỹ Tho) bất chấp cả Hiệp Định Genève. Hiệp định ký chưa ráo mực HCM đã kêu gọi toàn dân cả nước cướp cho bằng được miền Nam, cái mà ông ta gọi là hòa bình thống nhất độc lập đất nước.
Bao nhiêu tang thương, khốn khó dầy vò cả hai miền Nam, Bắc chỉ vì những người Cộng sản muốn thực hiện cuộc chiến xâm lăng miền Nam, bằng mọi giá thực hiện lời kêu gọi của ông Hồ Chí Minh ngay sau ngày ký hiệp định đình chiến.
Bao nhiêu oan hồn uổng tử kể từ ngày ông HCM cho thực hiện phong trào giảm tô, bài phong, rồi cải cách ruộng đất, nhân văn giai phẩm, xét lại, chống đảng, đánh Lào, Cao Miên, giải phóng miền Nam, tập trung cải tạo (tù lao động khổ sai), cuộc chiến với Trung cộng (1979 và 1984-1989), đánh tư sản mại bản, kinh tế mới, vượt biên, vượt biển…v…v…
Tội lớn nhất của ông HCM là cấu kết với thực dân Pháp để gây ra những cuộc chiến không cần thiết từ năm 1945 tại VN (TT Charles De Gaull của Pháp đã trao trả độc lập cho hoàng tử Vĩnh San của VN năm 1946) và cũng chính ông và đảng CS toa rập với Pháp chia hai đất nước năm 1954, bằng Hiệp Định Genève.
--------------------------------------------------------------------------------
Tài Liệụ Tham Khảo:
Việt Sử Khảo Luận: Hoàng Cơ Nghị Hai Mươi Năm Qua, 1945-1964 Việc Từng Ngày: Đoàn Thêm
--------------------------------------------------------------------------------
Chú Thích:
*Ông chủ tịch Eden đã tuyên bố ngưng họp hội nghị Genève về Đông Dương hồi 7 giờ tối hôm 10-6, song Deltheil, Brébrisson và Tạ Quang Bửu vẫn họp với nhau ngoài sự hiện diện của QGVN mấy ngày liền, họ đi sâu vào việc mặc cả về số phận của nước VN.
|
|
|
Post by vietnam on May 14, 2009 3:59:36 GMT -5
Chuyện Tháng Tư Đen: lịch sử hay ký sự?
--------------------------------------------------------------------------------
Lâm Văn Bé
07 tháng 05 năm 2009
® Phải có sự đồng ý của tác giả cũng như ghi rõ nguồn "www.khoahoc.net" khi bạn phát hành lại thông tin từ website này
--------------------------------------------------------------------------------
Lịch sử nhiều khi bị thay đổi. Không phải vì sự kiện lịch sử thay đổi, nhưng sự kiện lịch sử khi được tường thuật, nhận định, lại bị thay đổi bởi chính kiến, thành kiến, tư lợi.
Khi xưa, sử quan viết sử để phục vụ cho một triều đại cầm quyền, hôm nay người viết sử hay nghiên cứu sử lại bị quyền lợi cá nhân hay phe nhóm chi phối. Đem tâm tình viết lịch sử và đọc lịch sử là chuyện muôn đời.
Sự gian trá, ngụy tạo tài liệu lịch sử lại càng trầm trọng hơn với thông tin điện tử. Thông tin trên internet hôm nay là sản phẩm đôi khi của tưởng tượng, nếu không là sự lập lại thành thật những dữ kiện đã bị nhào nặn, vô tình hay cố ý qua các trung gian.
Dĩ nhiên, chúng ta không thể đa nghi về mọi sự việc, nhưng đôi khi, việc sử dụng óc phân tích, sự thông minh để phân biệt hư thực là điều cần thiết.
Nhân ngày 30 tháng tư, chúng tôi muốn ghi lại những biến cố quan trọng của Tháng tư đen từ một số tài liệu và hồi ký viết bởi các tác giả người Mỹ, Pháp, và nhất là người VN, để xem chỉ một tháng thôi, sự kiện lịch sử đã được tường thuật và nhận định khác biệt thế nào bởi ngay những chứng nhân hay tác nhân của các biến cố.
- 4 tháng tư : Trần Thiện Khiêm từ chức (Todd, p.237), [nhưng theo Hoàng Đống, tr. 356 thì Khiêm từ chức ngày 2] và đề nghị một danh sách người kế nhiệm là Trần Văn Đổ, Nguyễn Ngọc Huy, Trần Văn Lắm. Sau khi cân nhắc, ngày 5, TT Thiệu mời Nguyễn Bá Cẩn đứng ra lập nội các chiến tranh (Viên, tr.218) nhưng phải chờ đến ngày 14 tháng 4, tân thủ tướng mới trình diện được nội các với Tổng Thống Thiệu.
Theo Nguyễn Tiến Hưng trong Khi Đồng Minh tháo chạy « Trong suốt buổi lễ, ông Thiệu tỏ ra căng thẳng, vẻ mặt xanh xao, duờng như những biến cố vừa qua đã tiêu hao hết nghị lực của ông bởi Cộng Sản(CS) đã tiến gần đến Phan Rang, nơi sinh trưởng của ông » (Hưng, tr. 310).
Theo Snepp, giới chính trị dửng dưng vì đó chỉ là bình phong vì mọi việc do TT Thiệu quyết định, còn Polgar, trưởng phòng CIA tại Saigon thì hài lòng vì một tổng trưởng quan trọng của nội các là nhân viên của CIA (Snepp, tr. 232).
Theo Trần Văn Đôn, mặc dù ông chấp nhận chức vụ Phó Thủ Tướng, nhưng ông đã nhận định ông Thủ Tướng của ông «không phải là người của tình thế, không phải là người dốc tâm dốc sức để giải quyết cơn bệnh đã đến hồi ngặt nghèo của VNCH » (Đôn, tr. 447)
Bùi Diễm, đại sứ VN tại Mỹ tỏ ra xem thường ông Cẩn cho là « một người mà tất cả Saigon biết rằng chẳng có quyền hành gì » (Diễm, tr. 560)
- 8 tháng tư : Trung Úy Nguyễn Thành Trung lái F-5 oanh tạc dinh Độc Lập rồi đáp xuống phi trường Nha Trang (Đà Nẳng, theo Darcourt, Phước Long, theo Lý Quí Chung) đã do CS kiểm soát.
Báo chí Saigon lúc ấy đăng tin Trung là người bị khủng hoảng tâm thần nhưng CS xác nhận Trung là đảng viên CS đã được gài vào Không quân Saigon, được tu nghiệp ở Hoa Kỳ từ năm 1969 đến 1972. Sau này, năm 1996, Trung là phi công trưởng lái chiếc Boeing 767 đưa chủ tịch Lê Đức Anh qua New York dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hiệp Quốc.
Cuộc oanh tạc gây ra nhiều hoang mang trong dân chúng và quân đội : Kỳ đảo chánh, Thiệu tạo đảo chánh giả để bắt các phe đối lập.
Cùng lúc ấy, tại Hà nội, Phạm Văn Đồng tiếp kiến Đại sứ Pháp Philippe Richer đề cập đến viễn tượng hợp tác với Pháp trong việc khai thác các mỏ dầu ở miền Nam, thay thế các chuyên viên Hoa Kỳ. Tổng Thống Pháp Giscard d’Estaing chỉ thị cho đại sứ Jean - Marie Mérillon tại Saigon tích cực thăm dò và bày tỏ lập trường của Pháp bên cạnh các nhà lãnh đạo VNCH và đại sứ Mỹ Graham Martin.
- 9 tháng tư : CS bắt đầu chiến dịch đại tấn công với 16 sư đoàn được tổ chức thành 4 quân đoàn, và một lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm 1 sư đoàn pháo binh, 2 lữ đoàn chiến xa.
Quân đoàn 4 gồm 3 sư đoàn do Trần Văn Trà chỉ huy gồm SĐ 341 (sư đoàn nầy tân lập, nhiều quân sĩ mới gia nhập, có nhiều lính dưới 18 tuổi), SĐ 4, SĐ 7, tấn công Xuân Lộc và pháo kích vào Bộ Tư Lịnh Quân Khu 3 và phi trường Biên Hòa. (Snepp, tr. 268)
Nguyễn Hữu An trong Chiến trường mới, thì chi tiết hơn : quân CS có 17 sư đoàn chia ra 5 quân đoàn tấn công Saigon. Quân đoàn 1 do tướng Nguyễn Hòa chỉ huy có 30 000 quân phụ trách vùng Đông Bắc (Lái Thiêu, Bến Cát), quân đoàn 2 do Nguyễn Hữu An chỉ huy có 40 000 quân tấn công vùng Đông Nam, (Long Thành, căn cứ Nước Trong, thành Tuy Hạ), quân đoàn 3 có 46 000 quân do Vũ Lăng làm tư lệnh tấn công vùng Tây Bắc (Trảng Bàng, Hốc Môn), quân đoàn 4 do Hoàng Cầm chỉ huy với 30 000 quân đánh hướng đông và đông nam (Xuân Lộc, Biên Hòa, Long Bình), quân đoàn 232 do Lê Đức Anh chỉ huy 42 000 quân đánh hướng Tây Nam dọc theo quốc lộ số 4. (An, tr. 245-47)
Trung đoàn 48 thuộc Sư đoàn 18 BB của tướng Lê Minh Đảo đã anh dũng chống trả, mặc dù CS pháo kích đến 10 ngàn đại pháo trong một ngày (theo Snepp thì 1000, có lẽ hợp lý hơn), nhưng đã đẩy lui được quân CS, và đây là lần đầu tiên sau 3 tháng chiến thắng trên nhiều mặt trận, chiếm được 14 tỉnh, quân CS bị chận bước tiến. Tướng Trần Văn Trà, trong hồi ký Kết thúc cuộc chiến 30 năm, đã nhìn nhận là ba sư đoàn của Hoàng Cầm bị thiệt hại rất nhiều, Tướng Trà phải tăng viện quân trừ bị của sư đoàn 6 và 7.
- Ngày 10, tướng Cao Văn Viên tăng viện Xuân Lộc : không quân dội bom 750 cân ở cao độ rất thấp, khiến quân CS bị thiệt hại nặng (2000 bị thương và thiệt mạng (Todd tr. 283) nên phải tiếp viện trước khi tái tấn công Xuân Lộc nhằm cắt đứt với Biên Hòa. Theo Nguyễn Khắc Ngữ, con số này là 1000 (Ngữ, tr. 326)
Nhưng chiến thắng Xuân Lộc không tạo được ấn tượng nào trong chính giới Hoa kỳ. Tuy nhiên, Tổng Thống Gerald Ford, trong một bài diễn văn đọc trên đài truyền hình toàn quốc cũng vào ngày 10 tháng 4 yêu cầu Quốc Hội viện trợ quân sự cho VNCH 722 triệu mỹ kim theo đề nghị của tướng Frederick Weyand, tư lệnh lực lượng Mỹ ở VN, và 250 triệu viện trợ dân sự cung cấp phương tiện cứu trợ người tị nạn, nhưng đã bị Thượng Viện, lúc bấy giờ thuộc đảng Dân Chủ không trả lời. Sau đó, ngày 16 tháng 4, TT Ford, trong bài diễn văn đợc trước Hội các nhà biên tập báo chí Hoa Kỳ ( American Society of Newspaper Editors) lên án Quốc Hội Hoa kỳ đã bội ước không tôn trọng nghĩa vụ giúp đỡ VNCH trong khi Liên Sô và Trung Cộng gia tăng viện trợ cho Bắc Việt. Để trả lời TT Ford, ngày hôm sau, Thượng Viện biểu quyết không chấp nhận bất cứ một viện trợ quân sự bổ túc nào cho VNCH.
Phải chăng, chính sách chống chiến tranh VN của đảng Dân Chủ là lý do khiến đa số người VN ở Mỹ có ác cảm với đảng Dân Chủ và ủng hộ đảng Cộng Hỏa với mọi giá !
Thực ra, tất cả chỉ là sự lừa dối hào nhoáng, danh từ mà Neil Sheehan đã đặt tên cho quyển sách của ông, bởi lẽ tuy bề mặt Ford làm ra vẻ như muốn giúp VN, nhưng bên trong, Ngũ Giác Đài tuyên bố đã tuyệt vọng và Tổng Trưởng Quốc Phòng James Schlesinger đã tuyên bố là viện trợ chỉ vì uy tín của Hoa Kỳ : «Chúng ta không thể nào là quốc gia bỏ rơi đồng minh, phản bội lời hứa của chúng ta» (Todd p. 271).
- Ngày 12, cuộc triệt thoái của Mỹ trên đất Cao Miên là một báo hiệu cho miền Nam, càng gia tăng thêm cơn sốt chính trị và nỗi hoang mang lo sợ trong dân chúng.
Lúc 7giờ 45 sáng, ba đoàn trực thăng khổng lồ cất cánh từ hàng không mẫu hạm Okinawa trong vịnh Thái Lan đáp xuống Nam Vang để di tản giới chức Mỹ và Cao Miên của chánh phủ Long Boret.
«Thật là ngạc nhiên và nhục nhã cho người Mỹ, tất cả nội các và đa số nhân vật cao cấp trong chánh quyền Cao Miên từ chối lời mời của Mỹ để di tản như thủ tướng Long Boret, Lon Non (em của Lon Nol), mặc dù những người nầy có tên trong danh sách bị án tử hình của Khmer Đỏ ».(Todd p.274)
Tinh thần kiên cường nầy đã biểu hiện rõ trong bức thư của Hoàng thân Sirik Matak viết tay bằng tiếng Pháp gởi cho đại sứ Mỹ John Dean.
Thưa ông Đại Sứ ,
Tôi thành thật cám ơn lời mời của Ông định đưa tôi đến bến bờ tự do nhưng tôi không thể nào bỏ đi một cách hèn nhát như vậy.
Đối với Ông và quốc gia vĩ đại của Ông, tôi không bao giờ tưỡng tượng được, dù chỉ một phút, các Ông đành lòng bỏ rơi một dân tộc đã chọn lựa chiến đấu cho tự do. Các ông ra đi, tôi xin cầu chúc cho Ông và quốc gia của các ông sẽ tìm được hạnh phúc duới bầu trời này.
Nhưng các ông nên ghi nhận điều nầy là tôi sẽ chết ở đây, trên đất nước thân yêu của tôi, và chúng tôi chỉ ân hận đã phạm một sai lầm lớn là đã đặt niềm tin vào các ông và nước Mỹ của các ôngi.
Sirik Matak
Vài ngày sau, Kissinger đọc bức thư của Matak cho các thượng nghị sĩ nghe trong bầu im lặng tuyệt đối và nỗi bàng hoàng. Và để kết luận, Kissenger vớt vác : Là người Mỹ, chúng ta phải làm thế nào để đừng có những bức thư như thế này nữa. (Todd, p.280)
* Cuộc di tản của Mỹ ở xứ chùa Tháp vẫn không lay chuyển được niềm tin của TT Thiệu về sự sống còn của chế độ VNCH. Sau đây là cuộc đối thoại giữa Hoàng đức Nhã và TT Thiệu được Todd ghi lại (Todd tr. 276)
- HĐN : Chuyện như vậy sẽ xảy đến ở Saigon
- TT Thiệu : Chú tin như vậy ?
- HĐN : Đúng vậy, nếu CS tập trung lực lượng tấn công chúng ta.
- TTThiệu : Tôi không tin như vậy và chẳng tin bao giờ như vậy. Ở đây có nhiều yếu tố khác.
* Dương Văn Minh, người tự nhận là cứu tinh của đất nước, bình thản nhận được tin Nam Vang thất thủ lúc đang uống trà với các bạn tại Đường Sơn Quán, tiệm ăn của tướng Mai Hữu Xuân ở Thủ Đức. Trả lời câu nói của bạn ông là Tôn Thất Thiện là rồi đây Cộng Sản sẽ vô Saigon, Minh phản đối: Anh không phải là quân nhân, anh chẳng biết gì cả. Phải 6 tháng nữa kìa. (Todd p. 293.)
Ngày 14 , Trần Văn Đôn gặp Đại sứ Martin thông báo là ông vửa tiếp xúc với một đại diện Mặt Trận Giải Phóng và đề cập đến 3 điểm :
- Đôn có thể thay thế Thiệu,
- CS không cản trở người Mỹ di tản người Việt,
- và Hoa kỳ có thể giữ lại một một tòa đại sứ nhỏ ở Saigon với điều kiện những viên chức Mỹ phải ra đi.
Trong khi Snepp không tin những tin tức loại này cũng như luận điệu tương tự của đại sứ Pháp Mérillon chỉ vì tham vọng cá nhân cũng như ý đồ của nước Pháp, Martin lại có vẻ tin tưởng. (Snepp tr. 272).
Điều nầy cũng được Đôn xác nhận trong hồi ký của ông : «Cũng trong ngày 20 tháng tư, lúc 4 giờ chiều, tôi đến gặp đại sứ Martin tại sứ quán, Martin đã nói với tôi :Thật sự lúc đó [trả lời câu hỏi của TT Thiệu] tôi muốn ông [Trần Văn Đôn] làm thủ tướng toàn quyền hơn là ông Minh, nhưng Hà nội chỉ muốn nói chuyện với ông Minh mà thôi» (Đôn, tr. 457)
Không tin chiến thắng sắp đến của CS, mà cũng không hi vọng Quốc Hội Mỹ chấp nhận viện trợ bổ túc, ngày 15 tháng 4, TT Thiệu cử Nguyễn Tiến Hưng sang Washington vận động với TT Ford xin vay 3 tỷ trong 3 năm, được bảo đảm bằng lợi tức dầu hỏa sắp khai thác ở ngoài khơi, 16 tấn vàng dự trử, tiềm năng xuất cảng gạo (Hưng, tr. 312).
Nhưng đã quá muộn. Ngày 18 tháng 4, Ủy Ban Quốc Phòng Thượng Viện bỏ phiếu chống việc tăng quân viện cho VNCH và Ủy Ban ngoại giao Thượng Viện cho phép TT Ford sử dụng quân đội để di tản người Mỹ ra khỏi VN. Quốc Hội đã giúp cho Ford rửa mặt, đặc biệt cho Kissenger khi ông nầy tuyên bố:
«Cuộc thảo luận về VN nay đã chấm dứt. Hành Pháp Hoa Kỳ đã chấp nhận bản án của Quốc Hội, không hiềm thù, không biện minh và cũng không kháng cáo.» ( Hưng, tr.318)
- Ngày 17, Nhận lịnh của thượng cấp, Jean-Marie Merillon gặp Dương Văn Minh, hứa hẹn nước Pháp sẽ ủng hộ Minh. Cảm động, Minh bắt tay Mérillon ứa lệ, hứa sẽ làm được gì có thể. Minh tin tưởng lá bài trong túi: người em là Dương Văn Nhựt đang ở bên kia.
Sự can thiệp của Pháp vào giờ thứ 25 thật sổ sàng, làm áp lực với Tổng Thống Thiệu từ chức để thay thế bằng Dương Văn Minh .
Trong khi đó, Saigon xôn xao vì những tin tức hòa bình và chiến tranh trái ngược :
- Bắc Việt không bao giờ tấn công Saigon. Sẽ có một chánh phủ 3 thành phần
-Đặc công đang xâm nhâp vào Saigon chuẩn bị cuộc tấn công chiếm đóng
- Sẽ có đảo chánh ở Saigon, ở Hà nội. (Todd p.295).
- Ngày 18, Merillon gặp Martin thảo luận về việc làm áp lực với TT Thiệu từ chức. Martin đồng ý.
Tinh thần TT Thiệu xuống thấp, tin tức nhiều người thân cận hay đối lập muốn ông từ chức hay đảo chánh, (Cao văn Viên, Nguyễn Cao Kỳ và tướng lãnh thân cận) mồ mã ông bà bị đập phá ở Phan Rang (điềm chẳng lành vì ông rất tin dị đoan và theo Nguyễn khắc Ngữ, tr. 341, đó là lý do quan trọng khiến ông Thiệu từ chức), ông tự cô lập trong bunker trong dinh Độc Lập, không buồn trả lời cả điện thoại của tòa đại sứ Mỹ.
Về việc đảo chánh, ông Viên đã cực lực đính chánh trong biên khảo Những ngày cuối cùng của VNCH : «Tác giả là một quân nhân thuần túy, không làm chính trị và cũng không có những tham vọng chính trị. Tác giả đã chứng kiến những tai hại của hai vụ đảo chánh trước, nên dù cho có ai rủ đảo chánh, tác giả cũng không làm. Ở đây, tác giả cũng muốn khẳng định những tin tức về tác giả do Frank Snepp viết trong Decent Interval (trang 287, 288, 394, 397) về cá nhân tác giả là những ý nghĩ xuyên tạc, đón mò» (Viên, tr.217,18)
Việc Nguyễn Cao Kỳ bỏ ý định âm mưu đảo chánh là do hai yếu tố. Trước hết là sự từ chối của các tướng thân cận với ông như Tư lênh Không Quân Trần Văn Minh, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến Bùi Thế Lân và một số chỉ huy trưởng ở Biệt Khu Thủ đô và Vùng 3 Chiến Thuật. Olivier Todd thuật lại (tr.300):
- Trần Văn Minh : Ông cứ làm đi, bắt tôi làm con tin. Tôi không làm vì Tòa đại sứ Mỹ hứa đưa gia đình tôi sang Mỹ nếu tôi không làm gì.
- Bùi Thế Lân : Tôi không đem binh giúp ông, nhưng chúng tôi không chống .
- Cao Văn Viên : Ông làm đi, nói cho tôi biết ngày giờ, tôi sẽ mở cổng Bộ Tổng Tham Mưu.
Nhưng yếu tố quyết định là sự can thiệp kịp thời của Martin và tướng Charles Timmes. Cuộc đối thoại giữa Kỳ và Martin suốt 2 giờ đã được Timmes thu âm, nhưng tiếc thay, các sử gia đã không có dịp nghe được tài liệu sống vì cái máy thu âm đã rủi ro bị xóa trong cái cartable của Timmes (Snepp, tr. 295-96)
Trong lúc quân đội gần như tan rả, ông Đôn, với tính cách TT Quốc Phòng « quản thúc 5 tướng lãnh đã bỏ miền Trung là Lâm Quang Thi, Phạm Quốc Thuần, Phạm Văn Phú, Lâm Quang Thơ và tướng không quân Nguyễn Đức Khánh. Tướng Ngô Quang Trưởng thấy vậy nên cũng xin được quản thúc luôn !» (Đôn, tr.455)
- Ngày 20, lúc 10 giờ sáng, đại sứ Martin gặp TT Thiệu và cuộc hội kiến kéo dài 1giờ rưởi. Theo Frank Snepp, nhân viên phân tích của CIA, trong quyển hồi ký Decent Interval (bản dịch tiếng Pháp là Sauve qui peut) tiết lộ rằng ông đã nhận được chỉ thị của Polgar, Giám đốc CIA Saigon, là soạn thảo một bản nhận định càng đen tối càng tốt để theo đó Martin thuyết phục TT Thiệu từ chức. Bản nhận định có đoạn như sau :
« Với sự tan rả của cuộc phòng thủ mặt trận Xuân Lộc và sự tập trung binh đoàn Cộng Sản trong vùng 3 chiến thuật, cán cân lực lượng chung quanh Saigon nay đã nghiêng hẳn về CS. Mặc dù chính phủ có thể tăng viện cho những mục tiêu có thể bị tấn công như Biên Hòa-Long Bình ở phía đông Saigon, các tỉnh Long An-Hậu Nghĩa ở phía Tây hay tỉnh Bình Dương ờ phía Bắc, chánh phủ không đủ sức cầm cự được lâu. Saigon sẽ bị cô lập trong vài tuần lễ».
Frank Snepp còn nói thêm là ông muốn viết chỉ một tuần lễ nhưng Polgar không đồng ý, và cũng theo Snepp, bản nhận định này vẫn còn nằm trên bàn làm việc ở Dinh Độc Lập sau khi TT Thiệu ra đi, do đó khi chiếm Dinh Độc Lập, CS đã lấy bản nhận định nầy để đăng nguyên văn trong quyển Đại Thắng mùa xuân của Văn Tiến Dũng. (Snepp, tr. 299)
Khi TT Thiệu hỏi Martin là nếu ông từ chức thì có thay đổi gì việc viện trợ, Đaị sứ Martin trả lời nếu việc nầy xảy ra cách đây vài tháng thì có thể có thêm được vài phiếu ở Quốc hội, còn bây giờ thì chắc không thay đổi gì. Martin còn đâm nhát dao cuối cùng khi nói thêm “ giả dụ như quốc hội Mỹ có chấp thuận việc viện trợ bổ túc cho VNCH đi nữa thì sự viện trợ đó cũng không thể đến kịp thời để làm thay đổi tình thế quân sự tại miền Nam” TT Thiệu nói trước khi buổi hợp kết thúc là ông sẽ lấy quyết định dựa theo quyền lợi tối cao của quốc gia (Todd p. 311).
Buổi chiều cùng ngày 20, đến phiên Đại sứ Pháp Merillon đến gặp TT Thiệu. Merillon gần như độc thoại, TT Thiệu ngồi nghe, đôi mắt lạc lõng. Merillon mô tả tình trạng bi đát của chiến trường, ba phần tư lãnh thỗ bị mất vào tay CS, do đó kêu gọi trách nhiệm lịch sử, danh dự cá nhân, tình bạn giữa bà Thiệu và bà Mérillon để TT Thiệu lấy một quyết định vì quyền lợi của quốc gia. Kết thúc buổi gặp gở, TT Thiệu lửng lơ : Tới đâu hay tới đó -Advienne que pourra (Todd p. 312)
Todd và Snepp không đồng thuận nhau về giờ gặp gỡ: theo Snepp thì Merillon gặp TT Thiệu buồi sáng trước Martin, trái lại Todd cho rằng Merillon gặp TT Thiệu buổi chiều sau Martin. Tuy là một chi tiết nhỏ, nhưng sự kiện tường thuật khác nhau cùa hai nhà báo Pháp Mỹ có đầy thâm ý.
Sáng ngày 21, TT Thiệu mời Phó TT Trần Văn Hương và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm để báo tin ông quyết định từ chức và yêu cầu Phó TT Hương, chiếu theo hiến pháp thay thế ông(Snepp tr.305), nhưng ông Nguyễn Bá Cẩn trong Đất nước tôi thì trong phiên hợp này chính ông có mặt chớ không phải ông Khiêm.
Theo Nguyễn Khắc Ngữ, sở dĩ ông Thiệu chọn ông Hương thay thế vì «ông muốn sau khi từ chức rồi, ông sẽ mang số tài sản khổng lồ đã thu góp được trong thời gian tại chức ra ngoại quốc một cách êm thấm. Nếu ông nhường chức cho phe chủ chiến Nguyễn Cao Kỳ hay phe chủ hòa Dương Văn Minh thì việc ra đi có thể gặp khó khăn…»(Ngữ, tr.341).
Theo Frank Snepp trong Decent Interval thì buổi nói chuyện của ông Thiệu với ông Hương đã bị CIA ở tòa đại sứ nghe lén toàn bộ do đó ngay buổi chiều, trước khi TT Thiệu tuyên bố với quốc dân trên đài truyền hình, phụ tá của trùm CIA Polgar là Tướng hồi hưu Charles Timmes đã đến gặp Dương Văn Minh để dọ hỏi nếu người Mỹ loại ông Hương ra khỏi ghế Tổng Thống thì ông Minh có chịu nhận chức vụ nầy hay không để điều đình với CS. Cũng theo Snepp, ông Minh đồng ý ngay, quả quyết có khả năng thương thuyết với phe bên kia và gởi ngay một đại diện sang Paris để thương thuyết. Timmes trao cho ông Minh 1000 mỹ kim để mua vé máy bay cho sứ giả này, nhưng Snepp cho rằng ông Minh chẳng có gởi ai đi mà cũng chẳng hoàn lại số tiền,và đại sứ Martin không được báo cáo về buổi gặp gỡ này (Snepp, p.305)
Tối ngày 21, lúc 19 giờ rưởi, TT Thiệu nói chuyện với quốc dân qua đài truyền hình, trước các đại diện hành pháp, lập pháp, tư pháp. Ông kết tội người Mỹ đã phản bội VN, ông gằn mạnh từng tiếng và lập lại :« các ông bỏ mặc cho binh sĩ chúng tôi dưới cơn mưa pháo của Cộng Sản, đó là hành động vô nhân đạo của một đồng minh vô nhân đạo …» và kết luận « tôi sẵn sàng nhận lãnh sự phán xét và buộc tội của đồng bào… Tôi từ chức nhưng không đào ngũ. Theo hiến pháp, người thay thế tôi là Phó TT Trần Văn Hương»
|
|
|
Post by vietnam on May 14, 2009 4:00:00 GMT -5
Nguyễn Bá Cẩn nhận định là việc từ chức của TT Thiệu để Mỹ tiếp tục viện trợ cho VNCH, mở đường cho Hoa kỳ và đồng minh thương thuyết một giải pháp chính trị mà sự hiện diện của ông là một trở ngại (Cẩn, tr. 421), Trần Văn Đôn thêm một lý do thứ hai là ông Thiệu sợ quân đội đảo chánh mà ông Thiệu nghi là do ông [Đôn] chủ xướng. (Đôn, tr.458). Nguyễn Tiến Hưng, trong « Khi Đồng minh tháo chạy» (tr.389) thì cho ông Thiệu từ chức vì các tướng lãnh không còn ủng hộ. Nguyễn khắc Ngữ thì có nhận định tiêu cực hơn «trong bài diễn văn từ chức nầy, ông đã hiện nguyên hình một tay sai của Hoa Kỳ, bị chủ đuổi lên tiếng chửi lại bằng những lời bình dân nhất không thể thấy được trong ngôn ngữ của một vị lãnh đạo quốc gia» (Ngữ, tr. 343).
Hoàng ngọc Thành cũng có nhận định tương tự về ông Thiệu «là người thừa hành đắc lực nhất của Hoa Kỳ trong chiến tranh VN»(Thành tr. 559) là « người hèn nhát, tại sao không chịu công bố trong năm 1974 và đầu năm 1975 các bức thư hứa hẹn trả đủa Bắc Việt của Tổng Thống Richard Nixon nếu Cộng Sản Hà Nội vi phạm hiệp định Ba lê, tại sao không công bố sớm để quốc hội và dân chúng Hoa Kỳ biết những điều cam kết nầy để đánh vào điểm danh dự và lương tâm người Mỹ. Làm mhư thế có lợi cho dân tộc VN, nhưng Nguyễn Văn Thiệu sợ bất lợi cho ông nên không làm » (Thành, tr.566).
Todd thì cho là ông Thiệu từ chức là do lời khuyên của Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu qua trung gian của Hoàng Đức Nhã. Liền sau khi nghe Lý Quang Diệu đưa tin là người Mỹ sẽ lật đổ và khuyên ông Thiệu nên ra đi, Hoàng Đức Nhã đã vội vàng điện thoại cho ông Thiệu từ Singapore : «đừng chờ người ta lật đổ anh hay tống cố anh đi. Hãy đi trước đi, càng sớm càng tốt» (Todd, tr. 277)
Trong khi ông Thiệu đọc diễn văn từ chức, các đơn vị cuối cùng của sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo rút ra khỏi Xuân Lộc, và vài giờ sau, bộ chỉ huy Quân Đoàn 3 của tướng Nguyễn Văn Toàn phải di tản về Saigon. Biên Hòa và Vũng Tàu bị đe dọa nặng.
Chỉ 2 giờ sau lễ bàn giao giữa ông Thiệu và ông Hương, đài phát thanh Giải phóng và Hànội đồng loạt tuyên bố : «Đó cũng chỉ là một chế độ bù nhìn, chánh phủ Thiệu không có Thiệu » (Todd, p.316).
- Ngày 22: Tân Tổng Thống Hương lần lượt tiếp xúc ba nhân vật chính trị gốc miền Nam là Trần Văn Lắm, Nguyễn Văn Huyền và Trần Văn Đôn để mời nhận chức thủ tướng toàn quyền thay cho nội các Nguyễn Bá Cẩn được TT Thiệu bổ nhiệm 12 ngày trước, nhưng cả ba đều từ chối (Darcourt, p. 131). Theo Trần Văn Đôn thì sau đó, ngày 24 ông Hương mời ông Nguyễn ngọc Huy, nhưng chuyện bất thành vì ông Minh đòi ông Hương phải giao quyền Tổng Thống và ông Thiệu, tuy đã từ chức, vẫn cho ý kiến với ông Hương «đừng chỉ định ông Huy làm thủ tướng» (Đôn, tr.467)
Trong khi đó, 2 biến cố quân sự quan trọng xảy ra sát nách Saigon.
* Lê Duẩn đánh điện cho Lê Đức Thọ và Văn Tiến Dũng đang đặt bản doanh ở Lộc Ninh yêu cầu gia tăng các cuộc tấn công càng mạnh càng mau trên khắp các mặt trận. Mọi chậm trể có thể đưa đến những hậu quả quân sự và chính trị trầm trọng. Theo Olivier Todd thì Lê Duẩn sợ rằng nếu chiến trường kéo dài thì áp lực chính trị quốc tế có thể can thiệp để chia cắt đất đai như hồi 1954 trước hội nghị Genève. Tuân hành chỉ thị này, Văn Tiến Dũng ra lịnh cho tất cả các lực lượng từ chiến khu C, chiến khu D, Khu Tam giác Sắt ở miền Đông, và các lực lượng ở vùng đồng bằng Cửu Long và Cà Mau chuẩn bị tổng tấn công vào Saigon và các tỉnh. Để phân công, bộ phận chính trị do Lê đức Thọ và Phạm Hùng đóng ở Lộc Ninh, còn tướng Trần văn Trà và Văn tiến Dũng lập bộ tham mưu mặt trận ở Bến Cát, sát nách Saigon.
* Để chận bước tiến của CS, Bộ Tổng Tham Mưu xin Tân TT Trần Văn Hương cho phép thả 3 trái bom CBU-55 (giao cho VN ngày 16 tháng 4) tại các địa điểm mà các đơn vị cuối cùng của SĐ 18 BB đã rút ra khỏi Xuân Lộc đêm hôm trước. Đó là loại bom có sức công phá dữ dội nhất trong các loại vũ khí của Mỹ, khi còn cách mặt đất chừng 10m thì nổ tung ra hàng trăm trái bom nhỏ hút hết tất cả dưỡng khí, giết tất cả sinh vật trong một vùng có đường kính 250 thước (Todd) theo Darcourt thì đến 1km, ngay cả người dưới hầm sâu. Người chết không có vết thương (vì bom không có miểng) mà chết trong tư thế tự nhiên (như đang ngồi, nằm, đứng…). Ngoài ra, phi cơ Hoa Kỳ cũng thả 6 trái bom «daisy cutters” (Viên, tr.202) là loại bom BLU-82 dùng để khai quang các bải đáp trực thăng (nặng 15 000 cân Anh tức độ 7 tấn rưỡi) và hỏa tiển Wild Weasel (con chồn hoang) trong vùng chung quanh Xuân Lộc. Tòa Bạch Ốc và CIA tuyên bố không hề được Không Lực Hoa Kỳ thông báo sự can thiệp vũ bảo trong những ngày cuối cùng nầy của chiến tranh VN. Những tài liệu giải mật sẽ giải thích hư thực về chánh sách đôi khi khó hiểu của Hoa Kỳ.
CS lập tức trả đủa ngay sau vài giờ bị bom CBU. Sân bay Biên Hoà bị pháo kích không sử dụng được nữa, phi cơ F5A phải «di tản» về Tân Sơn Nhứt, một số khác phải về sân bay Cần Thơ.
- Ngày 23: Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn xin từ chức. TT Hương yêu cầu ông Cẩn xử lý thường vụ cho đến khi có chính phủ mới.
- Ngày 24 : Dương văn Minh hợp báo :Tổng Thống Trần Văn Hương đã mời tôi nhận chức Thủ Tướng. Tôi từ chối vì ở cương vị nầy, tôi không thể thương thuyết với phía bên kia bởi điều kiện của phe Cách mạng là Tổng Thống Hương phải ra đi…
Ông Minh muốn đốt giai đoạn và đại sứ Pháp đã hướng dẫn ông ta chơi một ván bài nguy hiểm dựa trên niềm tin rằng ông chưa bao giờ bị phe bên kia chỉ trích và Cộng Sản sẽ thương thuyết với ông trên căn bản Hiệp định Paris 1973” (Darcourt, p.142).
Trong ngày nầy, đại sứ Pháp Mérillon vào dinh Độc Lập hai lần khuyên ông Hương từ chức để trao quyền cho Dương Văn Minh. Ngoài ra, tướng Trần Văn Đôn, Tổng Trưởng Quốc Phòng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn cũng tự xưng và tự nguyện đóng vai trò trong cuộc thương thuyết với phe bên kia bên cạnh tướng Dương Văn Minh.
Trong khi Mérillon tỏ vẻ lạc quan về giải pháp chánh phủ liên hiệp 3 bên : Cộng Sản, Mặt Trận và phe Lực lượng thứ ba do Dương văn Minh đại diện, thì các đảng phái, một số tướng lãnh họp ở khách sạn Palace không chấp nhận ông Minh vì cho rằng ông Minh không có sự sáng suốt chính trị trong 10 năm qua và là người thụ động, không đủ sức đương đầu với Cộng Sản. Luật sư Trần Văn Tuyên công khai chống đối Mérillon vì thái độ xấc láo và can thiệp quá đáng vào nội bộ VN: « ông Mérillon đã dám ngạo mạn nói với tôi rằng TT Hương đã già yều bịnh hoạn phải đem vào bịnh viện để giải phẩu cho ông. Nếu ông vô bịnh viện thì bài toán sẽ được giải quyết. TT Trần Văn Hương rất phẫn uất vì thái độ khinh miệt của ông Mérillon. Nản lòng vì những lời mỉa may ác độc và những áp lực đòi ông từ chức, vị tổng thống lớn tuổi của chúng ta dọa sẽ tự tử bằng ống thuốc cyanure mà ông luôn đeo theo trong mình» (Darcourt , rr. 143-44)
Theo Hoàng Đống thì «CS và MTGPMN, qua đài phát thanh của họ ủng hộ Dương Văn Minh là người chủ trương hòa giải hòa hợp nên có thể nói chuyện được, và Đại sứ Pháp 4 lần khuyên Hương từ chức, nhưng vì tham quyền cố vị và ngây thơ nên Hương bỏ ngoài tay lời khuyên của đại sứ Pháp» (tr.362)
Trong lúc đó, đài phát thanh Hanoi và Giải Phóng miền Nam đồng loạt đòi TT Hương phải ra đi. Thực sự, CS không có dấu hiệu nào thương thuyết với bất cứ ai và chuẩn bị tấn công Saigon.
Điều nầy cũng được xác nhận trong «VNCH, 10 ngày cuối cùng» của Trần Đông Phong là chính TT Trần Văn Hương đã cử tướng Phan Hòa Hiệp đại diện cho chính phủ liên lạc với đại diện của CS trong Ủy Ban Liên Hợp 4 bên vận động với CS một cuộc thương thuyết, nhưng CS đã bác bỏ mọi hình thức thương thuyết và đòi Miền Nam phải đầu hàng vô điều kiện (Phong, tr. 252-253)
- Ngày 25
Hôm nay, TT Hương lại tiếp đại sứ Mérillon và đại sứ Martin, cả hai đều cố thuyết phục TT Hương nên cấp tốc đưa ra một giải pháp khả dĩ mở đường thương thuyết với những người «cách mạng» (nguyên văn : les révolutionnaires). Giải pháp nầy đòi hỏi sự từ chức của ông và giao quyền lại «cho một nhóm người nào đó» mà phía bên kia chấp nhận (Darcourt, p.145).
Ông Hương từ chối và nói với Martin : nếu tôi phải làm Pétain của VN thì ít ra tôi phải đóng vai trò ấy trong danh dự và đúng phẩm giá» - Si je dois être le Pétain du VN, je le serai au moins dans l’honneur et la dignité (Todd, p.324). Ông Hương muốn hành sử theo đúng hiến pháp và câu hỏi căn bản là ông Minh có được Hà nội thực sự chấp nhận hay không, TT Hương yêu cầu Martin thăm dò qua đại sứ Ba Lan.
Sau khi từ chức, ông Thiệu ngày ngày đi đi lại lại qua các phòng trong dinh Độc Lập(tuy ông từ chức nhưng ông vẫn còn ở trong dinh ), nghĩ đến cuộc phục hận. Ông Nguyễn Văn Kiểu, anh ông và cả em họ ông, Hoàng Đức Nhã đều khuyên ông nên ra đi, nhưng ông từ chối vì ông nghĩ là ông còn có một vai trò. Không chịu được cảnh nầy, bà Thiệu đã rời Saigon sáng 24 đi Bangkok trên một chuyến bay thương mại (Snepp, tr. 334)
TT Hương cũng muốn ông Thiệu ra khỏi nước vì sự có mặt của ông Thiệu tạo khó khăn cho ông (hay cho ý kiến) nên nhờ Martin can thiệp. Martin cũng không muốn ông Thiệu bị ám sát càng rắc rối hơn nên Martin tổ chức cho ông Thiệu rời khỏi nước. (theo Snepp, tr. 334, Trần Văn Đôn cũng khuyên TT Thiệu trưa ngày 25 là nên ra đi vì Nguyễn cao Kỳ sẽ tổ chức ám sát)
Lúc 20 giở rưởi, Polgar và tướng Timmes đón ông Thiệu ở nhà ông Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu. Đoàn xe 3 chiếc gồm ông Thiệu, Khiêm và hơn 10 người khác . Martin đợi sẵn ở phi cơ để tiển đưa.
« Dù buồn thảm và cam chịu số phận, ông Thiệu đi thủng thẳng, cố giữ phong độ. Ông quay lại cám ơn ông Martin. Với giọng xúc động, Martin đáp lễ : Thưa Tổng Thống, đó là điều tối thiểu tôi có thể làm. Xin tạm biệt và chúc Ngài may mắn (Nguyễn tiến Hưng, tr. 392 và Todd tr.339).
Phi cơ trực chỉ Đài Loan (và sau đó ông và gia đình sang tị nạn ở Anh Quốc cho đến thập niên 1980 mới sang Hoa Kỳ).
Theo Hoàng Đống : « ngày 22-4, Thiệu và Khiêm được Mỹ đưa ra phi trường Tân sơn Nhất bay qua Đài Loan. Trước đó 20 ngày, gia đình, của cải của hai vị nầy đã được an toàn chuyển ra ngoại quốc» (tr. 360). Nhiều tài liệu Anh Pháp nói đến 16 tấn hàng hóa.
Theo Lý Quý Chung, thân cận của tướng Minh, ông Thiệu trốn chạy ( Chung, tr. 362).
Cùng một sự kiện, 4 tác giả thuật lại bốn cách khác nhau.
TT. Thiệu rời khỏi nước yên ổn, Martin thở phào. Ông lên xe đến dự cuộc tiếp tân ở toà đại sứ Ba Lan. Sau đây là câu chuyện giọng nhát gừng giữa 2 ông đại sứ:
-Martin : Cộng Sản Bắc Việt có chấp nhận Dương Văn Minh không ?
- Fijalkowski (đại sứ Ba Lan): Sẽ hỏi Hà Nội. Nhưng có câu hỏi của Hà Nôi: Tại sao hàng không mẫu hạm Mỹ lản vản ngoài khơi hải phận VN.
- Martin: phải hỏi lại Hà Nội của các anh, tại sao có dàn hỏa tiển gần Saigon. Hà Nội có muốn gây khó khăn cho Hoa kỳ trong công cuộc di tản không? (Todd, tr.340)
Về dư luận ông Thiệu ra đi với 16 tấn vàng, Snepp, nhân viên CIA tường thuật rất rõ (tr.296)
«Một tháng trước, Thiệu đã gởi qua Đài Loan và Canada một phần lớn tài sản và bàn ghế bằng tàu thủy. Nhưng tài sản của quốc gia, 16 tấn vàng trị giá 220 triệu mỹ kim, tượng trưng cho một phần lớn kho bạc của Saigon cũng sẽ đi ra nước ngoài (à expatrier). Lúc đầu, ông Thiệu dự tính gởi lén lút số vàng này vô Ngân hàng Thanh Toán Quốc Tế Bâle (Banque des règlements internationaux de Bâle) ở Thụy Sĩ, nơi mà chánh phủ đã có gởi một số vàng bảo đảm trị giá 5 triệu. Ông Thiệu nói với các cộng sự viên là gởi vàng để mua trang bị cho quân đội. Nhưng vài ngày trước khi gởi, tình báo Mỹ biết được nên tin tung ra trên báo chí, hảng hàng không mà ông Thiệu đã thương thuyết hợp đồng rút lui. Để giải tỏa mọi nghi ngờ, đại sứ Martin buộc ông Thiệu gởi số vàng nầy ở Federal Reserve Bank of New York, ông Thiệu phải đồng ý. Ngày 16 tháng 4, Martin xin Washington một chuyến bay đặc biệt, có bảo hiểm để chở số vàng nầy đi New York. Nhưng Không Lực Mỹ cũng như Ngân Hàng không chấp nhận bảo hiểm chuyên chở một món hàng trị giá quá lớn như vậy từ một nước đang có chiến tranh. Câu chuyện đang dằng co thì 2 ngày sau, ngày 18 tháng tư, 16 sư đoàn Cộng Sản đang hướng về Saigon, chuyện chở vàng bị quên đi và 16 tấn vàng vẫn ngủ yên trong Ngân Hàng Quốc Gia»
Đến ngày 25, sau khi giải quyết vấn đề bảo hiểm, vàng được đưa lên phi cơ để chở đi New York, nhưng giờ chót bị Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo (nội các Nguyễn Bá Cẩn) chận lại nói là theo lịnh của TT Hương chờ cho tân nội các được thành lập. Số vàng nầy vẫn còn nằm trong phi cơ đậu ở phi trường khi quân CS tiến chiếm Saigon. Cũng theo Snepp, tuy không hẳn là theo CS, Nguyễn Văn Hảo đã được CS móc nối hồi đầu tháng tư là sẽ được chế độ mới đối xử tốt nếu bảo vệ kho bạc VNCH. (Snepp. tr.328).
Chuyện ông Thiệu muốn tẩu tán vàng là một tin đồn, nhưng chuyện vàng bị các lãnh tụ đỏ sau nầy đục khoét là chuyện thực !
Ngày 26
Lúc 10 giờ sáng, TT Hương đến hợp với lưỡng viện Quốc hội để được báo cáo tình hình quân sự và quyết định người thay thế ông Hương. Có 183 trên 219 người đến tham dự (Darcourt) nhưng theo Lý quý Chung thì chỉ có 136 vì nhiều người đã chuồn ra nước ngoài (LQC, tr.366).
Trong diễn văn, ông Hương không gọi đích danh Dương Văn Minh mà gọi là «người ấy» (cette personne) :
« Trước hết tôi đã đề nghị với người ấy chức vụ Thủ Tướng với đầy đủ quyền hành. Ông ta đã từ chối. Tôi đã phải mời ông ta đến gặp tôi tại dinh Độc Lập, ông ta cũng từ chối. Với thiện chí muốn giải quyết vấn đề, tôi không kể nghi thức và mặc dầu tuổi già sức yếu, tôi phải chấp nhận đến nhà một người bạn chung để gặp người ấy. Tôi đề nghị với người ấy chức vụ Phó Tổng Thống, nhưng một lần nữa, chẳng những người ấy từ chối mà còn nói với tôi là : Phải có tất cả không thì thôi, có nghĩa là chỉ có Tổng Thống. Tôi lưu ý làm như vậy là vi hiến, ông ta trả lời rằng : đó không phải là việc của ông ta. Sau đó tôi có đặt cho ông ta một câu hỏi : Có gì bảo đảm là phía bên kia chấp thuận thương thuyết với ông thì ông ta trả lời ngắn gọn là : Tôi đã nhận được từ phía bên kia những cam kết cần thiết để làm tròn vai trò. Mặc dù tôi nhấn mạnh nhưng ông ấy không có thêm một lời giải thích nào khác ngoài những lời úp mở mà tôi không tin vào những lời đó. Tôi sẽ không bao giờ muốn chịu trách nhiệm về việc trao quyền một cách bất hợp hiến, vì vậy, hôm nay, tôi yêu cầu quý vị hãy trao quyền hành pháp lại cho người ấy bằng lá phiếu hợp pháp của lưỡng viện Quốc hội. Đó là phương thức duy nhất vừa để cứu Saigon khỏi bị một thảm họa mà không làm mất thể diện của quốc gia và chế độ.»
Tuy nhiên,theo bài viết của GS Nguyễn Ngọc An, cựu Tổng TrưởngThông Tin Chiêu hồi trong nội các Trần Văn Hương ghi âm lại, đăng trong Đặc San Pétrus Ký 1966, thì TT Trần Văn Hương đề cập đích danh tên Dương Văn Minh :
|
|
|
Post by vietnam on May 14, 2009 4:02:28 GMT -5
«…Với ý nghĩa đó, nghĩa là ý nghĩ thương thuyết, tôi đã ra công dò xét tìm bên này, tìm bên nọ, hỏi thăm dò ý kiến mọi nơi. Tới bữa nay cũng nói với quý vị là tôi có dịp đã gặp được Đại tướng Dương Văn Minh, bởi vì theo lời một số người, thì Đại tướng Dương Văn Minh có đủ điều kiện làm việc này. Trong các cuộc gặp gỡ, trong một tư thất của một người bạn chung - bởi vì họp mặt tôi muốn tránh tiếng trước, không thể mời Đại tướng đến Dinh Độc Lập nói chuyện. Một mặt tôi cũng không thể tự mình tới nhà Đại tướng mà nói chuyện. Cho nên chúng tôi đã cùng nhau đến nhà một người bạn chung - Sau khi nói chuyện, tôi nói rằng: "Theo dư luận, một số người nói rằng Anh - xin lỗi, bởi vì giữa Đại tướng với tôi cũng còn cái thâm tình nhiều - người ta bảo rằng Anh có đủ điều kiện để thương thuyết, vậy thì xin Anh vì nước nhà, mọi tỵ hiềm qua, mọi chuyện không tốt đẹp đã xảy ra, xin Anh vui lòng xóa bỏ để cùng nhau chung lưng dựng nước. Xin Anh chấp nhận cái ghế Thủ tướng để đứng ra thương thuyết với phía bên kia." Đại tướng, lẽ cố nhiên đối với tôi lúc nào cũng giữ thái độ chẳng những là người bạn thân mà giữ cả thái độ, xin lỗi, như thể một người học trò của tôi vậy, mặc dù Đại tướng không phải là học trò của tôi, Đại tướng nói: "Thầy đã hy sinh đến mức này, thôi xin thầy ráng hy sinh một bước nữa mà thầy trao trọn quyền cho tôi." Nghĩa là trao cái quyền tổng thống cho Đại tướng…» Nếu bài viết của Nguyễn ngọc An là trung thực, sự khác biệt các tài liêu ngoại ngữ viết về VN lại còn phát xuất bởi sự diễn dịch và phiên dịch của tác giả ngoại quốc và tác giả người Việt. Sau khi TT Hương rời trụ sở Thượng Viện, cuộc thảo luận kéo dài từ 14 giờ đến 22 giờ mà kết quả là đi đến một quyết nghị lửng lơ : Quốc Hội nhìn nhận TT Hương có đầy đủ tư cách để chọn người thay thế ông. Người nầy sẽ được ủy nhiệm để xúc tiến cuộc thương thuyết. Tên của Dương Văn Minh không được ghi trong bản quyết nghị này (Darcourt, p.151). Nhưng theo Lý Quý Chung, trong Hồi ký của ông thì hoàn toàn khác: «Cuộc biểu quyết truất quyền ông Hương và trao quyền cho ông Minh được thực hiện với số phiếu gần như tuyệt đối 147/151 vào lúc 20giờ 54… Tôi nhớ rất rõ không khí tại trụ sở Thượng Viện trước và sau biểu quyết. Kẻ thì chán nản như người sắp chết đuối là các dân biểu nghị sĩ thuộc phe Thiệu, còn những người phe Dương Văn Minh thì hấp tấp, vội vã như sợ không bắt kịp cơ hội cuối cùng »(LQC, tr.367, 368). Theo ông Đôn, cũng trong Hồi Ký thì «đa số nghị sĩ dân biểu nghiêng về biện pháp trao quyền cho ông Hương chỉ định Thủ Tướng toàn quyền vì cho rằng ông Minh xem thường Quốc Hội» và sau đó ông Hương gọi điện thoại với ông và nói :«tôi sẽ chỉ định anh làm Thủ tướng» (Đôn, tr. 468,469) Trong khi lưỡng viện Quốc Hội đang họp, lúc 12 giờ, Võ đông Giang, đại diện cho Mặt Trận trong Ủy Hội Kiểm soát ở Camps Davis (Tân Sơn Nhứt) tuyên bố : Đạo quân chúng tôi tiếp tục tiến công, không có ngưng bắn. - Ngày 27 tháng tư * 4 giờ sáng, nhiều tràng hỏa tiển bắn vào Saigon: thiệt hại : 9 người chết, 36 bị thương, những đám cháy nhà cửa và hảng xưởng khiến 2000 người không nơi cư trú. * 12 giờ : TT Hương gởi văn thư hỏa tốc cho Chủ tịch Thượng Viện : Theo hiến pháp Quốc Hội phải ra quyết nghị người thay thế tôi rõ ràng. * 15 giờ: «Đại sứ Pháp điện thoại cho tôi [Đôn] biết : 6 giờ chiều nầy nếu không có gì thay đổi thì Hà Nội sẽ pháo kích vào Saigon bằng súng cối 130 ly có tầm bắn xa 30 km» (Đôn, tr.471) * 19 giờ :Trước khi dân biểu nghị sĩ bắt đầu thảo luận, tướng Trần Văn Đôn, xử lý thường vụ Tổng Trưởng Quốc phòng (nội các NBCẩn) thuyết trình tình hình quân sự : « 14 sư đoàn Bắc Việt được trang bị võ khí hùng hậu đang bao vây Saigon. Biệt kích và đặc công đã xâm nhập vòng đai. Không quân của ta đã hành quân liên tục từ nhiều ngày qua nên các phi công và phi cơ đã quá sức chịu đựng, ngoài ra còn bị thiệt hại khá nặng bởi phòng không của địch. Căn cứ Không quân Biên Hòa gần như đã bị tê liệt vì pháo lực của CS. Trong vài ngày, cũng có thể trong vài giờ, có thể Saigon sẽ bị tàn phá bởi đạn pháo 130 ly tầm xa của CS. Nhứt định ta phải thương thuyết với họ để ngưng bắn càng sớm càng tốt» Các dân biểu nghị sĩ la ó, phản đối tướng Đôn : Đồ hèn nhát, chủ bại, bị bán đứng rồi, Tướng phòng ngủ. Tướng Đôn và các quân nhân tháp tùng rời phòng hợp trong nhục nhả (Darcourt, p.154). Hồi ký của tướng Đôn không đề cập gì đến sự kiện nầy. Sau 4 giờ thảo luận sôi nổi, Quốc Hội biểu quyết chấp thuận cử tướng Minh thay thế TT Hương trong chức vụ Tổng Thống. (120 phiếu thuận, 32 phiếu chống, 20 phiếu trắng theo Darcourt ; 136 phiếu thuận, 2 phiếu trắng theo Todd. Trong lúc đó, chuyến máy bay do Polgar tổ chức chở Nguyễn Bá Cẩn, Nguyễn Khắc Bình, Hoàng Đức Nhã và một số nhân vật đi Phi luật Tân. * 20 giờ, con đường nối liền Saigon-Biên Hòa bị cắt đứt, 700 quân nhân của Sư đoàn 18 bị mất liên lạc và quốc lộ số 4 nối với miền Tây cũng bị gián đoạn ở nhiều nơi. Saigon trở nên một hòn đảo. Trong khi đó, cuộc di tản tuy chậm, nhưng diễn tiến trong trật tự . Đến 12 giờ trưa ngày 27 đã có 35 245 người đã được Mỹ bốc đi. Các tòa đại sứ, trừ tòa đại sứ Pháp, cũng bắt đầu đóng cửa và di tản nhân viên bằng đường hàng không. Ngày 27 cũng là ngày Bắc Việt đổi ý về chiến lược. Theo đại sứ Martin, tuy là hồi tháng ba, ông đã có tin tình báo là Hà Nội đã quyết định đi tới một chiến thắng hoàn toàn bằng quân sự, nhưng những tin tức khác tử Mặt Trận giải phóng ở Paris cũng cho biết là họ cũng muốn có một giải pháp chính trị, và Martin cũng suy luận là CS dùng giải pháp chính trị để có thể tiếp tục được viện trợ của quốc tế khi chiến tranh chấm dứt. Nhưng không hiểu vì lý do gì, theo Martin thì đêm 27 tháng 4, CS đã dứt khoát chọn chỉ giải pháp quân sự (Martin Graham. Vietnamese evacuation: testimony of Ambassador Graham Martin. International relations, January 27, 1976 , p. 609, trích dẫn bởi Nguyển Tiến Hưng, tr.391) Ngày 28 , Saigon đã thật sự hấp hối. Tân Sơn Nhứt bị pháo kích, người di tản ố ạt đến tòa đại sứ Mỹ tràn ngập sân sau, trèo tường, song sắt để xin được di tản. Từ sớm tinh sương, trực thăng của hảng Air America đáp xuống nóc tòa đại sứ để tiếp tục đưa các chánh khách và tướng tá VN đến Tân sơn Nhứt hay ra hạm đội, trong số có Cao Văn Viên. Trong khi lực lượng Cộng Sản đang tiến về Saigon từ nhiều hướng, thì « tại tư dinh ở số 3 Trấn Quý Cáp, suốt buổi sáng, Dương Văn Minh vùi đầu vào việc chọn lựa các nhân vật thất sũng trong chánh giới Saigon để tìm người cho nội các. Các ứng cử viên lần lượt đến tư dinh ông để xin chức, ông lạnh lùng tiếp đón, gật đầu chào rồi bảo họ ra vườn lan ngoài sau mà chờ. Nhưng ông không bằng lòng các ứng viên bởi lẽ người này là diều hâu, người kia là bồ câu, nên sau cùng ông chọn trình diện nội các với 3 người»(Snepp 355) Lúc 17 giờ, lễ bàn giao giữa TT Trần Văn Hương và Dương Văn Minh diễn ra tại dinh Độc Lập với các ông Nguyễn Văn Huyền Phó Tổng thống, Vũ Văn Mẫu Thủ Tướng. « Khi tân TT Dương Văn Minh vửa bắt đầu bài diễn văn nhậm chức của mình thì sét đánh ầm ầm, một trận mưa to chưa có trong nhiều năm ập xuống Saigon, thậm chí quan khách dự lễ không nghe được ông Minh nói gì. Cái không khí chung của buổi lễ nhậm chức thật buồn não» (LQC tr.354). Ông Minh tuyên bố muốn điều đình với chánh phủ Mặt Trận Giải Phóng Giải Phóng và chánh phủ miền Bắc trên căn bản hiệp định Paris và một cuộc nhưng bắn. Ông Minh chấm dứt diễn văn lúc 17giờ 48 phút. Một giờ sau, đài phát thanh Mặt Trận Giải Phóng lên tiếng:«Sau sự ra đi của tên phản quốc Nguyễn Văn Thiệu , những tên thay thế như Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ văn Mẫu muốn duy trì chiến tranh để kéo dài chế độ chư hầu của Mỹ. Nhưng chúng chẳng lừa được ai và quân đội giải phóng chỉ chấp nhận một cuộc ngưng bắn với hai điều kiện : ngụy quân Saigon buông súng và hạm đội Mỹ rời khỏi hải phận miền Nam VN.Các binh sĩ nào còn nghe lịnh của Mỹ Ngụy sẽ bị trừng trị đích đáng để làm gương» (Todd, 355) Khi ông Minh và đoàn tùy tùng từ Dinh Độc Lập trở về «dinh Hoa Lan» (nhà của DVM) thì nghe vang lên những tiếng nổ rung chuyển cả Saigon. Năm phản lực cơ A-37 mà quân CS vừa mới chiếm được xuất phát từ Nha Trang, dưới sự chỉ huy của Trung úy Nguyễn Thành Trung oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt và vùng Hốc Môn. Tại Paris. tổng trưởng ngoại giao Pháp tiếp đại sứ Bắc Việt Võ văn Sung và đại diện Mặt Trận Phạm Văn Ba để bày tỏ sự ngạc nhiên về sự trở mặt của Cộng Sản. Vai trò trung gian mà Pháp nghĩ rằng mình có thể đóng góp trong cuộc giàn xếp chính trị vào giờ thứ 25 của cuộc chiến đã hoàn toàn thất bại. Ngày 29 tháng tư Saigon hôm nay bắt đầu thực sự đi vào cơn hỗn loạn. * Từ 4 giờ sáng, đại bác của CS bắn vào bộ chỉ huy của Tổng Tham Mưu ở Tân Sơn Nhứt và bộ tư lệnh hải quân. Nhiều kho súng và kho săng bốc cháy, bùng nổ. * 6 giờ sáng, Văn tiến Dũng ở Bến Cát nhận lời khen ngợi của Bộ Chính trị ở Hà Nội và yêu cầu Dũng tiến quân thần tốc. * 10 giờ sáng, đài phát thanh Saigon đọc bức thư của Dương Văn Minh gởi cho Martin : «Tôi trân trọng yêu cầu ông đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi VN trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29 tháng 4, 1975 để vấn đề hoà bình của VN sớm được giải quyết» (Todd p. 362). Bình luận về ông Minh, Kissenger đã viết :« Ông Minh làm Tổng Thống không tới 72 giờ, chỉ đủ làm được hai việc quan trọng : một là yêu cầu Hà Nội ngưng chiến và thương thuyết chính trị, điều mà Hà Nội đã từ chối thẳng thừng, và hai là ngày 29 tháng tư, ông yêu cầu tất cả người Mỹ rút ra khỏi VN 24 giờ. Bức thư này phù hợp với lịch trình rút lui của chúng tôi, nó đã thực sự giúp cho chúng tôi tháo ra mà không bị chỉ trích là Mỹ đã bỏ rơi đồng minh của mình» ( Hưng, tr.393). Ông Hoàng ngọc Thành tiết lộ một chi tiết «ly kỳ» hơn: Tòa đại sứ Mỹ soạn một văn thư cho tuớng Minh yêu cầu người Mỹ rút đi trong vòng 24 giờ và bảo cho đọc trên đài phát thanh Saigon. Dương Văn Minh kể cho bà con và bạn hữu biết là ông đã làm như đại sứ Graham Martin bảo (Thành,tr. 568). Nếu quả tình sự việc như vậy, VN đã đến hồi mạt vận vì một nhân vật luôn có mặt trong những cơn khủng hoảng chính trị lớn, chỉ vì muốn làm tổng thống mà hạ mình nhận lệnh của Pháp và của Mỹ. Trong khi đó, Saigon bắt đầu một cuộc hỗn loạn không tả được. Từng đoàn người tràn vào chiếm kho hàng ở Tân Cảng, súng đạn tủa ra khắp nơi, người ta đạp trên xác chết quân sĩ và đặc công. Thành phố không còn có chỉ huy: DVMinh đã cách chức tướng Bình, 60 000 cảnh sát và 10 000 cảnh sát dã chiến không biết nghe lịnh ai, quân đội cũng thay đổi tham mưu trưởng 3 lần trong 24 giờ: hôm kia là Cao Văn Viên, nhưng ông đã ra đi cùng với tham mưu phó, hôm qua là tướng Nguyễn Văn Minh và Vĩnh Lộc, nhưng mỗi người chỉ có vài giờ rồi cũng bỏ đi cùng với Chung Tấn Cang, Mai Hữu Xuân, Nguyễn Cao Kỳ, Ngô Quang Trưởng, nói chung có 60 vị tướng. Trường hợp của Đặng Văn Quang thì bi đát và nhục nhã hơn. Pierre Darcourt đã kể : « Một cảnh tượng bi đát đã xảy ra ở cổng tòa đại sứ. Tướng Đặng Văn Quang mà nhiều người tố cáo là đứng đầu đường dây buôn lậu ở VN lại không có tên trong danh sách di tản của người Mỹ. Binh sĩ gát cổng đuổi ông đi. Ông phải chạy lại van nài nghị sĩ Nguyễn Văn Ngải giúp ông xin trực thăng bốc đi. Có ai ngờ, một ông cựu cố vấn quân sự của Tổng Thống, ngạo mạn kiêu căng, tác oai tác phúc ở dinh Độc Lập suốt mấy năm trời thì nay chỉ là một đống mỡ run rẩy vì sợ sệt. Ông ta hết quỳ lạy cầu khẩn rồi viện dẫn mạng sống của vợ con và của chính ông vì sẽ bị CS giết. Động lòng, nghị sĩ đưa ông ta cùng đi chung nhưng không nói tên ông ta là ai….» (Darcourt,194 ). Theo Snepp, thì Quang nhờ sự giúp đỡ của Polgar dù nhiều nhân viên CIA không muốn thấy mặt Quang ví Quang đã được CIA trả lương mà đã phản bội không báo cho CIA biết kế họach rút quân của TT Thiệu. Trong cơn hốt hoảng, Quang bỏ quên đứa con trai cùng đi với ông ở ngoài hàng rào sắt của tòa đại sứ. (tr.392) Trường hợp của Trần Văn Đôn thì lại rất tàn nhẫn với thuộc cấp. Trước khi hối hả leo lên trực thăng cùng với con trai là một bác sĩ, ông Đôn nói với đoàn tùy tùng : « các anh ở lại, các anh không có chức vụ, không có gì nguy hiểm». Những quân nhân nầy vừa đau khổ, vừa khinh bỉ nhìn theo chiếc trực thăng cất cánh. (Darcourt, p. 194) Lartéguy châm biếm : «Hôm qua là Phó thủ tướng, múa may, tưởng có thể thay thế Minh, bi đát hóa tình hình để đẩy Hương đi. Hôm nay, hối hả bỏ chạy, không thông báo cho cả viên đại tá chánh văn phòng khiến ông này sau đó tự tử .Ông Đôn chỉ là kẻ thừa hành của chánh phủ Pháp.» (Lartéguy , p.129) Trong khi đó, cuộc di tản đang đến hồi lên cơn sốt. * 10 giờ 40 : từ phi trường Tân Sơn Nhứt, tướng Homer Smith, chỉ huy trưởng DAO điện đàm với đô đốc Noël Gayler, tư lịnh lực lượng Mỹ vùng Thái Bình Dương ở Honolulu là phi trường TSN không còn sử dụng được cho cho phi cơ C-130 nữa. Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Gayler áp dụng «Giải pháp số 4» tức di tản bằng trực thăng. * 12 giờ 30 : 36 trực thăng vận tải khổng lồ được yểm trợ bởi các trực thăng chiến đấu Cobra rời hàng không mẫu hạm Hancock. * 15 giờ : Thủy quân lục chiến thiết lập 3 bãi đáp trực thăng ở khu quân sự trong sân bay TSN. Có 3000 người chờ đợi di tản. Trên không phận Saigon, trực thăng của Đệ Thất hạm đội, của CIA, của Air America bay rà rà trên nóc các cao ốc tụ điểm, lên xuống phi trường được phi cơ phản lực Phantoms sẵn sàng can thiệp khi cần thiết. Lực lượng hải lục không quân được huy động như chưa bao giờ có sau trận đổ bộ Dunkerque năm 1940. * Buổi chiều, trước cửa tòa đại sứ Mỹ có độ 20 000 người chen chúc nhau, hàng ngàn người đổ về bến Bạch Đằng để tìm bất cứ phương tiện nào bằng đường biển, xe cộ vật liệu vất bừa bãi trên đường phố, người dân nhốn nháo, thất thần. Martin áp dụng phương thức di tản người Việt : người đến trước, được di tản trước (premier arrivé, premier servi). Đây là dịp cho các người Mỹ làm tiền các nhà giàu người Việt bằng cách mạo nhận là thân nhân để đưa đi, bán thẻ lên tàu của nhân viên dưới quyền cho người Việt chịu mua với giá từ 5000 đến 10 000 mỹ kim. «Tướng Cao HH, cố vấn TT Thiệu thay vì phân phối 50 thẻ di tản cho bộ tham mưu, đem bán mỗi vé 1000 mỹ kim» (Terzani, p.61) * 10 giờ đêm (10 giờ sáng Washington): báo cáo từ Saigon về Ngủ Giác Đài cho biết cuộc di tản người Mỹ ở Cần Thơ và ở Vũng Tàu tốt đẹp, trong lúc ở Saigon hỗn loạn. - Schlesinger điện cho Martin : còn 400 nhân viên tòa đại sứ phải di tản hết và gấp rút. - Martin trả lời giọng giận dữ : Hãy chỉ cho tôi phương pháp ép những người Mỹ ra đi khi phải bỏ vợ con ở lại [vợ VN và con lai Mỹ]. Đã 4 giờ rồi, tôi đã báo cho Gayler biết là tôi cần 30 phi vụ CH-53, [chở được 50 người, chen chúc được 70]mà bây giờ tôi chỉ có một CH-46 [nhỏ hơn] Một giờ sau, từ tòa Bạch Ốc, Don Rumsfield yêu cầu Martin di tản 150 nhân viên IBM còn kẹt ở Saigon. Martin lồng lộn : Hãy cút đi, để cho tôi yên ! Trong lúc đó, hải quân lục chiến hối hả tiêu hủy hồ sơ, các trang bị máy móc mà người Mỹ đã trang bị hùng hậu từ 10 năm qua (chỉ hồ sơ của CIA là 14 tấn) *12 gìờ đêm : Martin điện cho Gayler : Chẳng nhận được gì 20 phút qua, chắc tôi phải ở lại đây ngày 30 tháng tư. Và điện cho Kissenger, Martin trêu cợt: Nếu không suôn sẻ, tôi sẽ qua tòa đại sứ Pháp xin tá túc, và chắc tôi sẽ được ngủ trong phòng của bà Mérillon, và hi vọng bà còn ở đó chớ không ở Paris» (Todd p. 378) Ngày 30 tháng tư * 2giờ 30 sáng, tại tòa đại sứ còn 1000 người Việt, 53 nhân viên dân sự và 173 thủy quân lục chiến, trong khi ở phi trường TSN còn độ 2000. * 3 giờ 45 : Martin nhìn đám người trong sân và tuyên bố: những trực thăng đáp trên nóc tòa đại sứ chỉ dành cho người Mỹ. * 4 giờ 42 : chiếc trực thăng mang tên Lady Ace 9 đáp xuống nóc. Viên phi công trình lệnh của Tổng Thống: Martin phải lên phi cơ. Nếu Martin không tuân lệnh, viên phi công còn có một lệnh khác của Gayler, tư lịnh Mỹ vùng Thái Bình Dương là áp giải Martin. Theo Darcourt, Đại sứ Martin đánh giá cuộc di tản không ra gì, muốn ở lại và chết ở đó. Với một tâm trạng rối loạn, mệt mõi (ông đã thức suốt 72 giờ liền), ông đáp xuống hàng không mẫu hạm Blue Ridge, vào phòng đóng cửa lại để không ai thấy nỗi thất vọng của ông. * 7 giờ 53 : chiếc trực thăng cuối cùng chở những binh sĩ cuối cùng (thực ra còn 2 xác thủy quân lục chiến ở Tân Sơn Nhứt), yểm trợ bằng 6 trực thăng võ trang Cobra rời tòa đại sứ. Họ ném hơi cay trên đầu 420 người Việt còn đứng chờ bàng hoàng, ngơ ngác. Lá cờ Mỹ đã cuốn đi mang theo nỗi thất vọng, cay đắng, oán hờn, sung sướng, của người Việt bắt đầu một trang sử mới. * 8 giờ sáng, tại dinh Phủ Thủ Tướng, ông Dương Văn Minh họp cùng các nhân vật quan trọng của nội các mới như Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu để trình bày tình hình quân sự và chính trị đã đến hồi tuyệt vọng, cuộc thương thuyết với chánh phủ Mặt Trận Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam và Hà Nội, qua trung gian của Pháp kể như không có trong khi thành phố Saigon đã hỗn loạn cực kỳ. « Nhiều toán quân sĩ VNCH lang thang trong thành phố, họ vứt bỏ vũ khí, quân phục. Bọn cướp bóc tràn ngập trong thành phố, súng bắn loạn xạ» (Todd, p.390). * 9 g30 : sau phiên họp, nội các Dương Văn Minh đến dinh Độc Lập dự định theo chương trình để bàn giao với Nguyễn Văn Hảo, Phó Thủ tướng trong nội các Nguyễn Bá Cẩn, nhưng cuộc bàn giao không xảy ra mà họ chờ quân giải phóng đến. *11g 30: «tiếng chân người vang dội trong đại sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô từ phía đại sảnh : Mọi người đi ra khỏi phòng….Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống DVM….Có tiếng hô to : Mọi người giơ hai tay lên. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi sau đều nhất loạt giơ tay…Một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh : Anh hãy viết một bản tuyên bố đầu hàng. Ông Minh trả lời rằng sáng nay ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói : Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng…Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên chỉ huy yêu cầu ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng…Trước khi rời dinh Độc Lập đến đài phát thanh, ông Minh nói với vị chỉ huy bộ đội : Vợ tôi vẫn ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm. Viên chỉ huy đáp: Anh hãy yên tâm…Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Saigon trên chiếc xe Jeep của bộ đội…Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát lúc 13 giờ 30…» (LQC, tr.410-412). Trần Văn Đôn thuật dựa vào những điều nghe biết sau 30 tháng tư (vì ông đã ra đi): « Sau đó họ mời ông Minh, ông Mẫu và một người nữa lên xe jeep đi. Sau này tôi biết họ chở lại gặp tướng Trần Văn Trà. Tướng Trà nói : Tôi mời mấy ông về đây để uống trà với tôi. Tôi là Trà đây. Chiến tranh đã kết thúc rồi. Không có ai thắng ai bại» (Đôn, tr. 485). Và cũng với luận điệu ấy, Đôn đã viết : « Ai cứu dân chúng Saigon khỏi đổ máu. Không phải Kissenger, không phải đại sứ Mỹ, không phải đại sứ Pháp. Saigon không đổ máu là nhờ Dương Văn Minh». Pierre Darcourt kể lại với nhiều chi tiết sống sượng hơn: «Đúng 12 giờ 10 phút, ba chiếc xe tăng T54 cán dẹp những hàng rào cản sơn màu trắng đỏ bao quanh dinh Độc Lập. Họ bắn chỉ thiên một tràng dài, ủi sập cánh cổng lớn, cán lên trên rồi tiến thẳng vào dinh Độc Lập, cày bừa lên các bãi cỏ trong sân. Hai chiếc xe Jeep và một chiếc xe vận tải chạy đến, qua mặt các chiến xa. Tất cả mang cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miên Nam… Vị sĩ quan cao cấp được 4,5 lính CS hộ tống ập vô đại sảnh, nơi mà tướng Dương Văn Minh đang hội họp với các người thân cận của ông ta. Thấy vị sĩ quan đeo đầy sao vàng trên cầu vai nền đỏ, Tướng Minh tưởng rằng mình đứng trước một sĩ quan cao cấp nên nói : - Thưa quan sáu (nguyên văn: mon général ong sau), tôi đã chờ ông từ sáng để trao quyền cho ông. - Mầy (nguyên tác: tu, có thể dịch là anh, nhưng mày có lẽ đúng hơn trong hoàn cảnh nầy) dám nói là trao quyền à. Mầy chỉ là một kẻ cướp quyền và một tên bù nhìn. Mầy chẳng có quyền nào để trao cho tao cả. Chúng tao đạt được quyền bằng khẩu súng trong tay. Tao nói cho mày rõ là tao không phải là tướng mà chỉ là một trung tá ủy viên chính trị. Và kể từ bây giờ, tao cấm mầy không được ngồi xuống. Gương mặt tướng Minh co rúm lại. Giọng nói hung bạo và khinh miệt của người sĩ quan khiến ông Minh hiểu rõ là ông đang đứng trước mặt một sĩ quan miền Bắc (nguyên tác: Tonkinois) chớ không phải là người Mặt Trận miền Nam. Tướng Minh cố giữ bình tỉnh và nhẹ nhàng nói : - Chúng tôi đã có làm sẵn một bữa cơm để tiếp các ông. Có yến, súp măng cua. Viên trung tá xẳng giọng - Tụi bây đang ở trong tình trạng bị bắt. Hãy giữ thức ăn tư sản cho tụi bây. Chúng tao sẽ cho tụi bây ăn cơm dã chiến, một nắm cơm vắt và một hôp thịt mặn. Tất cả các tổng trưởng hiện diện đều bị khám xét và bị bắt giam trong một phòng. Dinh Độc Lập bị tràn ngập bởi phóng viên báo chí» (Darcourt, p.209). * Lúc 16 giờ 30, tướng Minh được rời khỏi phòng giam lỏng ở tầng dưới dinh Độc Lập. Một phóng viên của nhật báo Quân đội giài phóng hỏi ông - Ông nghĩ sao về những biến cố mà ông vừa trải qua? Ông Minh ngập ngừng giây lát rồi trả lời với ngôn ngữ tuyên truyền mà CS thường sử dụng : - « Chúng tôi đã nhận thức được sức mạnh của Chánh phủ cách mạng lâm thời và của quân đội giải phóng. Các đơn vị thiết giáp của quân giải phóng thực hùng mạnh, quân đội Saigon không thể nào đương cự được, chỉ còn có việc đầu hàng không điều kiện mà thôi… Chúng tôi tin tưởng các ông, nếu không thì chúng tôi đâu có đem cả gia đình chúng tôi đến đây để đón các ông. Các ông đã đạt được chiến thắng một cách nhanh chóng, chúng tôi vô cùng sung sướng. Chúng tôi và gia đình chúng tôi bình yên, thật là may mắn » (Darcourt, tr. 213) Và sau đó, các nhân vật trong nội các cuối cùng của VNCH cũng lưu hậu thế với những câu nói bất hủ. * Ông Nguyễn Văn Huyền thì dè dặt hơn : «Chúng tôi không chấp nhận cuộc di tản. Là người VN, mình phải ở lại sống trên quê hương mình chớ» * Ông Vũ văn Mẫu thì hớn hở, nhảy nhót : « Các anh đánh hay lắm. Tôi rất sung sướng đã đuổi được người Mỹ ra đi. Bây giờ thì chúng ta với chúng ta mà thôi. Sau khi nhắc lại quê ông ở quận Thường Tín, phía Nam Hà Nội và chuyện ông cạo đầu phản đối ông Diệm, ông nói : Kể từ hôm nay thì tôi sẽ để tóc lại được rồi» * Ông Nguyễn Văn Hảo đưa tay lên và nói lớn :«Các anh thật đáng phục vì đã đánh bại được nước Mỹ, chúng tôi hi vọng là tài nguyên của đất nước sẽ được sử dụng để xây dựng đất nước chúng ta». (Darcourt, tr.213) Trong khi các chánh khách 30 của VNCH đầu hàng CS và tranh nhau nịnh bợ chánh quyền mới, trên khắp các nẽo đường đất nước, quân nhân các cấp phẩn uất, nhiều tướng tá tử tiết thay vì đầu hàng. Chỉ cần đan kể một vài anh hùng liệt sĩ : các tướng Nguyễn Khoa Nam, Phạm văn Phú, Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Trần văn Hai... * * * Trong lịch sử chiến tranh, không có cuộc chiến nào để lại một khối lượng sử liệu khổng lồ, đa dạng và phức tạp như chiến tranh VN. Tại Hoa Kỳ, có ít nhất 10 đại học danh tiếng có bộ sách về chiến tranh VN trong đó trung tâm Texas Tech University được xem như quan trọng nhất. Ghi lại những biến cố chỉ trong tháng 4 từ một số tài liệu mà độc giả có thể tìm được dễ dàng trong các thư viện công cộng hay nhà sách, chúng tôi muốn nói lên bản chất dị biệt của các tài liệu qua các nguồn liệu và tác giả. Sự dị biệt ít nhiều và bàng bạc qua gần 20 tài lệu mà chúng tôi tham khảo, nhưng chúng tôi chú tâm đặc biệt vào hai biên khảo-hồi ký căn bản của biến cố tháng tư viết bởi hai cộng sự viên quan trọng của Tổng Thống Thiệu là Đại Tướng Cao Văn Viên,Tổng Tham Mưu Trưởng quân lực VNCH và Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cố vấn đặc biệt của Tổng thống. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, qua lời văn tuy ôn tồn nhưng quyết liệt, ông Viên đã dành một chương «Lời bạt» thêm vào quyển quân sử The final Collapse do ông soạn thảo cho Trung Tâm Quân sử lục quân Hoa Kỳ phổ biến hạn chế năm 1983 và Nguyễn Kỳ Phong chuyển ngữ vời tựa đề là Những ngày cuối cùng của VNCH, xuất bản năm 2003, để làm sáng tỏ và đính chính một số sai lầm, thiếu sót viết về ông và về Bộ Tổng Tham Mưu do ông điều khiển mà tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã viết trong quyển The Palace File xuất bản năm 1986 và ấn bản Việt ngữ tựa là Hồ sơ mật Dinh Độc Lập xuất bản năm 1987. Đa số độc giả cũng như chúng tôi không am tường các chuyện bí mật chính trị và quân sự, cho nên chuyện đúng hay sai là chuyện của các chuyên gia và nhà sử học, do đó khi chúng ta đọc những tài liệu loại nầy, chúng ta thường đọc bằng cảm tính qua văn phong của tác giả. Chúng ta có khuynh hướng nghiêng (tin)về người bị chỉ trích, bị hạ bệ và phản kháng (không tin) người dao to búa lớn, đại loại, tôi đã khuyên tổng thống chuyện nầy, can thiệp với ông đại sứ nọ... Đó là điều mà chúng tôi gọi là đem tâm tình đọc lịch sử. Ngoài việc viết thiếu trung thực lịch sử vì vô tình hay cố ý, một hiện tượng khác còn trầm trọng hơn là việc ngụy tạo tài liệu đã đưa độc giả đến những hiểu biết sai lệch mà điển hình là vụ quyển sách Saigon et moi của cựu đại sứ Pháp Jean-Marie Mérillon mà từ hàng chục năm nay, cứ đến tháng tư thì tái xuất hiện như một thứ «cá tháng tư» (poisson d’Avril). Nhiều sách báo đã phổ biến, trích dẫn «con cá tháng tư» này như chuyện thật. Cách đây một tháng, nhiều bạn hữu lại chuyển cho chúng tôi qua internet một bài đọc dưới dạng mp3 về một chương sách tưởng tượng trong quyển sách ngụy tạo Saigon et moi . Đại ý, Jean-Marie Mérillon đã dàn xếp được với Mặt Trận Giải Phóng để chấp nhận Dương Văn Minh thành lập một chánh phủ liên hiệp để thoát khỏi gọng kềm của CS miền Bắc nhưng Dương Văn Minh đã phản bội lời hứa, thay vì đi Trảng Bàng để gặp Trần Văn Trà trong toan tính này thì lại đầu hàng với hi vọng sự nhượng bộ này sẽ được CS tưởng thưởng. Ngoài ra, bài đọc (từ bài viết) còn có những chi tiết giựt gân, cảm động, đánh trúng cái khát vọng của người di tản không muốn VNCH chết một cách tức tửi và oán ghét những chánh khách bất tài, xôi thịt, hèn hạ. Tác giả của nguồn tin này (ông Vũ hải Hồ) cho là quyển sách xuất bản năm 1985, được ra mắt ở khách sạn La Fayette với sự chứng kiến của Tổng Thống Valéry Giscard d’Estaing và nhiều nhân vật chính trị quan trọng của Pháp, nhưng sau đó mấy ngày thì bị Bộ ngoại giao tịch thu. Lối giải thích quả tình phi lý vì chế độ kiểm duyệt sách báo ở các quốc gia Tây Phương là chuyện không có, còn chuyện thu hồi một quyển sách hồi ký đã xuất bản lại còn là chuyện thần thoại hơn. Ngoài ra, trong việc phát triển bộ sách tiếng Việt và sách ngoại ngữ viết về VN cho thư viện thành phố Montréal, chúng tôi có theo dõi trong nhiều năm thời ấy trong các thư mục các nhà xuất bản trên thế giới như Books in prints, Livres disponibles để mua cho thư viện, nhưng không hề thấy tên quyển sách này. Để chứng minh quyển Saigon et moi không có, GS Tiến sĩ Sử học Hoàng ngọc Thành và Bà Thân thị Nhân Đức trong tác phẩm «Những ngày cuối cùng của Ngô Đình Diệm», xuất bản năm 1994, nơi trang 622 và 623 (trang 574 ấn bản năm 1996, phụ bản trong ấn bản năm 1999) có nói rõ về vấn đề này. Nguyên là ông Hoàng Ngọc Thành khi sang Paris năm 1989 không tìm mua được quyển Saigon et moi, nên có liên lạc với ông Mérillon, lúc ấy làm đại sứ ở Moscou để hỏi rõ . Ông Mérillon đã phúc đáp GS Thành nguyên văn như sau: République Française Ambassade de France En URSS L’Ambassadeur Moscou le 12th November 1990 Dear Dr Thanh, Your letter of the 22nd October has just reached me. I was most touched by it and very pleased to hear from you. As far as the book «Saigon et moi» is concerned, I must make a point particularly clear. I did not write this book nor have I written any other about Vietnam; therefore the work that you are enquiring about is not mine. However, I am intrigued by this publication and should be glad to have any information relating to it. Should I visit California, I shall not fail to take advantage of your kind invitation to a Vietnamese dinner. Wishing your new book every success, I remain Yours sincerely, Jean- Marie Mérillon Khi viết biên khảo, các tác giả có khuynh hướng sử dụng những tài liệu trích dẫn từ những tài liệu tham khảo cấp hai hay cấp ba mà không phải từ tài liệu gốc. Sự sai lầm, nếu có, tuy đáng tiếc, nhưng vẫn có thể hiểu được vì lẽ chúng ta không thể có được trong tay tất cà các tài liệu. Tuy nhiên, khi đã biết một tài liệu ngụy tạo mà vẫn cố tình sử dụng vì một ý đồ, hành động nầy không thể nào nói khác hơn là một thứ bất lương trí thức. Đó là trường hợp bản dịch quyển « La mort du VietNam» của tướng Vanuxem của Dương Hiếu Nghĩa với tựa là «Nước Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử» (Nhà xb Đại Nam, 1997) có một phụ bản đặc biệt từ trang 194 đến trang 221 đăng lại từ tập san Đa Hiệu một chương sách ngụy tạo của Mérillon. Dịch giả đã có lời phi lộ như sau : "Không ai tìm thấy tung tích quyển sách này ở bất cứ thư viện nào ở Pháp, kể cả Thư viện Quốc Gia Pháp ở Paris. Cũng như sau nầy, chính ông Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển Saigon et moi hay bất cứ quyển nào khác viết về VN" (sđd, tr. 195). Đã biết như vậy mà vẫn tiếp tục phổ biến một tài liệu ngụy tạo, chúng tôi không hiểu tác giả có ngụ ý gì nếu không đã mất trí. Kết luận Hôm nay, đọc lại những tài liệu cũ về những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi không giữ được nỗi bàng hoàng nhớ lại nỗi kinh hoàng của những ngày quốc biến của 34 năm trước. Người đọc lịch sử, nhất là lịch sử của tổ quốc mình không thể vô tâm như người ngồi ở ga xe nhìn đoàn tàu đi qua, mà tùy theo cảnh ngộ, người đọc xúc động với biến cố hay suy nghĩ về biến cố. Chẳng phải là sử gia cũng không phải là chính trị gia, đa số người Việt ngoài nước lẫn trong nước đều cảm nhận nỗi bất hạnh của quê hương mình và dân tộc mình đã từ hơn một thế kỷ qua, luôn là mảnh đất để các cường quốc ngoại bang và các tập đoàn người Việt, nhân danh những khẩu hiệu giả ân giả nghĩa, đã thay phiên nhau xâu xé, thống trị và bốc lột một dân tộc không ngớt gánh chịu điêu linh. Nhưng nghĩ cho cùng, khi con người đã quá khổ đau, con người chỉ còn biết bám víu vào định mệnh. Nếu nước VN có một định mệnh thì định mệnh đã bắt VN của chúng ta gánh chịu quá nhiều bất hạnh từ 1945 đến nay mà cái bất hạnh lớn nhất, nguy hại nhất, là chiến tranh VN đã được điều khiển bởi một Kissenger ác cảm khinh miệt chế độ miền Nam và một tập đoàn chính trị miền Nam đa số bất tài, thối nát. Hôm nay, lần giở lại gần hai mươi quyển hồi ký và biên khảo tiếng Việt và ngoại ngữ trong kho tài liệu khổng lồ về chiến tranh VN, nếu chúng tôi được soi sáng và được lãnh hội nhiều sự kiện và nhận định ghi lại với sự trung thực và thành khẩn đáng được xem như những sử liệu giá trị qua vài biên khảo và hồi ký, chúng tôi lại cảm thấy bùng dậy nỗi bất bình với những trang giấy viết để ca tụng mình, phe nhóm mình, nhục mạ chiến hữu mình, phe nhóm đối lập với mình. Tác giả những thiên hồi ký khoác lác nầy đa số là những người đã vinh thân trong cuộc chiến, và giờ đây, họ vẫn không còn biết giữ được chút liêm sĩ còn sót lại để im tiếng, để yên cho những người may mắn thoát chết tiếp tục sống với nỗi đau gặm nhấm. Lịch sử sẽ phải thực sự được viết lại bởi những người viết sử công chính và những quyển hồi ký man trá nầy sẽ phải bị chôn sâu dưới nấm mồ của những tác giả đã đánh mất lương tri. Trong một cuộc mạn đạm với các bậc thức giả, chúng tôi có bày tỏ nỗi ưu tư là những người di tản thế hệ chúng ta không có cơ may đọc được một quyển chính sử viết về thời kỳ chúng ta đã sống. Một cụ già đã sang sảng trả lời : « Biết làm chi nhiều hơn cho thêm cay đắng. Chúng ta chỉ cần biết rõ ràng rằng chúng ta là nạn nhân của ba sự lừa dối và phản bội, thứ nhất là của đồng minh người Mỹ của chúng ta, thứ hai là của người lãnh đạo phe quốc gia chúng ta và thứ ba là của bọn Cộng Sản Việt Nam chúng ta ». Chúng tôi chỉ biết gục đầu thấm thía lời phẩn nộ nhưng không dám gật đầu chấp nhận thái độ buông tay. Chúng tôi vẫn tự hỏi, có thế nào lịch sử cận đại của một dân tộc đã phải hi sinh bao triệu người sẽ được viết bởi những kẻ lừa dối và phản bội ? LVB Sách tham khảo chính yếu - Bùi Diễm. Gọng kềm lịch sử. Paris : Cơ sở xb Phạm Quang Khai, 2000. (expanded version of The Jaws of History). - Cao Văn Viên. Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa, dịch từ The Final Colllapse bởi Nguyễn Kỳ Phong. – Centreville(Virginia) : Vietnambibliography, 2003. -Darcourt, Pierre. Vietnam, qu’as-tu fait de tes fils. -- Paris : Albatros, 1975. - Hoàng Đống. Niên biểu lịch sử VN, thời kỳ 1945-1975. -- California : Đại Nam, 2005. - Hoàng ngọc Thành & Thân thị Nhân Đức. Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (ấn bản lần thứ ba).-- San José : Quang Vinh, 1999. - Karnow Stanley. Vietnam : a history.--New York : Viking, 1983. - Kissenger, Henry, Ending the VN war.--New York : Simon&Schuster, 2003. - Lartéguy, Jean. L’adieu à Saigon. -- Paris : Presses de la Cité, 1975. - Lý Quý Chung, Hồi ký không tên. -- TpHCM: Nhà xb Trẻ, 2004. - Nesson, Ron. It sure looks different from the inside. -- Chicago : Playboy Press, 1978. - Nguyễn Bá Cẩn. Đất nước tôi. –San Jose : Hoa Hao Press, 2003. - Nguyễn Khắc Ngữ. Những ngày cuối cùng của VNCH. -- Montréal : Tủ sách Nghiên cứu Sử Địa, 1979. - Nguyễn Hữu An. Chiến trường mới. – Hanoi : Nxb Quân đội nhân dân, 2001. - Nguyễn Tiến Hưng. Khi đồng minh tháo chạy. – San Jose : Cơ sở xb Hứa Chấn Minh, 2005. - Nguyễn Tiến Hưng. Hồ sơ mật Dinh Độc Lập. - Snepp, Frank. Sauve qui peut.-- Paris : Éditions Balland, 1979 (dịch từ : Decent Interval.-- New York : Random House, 1977). - Terzani, Tiziano. La chute de Saigon, 30 avril 1975. – Paris : Fayard, 1977. - Todd, Olivier. La chute de Saigon : Cruel Avril. Paris : Laffont, 2005. - Trần Đông Phong. Việt Nam Cộng Hòa, 10 ngày cuối cùng. – California : Nam Việt, 2006. - Trần Văn Đôn. Việt Nam nhân chứng. -- California : Xuân Thu, 1989.
|
|
|
Post by vietnam on Jul 18, 2009 1:28:03 GMT -5
Maximilien Robespierre Phạm Văn Tuấn 09/06/2006 Robespierre là nhân vật Jacobin đã điều hành các chính sách. Sau này, nhiều người đã tố cáo Robespierre là kẻ độc tài, khát máu, mị dân... nhưng cũng có những người khác lại coi ông là một người lý tưởng, nhìn xa, một nhà ái quốc với mục đích dân chủ. Dù cho sự phê phán có sai biệt, song ai cũng công nhận ông ta là một người lương thiện, thanh liêm và có nhiệt tâm cách mạng, với từ tâm vào các năm đầu của cuộc Cách Mạng, trái hẳn với sự tàn ác và không nhân nhượng trong các năm về sau. Robespierre cũng là một người tin tưởng vào sự quan trọng của các đức tính (virtues) hay tinh thần công ích, không vụ lợi, vì ông cho rằng một nước Cộng Hòa phải gồm có các công dân tốt và lương thiện. Maximilien Robespierre (1758-94) sinh ngày 6 tháng 5 năm 1758 tại Arras, học Luật khoa tại Arras và Paris rồi hành nghề Luật Sư tại thành phố quê hương, nơi này ông nổi danh về khả năng trí thức và tính lương thiện. Ông đã từng cố gắng đòi hỏi hủy bỏ án tử hình và từ chối làm quan tòa tuyên cáo loại án đó. Robespierre là một người hâm mộ J. J. Rousseau và khi cuộc Cách Mạng Pháp xẩy ra, ông cho rằng đó là cơ hội để thiết lập nên một xã hội lý tưởng theo quan niệm của vị triết gia kể trên. Năm 1789, Robespierre được bầu làm đại biểu tại Hội Nghị các Giai Cấp rồi trở nên người lãnh đạo nhóm Jacobin. Robespierre cũng góp công vào việc tổ chức ra Công Xã Paris và với tài hùng biện, ông đã đòi hỏi phải xét xử Vua Louis 16 và hoàng hậu. Ông đã tuyên bố rằng "Nhà Vua phải chết để Đất Nước có thể sống" (Louis 16 must die that country may live). Chương trình cải cách của Robespierre thời đó là xóa bỏ tình trạng vô chính phủ, dẹp tan các xung đột trong xã hội, chống trả các công cuộc phản cách mạng trong nước và đánh thắng cuộc chiến tranh với các nước ngoài bằng cách động viên toàn dân và tất cả tài nguyên, rồi về sau mới thiết lập nên một định chế dân chủ, khởi đầu bằng việc lập hiến cho các giai cấp thấp kém. Hội Nghị Quốc Ước thời đó đã cho phép lập ra Ủy Ban An Toàn Công Cộng (the Committee of Public Safety) điều hành chính quyền. Ủy Ban này gồm có 12 người bầu lên mỗi tháng trong đó Robespierre là một nhân vật có nhiều ảnh hưởng, ngoài ra còn có George Danton, Jean Marat, St. Just, Couthon là người bị liệt một phần, Lazaire Carnot là một sĩ quan cách mạng Pháp... Trong tình trang khẩn trương đó, Ủy Ban An Toàn Công Cộng đã hoạt động như một nội các chiến tranh, một loại độc tài tập thể. Ủy Ban này đã cho phổ biến bản "Thông Báo Luật Pháp" (Bulletin des lois) qua đó đòi hỏi mọi người dân phải tuân theo các điều lệ. Ủy Ban cũng tập trung uyền hành vào trung ương đồng thời kêu gọi mọi người dân đầu quân qua bản văn kêu gọi "levée en masse" (động viên tập thể). Các nhà khoa học tài giỏi của nước Pháp thời đó cũng được mời đón giúp sức vào các công cuộc khảo cứu hữu ích, gồm có các nhà bác học Lagrange, Lavoisier, Lamark... Chính quyền thời đó cũng kiểm soát số lượng vàng xuất cảng, chặn đứng việc đầu cơ tích trữ, thực phẩm được phân phối qua Ủy Ban Đời Sống (Subsistence Commission) nhờ đó đồng tiền "assignat" không còn bị mất giá. Ủy Ban An Toàn Công Cộng cũng tin tưởng vào nền kinh tế thị trường tự do (free market economy), khuyến khích các nông dân làm ăn cá thể nhưng vào thời kỳ đó, chính quyền Pháp còn thiếu nhiều kỹ thuật và phương pháp quản trị kinh tế. Tháng 6 năm 1793, Ủy Ban kể trên đã đề nghị một bản Hiến Pháp Cộng Hòa theo đó có cuộc phổ thông đầu phiếu của nam giới, nhưng rồi bản Hiến Pháp này đã bị tạm hoãn vô hạn định. Các tập sách mỏng về nông nghiệp được Ủy Ban cho phổ biến để dạy cho nông dân cách trồng lúa hữu hiệu. Việc mở trường Quân Sự và chương trình giáo dục cưỡng bách là những chương trình hành động của Ủy Ban. Tới cuối năm 1793, Hội Nghị Quốc Ước lập ra một kế hoạch xóa bỏ Thiên Chúa Giáo (dechristianization) thay vào đó bằng việc tôn thờ một Đấng Thiêng Liêng (the Supreme Being), đây là một thứ tôn giáo tự nhiên thờ thần (a deistic natural religion), chấp nhận sự hiện hữu của Thượng Đế và sự vĩnh cửu của Linh Hồn. Để dẹp tan các kẻ chống lại Cách Mạng, Hội Nghị Quốc Ước và Ủy Ban An Toàn Công Cộng đã cho lập ra một cơ quan cảnh sát chính trị tối cao, gọi là Ủy Ban An Ninh Tổng Quát (the committee of General Security) có mục đích bảo vệ Nước Cộng Hòa, chống lại các kẻ nội thù. Ngày 17-9-1793, một đạo luật được thông qua cho phép nhóm Jacobin hay Ủy Ban An Ninh có quyền bắt giam bất cứ người nào bị nghi ngờ chống lại Cách Mạng. Vào mùa thu năm 1793, các kẻ cầm đầu nhóm quân phiệt "enragés" bị bắt và các tổ chức cách mạng của phụ nữ bắt đầu bị cấm đoán. Các nhân vật cực đoan như Jacques Hébert, vừa là một nhà báo, vừa là một thành viên của Công Xã Paris, đã bị Robespierre gọi là các kẻ "cực cách mạng" (ultra revolutionaries), một số người của bè nhóm này đã bị đưa lên máy chém. Tháng 3 năm 1794, Công Xã Paris bị giải tán rồi Robespierre chỉ định nhiều người trong nhóm của ông ta nắm giữ các cơ quan công quyền chủ yếu. Robespierre cũng khai trừ một số người thuộc cánh tả như George Danton và các kẻ phục tùng, kết tội họ là bất lương về tài chính và tiếp xúc với phe phản cách mạng. George Danton (1759-94) là một trong các nhà lãnh đạo của cuộc Cách Mạng Pháp và cũng là người đưa hàng ngàn kẻ chống đối lên máy chém. Danton sinh ngày 26-10-1759 tại Arais-sur-Aube, nước Pháp, là con của một luật sư. Từ thuở nhỏ, Danton đã có khả năng về hùng biện. Năm 1780, Daton lên Paris học Luật Khoa rồi tới năm 1787, lãnh chức Luật Sư tại Hội Đồng Hoàng Gia (the Royal Council). Năm 1790, Danton là sáng lập viên của Câu Lạc Bộ Cordeliers, một tổ chức của các nhà cách mạng quá khích. Năm sau, để tránh bị vây bắt, Danton phải chạy qua nước Anh rồi trở về Pháp và vào ngày 10-8-1792, ông đã lãnh đạo cuộc tấn công vào Điện Tuleries. Sau đó, Danton trở nên Bộ Trưởng Tư Pháp của chính phủ lâm thời. Do có tài hùng biện, Danton đã hô hào Hội Nghị Quốc Ước chống lại việc xâm lăng của quân Phổ và ông cũng là một trong các người bỏ phiếu kết án Vua Louis 16 và hoàng hậu. Trong thời kỳ khủng bố, Danton đã cùng với Jean Paul Marat và Robespierre điều hành Ủy Ban An Toàn Công Cộng. Chủ đích của Danton là sau khi chính quyền cách mạng đã ổn định, các cuộc ngoại xâm đã được đẩy lui và các nhóm bảo hoàng đã bị dẹp tan, cần phải phục hồi lại sự hòa dịu trong các chính sách cách mạng. Nhưng Danton đã bị Robespierre tố cáo là muốn phục hồi vương quyền và tham nhũng, nên bị bắt và chết trên máy chém vào ngày 5-4-1794. Dù sao George Danton vẫn được nhiều người coi là một trong các lãnh tụ có khả năng nhất và không vị kỷ. Trong thời kỳ Khủng Bố của nước Pháp từ năm 1793 tới năm 1794, vào khoảng 40,000 người đã bị giết, một số lớn khác bị cầm tù. Riêng tại thành phố Paris kể từ tháng 9-1793 tới tháng 6-1794, vào khoảng 2,500 người đã bị đưa lên máy chém guillotine. Ngày này qua ngày khác, lưỡi máy chém này không lúc nào ngừng rơi! Trong số các nạn nhân của các cuộc thanh trừng, 8 % thuộc giai cấp quý tộc, 14 % là giới tư sản, nhất là những kẻ nổi loạn tại miền Nam của nước Pháp, giới tu sĩ có 6 % nạn nhân trong khi hơn 70 % người bị giết là các nông dân và công nhân. Nước Cộng Hòa Pháp được đặt căn bản trên tinh thần của "Bản Tuyên Ngôn các Quyền Lợi của Con Người" nhưng các tàn sát trong thời kỳ khủng bố này lại rất vô nhân đạo và tại một vài nơi, đã cực kỳ tàn ác chẳng hạn tại miền Nantes, 2,000 người chống đối cách mạng đã bị đưa lên các con phà và nhận chìm ngoài khơi! Chiến thắng quân sự của nước Pháp, sự chán nản của dân chúng đối với việc phân phối thực phẩm của thời kỳ khủng bố, đối với cảnh tàn sát của nhóm người cực đoan do Robespierre lãnh đạo, nhất là sau cái chết của George Danton, các thành viên của Hội Nghị Quốc Ước bắt đầu lo ngại cho số phận của họ trước cảnh độc tài khát máu của Robespierre. Họ tự hỏi: "ngay cả một lãnh tụ của đảng Jacobin còn bị đưa lên máy chém thì ai trong chúng ta sẽ được an toàn?". Nhiều người đã nghi ngờ Robespierre muốn trở nên một kẻ độc tài. Ngày 27 tháng 7, Robespierre nói trước Hội nghị Quốc Ước, ông ta đã chỉ trích mọi công việc còn dang dở trong thời gian qua và đưa ra một danh sách ghi tên các kẻ phản bội đang muốn phá hủy Nền Cộng Hòa, và Robespierre cũng ám chỉ rằng một số kẻ này đang nằm ngay trong Hội Nghị Quốc Ước. Chính vào lúc này, một đại biểu ngồi phía sau trong phòng hội đã hô lớn: "Tôi đòi phải bắt giữ Robespierre". Cả phòng hội liền vang lên câu nói: "Đả đảo kẻ bạo quyền". Mặt Robespierre tái đi. Ông ta cố nói lớn nhưng giọng nói đã bị tiếng hô hoán của hội trường lấn át. Một đại biểu đã la lên: "Máu của Danton đã làm mày nghẹt giọng". Ngay sau đó, Hội nghị Quốc Ước đã đồng thanh bỏ phiếu bắt giữ Robespierre. Ngày 28 tháng 7 năm 1794 (tức là ngày 8 tháng Thermidor), Robespierre và đồng bọn 22 người đã bị chặt đầu trên máy chém guillotine.
|
|
|
Post by vietnam on Jul 18, 2009 1:37:45 GMT -5
Jean Jacques Rousseau Từ Vũ 24 tháng 12/2004 Jean Jacques Rousseau (1712-1778) Cuộc đời của Rousseau được chúng ta biết nhờ vào những tác phẩm tự thuật phong phú của ông để lại trong đó tác phẩm nổi tiếng nhất vẫn là Les Confessions - những lời thú nhận . Khởi sự viết từ năm 1664, tác phẩm này có chủ đích mang lại cho người đọc những hình ảnh thực sự về tác giả và cũng để phản ứng lại với nhũng lời cáo buộc của những người đối kháng ông. Rousseau nghĩ và rảo bước đi, để tư tưởng của ông tự nẩy sinh theo cảnh trí bên đường, những suy nghĩ của ông kết cấu, phối hợp để trực diện với xã hội mà ông đang trốn chạy, đang kiếm tìm miên viễn, một ngơi nghĩ không thể có được trong ông ; Tâm thần ông nhạy cảm, bốc lửa , đam mê, nghiêm khắc và thượng võ, ông chỉ có thể đề nghị với thế giới này không gì khác hơn là một đọan tuyệt toàn diện, Jean-Jacques Rousseau đã bị từ khước và bị đuổi dồn về với chính cái tôi (le moi),với nước mắt và với đức tính khắc khổ của ông. Tại Genève, một nước cộng hoà độc lập của những người công dân khắc khổ, theo chủ nghĩa calvin, hãnh diện với những đặc quyền mà họ được hưởng Jean-Jacques Rousseau ra chào đời ngày 28 tháng 6 năm 1712 trong thanh âm của những tiếng nhạc, những nhịp điệu bởi người cha, Isaac, một thợ đồng hồ, nhạc sĩ vĩ cầm, giáo sư dạy nhẩy và dưới sự nhạy cảm nhưng bi thương từ người mẹ, Suzanne, qua đời chỉ mấy ngày (7-7-1712) sau vì đã sinh ra ông. Cậu bé Jean-Jacques khôi ngô đó giúp cập cha cậu trong việc thờ phụng người mẹ đã mất . Cũng với cha, cậu tập đọc hầu hết bằng những quyển tiểu thuyết của người cha cho đến một ngày Isaac, cha cậu buộc lòng phải trốn khỏi Genève đến ẩn lánh tại Nyon sau một trận đấu kiếm làm cho đối thủ bị thương mà cũng không thể dẫn con trai theo được. NHỮNG TRỐN CHẠY VÀ NHỮNG HÀNH TRÌNH Năm 10 tuổi J.J Rousseau được ủy thác cho người em rể cuả cha cậu, Gabriel Bernard . Jean-Jacques và người em họ, Abraham Bernard, trạc lứa tuổi, đã được gởi trọ học tại nhà muc sư Jean-Jacques Lambercier tại Bossey, một làng nhỏ gần Genève, vị mục sư Lambercier với sự bất công sau đó cậu trở về Genève và được gởi đến học việc tại nhà một ông mõ toà nhưng cũng chẳng không bao lâu (1725) J.J. Rousseau được gởi đến học việc tại nhà một người thợ khắc cục cằn, bất công tên là Abel Ducommun. Ngày đó , chủ nhật 14-3-1728, sau một buổi mải dạo chơi vớí những người bạn đồng lứa nên lúc trở về nhà người thợ khắc thì cổng thành đã đóng. Sợ bị trừng phạt như mọi lần, loay hoay, lang thang và mấy ngày sau đó đến Confignon tìm gặp một vị linh mục tại đây, Benoît de Pontverre tạm trú, vị linh mục này đã thuyết giảng về những lợi ích của đạo thiên chúa với Rousseau và cho cậu địa chỉ một người đàn bà nhân từ cư ngụ tại tỉnh Annecy kèm theo lá thư gởi gắm. Bà De Warens tên thật là Françoise Louise de la Tour, lấy chồng vào năm 14 tuổi vào năm 1726 hai người đã bỏ nhau. Sau khi cải đạo thiên chúa bà đã được vua Sardaigne, Victor Amédée trợ cấp . Theo lời khuyên của người đàn bà trẻ này, Jean Jacques Rousseau rời Annecy ngày 24 -3 đi bộ đến Turin, một thành phố tại Ý, ngày 12- 4 -1728 trình diện tại nhà trú Spirito Santo dành cho những người học kinh để được làm lễ rửa tội, tại đây cậu bé Rousseau vội vã học, chỉ 11 ngày sau cậu đã được rửa tội vào đạo vào ngày 23-4-1728 (một thời gian kỷ lục). Ngay khi rửa tội xong J. Jacques đã phải đi tìm việc làm, cậu nhận một chân làm người giúp việc tại nhà bà De Vercellis nhưng chỉ ít lâu sau bà De Vercellis mất. Sau mấy tuần lễ lang thang tìm việc, J. Jacques vào làm cho công tước De Gouvon, nhưng cũng vài tháng sau J.J. Rousseau quyết định trở về Annecy cùng với một người bạn khi học khắc ở Genève. JEAN JACQUES ROUSSEAU GẶP LẠI BÀ DE WARENS Trở lại Annecy và được bà De Warens nồng nhiệt tiếp đón cho lưu ngụ trong nhà bà. "Petit" em bé, tên bà De Warens gọi Jean Jacques và J. Jacques gọi người đàn bà trẻ này là "maman". Thời gian sống bên cạnh bà De Warens đã là một giai đoạn hạnh phúc thật sự của Jean Jacques với những buổi đi dạo giữa phong cảnh thiên nhiên, những giấc mơ, một vài thú ăn chơi của thượng lưu xã hội. Jean Jacques được tập tành những phong cách ăn nói, cử chỉ của giới trưởng giả này trong những buổi ăn tối. Jean Jacques cũng thử vào một chủng viện với ý định sẽ đi tu nhưng được hai tháng sau cậu từ bỏ để ghi tên theo học âm nhạc ở giáo đường Annecy. XÚC ĐỘNG ĐẦU TIÊN TRONG TÌNH YÊU Năm 18 tuổi, Jean Jacques sực thức tỉnh trước những quyến rũ của phái nữ và khởi sự việc ''giáo dục tình cảm'' của cậu. Suốt mùa hè năm 1730, mối diễm tình với những trái anh đào của cậu và 2 ngươì con gái con nhà giầu nghỉ hè học cải đạo như cậu, cô Galley và cô De Graffenried gọi hỏi cậu trong lúc Jean Jacques đang một mình đi thả bộ, các cô cũng đang trong một ngày nghỉ cô đơn tại Manoir de la Tour trong địa phận Thônes. Cậu trai trẻ Jean Jacques giúp họ vượt sông và cả ba vui chơi trong một ngày thật đẹp trời đó: họ vui đùa thật nhiều khi hái những trái anh đào đỏ rực sau buổi ăn trưa trên bãi cỏ. Từ trên cao của cây anh đào, Jean Jacques đùa giỡn liệng xuống những nhánh anh đào trĩu trái vào ngực áo người cậu thích nhất, hãy đọc những giòng chữ đã được J.J. Rousseau viết trong Les Confessions - Những lời thú tội - "Tôi leo lên cây để ném xuống hai cô đó những nhánh trái cây và họ cũng ném tôi qua những nhánh cây bằng những hột trái anh đào. Có một lần cô Galley đưa tấm tạp dề về đàng trước, niểng đầu lại phía sau và tôi nhắm đúng đến độ tôi đã ném một chùm trái cây trúng ngay vú cô để cười phá lên. Tôi tự nhủ : phải chăng những trái anh đào không là đôi môi tôi! cũng như tôi đã ném gởi thật nồng nhiệt ". Sau này Jean Jacques yêu cô Galley nhưng tình yêu đã không thành. Bà De Warens đang ở Paris, Merceret, cô bồi phòng của bà yêu Jean Jacques, nàng đề nghị với chàng trai trẻ cùng về thăm cha mẹ nàng tại Fribourg, 2 người đi bộ, trên đường Fribourg, cả hai ngừng chân ghé Nyon vào thăm ông Isaac, cha cậu Jean Jacques. Người cha đã lấy vợ khác, Jeanne Françoise, bà ta không lấy gì hài lòng khi Jean Jacques ghé thăm, phần nữa, cha cậu ta cũng không ưng thuận về chuyện cậu con thay đổi tôn giáo và lang thang giang hồ. Rời khỏi Fribourg, Jean Jacques khởi sự du hành theo hứng thú của cậu bằng cách dạy kèm âm nhạc để mưu sinh. Cậu đến Vevey - Lausanne, nơi chôn nhau cắt rốn của bà De Warens, đến Neuchâtel, Boudry, Berne, Soleure, năm 1731 tại Soleure, Jean Jacques được sự giới thiệu đi Paris với hy vọng sẽ được làm một chân ''aide de camp'' cho một người cháu trai của đại tá thụy sĩ Gaudard nhưng Jean Jacques đã hoàn toàn thất vọng bởi người ta chỉ xem cậu như một kẻ hầu hạ. Được tin bà De Warens đến Lyon, cậu thanh niên trẻ tự do này đã cấp thời đi bộ qua Auxerre đến Lyon nơi đây cậu đến nhà tu Chazeaux gặp cô Châtelet, một người bạn của bà De Warens hỏi thăm tin tức nhưng không được, cậu đành phải ngủ ngoài trời bên cạnh giòng sông Saône. Trong "Les Confessions" Jean Jacques Rousseau đã kể lại thú vị khi cậu được thở hít không khí trong mát, ngắm mặt trời lặn và nghe tiếng chim hót. ĐƯỢC BÀ DE WARENS THA THỨ… Cuối cùng bà De Warens cũng cho chàng trai trẻ Jean Jacques biết tin tức cùng sự tha thứ về chuyện cậu bỏ trốn, bà gởi tiền lộ phí để cậu đến với bà. Jean Jacques lại đi bộ vượt núi đến Chambéry nơi bà De Warens đang cư trú vào mùa thu năm 1731, năm này cậu cũng đã được 19 tuổi. Tại Chambéry, Jean Jacques ở tại nhà bà De Warens, bà cũng vận động cho cậu làm việc tại sở địa bạ nhưng nghề này cũng chẳng thích hợp với cậu nên tháng 7-1732 cậu đã thôi việc để đi dạy âm nhạc lấy tiền thù lao. Chàng trai trẻ Jean Jacques ước ao được hoàn chỉnh nghệ thuật âm nhạc của cậu và được sự hỗ trợ của "maman", kết quả Jean Jacques được đến Besançon để học nhạc với cha Blanchard. Trở lại Chambéry, Jean Jacques được coi như là một thầy dạy nhạc giỏi ở thành phố này, rất nhiều học trò đến theo học, hiển nhiên trong đó có những cô gái dậy thì xinh xắn, một trong những cô đó, Péronne Lard, con gái của một người bán thực phẩm khô, để ý đến người thầy trẻ tuổi tài cao này. Cho đến nay, Bà De Warens vẫn chỉ trong vị trí là "một bà mẹ tốt" và "rất mềm mỏng" của Jean Jacques đã nẩy ra ý nghĩ… đối xử với cậu như một người đàn ông…Thế là mùa thu năm 1733 trong vườn hoa Faubourg nơi một quán rượu ngoài trời, Jean Jacques đã trở thành… người tình của bà De Warens. RÈN LUYỆN TÌNH CẢM CỦA JEAN JACQUES Người đàn bà xinh đẹp 34 tuổi này muốn bổ sung giáo dục cho cậu trai trẻ đam mê , nhạy cảm và lãng mạn 21 tuổi này nhưng bà De Warens lại có một ông ''bồ'' cũng là một người làm việc trong nhà bà, Claude Adnet 40 tuổi. Tuy nhiên chuyện yêu đương tay ba này cũng diễn ra thật êm thấm trong căn nhà tại Chambéry cho đến tháng 3-1734 khi Claude Adnet chết đột ngột vì bệnh viêm màng phổi. Từ đó Jean Jacques phải đảm trách nhiệm vụ quản gia cho "một bà De Warens khó tính", cậu phải đi đó đi đây nhưng bà De Warens cũng cho phép cậu được học và giới thiệu cho cậu hôi nhập giới có học thức nhờ vậy cậu cải tiến được môn triết học với M. de Conzié và những môn học khác như Latin, âm nhạc, vật lý, hình học, thực vật học. ''LES CHARMETTES'', NIỀM HẠNH PHÚC CỦA JEAN JACQUES Hè 1736, lần đầu tiên dọn đến ở tại thung lũng Charmettes, trong một ngôi nhà nhỏ sau đó được trao đổi để lấy một cơ ngôi đối diện và trở thành nổi tiếng với tên ''Les Charmettes'', ngày tháng ở đây Jean-Jacques Rousseau đã biết được thế nào là hạnh phúc "nơi đây khởi đầu một hạnh phúc ngắn ngủi của cuộc đời tôi, nơi đây những thanh bình đến rồi cũng thoáng trôi qua nhanh nhưng nó cũng cho phép tôi được quyền nói rằng tôi đã được sống". Trong ngoại cảnh quyến rũ đó, Jean Jacques khởi sự khám phá thiên nhiên, thực hành âm nhạc, đọc sách và sưu tập cây cỏ bao quanh bởi những vị khách uyên bác ngoài ra còn những buổi thả bộ và những giây phút chia sẻ với bà De Warens, tất cả phủ tràn hạnh phúc. Jean Jacques muốn thời gian ngừng lại "maman, maman" tôi nói với bà ta bằng tất cả nỗi đam mê, "ngày này là ngày đã hưá hẹn với tôi từ rất lâu và tôi không còn ao ước gì hơn nữa". Hạnh phúc của tôi nhờ bà mà có, chỉ xin rằng nó sẽ không bị suy tàn từ nay trở về sau . Mùa đông đến, hai người bịn rịn tạm biệt ''Chamettes'' để trở về Chambéry . KHỞI ĐẦU SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG CỦA J.J.ROUSSEAU Xuân 1737 mới chỉ chớm về họ đã vội dìu dắt nhau trở lại thiên đường nhỏ đó để được sống hạnh phúc với những buổi bách bộ thật lâu, những cuộc đi chơi thú vị, những cuộc họp về thực vật học. ''Les Charmettes'' cũng là nơi J.J. Rousseau khởi sự viết, đầu tiên để trả lời cho một hồi ký vô danh với tựa đề "Nếu thế giới mà chúng ta đang cư ngụ là một hình cầu ". Jean Jacques công bố quyền sách đầu tiên gởi cho người bạn gái của chàng ta " Vườn cây ăn trái của bà nam tước De Warens "-Le verger de Madame la baronne de Warens-.một bài thơ ca ngợi vẻ quyến rũ của thôn quê, lòng từ thiện của người đàn bà trẻ đẹp đã che chở chàng ta và sự hạnh phúc được học hỏi . Tháng 6, tờ Mercure de France ấn hành một bài hát ''Phổ nhạc bởi ông Rousseau '' Nơi đây Jean Jacques và bà De Warens được gần gũi nhau nhiều hơn qua những công việc nho nhỏ : trồng rau, săn sóc vườn cây trái, chăn gà chăn ngỗng… Jean-Jacques thức dậy sớm đi bách bộ trên triền đồi nhìn xuống thung lũng, từ xa nhìn chừng về hai cánh cửa sổ phòng "maman". " Khi tôi thấy cánh gỗ che gíó ngoài cửa sổ mở, tôi đã run rẩy niềm vui và tôi chạy vội về… Tôi sẽ ôm choàng bà khi bà còn chập chờn ngủ trong giường …". Họ đã thật sự gần gũi nhau như chưa bao giờ có được trong mối tương quan của họ kể ngay cả về sau này. Tháng 7-1737Jean-Jacques được đúng 25 tuổi, chàng trai cất bước đến Genève lẩy phần thừa kế của mẹ cậu khi mất đã để lại (khoảng 6500 florins). Cậu đã hớn hở đưa tặng bà De Warens 300 livres để biểu lộ lòng biết ơn của cậu đối với những nghĩa cử mà người đàn bà trẻ đẹp này đã dành cho cậu (Điều cần biết : Rousseau trong một chúc thư đã nhìn nhận rằng có thiếu nợ bà De Warens một số tiền là 2.000 livres Savoie '' về tiền ăn cơm tháng, ở nhà trọ, tiền quần áo…'' số tiền mà ông cam kết trả. CUỘC PHIÊU LƯU KHÔNG NGỜ TRÊN ĐƯỜNG ĐI MONTPELLIER Đột ngột sức khỏe của Jean Jacques bị biến đổi, như ''một loại bão tố'' nổi lên trong máu kèm theo một ''tiếng chấn động dữ dội'' đã làm cho Jean Jacques vĩnh viễn bị bệnh nặng tai. Một ngày đó trong tháng 9-1737, nghĩ rằng mình đã bị một chứng bệnh về tim, Jean Jacques quyết định đi khám nơi một bác sĩ chuyên môn tại tỉnh Monpellier. Trên lộ trình, chàng trai trẻ đã làm quen với bà De Larnage, một người đàn bà duyên dáng cũng đi du lịch, với bà mẹ gia đình này chàng trai đã khám phá một tình yêu đam mê, điên cuồng suốt 5 ngày tại Valence và Montélimar Tháng 3-1738, Rousseau trở về Chambéry để thất vọng và hiểu được rằng những ngày hạnh phúc cũ đã chỉ là quá khứ : bà De Warens có người yêu mới, De Courtilles. Bà De Warens cũng làm mọi cách để cho chàng trai trẻ hiểu rằng cậu ta vẫn có những quyền hạn như cũ nhưng hiển nhiên sự liên hệ đầm ấm ngày trước cũng lạnh nhạt hơn, một cuộc tình tay ba lại tái diễn. Cảnh huống đó không thể làm Jean Jacques vui sướng lắm, trong suốt 2 năm chàng trai trẻ thường luôn sống cô độc tại Les Chamettes nhưng cũng chính 2 năm này lại giúp cho việc học tập của chàng ta phát triển phong phú hơn : Sáng tạo một phương pháp đọc về những nhà tư tưởng và những triết gia, nghiên cứu lịch sử và toàn bộ Virgile bằng chữ Latin, điền những tập thiên văn, địa lý, sọan thảo bài giảng về hình học, cuối cùng là luyện tập âm nhạc và khởi sự sáng tác hồi thứ 1 của một vở nhạc kịch, Iphis, phỏng theo Ovide. Ở đây chúng ta đang được tham dự vào sự khởi thủy của những ý tưởng lớn trên đó sẽ được đúc kết những hệ thống và nguyên tắc triết lý, đạo đức thể hiện trong các tác phẩm của Jean Jacques Rousseau. MỘT NGHỀ MỚI : GIA SƯ TẠI LYON Mùa Xuân 1740, Jean Jacques quyết định thay đổi cuộc sống. Đầy ắp tham vọng, chàng ta gởi đến ông De Mably, tổng hiến binh trưởng tỉnh Lyon, một bức thư hãnh diện tự giới thiệu để xin đảm nhận trách vụ gia sư. Một ngạc nhiên lý thú, chàng ta đã được chấp thuận với số lương là 350 livres cố định và 50 livres quà thưởng tết. Ông De Mably có 2 cậu con trai, một cậu thì cởi mở, nhanh lẹ nhưng khờ khạo và cậu thứ hai hơi ngốc nhưng bướng bỉnh. Phần thì không có kinh nghiêm,phần thì bản tính hồn nhiên với trẻ con vì thế thành quả cũng không đạt được nhiều so với những nguyên tắc sư phạm của chính Rousseau đề ra, tuy nhiên kinh nghiệm tại Lyon này lại rất quan trọng cho sự huấn luyện về con người và cho tác phẩm tương lai cuả ông. Rousseau đã gần đến thời hạn chấm dứt nhiệm vụ gia sư, chàng ta soan thảo một bản báo cáo trình gởi ông De Mably để bày tỏ những nguyên tắc giáo dục của chàng và sự áp dụng vào hai cậu học trò. Trong báo cáo đề cập đến những chủ đề tương lai khai sinh vào năm 1762 trong Émile hay Traité de l'éducation -''chuyên luận về giáo dục ''. Bản chất và đức tính cho sự giáo dục cũng hiện diện trong bản báo cáo này. Không thoải mái lắm với nghề gia sư, Jean-Jacques nghỉ việc vào mùa xuân 1741, quay trở về Chambéry với hy vọng được bà De Warens niềm nở đón tiếp, ''mais je venais rechercher le passé qui n'était plus et qui ne pouvait renaître. A peine eus-je resté demi-heure avec elle que je sentis mon ancien bonheur mort pour toujours." - tôi đến tìm lại quá khứ nhưng nó đã không còn và cũng không thể sống lại được nữa. Chỉ vừa ở lại nửa giờ với bà ta tôi đã nhận thức được rằng hạnh phúc cũ của tôi đã vĩnh viễn chết . Jean-Jacques quay lại Lyon, đến gập ông De Mably xin một bức thư gởi gấm để đi Paris. CHINH PHỤC PARIS Đến Paris, Rousseau cư ngụ tại một khách sạn đường Cordier gần Sorbonne và quảng trường nhôn nhịp tại đó. Nhờ sự giao thiệp rộng rãi của linh mục De Mably, Jean Jacques được giới thiệu với nhà vật lý học nổi tiếng Réamur, vị này đã đưa ông vào Hàn Lâm Viện Khoa Học để đệ trình bản khóa luận một dự thảo mới về cách ghi chép nốt nhạc của Jean Jacques. Buổi sáng, Jean Jacques dạo bộ trong vườn Luxembourg, đọc sách và học những tác phẩm của Virgile hay thơ của Jean Baptiste Rousseau. Buổi chiều, cậu lui tới những nơi tụ họp của giới văn chương nhất là những bạn hữu của Marivaux. Tháng 8 năm 1742, Jean Jacques khám phá ra kịch nghệ của Voltaire qua kịch bản Mahomet. Hệ thống ghi nốt nhạc mới của Jean Jacques đã được những ủy viên của Hàn Lâm Viện Khoa Học khen ngợi và khích lệ qua bản báo cáo ngày 5-9-1742 nhưng họ không cho rằng phương pháp mới của Jean Jacques tốt hơn là phương pháp hiện đang có. Chàng trai trẻ chịu đựng sự thất bại này một cách khá can đảm và đã cho công bố tiếp theo đó "Bài nghị luận về âm nhạc hiện đại" - Dissertation sur la musique moderne . Cậu cũng sáng tác Les muses galantes phỏng theo Indes galantes của Rameau. BÀ DUPIN KHÔNG CHẤP NHẬN LỜI TỎ TÌNH CỦA JEAN JACQUES Vào thời kỳ này, Jean Jacques được các phòng tiếp tân có tiếng của xã hội thượng lưu tại Paris chấp nhận như một thành viên , trong đó có phòng tiếp tân của bà Dupin, một người đàn bà tinh anh và đẹp, vợ thứ hai của Tướng Dupin. Rousseau quyến rũ và đã tỏ tình qua một bức thư, bức thư này bị trả lại một cách thật lạnh lùng chỉ 3 ngày sau khi gởi. ROUSSEAU VÀO LÀM VIỆC TRONG NGỌAI GIAO ĐOÀN Người ta đưa cho Rousseau 20 đồng Louis làm tiền lộ phí, Rousseau rời Paris đi Venise ngày 10 tháng 7-1743. Trước tiên, ghé Marseille, Jean Jacques ở lại đây 5 ngày, sau đó đến Gênes rồi từ Gênes, qua ngả Milan, Padoue và Véronne, đến Đại Sứ Quán Pháp tại Venise ngày 4 tháng 9-1743. Rousseau viết một bức thư xin lỗi bà Dupin kèm theo thư là ký ức viết về sự giáo dục trong giai đoạn Jean Jacques làm việc với M. de Mably. Jean Jacques cũng viết cho chồng bà Dupin để xin được tha thứ về chuyện đã xẩy ra. Cả hai vợ chồng Dupin đã tha lỗi cho Jean Jacques và sau này đã gởi gấm cho Jean Jacques trông nom trong một thời gian ngắn cậu con trai 13 tuổi của họ . NHÀ NGOẠI GIAO ROUSSEAU KHÁM PHÁ MỘT NƯỚC CỘNG HÒA MỚI Vensie đã đóng một vị trí quyết định trong tư tưởng của Rousseau và ảnh hưởng trong mọi tác phẩm chính trị của ông. Vừa sau khi tới, Rousseau đã thân cận với chính quyền Venise dưới sự phối hợp của vị thống lãnh cộng hòa Pietro Grimani (chịu trách nhiệm từ năm 1741 đến 1752) hỗ trợ bởi Hội Đồng Thứ yếu (Hành Pháp) và Hội Đồng Chính yếu bao gồm 500 vị đại diện nhân dân Venise. Rousseau tự tìm hiểu, phân tích sự vận hành trong guồng máy hành chánh của nước cộng hoà này so sánh với Genève. Rousseau ý thức được vai trò của chính trị trong đời sống tại thành phố này và cũng từ đó nảy sinh ra ý niệm cho một tác phẩm lớn cho những thể chế chính trị được phát biểu trong tác phẩm Contrat Social - ''Hợp Đồng Xã Hội ''. Mỗi ngày thứ bảy, với tư cách thư ký riêng của Đại sứ , Rousseau biên soạn một bức công hàm dài gởi cho nhà vua. Ông cũng trao đổi thư tín thường xuyên với hầu hết những đại sứ quán Âu Châu khác. MỘT VỊ ĐẠI SỨ KHÔNG DỄ CHỊU GÌ Rousseau cư ngụ tại lâu đài Surian, trụ sở của đại sứ quán Pháp trong những đòi hỏi làm ông không hài lòng đặc biệt với M. de Montaigu, vị đại sứ , một người thích nghỉ ngơi rong chơi hơn là làm việc. Những bất đồng ngày càng gia tăng giữa vị đại sứ và người thư ký riêng để cuối cùng Rousseau bị cho thôi việc mà không được trả lương. Tức giận, Rousseau rời Venise và nhất quyết làm cho ra lẽ và sau những vận động, ông đã đạt được những đòi hỏi mong muốn cho sự bất công này. Trong thời gian ngắn tại Venise, Jean Jacques thường hiện diện trong những buổi hòa nhạc, đặc biệt với gia đình Mendicanti trong những buổi dạ nhạc hàng tuần do những người này tổ chức. Jean Jacques đã khám phá ra được âm nhạc đích thực của nước Ý và những bài hát của nhà thờ. ''Không có gì khoái lạc, không có gì cảm động bằng lọai âm nhạc này ''. Rất có thể , cũng chính trong giai đoạn này, hình thành ý tưởng cho việc biên soạn La Lettre sur la musique Française mà Rousseau đã cho xuất hiện vào năm 1753 và đã gây chấn động trong giới trí thức tại Paris và tại triều đình Pháp, nơi mà Vua và Hoàng Hậu với những ý kiến bất đồng về vấn đề này. PHẦN THỨ BA NHẠC CỦA ROUSSEAU ĐƯỢC QUẦN CHÚNG ƯA CHUỘNG Sau một chuyến du lịch dài dẫn Rousseau đến Sion, Nyon, Lyon, Rousseau đến Paris vào ngày 10-10-1744. Sau một thời gian ngưng hoạt động, Rousseau bắt tay vào công việc để hoàn tất " Les Muses Galantes " mà ông đã cho ra mắt tại Pouplinière, sau đó với công tước De Richelieu và sau cùng tại rạp Opéra. Năm 1745, Rousseau được Voltaire (1) ủy thác việc tu chỉnh lại " La Princesse de Navarre " mà Rameau đã soạn phần âm nhạc để sau đó trở thành " Les Fêtes de Ramire ". Rameau ghen tức ngầm phá hoại cuộc biểu diễn trong sự buồn rầu của Rousseau. ROUSSEAU ĐỊNH CƯ TẠI PARIS Rousseau tham dự một cách triệt để vào đời sống văn học nghệ thuật của Paris và thường xuyên tham dự vào các cuộc biểu diễn hoặc tại các quán cà phê nơi tập trung giới văn nghệ sĩ. Rousseau tạm cư tại khách sạn St-Quentin. Nơi đây, ông đã giao tiếp với cô Thérèse Lavasseur. Cô này, rất ân cần chăm sóc cho Rousseau trong một dịp mà Rousseau bị lâm bệnh.Thérèse đã cho chào đời một đứa bé vào mùa đông năm 1746-47, đứa bé này sau đó đã bị giao cho viện mồ côi. Ngay từ tháng 7 năm 1745, Rousseau và Thérèse dọn về ở chung tại một căn hộ tại đường Saint Denis, rất gần nhà hát Opéra. Rousseau thường xuyên gập gỡ Condillac, người đang soạn " Essai sur l'Origine des Connaissance Humaines " - tiểu luận về nguồn gốc những nhận thức của con người -. MỘT VIỆC LÀM MỚI ĐẦY LÝ THÚ Rousseau nhận lời mời đảm nhận công việc làm thư ký riêng cho bà Dupin. Ông viết rất nhiều theo lời đọc của bà Dupin , đặc biệt trong một tác phẩm nói về đàn bà và một lập luận bác bỏ tư tưởng luật lệ của Montesquieu. Rousseau thân thiện với người con rể của bà Dupin và cùng với anh chàng này, soạn thảo một cuốn sưu tập " Des Institutions Chimiques ". Rousseau thường làm việc tại lâu đài Chenonceaux, tài sản của gia đình Dupin. Ông tạo ra vở hài kịch "L'engagement téméraire ", những triô cho giọng hát đàn ông và một phần bằng thơ "L'allée de Sylvie ". DIDEROT YÊU CẦU ROUSSEAU GIÚP SOẠN THẢO ENCYCLOPEDIE (BÁCH KHOA TOÀN THƯ) Diderot (2) và D'Alembert thực hiện xuất bản một bộ tự điển bách khoa toàn thư về khoa học và nghệ thuật. Cả hai đã khẩn khoản yêu cầu Rousseau soạn thảo phần âm nhạc. Jean Jacques rất vui được tiếp tay với họ và tích cực soạn thảo một loạt bài chuyên môn mà sau này Rousseau đã rút ra để hoàn thành quyển " Dictionnaire sur la musique " - tự điển về âm nhạc " của ông. Cũng trong thời gian này,Jean Jacques làm quen với bà D'Epinay người sẽ trở nên một nữ ân nhân của Rousseau về sau này tại Montmorency. NỔI TIẾNG BẤT NGỜ Rousseau bỗng thình lình trở thành nổi tiếng vào năm 1750. Sau khi đọc trong Mercure de France , Viện Hàn Lâm Dijon đề nghị, với đề tài , một câu hỏi để hiểu được rằng sự khôi phục của khoa học và nghệ thuật đã cống hiến vào sự thuần khiết của phong tục. Với sự khích lệ của Diderot, Rousseau đã gởi một khoá luận minh xác rằng con người, khởi nguyên tốt, nhưng đã bị làm hư hỏng bởi xã hội. Viên đá nền tảng của sự nghiệp Rousseau đã được đặt. Sau này, luận cương này đã được khai triển để trở thành "Contrat Social " , vai trò của xã hội và " Emile ", vai trò của giáo dục. Bản khóa luận này đã làm cho người ta tranh cãi, bàn thảo rất nhiều trong giới trí thức Paris vào thời đó. VUA VÀ HOÀNG HẬU PHÁP HÂM MỘ "LE DEVIN DU VILLAGE" Ngay sau những thành quả đầu tiên, Rousseau muốn lui ra ngoài những trọng vọng của mọi người. Ông từ chối chức vụ đảm trách ngân khố cho gia đình Dupin. " Quyết định được độc lập cho dù nghèo nàn trong thời gian ngắn còn lại của tôi...từ việc quản trị tiền bạc tôi trở thành người chép nhạc ". Rousseau làm việc rất vất vả để hoàn tất " Devin du Village " . Vào 2 ngày 18 và 24 tháng 10 năm 1752, trước vua Louis XV và hoàng hậu tại Fontainebleau, ông đã " chiến thắng " Sau đó tại nhà hát lớn Opéra của Paris, tại Bellevue và tại Trianon. Bà nữ hầu tước De Pompadour (3) đã thủ diễn vai Colette trong vở kịch này. " Narcisse" không được sự hâm mộ của Comédie Française. Vào thời kỳ này, Rousseau tham dự rất tích cực vào đời sống của Paris, Opéra, Bouffons và Comédie Française. Ngày 1 tháng 7 năm 1753, ông xem " Zaïre " của Voltaire. Vào tháng 11 cùng năm, " Bérénice " của Racine cùng với D'Alembert. Nhờ vào một người bạn, kịch sĩ J.R.Sauvé de Lanoue, Rousseau đã được dịp chính ông dựng lên vở kịch Narcisse tại Théâtre Français vào ngày 28-12 nhưng vở kịch không được thành công như ý ông mong muốn. " THƯ VIẾT VỀ ÂM NHẠC PHÁP " Một bài viết quan trọng xuất hiện vào tháng 11 năm 1753 và đã cũng cố cho sự nổ tiếng của Rousseau, đó là " Lettre sur la musique française " của ông, với sự dứt khoát của ông trong vị trí bênh vực nền âm nhạc Ý đối chọi lại với nền âm nhạc Pháp. Ông tuyên bố rằng " người Pháp chẳng có một chút nào gọi là âm nhạcvà chẳng thể nào có được...". Bài viết này, được sự ủng hộ cũa giới trí thức, đã làm chia rẽ ý kiến của cả triều đình Pháp, Rousseau bị chỉ trích bởi Vua nhưng lại được hoàng hậu chuẩn y. Thái độ táo bạo và độc lập này của Rousseau đã làm cho họa sĩ Mauric Quentin de la Tour rất vui thích và đã vẽ tặng một bức chân dung của Rousseau, bức chân dung này đã được triển lãm vào năm 1753 ( hình phía trên phần tựa đề bài viết này ) . Rousseau lại bắt tay vào việc, lần này để trả lời cho câu hỏi của Viện Hàn Lâm Dijon : " Đâu là nguồn gốc của sự bất bình đẳng của con người ? ". (1) VOLTAIRE -Marie-France-Arouet- (1694-1778): Triết Gia , Văn Sĩ Pháp, một nhà nhân bản lớn với chủ trương khoan dung (2) DIDEROT Denis (1713-1784) : Triết Gia, Văn Sĩ Pháp,lên án chính thể chuyên chế, quân chủ tuyệt đối do trời đặt định, ông lớn tiếng tố cáo những vi phạm tự do làm việc và chiến tranh... (3) De POMPADOUR (1721-1764) : Nữ Hầu tước, tình nhân cũa vua Louis XV .
|
|
|
Post by vietnam on Jul 18, 2009 1:43:32 GMT -5
PHẦN THỨ TƯ NGÀY TRỞ VỀ VINH QUANG : GENÈVE CHÀO ĐÓN Hè 1754, Rousseau muốn trở về thăm Genève, quê hương ông. Được tháp tùng bởi Thérèse, người đàn bà đang chung sống và ông Gouffecourt, họ lên đường từ Paris đến Lyon. Gouffecourt bị bỏ lại tại Lyon vì ông này đã quấy quả Thérèse, Rousseau và Thérèse dừng lại Chambéry để ghé thăm bà De Warens, nhưng Rousseau đã gặp lại một bà De Warens trong tình trạng thảm thương, bà đã bị Wintzenried bỏ rơi để đi lấy vợ và hiện bà đang sống rất thiếu thốn về phương diện vật chất. Ngay sau khi vừa đến Genève, với mục đích lấy lại quyền công dân của ông tại đây, Rousseau đã được tiếp đón với tất cả vinh dự mà những người hữu trách tại đây đã dành cho ông. Ông đã được mời tham dự một buổi họp của Hội Đồng đại diện Công Dân và Tư Sản Genève để chuẩn y tuyên thệ trong vụ đàm phán với vua Sardaigne về thỏa ước trao đổi lãnh thổ và cũng để chính thức công nhận sự độc lập của nước Cộng Hoà Genève. NHỮNG TÌNH BẠN MỚI Rousseau và Thérèse cư ngụ tại khu vực Eaux-Vives với Jean-François De Luc. Jean Jacques đã kết thân với các vị bộ trưởng Vernes, Pordian, Moultou, Giáo sư Jallabert, Jullin, Vernet. Thành phố Genève dưới mắt của Rousseau hình như đẹp đẽ hơn, " những cư dân, những người khôn ngoan và sung sướng nhất mà tôi được biết." J.Jacques cũng thấy là những người đàn bà ở Genève " hay hay ", " khi mà những người đàn bà Genève vẫn sẽ là những người đàn bà Genève, thì họ vẫn sẽ là những người đàn bà dễ thương của Âu Châu...". ROUSSEAU TRỞ LẠI THÀNH CÔNG DÂN CỦA GENÈVE Sự tiếp đón nồng hậu của những người Genève và sự trở về nguồn là những yếu tố để Rousseau quyết định trở lại thành" công dân của Genève " bằng cách từ bỏ việc cải đạo thiên chúa mà ông đã làm tại Turin vào năm 1728. Với sự tiếp tay rất khéo léo của mục sư địa phận Cologny, Jacques Maystre ** , một ủy ban được chỉ định để nghiên cứu sự phát thệ của Rousseau đã nghiên cứu, vào ngày 1 tháng 8 năm 1754, Rousseau đã được ủy ban chấp thuận để trở lại thành công dân nước Cộng Hoà Genève. ** Theo nguyên tắc về thủ tục xin trở lại đạo của Genève lúc này thì người chối đạo bắt buộc phải trình diện trước một hội đồng 200 người và qùy gối để ngỏ lời xin được tha thứ với hội nghị các giáo chủ. ROUSSEAU SOẠN THẢO BỘ BÁCH KHOA TOÀN THƯ Rousseau tìm lại cái hồ của ông thời thơ ấu; Trên đường phố, những người cư dân giản dị của Genève đã nhận ra được ông, trọng vọng ông. Rousseau lại bắt tay vào công việc để soạn thảo bộ Bách Khoa Toàn Thư và ông đào sâu những chủ đề đã được phác thảo trong bài luận văn thứ hai của ông : Đề nghị một khuôn mẫu kinh tế, đặt căn bản phần lớn trên nông nghiệp và bác bỏ kỹ nghệ, thương mại. MỘT VÒNG HỒ LEMAN TRONG 6 NGÀY Jean Jacques nhận lời ngay khi người ta mời ông làm một vòng 6 ngày trên mặt hồ Leman, Genève. Khởi hành cùng với Thérèse, kỹ nghệ gia đồng hồ J.F.De Luc và 2 người con của ông này, Jean André, một nhà vật lý học và Guillaume Antoine, một nhà thiên nhiên học. Vòng hồ Leman trong 6 ngày này đã để lại nhiều ấn tượng cho Rousseau và trong toàn bộ tác phẩm " Nouvelle Héloïse " ông đã bộc lộ những cảm giác mạnh và diễn tả nét đẹp của cảnh trí dư âm của chuyến đi : đến Coudrée, đến Meillerie, rồi Vevey, Vouchy, Morges...trở lại Genève. THƯ VIỆN GENÈVE MUA BỘ BÁCH KHOA TOÀN THƯ Trờ lại Genève, Rousseau được tin rằng Thư Viện Genève đã quyết định mua bộ sách Bách Khoa Toàn Thư, theo lời đề nghị của ông ngay trước ngày ông xuống thuyền làm một vòng hồ Leman trong 6 ngày. ( Thư viện và viện bào tàng J.J.Rousseau hiện nay nằm bên mé tay trái của Viện Đại Học Genève - Bastions ) . Nhà văn của chúng ta cũng dự định ở lại Genève, nhưng ông đã được tin là Voltaire cũng sẽ đến định cư tại đây trong những ngày sắp tới nên ông quyết định trở về Paris cùng với Thérèse vào ngày 10 tháng 10 năm 1754. VOLTAIRE CHỈ TRÍCH ROUSSEAU Bắt dầu từ năm 1755, Rousseau được nếm những khó khăn đầu tiên từ Voltaire. Ngay lúc Rousseau vừa cho xuất hiện bản luận văn viết về những bất công, Voltaire, một công dân mới của Genève, đã gời cho Rousseau một bức thư vào ngày 30 tháng 8 năm 1755 với những lời chỉ trích nghiêm khắc. " Thưa ông, tôi vừa nhận được một quyển sách mới chống đối nhân loại của ông " và Voltaire đã phác họa với những người đương thời một bức chân dung đen tối về Rousseau,coi Rousseau như một kẻ vô liêm sỉ và khinh người. Lẽ tất nhiên Rousseau phản ứng nhưng không quá "xúc động", trả lời Voltaire vào ngày 7 tháng 9 năm 1755... Để từ ngày đó, sự quan hệ giữa hai người ngày càng rời rạc. SỰ CHỌN LỰA ERMITAGE Vào tháng 3 năm 1756 Rousseau bị đặt vào một tình trạng chọn lựa khó khăn ; Có hai đề nghị với ông . Y sĩ Tronchin muốn ông đảm trách nhiệm vụ quản thủ thư viện Genève và bà D'Epinay, phu nhân một vị tướng , một người rất khâm phục Rousseau đã đề nghị ông với những lời lẽ như sau : "...tôi có một ngôi nhà nhỏ xin được đặt dưới quyền xử dụng của ông. Ông vẫn thường nói với tôi về Ermitage, ngôi nhà ngay trước lối vào khu rừng Montmorency...Ông là một người bạn thân thiết của tôi, ông là chủ nhân ngôi nhà đó nếu ông quyết định ở lại nước Pháp ". Rousseau vui vẻ chấp nhận đề nghị của bà D'Epinay. ERMITAGE LÀ VĂN PHÒNG LÀM VIỆC CỦA ROUSSEAU Kể từ ngày 9 tháng 4 năm 1756, Rousseau cư ngụ tại Ermitage với ý tưởng thực hiện những dự kiến mới. Ông đã làm việc cho chủ đề Contrat Social - Khế Ước Xã Hội , ông mơ ước thực hiện một biên luận về đạo đức biên luận này sẽ được gọi là La Morale Sensitive hoặc là Le Matérialisme de Sage . Ngay khi vừa đến cư ngụ tại Ermitage, một số bạn bè của ông vì ganh tỵ đã muốn ông rời khỏi nơi đây. Diderot nói với Thérèse và mẹ bà này là ông phản đối việc cư ngụ của họ tại vùng quê , lẽ dĩ nhiên những người đàn bà này vẫn luôn ưa thích nơi thành phố đô hội và họ đã bị ảnh hưởng. Một người nhân tình của bà D'Epinay, Grimm, một kẻ lạnh lùng và xảo trá cũng nhìn Rousseau bằng con mắt không mấy thân thiện vì thấy bà D'Epinay quá thiện cảm và thân mật với Rousseau. TRANH LUẬN VỚI VOLTAIRE NGÀY CÀNG KỊCH LIỆT Sự liên lạc giữa Rousseau và Voltaire ngày càng căng thẳng hơn nhất là sau khi quyển thơ "Sur le Désastre de Lisbonne et sur la Loi Naturelle" của Voltaire được xuất bản năm 1756, Rousseau bực mình vì bài thơ đầu tiên của tập thơ chứa chất sự thất vọng và dựa vào định mệnh một cách quá đáng. Rousseau tự cảm thấy đủ khả năng để đem vấn đề tranh luận của hai người trình bày trước công luận bằng cách cho xuất hiện "Lettre sur la Providence" - Là Thư viết về Thiên Định - trong đó ông đã tự khôi phục danh dự cho mình bằng cách minh chứng một cách tuyệt vời để tỏ bầy niềm tin, là một nguyên tắc của ông dưới mắt những người bênh vực cho sự khoan dung tôn giáo . TÌNH YÊU VỚI BÀ D'HOUDETOT Đời sống tại Ermitage và cảnh trí chung quanh rất thích hợp với Rousseau, ông làm việc, tiếp khách, duy nhất một vài điểm nho nhỏ làm ông mất vui đó là những tranh chấp với Grimm và Diderot cũng bởi những việc này đã làm bà D'Epinay phải xử dụng tài ngoại giao khéo léo của bà để dàn xếp. Rousseau quyến định ở lại Ermitage mùa đông năm 1756 để làm việc cho quyển tiểu thuyết Julie, một tiểu thuyết về tình yêu trong đó ông tán dương những tình cảm, sự giản dị, những đặc tính cao đẹp của đồng quê. Những nhân vật của ông biến hoá bên bờ hồ Leman. Trong giai đoạn viết phần thứ 4 của quyển truyện Julie, Rousseau đã yêu bà D'Houdetot, em dâu của bà D'Epinay. " Tôi đã say mê với tình yêu không một chủ đích này " Rousseau đã tuyên bố khi đề cập về bà D'Houdetot. TỪ HERMITAGE ĐẾN MONT- LOUIS Tình yêu đam mê với bà D'Houdetot và chuyện " hay kể lại " của ông đã gây không ít những sự phiền phức cho chính ông. Những người thân của ông đã liên kết lại với nhau để phản đối ông. Người bạn cũ, Diderot, của ông tham dự vào việc này và đã viết cho ông : " Chỉ có một kẻ hung tợn mới lẻ loi ". Rousseau phản ứng lại bằng một bức thư với lời lẽ khá gay gắt và cắt đứt liên lạc với Diderot. Nhưng, bà D'Epinay đã không tha thứ cho mối tình mới của Rousseau tại Ermitage. Ngày 15 tháng 12, Rousseau bắt buộc phải rời Ermitage để đến cư trú tại Mont-Louis trong một căn nhà nhỏ mà một người bạn ông , J.J.Mathas, kiểm sát trưởng thuế vụ của ông Hoàng Condé, cho mượn. Bà Thérèse Levasseur thì quay trở lại Paris . ROUSSEAU VIẾT TRẲ LỜI D'ALEMBERT Chỉ ngay sau khi dọn đến Mont-Louisn Rousseau quyế định trả lời cho D'Alembert, một nhà Bách Khoa, trong một bài báo đăng tại Genève trong vần đề tự điển, dám khẳng định rằng tôn giáo của nền Cộng Hoà tự đối kháng lại giáo lý của 3 Ngôi ( Cha, Con, Thánh Thần ) . " Tôi đã soạn trong vòng 3 tuần lễ lá thư " La lettre à D'Alembert " trên các vấn đề kịch nghệ, Rousseau thuật lại, để bênh vực giới giáo sĩ tại Genève và bảo vệ những lễ hội dân gian đối kháng với nhà hát, biếu tượng của sự tha hoá ,tồi tệ. CUỘC THĂM VIẾNG ĐÚNG LÚC CỦA THỐNG CHẾ LUXEMBOURG Rất nhiều lần, ông và bà Thống chế Luxembourg, cả hai đều rất ngưỡng mộ Rousseau, đã mời ông đến ăn tối tại lâu đài Montmorency. Một buổi chiều của tháng 4 năm 1759, đi cùng vài người bạn, Thống chế Luxembourg đến thăm Rousseau, ông này đã quan sát rằng, tại vọng lâu của căn nhà ,nơi Rousseau thường ngồi làm việc, đã không có tiện nghi lại còn trống trải không đủ che mưa lạnh. Ông này đề nghị và mời Rousseau về cư trú tại một lâu đài nhỏ, nằm trong trung điểm một khu rừng cây trong thời gian sửa chữ lại vọng lâu . Khi phải rời Ermitage, Rousseau mất nhiều bè bạn, nhưng nhờ vào Thống chế Luxembourg ông đã có nhiều người bạn mới. Những nhân vật quan trọng muốn được thân cận với ông : Hoàng thân De Conti, M.de Malesherbes, bà De La Tour. Trong suốt thời kỳ này, Rousseau nghĩ nhiều đến bà D'Houdetot và ông đã soạn thảo một loạt " Les Lettres Morales ", những bài nghị luận về vấn đề đức độ và hạnh phúc với chủ tâm trao gởi đến bà này. Rousseau cũng chép lại truyện "La Nouvelle Héloïse " và đích tay viết lời trao tặng đến bà vào ngày 18 tháng 12 năm 1760. NƠI NƯƠNG NÁU THANH BÌNH MỚI TẠI MONT-LOUIS Ngay sau khi việc sửa chữa và trang hoàng ở ngôi nhà nhỏ tại Mont-Louis hoàn tất, Rousseau trở lại nơi này cư trú cùng với Thérèse từ Paris trở về. Căn vọng lâu được che hởi mưa lạnh bằng kính và một lò sưởi được xây lên tại đó để Rousseau làm việc. Sân hiên nhà cũng được bố trí lại với dàn cây đọn ( tilleul ), hoa và những băng ngồi bằng đá, nơi đây đích thực là một văn phòng làm việc xanh mát, như chào đón một cách nồng nhiệt người khách đến chơi và cũng chính tại nơi này, Rousseau thích được tiếp đón những người khách của ông. Trong nơi nương náu mới đầy thanh bình giữa cảnh trí thiên nhiên này, ông đã hoàn tất những tác phẩm nòng cốt của ông : La Nouvelle Héloïse, Le Contrat Social và l'Emile. JULIE VÀ ST-PREUX LÀM RUNG ĐỘNG PARIS (*) Hoàn tất vào cuối năm 1760, quyển tiểu thuyết La Nouvelle Héloïse xuất hiện vào tháng 2 năm 1761 tại Paris. Sự thành công phải nói là ngay tức thời. Người ta tranh nhau đọc. Những hiệu cho thuê sách đã cho thuê với giá thật "cắt cổ " : 12 xu một giờ. Những người thợ khắc tranh lừng danh nhất của Paris đã khắc những bức tranh về những nhân vật của truyện : chàng trai trẻ Moreau, Gravelot, Prud'homme, Mosian. Rousseau đã làm việc liên tục 5 năm trời quyển tiếu thuyết này, một tuyển thư với một kết nối trữ tình và đầy sự cố. Đa số những ấn bản chứa đụng nhiều bản khắc đính kèm tường thuật lại câu chuyện . Tiểu thuyết này cũng như một báo hiệu cho phong trào lãng mạng của thế kỷ thứ XIX sau này. Người đọc theo dõi tình yêu đam mê cuả (*) đôi tình nhân Julie và St-Preux qua suốt những bức thư họ trao đổi cho nhau. Đôi tình nhân chấp nhận mọi thử thách để đo lường sự sâu đậm và giới hạn cuả tình yêu đó. Họ đã yêu nhau nhưng họ cũng không tìm được một sự yên tĩnh, hoà bình trong áp lực thường trực của tình yêu đó. BỚT BẤT CÔNG ! NHÂN DÂN LÀ CHỦ ! Ngay lúc ông còn làm việc tại Đại Sứ Quán Pháp ở Venise vào năm 1743, Rousseau đã có nhiều dịp để suy ngẫm về sự vận hành của các cơ chế của nhà nước. Ông đã ý thức được vai trò chính yếu của chính trị trong sự vận hành thể chế dân chủ. " Le Contrat Social " chứa đựng một sự suy ngẫm phê phán trên những cấu kết chính trị. Một học thuyết mới xuất hiện cho sự che chở tài sản và thân thể con người trong sự tôn trọng sự tự do của mỗi cá nhân. Đối với Rousseau, duy nhất chỉ có một hình thức chính quyền, đó là chính quyền mà Nhân Dân Làm Chủ. Ngay sau khi được xuất hiện vào năm 1762, những ấn bản được chuyển đến từ Rouen (Pháp ) đã phải bị trả lại cho nhà in ở Amsterdam (Hoà Lan ) bởi vì tác phẩm đã bị cẩm không cho phát hành trước công chúng bằng một sắc lệnh của Pháp. PHẦN KẾT HOÀN TẤT CHUYÊN LUẬN VỀ SỰ GIÁO DỤC Với Emilie, người đọc tìm lại được nguyên tắc của sự tôn trọng tự do bên trong đã được đề cập trong Contrat Social nhưng kỹ lưỡng hơn. " Sự gíao dục của con người khởi đầu từ khi vừa chào đời, trước khi biết nói, trước khi biết nghe, con người đã tự học hỏi ". Rousseau đặt cơ sở hệ thống giáo dục của ông bắt nguồn từ những ảnh hưởng của môi trường tự nhiên, trong đó đứa trẻ được phát triển, căn bản này phải chiếm ưu thế hơn những ảnh hưởng của nguồn gốc gia đình, vị trí xã hội và những thể chế. NHỮNG NGUYÊN TẮC TRÊN VẤN ĐỀ GIÁO DỤC CỦA ROUSSEAU LÀM RỐI TRẬT TỰ Rousseau đã viết Emilie đặt cơ sở trên những kinh nghiệm ông đã có trong thời gian ông sống tại tư gia M.de Mably ở Lyon và tại nhà bà Dupin, qua những kinh nghiệm đó ông đã ghi lại trong một hồi ức khá đầy đủ về vấn đề giáo dục cho những đứa trẻ của hai gia đình đó. Ông đã làm một bài biện minh cho sự tự do mà với chính bản thân ông đã rất qúy báu : « Con người được sinh ra trong tự do và ở khắp mọi nơi con người đã ở trong sự kiềm tỏa ; Làm cách nào mà sự thay đổi đó lại xảy ra được ? Tôi không biết, nhưng chuyện gì đã làm cho sự thay đổi đó trở nên hợp pháp ? Tôi tin rằng có thể trả lời được câu hỏi quan trọng này ». Thế rồi Rousseau vất bỏ mọi quyền lực đặt căn bản trên những đặc quyền của sự tự nhiên hay luật lệ của những kẻ mạnh. VÌ CHỈ TRÍCH TÔN GIÁO MÀ EMILIE ĐÃ BỊ KẾT ÁN Tuy nhiên phần thứ tư của chuyên luận đã đề cập đến đề tài tôn giáo với tựa đề " Profession de foi d'un vicaire savoyard" - phát nguyện tín ngưỡng của thầy trợ kế giáo phận Xa-Voa (Savoie - một vùng của nước Pháp ). Trong phần này, Rousseau đã ca tụng cho một tín ngưỡng tự nhiên, đặt cơ sở trên sự sáng suốt của trí năng và nghe theo những tình cảm đối kháng với tôn giáo thần khải. Ông hồ nghi quyền lực của Giáo Hội và bác lại sự giáo điều. Hiển nhiên lập luận của Rousseau không thể được giới giáo sĩ và những người cầm quyền đương thời chấp nhận được . Emilie đã bị kết án, tất cả các ấn bản bị tịch thu và bị công khai thiêu hủy. ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI RỜI BỎ NƯỚC PHÁP Pháp viện tối cao nước Pháp đã ra một sắc lệnh bắt giam, Rousseau bắt buộc phải gấp rút hành động. Được cấp báo bởi Thống Chế De Luxembourg trong đêm 9 rạng 10 tháng 6 năm 1762, Rousseau quyết định rời bỏ nước Pháp. Ngồi trong một chiếc xe trạm, đi ngăng những người thừa phát lại đến tìm bắt ông, Rousseau đi Yverdon thuộc vùng Vaud - Berne .
|
|
|
Post by vietnam on Jul 18, 2009 1:45:43 GMT -5
YVERDON : VÙNG ĐẤT TỰ DO
Khi vừa vào đến vùng đất Vaud vào ngày 14 tháng 6 năm 1762, Rousseau cho dừng cộ xe ngựa lại và bước xuống để cúi xuống vừa hôn đất vừa nói : " Hỡi trời cao che chở cho những đức hạnh, tôi xin được ca ngợi người, tôi đã đến được vùng đất tự do ". Tại nơi đây, ông đã đưọc những người bạn cũ , gia đình Roguin,những người mà ông đã gập họ tại đảo Saint Louis, đón tiếp. Nhưng những người cầm quyền tại Berne cũng đã dự trù mọi biện pháp để Rousseau cách xa địa phận cai trị của họ cũng vì Emilie, quyển sách nguy hiểm " chứa đựng toàn bộ những sự lếu láo và nguy hại ". Người cháu gái của Roguin, bà Boy De La Tour, đã đề nghị mời Rousseau đến tạm cư tại cơ ngôi nghỉ hè của bà ta tại Môtiers, một ngôi làng nhỏ thanh bình tại Val de Travers, vùng đất dưới quyền quản trị của vua nước Phổ. Rousseau nhận lời mời này.
SỰ ĐÓN TIẾP NỒNG HẬU CỦA MILORD MARECHAL
Ngay khi vừa đến Môtiers, Rousseau đã cẩn thận và viết cho milord Keith, thống chế thừa kế dòng Ecosse và là toàn quyền Neufchâtel để xin được quyền cư trú tại đây. Một ngạc nhiên sung sướng đã dành cho Rousseau, milord thống chế Keith đã vui vẻ chấp nhận và mời Rousseau đến lâu đài Colombier, nơi cư ngụ của ông ta. Rousseau nhận lời mời và đến thăm vị milord này, từ ngày đó, một tình bạn thân ái đã nẩy nở giữa hai người.
NƠI CƯ NGỤ MỚI : MÔTIERS
Ngôi nhà mà Rousseau đến cư trú tại Môtiers cũng cần một vài việc phải tu bổ sửa sang lại để có được những tiện nghi. Chính Rousseau đã tạo thêm những cửa sổ và làm các vách gỗ của phòng ngủ nhìn ra sân để có được khung cảnh sáng sủa khoáng đạt. Ngoài việc viết sách và sưu tầm thảo mộc, một hoạt động mới mà ông đã thực hiện : thắt những sợi dải áo và đem tặng cho những người con gái nào tự nguyện cho con bú bằng sữa của chính mình (theo Emilie). Rousseau cũng đã tặng những sợi dải áo này cho tất cả những người con gái của vị chánh biện lý vùng Ivernois - Neuchâtel.
ROUSSEAU TRANG PHỤC QUẦN ÁO CỦA NGƯỜI XỨ ARMENIE
Vào thời kỳ này Rousseau quyết định thay đổi y phục và mặc một chiếc áo dài của người xứ Arménie mà ông thấy rằng tiện dụng và thích hợp với khí hậu vùng Môtiers. Ông đã yêu cầu bà Boy De la Tour cắt may cho ông một bộ quần áo gồm một chiếc áo dài , một chiếc chùm đầu có lông thú, một sợi thắt lưng... Suốt thời gian 3 năm sống tại Môtiers và ngay cả thời kỳ ở tại Wootton - Anh quốc, ông đã mặc bộ y phục này.
ROUSSEAU KHÁM PHÁ ĐỜI SỐNG THÔN DÃ
Một ngày làm việc của Rousseau được chia xẻ giữa việc sưu tầm thảo mộc và viết . Ông hoàn thành những bài hát Lévite d'Ephraïm và tiếp tục viết Emile và Sophie, phần phụ lục của quyển Emile. Rousseau cũng đã trả lời cho công tước De Beaumont, tổng giám mục giáo phận Paris, những lời trách cứ về việc thiếu niềm tin vào đạo thiên chúa giáo và sự thiếu sót trong cách phán đoán. Ngoài ra, Rousseau cũng để dành nhiều thời gian cho thú bách bộ của ông và chuyện trò với những người dân làng, ông cũng bộc lộ và cư xử với họ bằng một thái độ rất quảng đại .
HÌNH PHẠT PHẢI HỨNG CHỊU TẠI MÔTIERS
Sau một năm chờ đợi để những người đồng hương của ông có đủ thời gian để phản ứng đối kháng với những sự việc bất công mà ông đã phải hứng chịu. Rousseau quyết định từ bỏ quyền công dân xứ Genève bằng cách viết một bức thư gởi đến vị chủ tịch hội đồng cơ chế cộng hoà Genève. Lập tức ngay sau đó vị biện lý Tronchin đã công bố bản cáo tội Rousseau. "Les lettres écrites de la campagne" - Những bức thư viết từ miền thôn dã - của Rousseau cũng không chấm dứt tại đây mà lại còn được ông tiếp tục bằng " Lettres écrites de la montagne " - Những bức thư viết từ miền núi - đầy ngưỡng mộ được xuất hiện vào tháng 11 năm 1763. Vị mục sư Montmollin xen vào cuộc bút chiến này và khích động dân chúng trong những buổi lễ. Căn nhà nơi Rousseau cư trú đã bị ném đá trong đêm ngày 6 rạng 7 tháng 9 năm 1765.
ĐẢO SAINT PIERRE : MỘT NƠI CƯ TRÚ MỚI
Rousseau buộc lòng phải rời khỏi Môtiers để đến tạm cư tại đảo St-Pierre nơi mà ông Du Peyrou đã dẫn Rousseau đến chơi hai tháng trước đó. Rousseau đã bị quyến rũ bởi phong cảnh hoang dã, sự thanh tịnh của vùng đảo này. Rousseau tạm ngụ tại căn nhà duy nhất trên đảo, nhà của người Receveur , trong suốt 6 tuần lễ. Ông cảm thấy rất sung sướng tại St-Pierre. Rousseau cũng bắt tay vào việc soạn thảo dự án về chính thể của đảo Corse mà ông đã được đặt mua . Ngoài ra ông tham dự vào những lễ hội của mùa hái nho, nghiên cứu cây cỏ và bơi thuyền trên hồ Bienne.
HẠNH PHÚC CỦA NHỮNG GIẤC MƠ
Thời gian ở tại đảo St-Pierre đã đem lại rất nhiều cho Rousseau sự thanh thản . Một trong những cái thú mà Rousseau được có tại đây là bơi thuyền ngắm cảnh. Hãy nghe Rousseau thuật lại trong giấc mơ thứ 5 của ông :"...một mình tôi trong chiếc thuyền nhỏ mà tôi chèo giữa hồ khi sóng êm gió lặng và khi đó, tôi nằm dài trong lòng thuyền, ngửa mặt nhìn bầu trời, mặc cho chiếc thuyền trôi theo làn nước, một đôi lần hàng giờ trôi qua, tâm trí tôi đắm chìm trong ngàn giấc mơ lẫn lộn nhưng lại đầy thú vị..."
CONFESSIONS - NHỮNG LỜI TỰ THÚ
Bản viết đầu tiên về ký ức đời ông, Les Confessions, hoàn tất, Rousseau ủy thác cho Du Peyrou hầu hết những bản viết của ông với lời yêu cầu khẩn thiết rằng Les Confessions sẽ chỉ được công bố sau khi ông qua đời. Mới chỉ vừa tạm cư tại đảo chưa được bao lâu thì một viên chức hành chánh đến tìm Rousseau để trao cho ông một lá thư của nhà cầm quyền Berne yêu cầu Rousseau rời khỏi đảo và lãnh địa Berne. Buồn chán, Rousseau dự định sẽ xin tỵ nạn với vua nước Phổ, ông lên đường đi Berlin. Trên đường đi , Rousseau ghé lại Bienne và Strasbourg, tại nơi đây ông đã nhận được sự tiếp đón nồng hậu : triết gia David Hume và bà hầu tước De Verdelin chào đón Rousseau và thuyết phục ông nên đi Anh quốc.
MOZART VÀ NHẠC CỦA ROUSSEAU
Trong suốt mấy năm vừa trôi qua, nhiều biến động đã xảy ra liên tiếp chung quanh tác phẩm của Rousseau. Những quyến sách của ông vẫn tiếp tục được xuất hiện lén lút qua những ấn bản "bất hợp pháp" và tại Paris tư tưởng của Rousseau đã đột nhập các nơi hội họp văn học nghệ thuật trong lúc đó thì tại Genève quyển Emile đã gây sự bất hoà giữa nhà cầm quyền đương thời và dân chúng Genève. Những sáng tác của Rousseau ảnh hưởng không ít đến mọi người ngay cả âm nhạc của ông. Mozart, vào năm 1765 , vừa được 9 tuổi, trong một dịp đến Prais đã được xem Devin du Village , được trình diễn tại Opéra đều đặn vào lúc đó. Mozart đã rất cảm xúc để lấy làm nguồn cảm hứng khi sáng tác Bastien và Bastienne.
TRIẾT GIA HUME MỜI ROUSSEAU SANG ANH QUỐC
David Hume đã thuyết phục được Rousseau đi với ông ta qua Anh và ngày 11 tháng 1 năm 1766, cùng với De Luze, tất cả đã xuống tầu tại Douvres để đến Canterburry. Vài ngày sau đó, Rousseau tạm ngụ tại Chiswick để đợi Thérèse. Trong dịp này, Hume đã mời hoạ sĩ Ramsay hoạ chân dung của Rousseau trong y phục người Arménie. Tuy bức họa truyền thần này không được Rousseau thích nhưng bức họa đã thành công đến độ hầu như tất cả những người trong giới thượng lưu người Anh thời đó đua nhau mua những bức tranh vẽ lại từ chính bản.
ROUSSEAU RỜI WOOTON
Giữa lúc đang ngồi để hoạ sĩ Ramsay vẽ thì Davenport đến và mời Rousseau đến cư ngụ tại lâu đài của ông ta tại Wootton. Những trang viết đẹp nhất của quyển Les Confessions đã được Rousseau viết tại Anh quốc. Trong suốt thời gian này, Rousseau hứng chịu kết qủa của những sự áp chế nên nghĩ rằng mình luôn luôn bị rình mò, theo dõi. Hậu qủa là Rousseau trở thành khó chịu và sự giao hảo với triết gia Hume cũng do đó mà trở nên lỏng lẻo. Vào lúc mà Rousseau được vua Geroges III của nước Anh bắt đầu trợ cấp cho ông số tiến là 100 đồng Anh mỗi năm thì cũng là lúc Rousseau vội vã rời Wootton, ngày 1 tháng 5 năm 1767, để trở về lục địa qua ngả Douvres và Calais.
ĐỊNH CƯ TẠI TRYE - LE - CHÂTEAU BẰNG TÊN GIẢ
Trở lại Pháp ngày 24 tháng 5 năm 1767, Rousseau sống dưới những lý lịch và tên tuổi khác nhau. Trước tiên, ông đến Amiens với cái tên là Jacques. Rousseau cư trú tại nhà hầu tước De Mirabeau ở Fleury-sous-Meudon, sau đó cùng với bạn ông, Cuendet, đến Trye-le-Chateau nơi nhà của ông hoàng De Conti với cái tên là Jean-Joseph-Renou và Thérèse thì đóng vai là em gái. Rousseau tìm lại được niềm vui để lại đùa giỡn với Sultan, con chó trung thành, đã theo ông từ Môtiers sang Anh quốc.
SỰ TRỢ GIÚP CỦA BÀ THỐNG CHẾ LUXEMBOURG
Bệnh tình do sự đàn áp gây ra trong người Rousseau không thuyên giảm, thêm vào đó Thérèse lại không hợp ý với những người hiện diện tại lâu đài và vùng phụ cận. Rousseau đã khẩn khoản yêu cầu bà Thống Chế Luxembourg giúp để ông hoàng De Conti cho phép cư ngụ ở ngoài lâu đài này. Rousseau thích được sống một cách "vô danh" trong tự do và độc lập. Dù rằng đã được mời về cư trú trong một ngôi biệt thự của ông hoàng De Conti nhưng Rousseau quyết định, bất thình lình rời Trye-le-Chateau đi Lyon vào ngày 18 tháng 6 năm 1768. Rousseau gập lại bà Boy de la Tour, sau đó đến Grenoble thăm mộ phần bà De Warens trước khi trở lại Lyon.
VOLTAIRE BUỘC TỘI CHO ROUSSEAU ĐỐT NHÀ HÁT GENÈVE
Kể từ ngày xuất hiện "Lettre à D'Alembert sur les spectacles", Voltaire rất căm hận Rousseau và chờ dịp để trả thù, Voltaire viết "La Guerre de Genève"- Cuộc chiến ở Genève - trong đó Rousseau và bà Levasseur (Thérèse) là những thủ phạm đốt cháy nhà hát Genève (trên thực tế nhà hát cũng đã bị hoả hoạn vào năm 1768). Rousseau chẳng nao núng e ngại và tại Ivernois ngày 26 tháng 4, Rousseau đã viết :" Khi mà ông Du Peyrou báo cho tôi biết là phòng kịch nghệ đã bị cháy, tôi đã e ngại cho những buổi trình diễn đã được dự trù; nhưng cứ cho rằng việc đó là do tôi làm như Voltaire đã viết tôi cũng chẳng cần phải lên tiếng vì đối với tôi đó chỉ là một trò cười ".
ROUSSEAU SƯU TẬP THẢO MỘC TẠI GRANDE-CHARTREUSE
Một ngày đẹp trời vào tháng 7, Rousseau quyết định đi sưu tập cây cỏ tại Grande-Chartreuse và rời Lyon cùng với Claret de la Tourette và hai vị abbée giáo sĩ Rozier, Grange-Blanche . Theo lộ trình, họ dừng nghỉ tại Voreppe trước khi đến Grande-Chartreuse , nơi đây bốn người đã ở lại 4 ngày. ( Rất nhiều thảo mộc của nhà nghiên cứu thảo mộc De la Tourette đã mang những dòng chữ ghi chú :"Tại Grand-Som, trên Chartreuse, tháng 7 năm 1768").
CUỘC HÔN NHÂN BẤT NGỜ
Rousseau quyết định không cần suy nghĩ chọn lựa tạm cư tại Bourgoin vào giữa tháng 8 tạo lữ quán Fontaine d'Or và tham dự bên cạnh vị thị trưởng; ông Rosière-Champagneux, trong những buổi tiệc chính thức do chính quyền địa phương tổ chức . Mấy ngày sau Thérèse đến cùng ông, trong sự ngạc nhiên của mọi người, Rousseau và Thérèse, người đàn bà đã theo ông từ 23 năm qua, đã làm lễ cưới vào ngày 29 tháng 8 tại ngôi lữ quán Fontaine d'Or không một nghi thức tôn giáo nào, với hai nhân chứng và trước sự hiện diện của vị thị trưởng. Sau đó hai người đã đến cư ngụ ở trang trại Montquin trong vùng Maubec và Rousseau lại bắt tay vào việc viết những lời tự thú của ông - Les Confessions.
HAI ĐỒNG LOUIS VÀNG CHO BỨC TƯỢNG VOLTAITRE
Rousseau đi Nevers để gập ông hoàng De Conti và yêu cầu gíup đõ để trở lại Paris. Mặc dù De Conti không tán thành với ý định này nhưng dưới áp lực của Thérèse, Rousseau quyết định trở lại Paris. Rousseau dừng lại Lyon vừa đủ thời gian để ông trao cho nhạc sĩ Coignet tập Pygmalion . Được biết rằng người ta đang kêu gọi quyên tiền để dựng tượng đài cho Voltaire, Rousseau đã gởi 2 đồng Louis vàng, việc làm này đã lại làm cho kẻ thù thâm niên của ông điên tiết tức tốc viết cho De Tourette :"Tôi nghĩ rằng giới trí thức Paris không muốn chấp nhận những kẻ ngoại quốc".
TRỞ LẠI PARIS
Về Paris, Rousseau cư ngụ tại đường Plâtrière (hiện nay là đường Rousseau thuộc quận 1 Paris). Ông sống với Thérèse trong một căn chúng cư rất khiêm nhượng với duy nhất 1 căn phòng vừa là nhà bếp, phòng tiếp khách và phòng ngủ. Hai chiếc giường nhỏ và một chút ít đồ đạc, một chiếc tủ để chứa sách, vài chiếc ghế . Trên tường lưa thưa vài bức tranh khắc.
SINH HOẠT TẠI PLÂTRIÈRE
Jean-Jacques thường làm việc vào buổi sáng. "Les Confessions" đã chiếm đa số thời giờ, ngoài ra ông tổ chức những buổi đọc sách tại nhà ông, những buổi đọc có thể kéo dài hơn 17 tiếng đồng hồ. Để sinh sống, Rousseau làm việc với tư cách một người chép lại âm nhạc, việc làm sở trường của ông. Vị công tước người Ba Lan, Michel Wielhorski, đặc nhiệm của các liên bang vùng Bar, đã tới gập ông để thuyết phục rằng Rousseau phải gíup đỡ ông ta để cứu nước Ba Lan. Chính bởi lẽ này mà Rousseau đã viết "Les Considérations pour le Gouvernement de Pologne". Rousseau cũng tiếp tục việc sưu tập nghiên cứu cây cỏ và viết rất nhiều bức thư trao đổi về vấn đề này với bà Boy de la Tour.
Buổi chiều, sau nhiều hoạt động, Rousseau ra các vùng quê để tìm cây cỏ bổ túc cho bộ sưu tập của ông. Rousseau cũng rất ưa ra phố và đến những quán cà-phê-văn-chương -"cafés littéraires"- bất chấp cảnh sát với lệnh truy nã vẫn còn hiệu lực . Người ta thường gập Rousseau tại quán cà phê Procope hay Régence.Ông rất thích tranh luận với đám đông, gập giới trí thức và chơi đánh cờ. Bachaumont đã thuật lại trong những hồi ký của ông ta rằng:"...nơi mà Rousseau đã tự tập hợp được một số rất đông người...ông ta chẳng bộc lộ sự dụt dè nào trước mọi thành phần khán giả và đã bộc lộ một sự dịu dàng, khác hẳn thói quen, trong những lời đối thoại của ông. Ông cũng không còn mặc bộ y phục của người Arménie mà lại trang phục giống như những người khác, sạch sẽ, giản dị ".
BỘ SƯU TẬP CÂY CỎ DÀNH CHO BÉ MADELON
Bộ sưu tập cây cỏ thực sự ra là để dành cho Madelon, cô con gái của bà Boy de la Tour. Rousseau muốn khai tâm cho cô bé này về thảo mộc. Bộ sưu tập của Rousseau về cây cỏ rất chính xác và đầy đủ. Rousseau cũng đã chỉ định rõ ràng về bản chất của từng cây cỏ, bằng tên Pháp và tên gia đình mỗi loại cây. Rousseau rất ưa thích được gần gũi trẻ em, có thể đó là một sự kiện tưởng nhớ lại thời thơ ấu của chính bản thân ông. Trong những buổi hội hè công cộng, ông cũng đã dành cho những đứa trẻ một sự quan tâm đặc biệt và một sự săn sóc rất ân cần.
NGÔI NHÀ Ở ERMENOMVILLE
Tháng 5 năm 1778, Rousseau , tự cảm thấy ngày cuối cùng của ông sắp đến, ủy thác cho Paul Moultou, một trong số những người hâm mộ và bạn hữu trung thành của ông, những bản viết tay "Dialogues" - đối thoại- và "Confessions" - tự thú - Những bản thảo này ngày nay được lưu trữ tại thư viện công cộng đại học Genève. Cũng trong tháng đó, Rousseau đến cư ngụ nơi một căn nhà nhỏ biệt lập trong khu hoa viên tại Ermenonville theo lời mời của hầu tước De Girardin.Thời kỳ này là thời kỳ của "Rêveries d'un promeneur solitaire" - những giấc mơ của một người dạo bộ đơn lẻ - tại nơi đây Rousseau dành nhiều thời giờ cho việc sưu tầm cây cỏ, viết và sáng tác âm nhạc .
NHỮNG GIẤC MƠ CỦA MỘT NGƯỜI DẠO BỘ ĐƠN LẺ
Khu hoa viên Ermenonville đã là một nơi tuyệt vời dành cho sự trầm tư đơn lẻ. Tác phẩm cuối cùng của Rousseau là một bằng chứng cho sự sáng suốt và sự bình an vô cùng. Ông đã bộc lộ tất cả những gì dịu dàng nhất về những kỷ niệm , về quá khứ, về tuổi trẻ, về những chuyến đi và sau cùng về giấc mơ dang dở của ông ...gợi lại kỷ niệm về bà De Warens trong những ngôn từ của một tình yêu tròn vẹn. "Trong khoảng khắc của 4 hay 5 năm" Rousseau đã được hưởng " một thế kỷ sống và hạnh phúc trong sáng ắp đầy...".
NHỮNG PHÚT CUỐI CÙNG
Về mặt thể xác, Rousseau sa sút hẳn. Năm 1777 nhiều cơn bệnh trầm trọng đã đến với ông. Vị bác sĩ săn sóc cho ông khuyên ông nên về vùng quê cư trú, Rousseau cũng đã chấp nhận lời mời của hầu tước De Girardin ... Nhưng ngày 2 tháng 7 năm 1778, trở về nhà sau buổi đi dạo sáng , Rousseau đột nhiên bị nhức đầu dữ dội. Mới chỉ vừa ngồi được xuống ghế, ông đã ngã lăn ra và tắt thở.
Một tư tưởng gia vĩ đại của thế kỷ thứ 18 vừa qua đời, đúng 33 ngày sau khi Voltaire nhắm mắt.
"Ma chère femme, rendez moi le service d'ouvrir la fenêtre afin que j'ai le bonheur de voir encore une fois la verdure. Comme elle est belle! que ce jour est pur et serein? Oh que la Nature est grande! Voyez ce soleil dont il semble que l'aspect riant m'appelle ! Voyez vous-même cette lumière immense, voila Dieu, Oui Dieu lui-même qui m'ouvre son sein, et qui m'invite à aller goûter cette paix éternelle et inaltérable que j'avais tant désiré." J.J.ROUSSEAU
AN TÁNG TẠI ĐẢO PEUPLIERS
Hôm sau, 3 tháng 7 năm 1778, hầu tước Girardin ra lệnh cho Houdon thực hiện khuôn mặt của Rousseau bằng thạch cao để làm một bức tượng bán thân bằng đất nung. Chiều ngày 4 tháng 7, Rousseau được tẩm liệm tại hòn đảo nhỏ tên là Île des Peupliers - đảo bạch dương - tại Ermenonville, nơi mà vài ngày trước đó, Rousseau đã ao ước được "nghỉ ngơi vĩnh viễn" tại đó. Đám tang diễn ra thật bi thảm với sự hiện diện của một số bạn bè của hầu tước Girardin. Hòn đảo nhỏ sau này được gọi là Elysée và trở nên một nơi hành hương cho những người ái mộ Jean-Jacques-Rousseau.
ERMENONVILLE : HOA VIÊN TƯỞNG NIỆM
Để lưu tồn kỷ niệm về nhà văn lớn này, vị hầu tước Girardin đã sửa sang , biến đổi toàn diện lãnh địa của ông ta để biến thành một hoa viên tưởng niệm J.J. Rousseau. Ông đã cho chỉnh đốn lại một ngôi mộ cổ, một đền triết học, một bàn thờ của sự mơ mộng, một căn nhà gỗ kiểu thụy sĩ, một đài kỷ niệm của những người tình nhân cổ đại, chứng tích của "La Nouvelle Héloïse" . Những bạn bè của Rousseau cũng đã đến nghiêng mình trước mộ phần ông suốt những tháng sau ngày ông qua đời.
THÉRÈSE LEVASSEUR
Thérèse Levasseur, người đàn bà đã tháp tùng Jean Jacques Rousseau từ tháng 3 năm 1745 cho đến ngày ông từ trần, suốt 33 năm dòng dã. Họ đã lấy nhay tại Bourgoin ngày 29 tháng 8 năm 1768. Thérèse đã có với Rousseau 5 người con, tất cả đều bị gởi cho viện mồ côi. Tuy nhiên sự tranh luận về chuyện Rousseau là cha của những đứa trẻ này cho đến ngày nay vẫn được đề cập đến. Thérèse đã săn sóc Rousseau trong suốt 33 năm và sau khi Rousseau qua đời, chính bà ta đã trở thành người thừa kế duy nhất về những di sản vật chất hoặc văn chương, bản quyền... của người chồng tài hoa này. Sau ngày Rousseau mất, Thérèse đã bị quyến rũ bởi một người thuộc hạ cuả hầu tước Girardin, một thanh niên đẹp trai, 34 tuổi, Jean-Henri Bally, sau này hai người đã làm đám cưới vào tháng 11 năm 1779 và cư ngụ tại Plessis-Belleville cho đến khi qua đời vào năm 1801.
Ngày 20 Vendémiaire an III - ngày 11 tháng 10 năm 1794 hài cốt của Jean Jacques Rousseau đã được chuyển về điện Panthéon - Paris an nghỉ bên cạnh Voltaire.
NHỮNG TÁC PHẨM CỦA JEAN-JACQUES ROUSSEAU
TÁC PHẨM BÌNH LUẬN
. Discours sur les sciences et les Art, dissertation philosophique et morale, 1750. . Discours sur l’origine de l’inégalité parmi les hommes, essai de philosophie politique, 1755. . Lettre à d’Alembert sur les spectacles, pamphlet, 1758.
ROUSSEAU VÀ XÃ HỘI
. Julie ou La Nouvelle Héloïse, tiểu thuyết (loại thư tín),1761. . Le Contrat Social, tiểu luận triết học chính trị, 1762. . Émile ou de l’éducation, chuyên luận giáo dục,1762.
GIAI ĐOẠN VÀ NỀN TẢNG TÁC PHẨM TỰ THUẬT
. Les Confessions . Les dialogues, Rousseau juge de Jean-Jacques . Les Rêveries du promeneur solitaire, 1776-1778 - Di cảo xuất bản năm 1782
TỪ VŨ
Pháp,15.12.2004
|
|
|
Post by votieugiap on Jul 29, 2009 20:24:39 GMT -5
Henry Kissinger, Ph.D. CHÔN SỐNG VNCH
Phụng Hồng
III – DI TẢN
Vài ngày sau bài diễn văn ở Tulane, tình hình yên tĩnh, mặc dầu bọn cộng sản đã tiến quân với trọng pháo gần tới phi trường Tân Sơn Nhất. Có phải chúng tái phối trí để xung phong lần cuối cùng? Hoặc chúng mở một lối thoát cho cuộc di tản?
Hiện tại chúng đang tiến hành cả hai. Ngày 24/4, Dobrynin gọi điện thoại lúc 4 giờ chiều và đọc cho tôi nghe thư trả lời của Nga Sô về ý kiến chúng tôi ngày 19/4. Nó có nghĩa như lời giải thích bật đèn xanh đê di tản Mỹ kiều và nó xác quyết Hà Nội sẽ tìm một giải pháp chính trị dựa theo Hòa đàm Ba Lê. Bắc Việt xác nhận với Mạc Tư Khoa rằng chúng “không có ý định làm tổn thương đến danh dự của Hoa Kỳ”. Điều này làm cho Brezhnev không sợ khi cố gắng giới hạn sự phiêu lưu không có người Mỹ hiện diện bằng cách bày tỏ mối hy vọng rằng chúng tôi sẽ không hành động “với mối đe dọa làm trầm trọng thêm tình thế hiện tại của Đông Dương”.
Nêu ý kiến Nga Sô có nghĩa là hình như xác nhận như thế, thì có nhiều điều dễ thở cho công cuộc di tản. Mặc dầu ý kiến đó chú trọng đến sự di tản Mỹ kiều, nhưng ảnh hưởng thực tế vẫn giúp di tản người Việt, kể từ khi chúng ta di tản cả hai nhóm cùng một lúc và cùng trên một chuyến bay. Và nếu Hà Nội thực sự có ý định đem lại thay đổi chính trị bằng những phương thức dự trù trong thỏa hiệp Ba Lê thì chúng ta sẽ có nhiều thì giờ hơn nữa.
Dĩ nhiên, giải pháp vẫn giống nhau: cộng quân sẽ thôn tính toàn bộ, điều mà chúng ta đã kháng cự gian khổ suốt 2 thập niên. Vì vậy, với mục đích giải cứu nhiều nhân mạng người Việt chúng tôi đã sẵn sàng sửa soạn để ứng phó. Ý muốn của Brezhnev tôn trọng hội nghị về Anh Ninh Âu Châu đã cho chúng tôi một chút tin tưởng – mặc dầu mọi điều trần trước Quốc Hội đã phá tan mối đe dọa cuối cùng mà chúng tôi có thể bị lại trong phút chót.
Buổi họp tham mưu ở bộ Ngoại giao để cứu xét thông điệp của Brezhnev đều đồng ý chúng tôi sẽ dùng nó để được thêm thì giờ mặc dầu Bill Hyland, giám dốc văn phòng tình báo và sưu tầm, đã ước lượng “chút xíu” chỉ còn gần một tuần nữa thôi. Bởi vậy nên tôi chỉ thị Martin giảm bớt số lượng Mỹ kiều xuống dưới 800 (con số có thể không vận trong 2 tiếng rưỡi đồng hồ theo sự ước lượng của Tham Mưu trưởng (Liên Quân), và sau đó “thi hành chính sách nhỏ giọt” số còn lại ngõ hầu sự không vận có thể tiến hành để bốc tối đa những người Việt.
Chiều ngày 24/4, Ford triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia để duyệt lại kế hoạch di tản. Schlesinger tiếp tục khuyến cáo di tản tức khắc số Mỹ kiều còn lại và lẽ dĩ nhiên sẽ chấm dứt luôn cả việc bốc người Việt. Ford đã kết luận buổi họp này như đã tuyên bố trong ngày 9/4:
Ford: “Tôi hiểu sự nguy hiểm liều lĩnh. Đó là phần của tôi và tôi sẽ làm. Nhưng hãy cố tin chắc chúng ta thi hành lệnh.”
Rockefeller: “Ông không thể bảo đảm quyền lợi của Mỹ quốc mà không liều lĩnh d.”
Ford: “Với sự trợ giúp của Thượng Đế”
Nắm vững mọi triển hạn có thể có trong giờ chót, chúng tôi trả lời Nga sô lúc 8giờ 25 tối ngày 24/4. Trong thông điệp của chúng tôi, chúng tôi đặt một số câu hỏi với hy vọng cuộc không vận dân tị nạn có thể tiếp tục trong lúc Nga sô sửa soạn câu trả lời. Trong thông điệp chúng tôi ghi rằng, xét về sự trả lời xây dựng (Nga sô)... phía Mỹ đang tiến hành cuộc di tản Mỹ kiều với điều kiện thuận tiện. Chúng ta yêu cầu Hà Nội cho ý kiến làm sao thực thi những điều cam kết ghi ở thỏa ước Ba Lê có liên quan đến giải pháp thi hành một sự thiết lập chính trị. Tổng thống lại trấn an brezhnev rằng chúng tôi ngưng thi hành những điều mà Quốc Hội trong mọi tình huống đã ngăn cấm. Từ lâu đã không có sự can thiệp nào trong việc di tản, chúng tôi ghi tiếp, Hoa Kỳ sẽ không có một bước tiến nào khả dĩ làm cho tình hình thêm căng thẳng.
Đó chỉ là những hạt kê nhỏ trong chén súp, nhưng nhu tơi đã nói trong buổi họp tham mưu ở bộ Ngoại Giao, bây giờ vấn đề còn lại là sự căng thẳng thần kinh. Tuy nhiên, có một giới hạn có thể chu toan bằng phương tiện ngoại giao, đặc biệt là khi đối thoại với những cặp mắt cú vọ của những máy tinh từ phía Hà Nội.
Trong đêm 28/4, giờ Hoa Thịnh Đốn (29/4 ở Việt Nam) sự sụp đổ cuối cùng của Sài Gòn bắt đầu với mưa pháo tấn công vào phi trường Tân Sơn Nhất. 8 ngàn người Việt có tính mạng bị đe dọa và 400 Mỹ kiều được tập trung ở đó để các chuyến bay di tản tuần tự bốc mà không bị đình trệ.
Mặc dầu cuộc pháo kích sớm chấm dứt, đám dân tị nạn xấu bắt đầu nổi loạn. Kinh hoàng, hoảng hốt, họ ào ra giữa phi đạo và cản trở sự không vận. 10 giờ 45 tới (giờ Hoa Thịnh Đốn) ngày 28/4 Ford rất do dự khi ra lệnh cuộc di tản cuối cùng. Trước đó một lát, chúng tôi đã hội đàm không phải nghĩa của danh từ đao to búa lớn mà theo đó cơ hội có thể xuất hiện trong những sách lịch sử sau này. Mà với cảm nghĩ tưởng niệm những nạn nhân xấu số mà chúng tôi đã bỏ rơi lại đằng sau:
Kissinger: “Họ có đủ thẩm quyền gởi yêu cầu không vận khẩn cấp bất cứ lúc nào trong đêm nay, đêm của chúng ta – và họ phải yêu cầu trước khi ngày chấm dứt ở bên đó.”
Ford: “Cuối ngày ở bên đó hay sáng mai ở đây?”
Kissinger: “Sáng ngày hôm sau ở đây nếu C -I 30 không cất cánh được thì trực thăng vận sẽ đảm trách.”
Ford: “Đó là một điều nhục nhã thực sự, 24 giờ nữa hay 12 giờ nữa?”
Kissinger: “12 giờ nữa và chúng ta sẽ cứu vớt được 8000 nhân mạng.”
Ford: “Ông Henry ơi, chúng ta đã làm hết sức mình có thể.”
Kissinger: “Thưa tổng thống, ngài một mình chủ động vấn đề chống lại mọi lời khuyến cáo và chúng ta đã đùa giỡn từ lâu như trò chơi.”
Ford: “Ừ, tôi hy vọng tướng Smith và Graham Martin bây giờ sẽ hiểu chúng ta đang ở đâu và sẽ không do dự để hành động.”
Kissinger: “Ờ, chúng ta cần hỏi lại Martin coi. Tôi đã nói chuyện với ông ta 15 phút trước đây. Tôi không thể nói rằng ông ta muốn làm vậy nhưng ông sẽ làm như vậy. Ông ta muốn ở lại với 2 người để lo cho những người Mỹ có thể xuất hiện vào giờ chót. Nhưng tôi không nghĩ là chúng ta có thể thanh minh được.”
Ford: “Tôi cũng không nghĩ vậy, Henry ạ.”
Kissinger: “Chúng ta không thể cho chúng nó bất cứ con tin nào.”
Để có một ý niệm rõ rệt hơn về sự ô hợp lạ lùng của tình trạng chán nản và buồn thảm của những giờ phút cuối cùng này tôi xin kèm theo đây những cuộc đối thoại nổi bật trong sổ nhật ký.
11 giờ tối, tôi gọi điện cho Martin và nói với ông ta hãy xả láng: mọi Mỹ kiều phải cùng lượt ra đi với nhiều người Việt chừng nào tốt chừng đó được chở trên những trực thăng đầy ắp trong cái gọi là ngày cuối cùng của không vận. Martin đồng ý về di tản nhưng đề nghị ở lại với 2 người tình nguyện để giám sát sự chuyển tiếp trật tự đã xác nhận sự nghi ngờ của tôi rằng ông ta dự tính tự tử như tướng George “Chinese” Gordon – vị tư lệnh lừng danh của Anh đã bị quân Mahdi giết ở Khartoum năm 1885 sau khi ông ta từ chối ra đi. Chúng tôi cần ít sự kiện hơn là để cho ông Đại Sứ của chúng tôi ở Sài Gòn bị bắt làm con tin bởi Bắc Việt trong ngày mà mọi nổ lực của chúng tôi ở đó bị thất bại. Vì thế tôi ra lệnnh Martin phải ra đi: “chúng tôi muốn những người anh hùng của chúng tôi phải trở về Hoa Thịnh Đốn, họ không có nhiều ở đây.”
Mọi ghi nhận không được rõ rệt về sự kiện Hà Nội gia tăng tấn công vào Sài Gòn ở lúc chót hoặc chúng đang theo một kế hoạch theo đó sự trả lời của chúng với Nga sô là điều thất vọng cuối cùng. Trong lúc này, tôi tin rằng bài diễn văn của Ford ở Tulane đã dục Hà Nội đi tới thời điểm, bởi vì kết quả là nó đã xóa bỏ sự nguy hiểm cuối cùng của sự tái can thiệp của Mỹ – mặc dầu hiện tại thực sự cần phải có một mức độ phi thường về hoài nghi phi lý của bắc Việt để quan tâm kỹ đến sự đe dọa này. Hồi ký của tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh, không nhắc đến bài diễn văn của Ford, như người ta đã làm trong hầu hết những dẫn chứng khác trong các cuộc tranh luận ở quốc nội Hoa Kỳ. Theo Dũng, tuy nhiều, điều thúc dục Hà Nội có quyêt định nhanh là “Kế hoạch ngoại giao khôn khéo” của Mỹ và bù nhìn của họ.
“Những kế hoạch ngoại giao khôn khéo của Mỹ-ngụy dồn dập tới, kèm theo những sự đe dọa nhắm vào chúng ta, có mục đích ngăn chận quan ta tổng tấn công Sài Gòn, và làm cho ta càng phải đánh gấp hơn, tấn công mau hơn, và tranh thủ từng giờ, từng phút để dành thắng lợi hoàn toàn.”
Ý kiến của Hà Nội về “những kế hoạch ngoại giao khôn khéo” là Sài Gòn có thực hiện tốt từng bước mà phong trào phản chiến Mỹ đã đòi hỏi từ thập niên qua: Thiệu pahỉ từ chức và nới rộng chính phủ. Thiệu đã ra đi và trong ngày 24/4, người kế vị là tổng thống Trần Văn Hương, đã nới rộng chính phủ bằng cách mời tướng Dương Văn Minh giữ chức Thủ Tướng. “Minh cồ”, như tên hiệu của ông ta, là nguồn hy vọng lớn của những nhóm chống đối Việt Nam từ năm 1967 khi ông thất bại trong cuộc tranh cử gay go với Thiệu. Làm người trung lập, Minh cồ có thể được Việt cộng chấp thuận, mặc dầu Lê Đức Thọ đã bày tỏ với tôi sự chống đối hoàn toàn.
Trong sự đấu tranh cuối cùng để chọn ai là thuyền trưởng của con tàu sắp chìm, Minh từ chối chức Thủ tướng vì ông cho rằng sự đề nghị do chính quyền cũ mà nay đã bị lật đổ. Thay vào đó, ông ta dòi Quốc Hội chỉ định ông làm tổng thống với trách vụ chấm dứt chiến tranh và thành lập một chính quyền chuyển tiếp. Hai ngày qua để hoàn tất thủ tục đề nghị này, và “Minh cồ” các cuối cùng được phong tổng thống ngày 27/4. Ông chỉ được tại chức trong 72 giờ, chỉ vừa đủ để làm hai việc: ông ta yêu cầu Hà Nội ngưng bắn và mở cuộc thương thuyết chính trị và đã bị bác khước. Và ngày 29/4 ông ra lệnh mọi Mỹ kiều phải rơì khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ. Vì điều này trùng hợp với kế hoạch rút lui của chúng tôi nên nó đã giúp chúng tôi ra đi mà tránh được lời cáo buộc chúng tôi đã bỏ rơi đồng minh, bạn hữu. Đồng thời, văn phòng ngoại giao Pháp dự tính thiết lập sự tiếp xúc ngoại giao giữa người đại diện Mặt trận giải phóng ở Ba Lê và những nhà ngoại giao Mỹ – mà phía mặt trận rất nôn nóng cần gặp.
Nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội không phải đã chiến đấu trong 3 thập niên để rồi bây giờ chấp nhận một chính phủ chuyển tiếp tại Sài Gòn, không được độc lập ngay cả nếu là cộng sản chăng nữa. Ngược lại, sự tấn phong Minh có thể làm cho Hà Nội đánh mau hơn. Hình như đã chuẩn bị trước sẵn sàng cho Thiệu một thời gian sửa soạn hơn là đám người kế vị có nhiều thất vọng.
Chế độ Thiệu đã sụp đổ và vài ngày nữa cũng không thể làm sống lại d. nhưng nếu một chính phủ được quốc tế thừa nhận xuất hiện tại Sài Gòn có thể phụ trách việc ngưng bắn và nói chuyện với Hoa Kỳ thì nó có thể đưa đến sự độc lập cho nam Việt – mặc dầu là một thể chế cộng sản. Hà Nội sẽ không chấp nhận điều này. Vậy trận chiến cuối cùng của Hà Nội tại Sài Gòn có thể xảy ra với người người cộng sản tại Việt Nam mà phong trào đấu tranh của nhóm phiến loạn đã khởi đầu tấn thảm kịch toàn diện từ nhiều năm trước đây.
Cũng không ngạc nhiên gì, sự tiếp xúc với mặt trận ở Ba lê không bao giờ thực hiện được.
IV. NGÀY CUỐI CÙNG
Sau khi yêu sách tòa Bạch Ốc trong 3 tuần lễ để tiến hành nhanh chóng cuộc di tản, kế hoạch của Ngũ Giác Đài để hoàn tất đã xảy ra đúng kỳ hạn. Đã có vài sơ hở trong sự điều hợp giữa đoàn trực thăng trên các hàng không mẫu hạm và chiến thuật không vận để yểm trợ tại căn cứ Thái Lan, đưa đến sư bất đồng giữa các vị tư lệnh về vấn đề cuộc hành quân sẽ được khởi sự vào lúc náo, vào giờ quốc tế Greenwich hay giờ địa phương. Một thời khóa biểu đã phải thiết lập và cuộc hành quân đã khởi diễn chậm vài giờ.
Trong khi những Mỹ kiều được bốc đi từ mái nhà tòa Đại Sứ Mỹ trong sáng 29/4 (giờ Hoa Kỳ), Ford, Schlesinger cà tôi thuyết trình trước các nhà lãnh đạo Quốc Hội. Tiếp tục giữ lập trường như ngày hôm qua, các nhà lập pháp cố tìm một giải pháp chính trị cho thấy sự di tản mà chúng tôi đang thực hiện sẽ kết thúc khả năng của Hoa Kỳ ảnh hưởng đến hậu quả chính trị.
Sau đó, mọi người im lặng. Tôi ngồi cô đơn nơi góc phòng của cố vấn an ninh quốc gia ở cánh trái của tòa Bạch Ốc bao trùm bởi một sự hiu quạnh thỉnh thoảng đợi chờ những biến cố mới có thể xảy ra. Văn phòng Cố Vấn An Ninh Quốc Gia là trung tâm chỉ huy của Hoa Thịnh Đốn để điều hành cuộc di tản tại Việt Nam mặc dầu hành quân không vận được điều động bời Ngũ Giác Đài. Kế hoạch được Ngũ Giác Đài soạn thảo kỹ càng dựa theo yêu cầu khẩn thiết phải gia tăng tốc độ di tản đã bảo đãm cho Ford và tôi tin tưởng hoàn toàn sẽ có thể bị trục trặc vào giờ chót chăng? Nói một cách khác, Ford hay tôi cũng không thể còn ảnh hưởng đến thành quả được nữa, chúng tôi chỉ còn là khách bàng quan của hành động cuối cùng . Vì vậy chúng tôi ngồi trong văn phòng cảm thấy thảnh thơi, không còn trách nhiệm nữa đối với bi kịch đang xảy ra, với sự bình an hiếm có trong văn phòng thượng đỉnh này.
Thực ra đó chỉ là một bộ chỉ huy mà không có chi để làm. Ford và tôi nhận những báo cáo đều dặn về tiến trình cuộc di tản. Phụ tá của tôi là Brent Scrowcroft theo dõi kỹ từng chi tiết ; mà không có ý kiến riêng hay đề nghị gì, chúng tôi không bao giờ có một cuộc rút lui danh dự, nếu cuộc rút lui trong những điều kiện này có thể được mô tả là danh dự Robert C. “Bud” Mcfarlane, người cố vấn An Ninh Quốc Gia cho tổng thống Reagan sau này, chịu trách nhiệm về quản trị hành chánh văn phòng tôi. Ông đã phục vụ ở Việt Nam và bây giờ với nước mắt đoanh tròng, đã phải chấp nhận mọi cơ chế của sự sụp đổ. Rất nhiều bạn TQLC của ông ta đã tử trận ở Việt Nam để làm cho thảm trạng này đừng xảy ra. Bud vô cùng xúc động, mặc dù ông ta đã là một cố gắng hào hùng và gần như thành công để tránh ràng buộc những người còn lại của chúng tôi vào nỗi đau đớn này.
Trong nỗi trầm kha huyền bí này, hình ảnh Việt Nam đã diễn lại trong trí tôi một quá khứ trôi qua chậm chạp, tôi cảm thấy khó khăn để phân tích những quyết định khác nhau đưa đến niềm hy vọng lúc này. Nếu tôi nghĩ vậy, có thể tôi đã kết luận rằng như tôi vẫn tin tưởng rằng thực sự không có điều nào khác ngoài chuyện giấu hàng ngày chiến lược chúng tôi đang theo đuổi. Những điều làm tôi đau khổ trong những giờ phút này là vai trò của tôi trong hành động cuối cùng sắp tới: thương thuyết gấp với Lê Đức Thọ đã bị bỏ dỡ về đề nghị ngày 8/10/1972. Không còn nghi ngờ gì nữa, Bắc Việt đã công bố cho toàn thế giới rõ sớm hơn chúng tôi làm. Thiệu cũng cố đào sâu vấn đề không kém; hậu quả ngoại giao nếu có) sẽ không được khả quan cho lắm. Quốc Hội sẽ bắt buộc kết thúc bằng một quyết định cúp viện trợ. Điều làm cho tôi đau khổ chưa bao giờ thấy là hoặc giả kết quả đó không được tốt đẹp hơn. Có phải là sự mất tinh thần của chế độ Sài Gòn đưa đến sự sụp đổ vào năm 1975 đã bắt đầu với những buổi hội đàm mà chúng tôi đặt ra từ 1972? Có phải là Nixon và tôi đã yêu sách quá nhiều khi chúng tôi cố tình bao quát vấn đề cân nhắc quan niệm về danh dự quốc gia? Có một căn bản tự hào lạc quan nào về cuộc thương thuyết của phái đoàn tôi và tôi ngày 8/10/1972, khi Lê Đức Thọ, thực ra muốn chấp nhận thời hạn của chúng tôi, và chúng tôi tự nghĩ về cả hai điều mong muốn cùng một lúc: chấm dứt chiến tranh trong danh dự và sự hòa hợp quốc gia?
Các đồng nghiệp của tôi và tôi tin rằng nhiệm vụ của chúng tôi là tranh đấu cho một giải pháp khác hơn là tái lập chủ quyền. Những người chống đối có thể tranh đấu cho Việt Nam có một xã hội phồn vinh, nhưng khi các đồng nghiệp của tôi và tôi nghĩ về Việt Nam thì vấn đề là tri ân hai giới nam nữ – những chiến sĩ và sĩ quan phục phụ hải ngoại – đã từng chiến đấu và đau khổ ở đây và những người bạn Việt của cta bây giờ phải đương đầu với một số phận bấp bênh và chắc chắn là khổ sở. Những người Mỹ này đã tin tưởng lương thiện rằng họ đã bảo vệ tự do chống lại kẻ thù bạo tàn trong rừng rậm và trên những cánh đồng lúa rộng lớn. Bị quần chúng khinh bỉ đánh giá thấp, Quốc Hội mạt sát, phong trào phản chiến mĩa mai, họ đã giữ vững truyền thống lý tưởng của Mỹ quốc, liều chết và dấn thân tuổi trẻ vào một cuộc chiến mà một nhóm nhà lãnh đạo Mỹ đã khởi xướng rồi vứt bỏ và cuối cùng khước từ. Chính họ chứ không phải một thiểu số xấu, mục đích của họ chứ không phải sự htất bại tối hậu, trách nhiệm của Hoa Kỳ đối với nền an ninh thế giới tự do chứ không phải sự tức giận liên hệ đến những điều trên đã tạo nên tư tưởng của tôi khi tôi ngồi tại bàn giấy và Việt Nam đã bị sụp đổ.
Giấc mơ của tôi đã bị cắt ngang bởi một cú điện thoại gọi cho biết ngày hôm đó một chuyện không dính líu gì đến vụ trực thăng vận. Mà là của Lew Wasserman, nguyên chủ tịch MCA, một công ty viễn thông Hồ-Ly-Vọng và là một bạn thân: “mục đích của cuộc điện đàm này là để báo cho ông rõ là mọi vấn đề ông đang giải quyết ở đó đã có một số bạn của ông ở đây lo cho ông.” Rồi ông ta gác máy trước khi tôi có dịp trả lời. Lew Wasserman là một đảng viên dân chủ, một người chuyên môn chỉ trích đường lối của chúng tôi về Việt Nam, và tôi không thể nhờ vậy gì được nơi các dịch vụ của ông ta. Đó là một cử chỉ ưu ái và tôi không bao giờ quên ơn ông ta.
Rồi bên bờ vực thẩm của tử thần Việt Nam đã đưa tôi về với buồn giận và bi đát. Bây giờ là xế chiều ở Hoa Thịnh Đốn, và sau nửa đêm ở Sài Gòn, mặc dầu có sự chấp thuận từ đầu chấm dứt không vận lúc chạng vạng ở Việt Nam, Ford đã ra lệnh vẫn tiếp tục suốt đêm ngõ hầu một số lớn người Việt có thể được cứu vớt bốc đi – nhất là những người còn kẹt lại trong sân tòa đại sứ. Khoảng 2 giờ chiều tôi được báo cáo còn 760 người ở đó và với bất cứ lý do nào chỉ co 1 trực thăng đáp xuống 2 giờ trước đó. Tôi gọi Schlesinger để bàn tính làm sao chúng tôi có thể di tản nhóm người này và cùng một lúc thiết lập một kỳ hạn chót buộc cuộc di tản phải hoàn thất. Thật rõ ràng là Bắc Việt sẽ chắc chắn chiếm Sài Gòn lúc rạng đông. Ngay lúc này Schlesinger và tôi hành động rât ăn khớp. Chúng tôi dự trù 13 trực thăng sẽ đột xuất. Nhưng muốn bảo đảm chắc ăn, chúng tôi đồng ý sẽ phải sử dựng đến 19 chiếc. Martin sẽ là người cuối cùng trên chiếc trực thăng chót.
Cuộc đàm thoại giữa Schlesinger và tôi trong thời gian ban bố quyết định này đã đạt kết quả và làm cho bầu không khí của giờ phút này dễ chịu hơn bất cứ một cuộc hội thoại nào:
Kissinger: “Ông Jim.”
Schlesinger: “Dạ chào ông Henry. Chúng ta đã gửi một thông điệp cho họ vì những loại trực thăng 46 cũng như 53 – tổng số là 19 chiếc sẽ di tản 760 người còn lại – là tất cả tàu mà ông ta (Martin) có, và chúng ta mong họ- ông ta – sẽ ra đi trên chiếc thứ 19 là chuyến sau cùng để kết thúc luôn vào khoảng 3g 30 sáng”.
Kissinger: “Bây giờ ông nói với ông ta, ông Jim ơi, nếu ông không thêm đây là lệnh của tổng thống thì ông ta sẽ không thi hành đâu.”
Schlesinger: “Đúng lắn,một chúng tôi sẽ thi hành.”
Kissinger: “Đó là điều mà tôi muốn chắc ông sẽ nói thêm như vậy.”
Schlesinger: “Tôi sẽ làm đúng y như vậy. Ông ta là một nhân vật với một sứ mạng.”
Kissinger: “Ồ, ông ta có một người con trai tử trận tại đó.”
Schlesinger: “Vâng, ông nên thán phục ông ta.”
Kissinger: “Hãy nhìn kỹ những suy tư của ông ta đã đi đúng chiều hướng.”
Schlesinger: “Đúng như vậy. Tưởng nhớ và nghị lực.”
Kissinger: “Và tôi nghĩ...”
Schlesinger: “Ông khóc...”
Kissinger: “Tôi nghĩ ông và tôi sẽ rất sung sướng làm điều này.”
Tôi ghi lại giai doạn nầy bởi vì 20 năm sau tôi đã xem một chương trình vô tuyến truyền hình kể lại một ông đại tá quá xúc động kể nỗi khổ tâm của ông ta khi nói có 400 người bạn Việt của Hoa Kỳ bị bỏ lại bên trong tòa đại sứ là nơi mà ông ta đã điều hành cuộc di tản. Tôi đã bùi ngùi và đi tìm gặp ông đại tá đó ở trường đại học chiến tranh lục quân và xác nhận lời tuyên bố của ông ta trong chương trình đó. Không ai nói với tôi điều đó cả, cũng như không có một hồ sơ lưu trữ nào về sự bỏ rơi trong nhiều buổi họp tham mưu chung quanh biến cố này cả.
Tôi vẫn còn chưa hiểu những gì đang xảy ra. Tôi biết 19 chiếc trực thăng đã rời khỏi tòa đại sứ – vì tôi đã được báo cáo sau mỗi chuyến cất cánh và martin đã bay trên chuyến cuối cùng. Tôi không có một giải thích nào tại sao có người bị bỏ sót lại ngoại trừ cổng sắt tòa đại sứ đã được mở lại để được đón thêm một nhóm khác sau con số nguyên thủy 760
Không lâu sau 4 giờ chiều tôi đã trấn an George Meany, chủ tịch AFL-CIO rằng những nhà lãnh đạo nghiệp đoàn lao động đã được bốc đi. Lời yêu cầu của ông ta là một trong nhiều yêu cầu gửi đến chúng tôi để di tản một số người Việt có nhiều liên hệ mật thiết với Hoa Kỳ. Đến 4g 58 giờ Hoa Thịnh Đốn (4g 58 sáng hôm sau ở Sài Gòn) Martin rời khỏi tòa đại sứ ra đi trên chuyến trực thăng thứ 19 hay sau chót hay cái mà chúng tôi nghĩ là cuối cùng. Ông ta đã thi hành một công tác phi thường. Chỉ huy quán xuyến, nhiều khi ương ngạch cứng đầu; ông ta là một người tận tâm can đảm như ông ta từng là người cẩn thận chu đáo. Trong một thời gian 2 tuần lễ martin đã điều hợp nhịp nhàng cuộc đi tản trên 50 ngàn người Việt và 6000 Mỹ kiều mà chỉ có 4 người bị thương. Ông ta đã giữ cho tình thế được yên tĩnh bình thường để có thể di tản 80 ngàn người tị nạn khác. Câu văn phụ thêm tôi gửi cho ông ta trên chiếc tàu cứu nạn đã xuất phát từ trái tim tôi.
Tôi chắc rằng ông biết tôi nhận cảm sâu xa đến chừng nào về công tác ông thực hiện trong những điều kiện ngặt nghèo, xin ông hãy nhận lời tri ân sâu xa tự tim tôi và những lời thán phục nồng hậu.
Brent Scowcroft, người đã từng trao đổi hầu như hàng ngày với Martin đã thêm vào phần tái bút: “Gramham ông là thần diệu. Ký tên: Brent”. Đối với Brent đây là điều tương đương với sự tuyên dương ôcng trạng Martin với huy chương danh dự Scowcroft.
Ngay sau khi tôi nghĩ là chuyến trực thăng cuối cùng đã cất cánh tôi băng ngang qua khoảng trắng giữa tòa Bạch Ốc và tòa nhà văn phòng điều hành quản trị cũ để họp báo. Tóm tắt các biến cố torng ngày, tôi giải đáp các câu hỏi, niềm tin tưởng thúc đẩy dồn dập là buộc tôi xác nhận quan điểm có sẵn của các phóng viên là một việc đã xảy ra là một lỗi lầm không thể tha thứ được. Bực bội về những thảm trạng xảy ra cùng lúc trên thế giới, tôi đã từ chối trách nhiệm:
“Tôi nghĩ rằng đây không phải là một cơ hội, khi người Mỹ cuối cùng đã rời khỏi Sài Gòn, để đánh giá 1 thập niên rưỡi của chính sách đối ngoại Hoa Kỳ, bởi vì cũng rât công bình mà nói rằng nếu năm thời chính quyền đảm nhiệm, sau hết tất cả bởi những con người phục vụ cho quyền lợi của mẫu quốc họ đã đưa đến những kết luận có thể có những trục trặc trong vấn đề đánh giá của họ ngay cả nếu co những lý do khác biệt làm cho mọi cố gắng không thể thành công được.
Như tôi đã đề cập tời, có những yếu tố đặc biệt quyết định trong những năm gần đây. Nhưng tôi nghĩ rằng những cái gì mà chúng ta bây giờ cần ở quốc gia này, ít ra là vài tuần lễ và hy vọng trong vài tháng tới là hàn gắn vết thương và thông qua vấn đề Việt Nam và chỉ chú tâm vào những vấn đề trong tương lai mà thôi.
“Trở lại văn phòng tôi, tôi vẫn nhận thấy rằng Việt Nam vẫn còn khó bỏ qua được dễ dàng.”
Trong khi Graham Martin và những cộng sự viên còn lại của tòa địa sứ đã ra đi thực sự lúc 4g 58 sáng giờ Sài Gòn những đơn vị của lũ đoàn 9 thủy bộ bảo vệ cuộc di tản – gồm có 129 TQLC đã bị bỏ rơi lại vì vài lý do khó hiểu, không giải thích được. Những điều đáng tin cậy được nhen nhúm quanh sự việc này, nhưng những người trong chúng tôi ở phòng hội tòa Bạch Ốc không có thì giờ để nghĩ đến dư luận bên ngoài. Trực thăng vận đã hoàn tất. Đã 7g 53 tối giờ Hoa Thịnh Đốn và (đã thực sự là ban ngày ở Sài Gòn) khi chuyến trực thăng bốc người lính TQLC cuối cùng rời khỏi mái nhà tòa đại sứ.
Hai giờ sau đó đoàn xe tăng Bắc Việt lăn bánh vào Sài Gòn, một chiếc trong bọn ủi xập cổng chính của dinh độc lập. Không có sự bàn giao chính quyền bởi vì như thế sẽ áp đặt một sự độc lập hiện hữu hay ít ra là tự trị, Nam Việt Nam. Thay vì như vậy Minh cồ và toàn thể văn phòng nội các ông ta đã bị quản thúc và biến mât khỏi dư luận công cộng.
Chính phủ cách mạng lâm thời thoát thai từ mật trận giải phóng gây ấn tượng torng chính giới tây phương từ thập niên qua như là một chính phủ liên kết mọi thành phần ở Nam việt – cũng biến mất với Minh cồ. Trong vòng một năm cả hai Việt Nam được thống nhất theo truyền thống của cộng sản. Không phải là nền tự trị áp dặt cho miền Nam. Hàng trăm ngàn người ở miền Nam, kể cả những người ở trong chính quyền hay quân đội đều bị tập trung vào những cái gọi là “trại tù học tập cải tạo” – một danh từ hoa mỹ của các trại tập trung mà họ sẽ bị giam giữ hàng chục năm. Hàng chục ngàn người vượt biển làm thuyền nhân, nhưng nhà sư phật giáo đã từng đòi hỏi tự trị nơi nhà cầm quyền Sài Gòn đã góp phần với chính quyền Kenndy để lật đổ cố tổng thống Ngô Đình Diêm ở Nam Việt và chính phủ của ông ta đều bị bắt cầm tù trong những điều kiện hết sức dã man tàn bạo.
Ở Hoa Thịnh Đốn, không có gì thay đổi quan trọng do thảm cảnh Việt Nam cả. Ngày 1/5/75, một ngày sau khi Sài Gòn sụp đổ, hạ viện đã bác bỏ yêu cây của Ford về ngân khoản 327 triệu để tài trợ và di trú dân tị nạn đông dương. Những nhà lãnh đạo hạ viện trong nhiều tuần họp đã tranh cải chống lại cố gắng cứu trợ người Việt, và bây giờ hạ viện lại bác bỏ ngân sách tị nạn cho những người đã được cứu vớt. Những ý kiến thứ hai rất ít và rất mập mờ.
Cuối cùng trong chiều hướng thuận lợi để được yên ổn tâm hồn dài hạn, nay mai đây, chúng ta phải duyệt lại vấn đề tại sao những người tâm huyết của cả mọi phía đều không tìm được lối thoát để tránh khỏi sự tàn phá và tại sao tấn bi kịch nội bộ đã làm chúng ta tê liệt nội bộ đầu tiên rồi làm chuyện chúng ta phải bó tay? Như trong ngày chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi mái nhà tòa đại sứ thì chỉ có cảm giác trống vắng bỏ không tồn tại mà thôi. Những người trong chúng ta đã từng chiến đấu trên trận tuyến để tránh sự thiệt hại cuối cùng đều rất am hiểu thảm trạng để ôn lại lịch sử của sự can thiệp của Hoa Kỳ trong 20 năm. Và bây giờ thì đã quá chậm để thay đổi cục diện mọi tình huống.
“The End of Việt Nam", trích từ “Years of Renewal” – 1999 của Henry Kissinger, Ph.D. Phụng Hồng phỏng dịch.
|
|
|
Post by vietnam on Aug 1, 2009 12:47:18 GMT -5
McNamara và KissingerLê Văn - lược dịch Ngày 3 tháng Giêng 1973 – ba tuần rưỡi trước ngày ký Hiệp Định Đình Chiến Paris, lúc 5.45 chiều cựu bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, McNamara - lúc này là Thống đốc Ngân hàng Thế Giới - gọi phôn cho Henry Kissinger, lúc đó là Cố vấn An Ninh của Tổng thống Nixon và là nhân vật chủ chốt về phía Hoa Kỳ trong Hội Đàm Paris. Qua cuộc nói chuyện điện thoại này, McNamara muốn khuyến khích Kissinger không được nhượng bộ đồng minh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trong điều khoản mà chính McNamara gọi là “điều mơ hồ cố ý”. Đây chính là điều khoản mở đường cho Hoa Kỳ rút hết quân về “trong danh dự”, đồng thời cho phép quân đội Bắc Việt tiếp tục hiện diện ở miền Nam Viêt Nam. Đây chính là điều khoản khiến phái đoàn VNCH, vào thời điểm đó, không chịu ký Hiệp định Paris. Cuộc điện đàm được thu thanh lại, bản ghi xuống (transcript) được lưu trữ tại đại học George Washington, thủ đô Hoa Thịnh Đốn (Washington, D.C.) Henry K. và Robert S. McNamara Nguồn: Tổng hợp -------------------------------------------------------------------------------- Điện đàm giữa McNamara và Kissinger, 5 ngày 2 tháng Giêng 1973, về Hội đàm Paris Kissinger (K): Hello! McNamara (McN): Henry, Bob đây. Chức mừng năm mới. K.: Cũng xin chúc mừng năm mới ông bạn. McN.: Henry, vài ngày nữa thôi là tôi đi Phi Châu rồi, có lẽ trước khi ông lên đường trở lại (hội đàm) Paris, hay cùng lúc. Trước khi đi, tôi muốn gọi để nói với ông để nói “đừng để ý đến những chuyện chung quanh”. K.: Ông bạn thật tốt với tôi. McN.: Tôi quan tâm thật đó, ông bạn à. Ông trời biết lúc này ông bạn đang muốn bể đầu, tôi cũng hiểu rất rõ. Tôi nhớ lại câu ông nói với tôi, khoảng bốn năm trước, khi ông bắt đầu dính vô chuyện này và tôi đã dứt nó ra được một năm. Lúc đó, ông có nói ông nghĩ rằng bất cứ ai dính vô Việt Nam đều có nguy cơ “tù chết đến bị thương”. Nhưng nghĩ cho cùng, Henry, cũng không đến nỗi tệ như thế, nhất là với bàn tay của ông! Ông sắp sửa đi vào lịch sử như là người đã kéo Hoa Kỳ ra khỏi (vũng lầy) đó. Ông sẽ hoàn tất chuyện này một cách ngon lành. K.: Thật sự cám ơn ông bạn. McN.: Tôi thật sự nghĩ thế, Henry. Tuần rồi, tôi đi trượt tuyết ở Aston. Tuyệt vui! Nhưng thời gian đó cũng có ba bốn người quen gọi điện thoại nói về chuyện bỏ bom (Bắc Việt) và đủ thứ chuyện chung quanh. Trở về, tôi đã đọc hết những bài báo liên hệ mà trước khi đi chơi tôi dặn thư ký cắt ra để dành… cả những lời đồn đại trước khi tôi đi nghỉ và sau đó… nên tôi hiểu rõ những chuyện đang làm bận tâm mọi người bên đó (1). Tôi chỉ muốn nói, đừng để chuyện đó làm ông nản lòng! (2). Những lời chỉ trích cà chớn (3), nào là “lung tung”, “không rõ rệt” – Ông bạn à, ông và tôi biết chỉ có một cách duy nhất để giải quyết chuyện này (4), đó là phải cần giữ điều khoản cố tình mơ hồ (5) trong cái văn kiện khốn nạn (6) đó. K.: Đúng như thế! McN.: Nhất định phải giữ điều khoản đó, đây chính là cách làm ăn. K.: Không sao đâu! Ông bạn biết mà… chẳng qua là những tay chuyên ngồi văn phòng ghen tuông bày đặt ra thôi. McN.: Tôi biết chứ. Tôi có thể nói với ông… nhưng cũng chẳng cần nói, ông biết chúng ở đâu ra! Không chỗ nào khác hơn là hai tòa nhà ở trong thủ đô này (7). Cả hai đám này rất gần gũi với nhau. Nói gì thì nói, những điều ông bạn đang làm đều đúng đường. Nhưng đó là nhờ có ông, chứ vào tay người khác thì tôi chẳng bao giờ dám tin chúng ta có thể thoát ra khỏi nơi đó. K.: Cám ơn ông bạn rất nhiều. George McBundy và Lyndon B. Johnson (May, 1964) Nguồn: PBS.org -------------------------------------------------------------------------------- McN.: Tôi nghĩ, cũng chẳng phải là cái nhìn riêng của tôi đâu, mà chắc chắn của một số bạn khác của ông, cả McGeorge Bundy (8) và nhiều người tôi quen biết khác nữa. Bởi vậy ông không nên nghĩ mọi chuyện đang tối thui. Đã đành giai đoạn này có nhiều chuyện nhức đầu, điều này chắc chắn rồi, nhưng… K.: Những điều ông nói an ủi tôi rất nhiều. McN.: Cũng không phải ai cũng có cái nhìn gay gắt như những tay bình luận trên báo chí và những tay khác. K.: Phải đấy, tôi hy vọng khi ông trở về (sau chuyến đi Phi Châu) chúng ta đã vượt qua những trở ngại chính. McN.: Okay, chúc ông nhiều may mắn, Henry. K.: Cám ơn ông bạn, chào ông. McN.: Chào tạm biệt ông bạn. © DCVOnline -------------------------------------------------------------------------------- Source: Bản ghi chép cuộc điện đàm giữa McNamara & Kissinger 3/01/1973 (PDF). (1) nguyên văn: “.. in that building over there” – Chắc chắn McNamara muốn nói đến tòa Bạch Ốc, nơi Kissinger làm việc. Sự thật là tòa nhà World Bank và nhà Bạch Ốc chỉ cách nhau một dãy phố. (2) nguyên văn: “Just let it get you down, that’s all” – có nghĩa: “Cứ để cho chuyện đó làm ông nản lòng”. Nhưng như vậy không có nghĩa gì cả! Người dịch cho là McN. muốn nói “Just don’t let it get you down”, nhưng nói thiếu chữ “don’t”, hay người ghi lại từ băng thu âm đã chép thiếu. (3) nguyên văn “all this crap…”. (4) “chuyện này” tức là Hội nghi và Hiệp định Paris. (5) nguyên văn: “a conscious ambiguity”. Chắc chắn ám chỉ điều khoản “các lực lượng quân sự nước ngoài phải rút ra khỏi miền Nam”. Điều khoản này cho phép Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt Nam, đồng thời quân đội CS Bắc Việt lại được ở lại miền Nam một cách “hợp pháp”, vì CS miền Bắc đâu có chịu nhận là họ có quân ở miền Nam - tất cả đều là quân của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam! (6) nguyên văn: “the damned thing”. (7) Một trong hai “toà nhà” mà McNamara nói tới, chắc chắn là bộ Ngoại Giao, còn “tòa nhà” thứ hai có lẽ là Ngũ Giác Đài tức bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. (8) McGeorge Bundy là cố vấn của TT Kennedy và TT Johnson. McGeorge Bundy từng tuyên bố: Nếu không bi ám sát và tái đắc cử năm 1964, TT Kennedy sẽ giảm quân số của Hoa Kỳ ở Việt Nam.
|
|
|
Post by vietnam on Sept 8, 2009 1:29:03 GMT -5
|
|
|
Post by vietnam on Sept 8, 2009 2:02:51 GMT -5
|
|
|
Post by vietnam on Sept 8, 2009 2:09:10 GMT -5
Winston Churchill- England
|
|
|
Post by vietnam on Nov 12, 2009 3:46:45 GMT -5
20 nãm sau cuôòc caìch maòng châu ÂuNãm 1989 ðaÞ laÌm thay ðôÒi thêì giõìi. NhýÞng câu chuyêòn nhý Thiên An Môn vaÌ Býìc TýõÌng Berlin nay ðaÞ thaÌnh caìc dâìu âìn liòch sýÒ. ChuÒ biên ngoaòi giao cuÒa BBC Brian Hanrahan ðaÞ chýìng kiêìn nhiêÌu sýò kiêòn vaÌ tiÌm laòi býõìc chân ngaÌy xýa cuÒa miÌnh, noìi chuyêòn võìi nhýÞng ai týÌng liên quan, vaÌ tiÌm hiêÒu caìc aÒnh hýõÒng theo thõÌi gian. Ðoì laÌ nhýÞng nãm loaòn laòc, không ðoaìn ðýõòc vaÌ cuÞng không traình ðýõòc. Võìi chuìng tôi thiÌ trong mõì sýò kiêòn hôÞn loaòn ðoì, luôn phaÒi tiÌm xem câu chuyêòn thýòc sýò chuìng tôi ðang chýìng kiêìn laÌ giÌ. Ngay caÒ nhýÞng ai coì quyêÌn lýòc coì thêÒ thay ðôÒi sýò kiêòn cuÞng phaÒi ngaòc nhiên. Kêìt quaÒ không phaÒi laÌ nhýÞng giÌ hoò giaÌnh giâòt. Ðoì laÌ môòt nãm maÌ quyêÌn lýòc ðýõòc chuyêÒn týÌ giõìi laÞnh ðaòo côòng saÒn, vôìn không cho pheìp ngýõÌi ta ðãòt câu hoÒi hay baÌn luâòn vêÌ chiình saìch cuÒa hoò, sang caìc cuôòc biêÒu tiÌnh ðông ngýõÌi ðaÞ laÌm tan chiình phuÒ vaÌ veÞ laòi baÒn ðôÌ châu Âu. ChiÒ coì Trung Quôìc laÌ khaìng laòi baình xe liòch sýÒ bãÌng haÌnh ðôòng ðaÌn aìp daÞ man cuôòc biêÒu tiÌnh. ThõÌi gian ðoì châu Âu cuÞng gâÌn sãìp lâm vaÌo caÒnh ðâÞm maìu. Môòt ðêm thaìng MýõÌi tôi nhiÌn thâìy quân liình Ðông Ðýìc câÌm suìng vaÌ sãÞn saÌng bãìn vaÌo ðaìm ðông trên ðýõÌng phôì. ChiÒ nhõÌ Bôò chiình triò Ðông Ðýìc yêìu thâÌn kinh nên mõìi không diêÞn ra caÒnh thaÒm saìt. Nhýng luìc ðâÌu không coì chiÒ dâìu giÌ laÌ chuìng ta seÞ chýìng kiêìn caÒnh suòp ðôÒ cuÒa chuÒ nghiÞa côòng saÒn, vaÌ kêìt thuìc Cuôòc chiêìn tranh laònh. Tôi ðoòc laòi sôÒ tay vaÌ không tiÌm thâìy ghi nhâòn giÌ laÌ hôòi nghiò baÌn troÌn õÒ Ba Lan bãìt ðâÌu hôÌi thaìng Hai coì thêÒ keìo theo sýò xuâìt hiêòn cuÒa nhaÌ nýõìc phi côòng saÒn ðâÌu tiên õÒ Ðông Âu. ChãÒng mâìy ngýõÌi nghiÞ nhý vâòy. Cuôòc ðâìu tranh giýÞa phe côòng saÒn Ba Lan vaÌ phong traÌo Công ÐoaÌn ÐoaÌn Kêìt ðaÒ keìo daÌi caÒ thaìng trõÌi, vaÌ týÌ London trông coì veÒ nhý laÌ caìc ðôìi saìch ðang ðýõòc thýòc hiêòn nhãÌm ðêÒ giýÞ quyêÌn lýòc cho phe côòng saÒn Ba Lan. Chãìc chãìn ðoì laÌ nhýÞng giÌ nhýÞng ngýõÌi côòng saÒn ðiònh laÌm. Luìc ðoì môìi quan tâm õÒ London laÌ Aghanistan. Liên Xô ruìt quân khoÒi Afghanistan HôÌng quân Liên Xô ruìt khoÒi yì ðiònh kiêÒm soaìt ðâìt nýõìc vaÌ ruìt quân. Chuìng tôi - giõìi phoìng viên, nhaÌ ngoaòi giao, quan saìt viên, chiình triò gia - luìc ðoì côì gãìng diêÞn giaÒi xem ðiêÌu ðoì aÒnh hýõÒng thêì naÌo ðêìn tham voòng trong týõng lai cuÒa Liên Xô. Ðoì laÌ ruìt lui chiêìn thuâòt, hay hay ðôÒi hoaÌn toaÌn vêÌ chiình saìch? Võìi ba nãm sôìng õÒ Nga, luìc ðoì tôi cuÞng coì phaìn ðoaìn riêng cuÒa miÌnh. Tôi ðaÞ chýìng kiêìn caÒnh kinh têì khuÒng hoaÒng trên ðýõÌng phôì Maìtxcõva - thýìc ãn ngheÌo ðoì, nhaÌ cýÒa xâìu xiì, ðýõÌng xaì cýì nhý õÒ thêì giõìi thýì ba - vaÌ tin rãÌng ðoì laÌ môòt ðêì quôìc ðang suy yêìu. Tôi dýò ðoaìn laÌ noì seÞ suòp dâÌn týÌ ngoaÌi riÌa, môòt quaì triÌnh seÞ keìo daÌi nhiêÌu nãm. ChiÒ ðêìn thaìng MýõÌi thiÌ sýò thýòc mõìi bãìt ðâÌu roÞ. Khi phe côòng saÒn mâìt chiình quyêÌn õÒ Ba Lan, vaÌ ngýõÌi dân Ðông Ðýìc boÒ chaòy haÌng chuòc ngaÌn ngýõÌi qua ngaÒ Hungary, coÌn laÞnh ðaòo Liên Xô Mikhail Gorbachev ðêìn thãm Ðông Ðýìc. Tôi ðýõòc TiÌnh baìo Tây Ðýìc cho biêìt laÌ ông Gorbachew noìi võìi laÞnh tuò Ðông Ðýìc Erich Honecker laÌ HôÌng quân Liên Xô seÞ không uÒng hôò nêìu ông duÌng quân ðôòi ðaÌn aìp biêÒu tiÌnh. Hoò laÌm thêì naÌo ðêÒ coì ðýõòc nôòi dung cuôòc noìi chuyêòn nhaòy caÒm ðoì thiÌ chiÒ coì trõÌi ðâìt biêìt, nhýng kêìt quaÒ thiÌ râìt roÞ. Caìc vêò tinh Xô Viêìt bây giõÌ phaÒi týò lýòc caình sinh. Ðây laÌ ðiêÌu hoaÌn toaÌn traìi ngýõòc võìi haÌng chuòc nãm trýõìc, khi xe tãng Liên Xô ðaÌn aìp ngýõÌi chôìng ðôìi õÒ Ðông Ðýìc, Hungary vaÌ Tiêòp Khãìc. ÐiêÌu ðoì môòt phâÌn viÌ Liên Xô không coÌn ðuÒ sýìc giuìp hoò, nhýng quan troòng hõn laÌ viÌ ông Gorbachev tin laÌ không câÌn thiêìt. ChuÒ nghiÞa côòng saÒn caÒi tôÒ, theo ông, seÞ phôÒ biêìn vaÌ ðaÌn aìp kiêÒu Stalin không coÌn câÌn thiêìt caÒ õÒ Liên Xô lâÞn nýõìc ngoaÌi. Ông ta ðaÞ sai. Nhýng chuyêòn ông chôìng baòo lýòc, vaÌ khuyêìn khiìch ðaòo ðýìc trong haÌng nguÞ laÞnh ðaòo diêÌu hâu cuÒa Liên Xô ðaÞ laÌm cho nãm 1989 hoÌa biÌnh hõn laÌ ngýõÌi ta coì thêÒ týõÒng týõòng. TiÌnh baìo Tây Ðýìc noìi thông ðiêòp cuÒa Gorbachev laÌ không uÒng hôò vuÞ lýòc Nhýng caìc chiình phuÒ coì thêÒ phaÒn ýìng kiêÒu naÌo khaìc? Ba Lan ðaÞ coì thoÒa thuâòn vaÌ cam kêìt tôìt nhâìt võìi Công ÐoaÌn ÐoaÌn Kêìt. CoÌn Ðông Ðýìc thiÌ âìn týõòng võìi nhýÞng giÌ ðaÞ xaÒy ra õÒ Trung Quôìc. Chiình quyêÌn côòng saÒn bên ðoì không thýõng tiêìc dâòp tãìt cuôòc biêÒu tiÌnh õÒ QuaÒng trýõÌng Thiên An Môn trýõìc con mãìt thêì giõìi nhiÌn vaÌo. Chiình quyêÌn Ðông Ðýìc gýÒi thông ðiêòp ðêìn DiêÞn ÐaÌn Mõìi, nhoìm ðýìng ðãÌng sau caìc cuôòc biêÒu tiÌnh. Hoò noì, "HaÞy nhõì Thiên An Môn." Môòt trong sôì nhýÞng kyì ýìc maònh nhâìt cuÒa tôi trong nhýÞng nãm thaìng ðoì laÌ nhiÌn neìt mãòt Jens Reich, môòt trong sôì nhýÞng ngýõÌi saìng lâòp DiêÞn ÐaÌn Mõìi, khi ông nghe thâìy ðiêÌu ðoì. Neìt mãòt taìi xaìm, vaÌ yì thýìc ðýõòc mýìc ðôò daÞ man cuÒa nguy cõ, ông lâòp týìc noìi hoò phaÒi tiêìp tuòc. "Chuìng ta phaÒi tiêìp tuòc ðôìi thoaòi, ðêÒ ngýõÌi dân coì thêÒ noìi, trýõìc khi tâìt caÒ hoò biêìn mâìt. Tôi caÒm thâìy tôòi lôÞi laÌ ðaÞ không câìt tiêìng noìi sõìm hõn." Cuôìi cuÌng thiÌ loÌng duÞng caÒm cuÒa ông, vaÌ sýò ðôòng viên cuÒa haÌng triêòu ngýõÌi nhý ông ðaÞ laÌm chiình quyêÌn côòng saÒn suòp ðôÒ khãìp châu Âu. Nhýng nguy hiêÒm thiÌ thýòc sýò vaÌ kêìt quaÒ vâÞn coÌn biò nghi ngõÌ ðêìn tâòn phuìt cuôìi. Bây giõÌ môÞi quôìc gia phaÒi ðôìi phoì võìi cuôòc chiêìn riêng cuÒa miÌnh. Không coì giÌ khoì hiêÒu laÌ nhýÞng nãm thaìng ðoì laÌ nhýÞng nãm thaìng khoì khãn ðêÒ hiêÒu chuyêòn giÌ ðang xaÒy ra.
|
|
|
Post by vietnam on Nov 12, 2009 4:06:39 GMT -5
TT Thieu tu chuc 14-4-1975, noi rang nguoi My la khong dang tin tuong 14 Apr 1975, Saigon, South Vietnam --- Resigns. Saigon, South Vietnam: South Vietnam's President Nguyen Van Thieu is on the job in Saigon, April 14. After ten years in office, Thieu resigned April 21, denouncing the US as untrustworthy. --- Image by © Bettmann/CORBIS
|
|
|
Post by vietnam on Nov 12, 2009 5:36:49 GMT -5
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:33:23 GMT -5
Quan hệ Việt - Mỹ: Những bước thăng trầm hơn 200 năm Tàu Peacock từng đến Việt Nam vào thế kỷ 19 Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ không khởi đầu từ 10 năm trước, khi hai nhà nước thiết lập quan hệ ngoại giao, mà đã bắt nguồn từ trước đó rất lâu. Tổng thống Thomas Jefferson là người Mỹ đầu tiên quan tâm đến nước Việt Nam. Sau đó hơn một thế kỷ rưỡi, Hồ Chí Minh đã mở đầu bài diễn văn khai sinh ra nước Việt Nam dcch bằng một câu nổi tiếng: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng...", đó cũng là lời mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776, và tác giả không phải ai khác ngoài Thomas Jefferson. Bắt đầu từ số báo này, TN sẽ điểm lại một số cột mốc đáng nhớ trong mối quan hệ giữa hai quốc gia. Bài 1: Những tiếp xúc đầu tiên "Cha đẻ" của nước Mỹ tìm giống lúa xứ Đàng Trong Trong cuốn US - Vietnam 1787 - 1941, tác giả Hopkins Miller viết rằng sau khi tuyên bố độc lập (1776), Chính phủ Hoa Kỳ lần đầu tiên đã biết đến xứ "Cochinchina" tức là "Đàng Trong". Tháng 7.1787, Công sứ Hoa Kỳ tại Pháp lúc bấy giờ là Thomas Jefferson đang ở Paris tham gia các cuộc đàm phán thương mại đã ngỏ ý muốn mua giống gạo của xứ Đàng Trong. Ông đã viết một lá thư cho bạn ở Mỹ: "Ông Poivre người thầu thuế vùng Ile-de - France, đang đi thăm nhiều nước châu Á, Ông cho biết là ở Đàng Trong trồng nhiều giống lúa, có ba giống cần nước, có ba giống mọc ở vùng cao". Ý định của Jefferson lúc đó rất rõ ràng: "Lúa cạn Đàng Trong nổi tiếng là trắng thơm và phát triển tốt, tôi sẽ cố cho đem về ít lúa Đàng Trong". Và vị tổng thống tương lai của Hoa Kỳ lúc đó đã liên hệ với con trai của Nguyễn Ánh là Hoàng tử Cảnh để tìm giống lúa. Do không đi tới kết quả nên 4 tháng trước khi cách mạng Pháp bùng nổ (1789) Jefferson tiếp tục viết thư cho Malesherbes - chính khách Pháp và cũng là nhà nghiên cứu thực vật học - với nội dung: "Nếu ngài có thể bận tâm kiếm cho tôi ít giống lúa Đàng Trong thì thật quả là ông có công lớn đối với đồng hương của tôi". Nhưng cuối cùng Malesherbes đã không giúp được Jefferson. Bản hiệp định thương mại dở dang Tổng thống Jefferson Năm 1829, khi Tổng thống Andrew Jackson lên nhậm chức, một phái bộ do Edmund Roberts được đích thân tổng thống cử sang đem theo dự thảo hiệp định thương mại để có thể thay mặt Chính phủ Mỹ ký với triều đình nhà Nguyễn. Đầu tháng 1.1832 chiến hạm Peacock chở phái bộ đến Vũng Lấm (nay thuộc Khánh Hòa). Nhưng sau nhiều ngày thảo luận hiệp định thương mại vẫn không được ký kết. Theo lời của Edmund Roberts thì trách nhiệm hoàn toàn thuộc về triều Nguyễn, với các thủ tục ngoại giao quá rườm rà, các quan chức được ủy quyền thương thuyết không có ý kiến rõ ràng, và hay lảng tránh các câu hỏi trực diện do Mỹ nêu ra. Phía Việt Nam tỏ ra quá dè dặt, thận trọng và có thái độ nghi kị. Lý do quan trọng nhất khiến các phái viên của triều Nguyễn không đồng ý ký rốt cuộc lại là những vấn đề thuộc hình thức văn bản. Họ cho rằng những lời lẽ viết trong dự thảo hiệp định không tuân thủ những công thức tôn kính cần phải có đối với Hoàng đế Việt Nam. Thậm chí còn căn vặn phía Mỹ, sau khi được giải thích rằng Tổng thống Hoa Kỳ là do bầu ra nên có nhiệm kỳ (thời hạn), rằng như vậy Tổng thống Mỹ không tương xứng với Hoàng đế Việt Nam. Sử liệu Việt Nam thì nói rằng hai viên quan được triều đình giao cho việc đàm phán với Edmund Roberts là Ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức. Sau khi nghe dịch nội dung quốc thư của Tổng thống Mỹ và dự thảo của hiệp định thương mại, thấy không hợp với cách thức đã không trình lên vua rồi viết thư trả lời rằng Vua Việt Nam không ngăn cản buôn bán, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Tàu Mỹ đến phải đậu ở Đà Nẵng, không được phép lên bờ. Nhận được thư này, phái đoàn của Edmund Roberts đã rời Việt Nam. "Đại sứ đặc mệnh toàn quyền" Bùi Viện Vua Tự Đức Có thể xem nhà cải cách Bùi Viện như là một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" đầu tiên của Việt Nam đi sang Mỹ. Một vị đại sứ đặc mệnh mà điểm đặc biệt là ra đi chỉ một mình, không quốc thư, không có tùy tùng chính thức. Một vị đại sứ được quyền tùy ý lựa chọn nước mình đến, và toàn quyền quyết định vấn đề trao đổi thảo luận. Năm 1858, hải quân Pháp nổ súng tấn công cảng Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Muốn cứu nguy cho dân tộc, Vua Tự Đức đã buộc nghĩ tới biện pháp phái người ra ngoài, giao thiệp tìm chỗ dựa để giảm bớt áp lực của Pháp và tìm con đường canh tân tồn tại. Tháng 7.1873 Bùi Viện vượt biển ra đi, sau hai mươi ngày lênh đênh trên biển ông đến được Hồng Kông. Đầu tiên Bùi Viện đến Lãnh sự Mỹ tại Hồng Kông. Tại đây ông kết giao với một sứ giả Mỹ và được ông này giúp đỡ để tiếp kiến Tổng thống Mỹ. Sau đó ông rời Hồng Kông sang Nhật Bản và đến cảng Yokohama xuống tàu đi Mỹ. Bùi Viện đến San Francisco rồi đến thủ đô Washington. Ở đây ông lại phải chờ đợi, tìm mọi cách vận động, sau gần một năm mới được Tổng thống Mỹ Ulysses Grant tiếp. Ông khẩn cầu Tổng thống Mỹ viện trợ Việt Nam đánh đuổi Pháp ra khỏi đất nước. Hoa Kỳ từ lâu đã muốn tìm một chỗ đứng ở phương Đông, nhân cơ hội này Mỹ muốn vào Việt Nam; nhưng Bùi Viện không có quốc thư ủy nhiệm nào để có thể đủ tư cách ký kết hiệp ước liên kết. Thất vọng, Bùi Viện đành xuống tàu quay về nước. Chuyến đi Mỹ lần thứ hai của Bùi Viện là vào năm 1875. Có trong mình quốc thư của Vua Tự Đức, ông hy vọng sẽ đạt những điều mong muốn. Tuy nhiên, bối cảnh trên thế giới lúc này các nước đế quốc đã thỏa thuận xong việc phân chia phạm vi thế lực lần thứ nhất. Pháp cũng đã đứng vững ở Việt Nam. Còn Mỹ thì có bao nhiêu việc cần ổn định trong nước sau nội chiến, tình hình quốc tế cũng chưa có lợi cho họ. Bùi Viện lại ôm mối thất vọng trở về. Xuân Danh
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:34:00 GMT -5
Archimedes Patti và tướng Võ Nguyên Giáp Tại sao nước Mỹ từng sát cánh với những người cách mạng Việt Nam trên một trận tuyến chung chống chủ nghĩa phát xít mà sau đó lại dính líu vào một cuộc can thiệp vũ trang thất bại tại Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này, Archimedes Patti, một sĩ quan tình báo Mỹ, người đã có mặt và can dự vào những biến động của lịch sử Việt Nam đã đi ngược lại thời gian trở lại thập kỷ 40. Bài 2: Hồ Chí Minh và những người Mỹ ở Côn Minh Gần 70 năm sau chuyến đi của Bùi Viện, năm 1941, người Việt Nam thứ hai nhìn thấy vai trò to lớn của Hoa Kỳ trong thế giới hiện đại chính là Hồ Chí Minh. Trong cuốn Why Vietnam? (Tại sao Việt Nam?) Archimedes Patti viết: Nhờ có đầu óc phân tích và sự thông hiểu sâu sắc tình hình chính trị thế giới, ông Hồ Chí Minh đã sớm rút ra kết luận phải tranh thủ tình cảm của nước Mỹ... Tháng 3/1944, ông Hồ quyết định đi Côn Minh, khi đi qua vùng Cao Bằng gần biên giới Trung Quốc, Hồ gặp một người phụ tá tin cẩn khác là Phạm Văn Đồng, người trước đây đã đề xuất các bản yêu sách cho Gauss và Tưởng Giới Thạch để xin tha cho Hồ ra khỏi tù. Qua Đồng, tình cờ ông Hồ biết là có một phi công Mỹ bị hạ đang được giữ trong một đơn vị du kích của Giáp gần đó. Hay tin, Hồ muốn nắm ngay lấy thời cơ may mắn này và ra lệnh đưa người Mỹ đó đến gặp. Sau một lúc nói chuyện thân mật và tin chắc rằng người Mỹ đã thấy được sự giúp đỡ của người Việt Nam, ông đã chỉ thị cho Đồng cho áp tải người Mỹ đó không chỉ đơn giản đến biên giới mà đến thẳng cho người Mỹ ở Trung Quốc. Đây là một dịp thuận lợi nữa để ông Hồ đề cao phong trào cách mạng với người Mỹ và làm cho họ phải chính thức công nhận phong trào của ông. Fenn, trung úy hải quân của chúng ta, lúc đó được phái đến để công tác ở Ban Không trợ mặt đất (AGAS) được nghe nói về một người An Nam tên là Hu Tze - ming đã giúp cho viên phi công bị hạ "trung úy Shaw" trở về Trung Quốc. Ngày 29/3, Fenn và Hồ Chí Minh được đưa đến giới thiệu với tướng Mỹ Chennault, Fenn kể lại: "Chennault rất cảm ơn Hồ về việc người phi công được cứu thoát - ông Hồ đáp lại rằng bao giờ ông cũng sung sướng được giúp đỡ người Mỹ và đặc biệt giúp tướng Chennault mà ông ta hết mực ca tụng. Họ chuyện trò về đội Hổ Bay, Chennault tỏ ra hài lòng về những câu chuyện mà Hồ biết chung quanh vấn đề này. Họ bàn chuyện cứu các phi công bị nạn. Không ai nói đến người Pháp, hoặc chuyện chính trị. Tướng Chennault đã ký tặng Hồ một tấm ảnh có hình ông với dòng chữ Bạn chân thành của anh - Claire L.Chennault". Cũng trong cuốn sách, Archimedes Patti đã nhắc đến hình tượng "con hải âu", kể lại câu chuyện người thủy thủ già trên con thuyền đang trôi dạt giữa bão tố đã dại dột bắn chết "con chim hải âu" - con vật báo hiệu điềm lành có thể cứu vớt họ. Đó cũng chính là câu chuyện ngụ ngôn để nói rằng nước Mỹ đã bỏ lỡ cơ hội trở thành đồng minh của dân tộc Việt Nam. Trong đoạn trích sau đây thuật lại cuộc chia tay với Hồ Chí Minh, kết thúc giai đoạn hợp tác chống Nhật giữa những người cách mạng Việt Nam và nhóm sĩ quan Mỹ, Patti đã có dịp tìm hiểu quan điểm của nhà lãnh đạo cao nhất Việt Nam về viễn tượng quan hệ giữa hai dân tộc. Tướng Claire L.Chennault "Đúng 7h00 tối, tôi có mặt ở phòng khách Bắc Bộ Phủ. Võ Nguyên Giáp chào tôi và cùng đi vào phòng khách, nơi Hồ đang chờ cùng với Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Hà và Trần Huy Liệu. Chúng tôi đã biết nhau nên không cần có nghi thức gì. Hồ chìa bàn tay mảnh khảnh đón tôi và nói: "Đây quả là một dịp không hay. Mong rằng anh chỉ xa chúng tôi một thời gian". Sau bữa cơm, chúng tôi ngồi lại chung quanh bàn 10 hoặc 15 phút. Trừ Hồ và Giáp, mọi người xin rút lui sau khi đã chúc tôi một cuộc hành trình thú vị và tỏ ý mong rằng tôi sẽ sớm trở lại để thăm hoặc công tác ở Việt Nam. Khi chỉ còn lại ông và tôi, Hồ hỏi ngay có phải là Mỹ đang cho phép Pháp trở lại Việt Nam hay không? Ông không bàn luận mà chỉ lo lắng và chỉ muốn qua tôi để biết một cách không chính thức điều mà tôi nghĩ hoặc biết về chính sách Mỹ đối với những ý đồ quá hiển nhiên của Pháp. Tôi nói cho ông biết chính sách của Mỹ khi tôi mới nhận nhiệm vụ là một chính sách "tránh khỏi" Đông Dương, ngoại trừ các hoạt động tình báo chống đối lại đối tượng người Nhật... Hồ lắng nghe một cách chăm chú rồi lắc đầu, nói ông không thể nào hiểu được rằng Mỹ, một nước nổi tiếng chống chủ nghĩa thực dân, lại làm ngơ và cho phép Anh và thậm chí cả Trung Quốc giúp Pháp trong mưu đồ áp đặt chế độ thuộc địa ở Việt Nam. Ông nhấn mạnh vào một sự cần thiết phát triển kinh tế của Việt Nam không phụ thuộc Pháp, Nhật và Trung Quốc, hoặc thậm chí cả Mỹ, mà độc lập với mọi sự thống trị của nước ngoài. Như Mỹ và Anh trước đây, Việt Nam chủ trương một sự tự do thông thương trên thế giới, chứ không phải như trước đây thì hạn chế vào nước Pháp hoặc Trung Quốc. Không có tự do thông thương, Việt Nam sẽ không bao giờ phồn vinh về kinh tế, và nhân dân Việt Nam như trước đây, sẽ bị chặn lại để chỉ làm những công việc thủ công tầm thường và buôn bán vụn vặt. "Nếu đó thực sự là một nguyên tắc cao siêu mà Mỹ và Anh đã phấn đấu trong chiến tranh thế giới thứ hai, thì tại sao trong bước khởi đầu thời kỳ sau chiến tranh, họ đã từ bỏ những nguyên tắc đó và đặc biệt là đã từ chối không áp dụng cho Việt Nam. Đúng là Mỹ đã giúp đỡ cho Việt Nam trong cuộc đấu tranh trước đây. Tại sao nay Mỹ lại tỏ ra nhu nhược trong khi Pháp vi phạm các nguyên tắc Hiến chương Đại Tây Dương và của Liên Hợp Quốc?" - Hồ lập luận. Tôi không đáp lại và Hồ cũng đã chẳng chờ đợi một câu trả lời". Trong suốt 30 năm sau đó, các chính quyền Mỹ lần lượt can thiệp ngày càng sâu vào Việt Nam, thoạt đầu là ủng hộ nguồn lực cho thực dân Pháp, sau đó trực tiếp gửi quân tham chiến bên cạnh chính quyền Sài Gòn chống lại nguyện vọng hòa bình, độc lập, thống nhất của người Việt Nam.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:36:59 GMT -5
Bỏ lỡ cơ hội thời tổng thống Carter (phải), đến tận thời ông Bill Clinton (trái) quan hệ Việt Nam - Mỹ mới được bình thường hóa Bài 3: Chặng đường dài đến bình thường hóa Cơ hội của Tổng thống Carter Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, Hiệp định Paris chấm dứt, Mỹ đã cắt đứt mọi quan hệ ngoại giao và kinh tế với Việt Nam. Tuy nhiên đầu năm 1977, Mỹ có chính quyền mới, Thống đốc bang Georgia Jimmy Carter lên làm tổng thống. Có hai đặc điểm nổi bật: một là xã hội Mỹ chia rẽ sâu sắc, hai là hội chứng chiến tranh Việt Nam nặng nề. Tháng 3/1977 chính quyền Carter đã chủ động đàm phán với chính phủ Việt Nam, Tổng thống Carter cử đặc phái viên Leonard Woodcock, chủ tịch tập đoàn ô tô Mỹ sang Việt Nam để đàm phán. Ở Hà Nội, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tiếp L.Woodcock và 4 thành viên, trong đó có thượng nghị sĩ Mansfield. Sau chuyến đi thăm mở đường này, hai bên đã thỏa thuận mở cuộc đàm phán về bình thường hóa quan hệ tại Paris. Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Phan Hiền dẫn đầu, phía Mỹ là Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Richard Holbrooke. Cuộc đàm phán diễn ra khá lâu qua 3 vòng tháng 5, 6 và 12/1977. Mọi chuyện có vẻ diễn ra thuận lợi. Tháng 9/1978, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch đến New York (Liên Hiệp quốc) để tiến hành các cuộc đàm phán "cuối cùng" với Richard Holbrooke - lúc này là Thứ trưởng Ngoại giao. Trong cuộc đàm phán đó, Việt Nam cũng không ra các điều kiện và hai bên đi vào thỏa thuận bình thường hóa. Vấn đề chỉ bàn nốt thông cáo chung. Sau đó Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch cử Thứ trưởng Trần Quang Cơ ở lại bàn tiếp. Tuy nhiên, sau nhiều tuần ở lại New York để hoàn tất các chi tiết để rồi nhận được câu trả lời rằng phía Mỹ thực ra chưa sẵn sàng cho bình thường hóa. Theo lời kể lại của John Mcauliff, giám đốc điều hành Quỹ hòa giải và Phát triển của Mỹ: "Sau này chúng tôi được biết ông Holbrooke và Ngoại trưởng Cyrus Vance đã phải nhượng bộ quan điểm cứng rắn của Cố vấn an ninh quốc gia Brzezinski coi việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến tiến trình bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Nguyên cớ mà người ta đưa ra công khai làm cản trở quá trình bình thường hóa quan hệ là vấn đề thuyền nhân người Hoa và cuộc xung đột đang leo thang tại Campuchia. Đây cũng chính là thời điểm chính thức gác lại việc bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ tới 17 năm sau. Sự thật về những bức ảnh “tù binh Mỹ” Tháng 7/1987, Tổng thống Ronald Reagan cử Đại tướng Mỹ John Vessey - đặc phái viên tổng thống sang Việt Nam bàn về vấn đề người Mỹ mất tích (MIA), Mỹ tỏ ra mềm dẻo với Việt Nam. Lúc này tại Hà Nội, Bộ trưởng Ngoại giao vc Nguyễn Cơ Thạch làm việc với John Vessey. Hai bên đều muốn tranh thủ cơ hội. Sau đó hai bên tiếp tục đàm phán nhiều lần, Bộ trưởng vc Nguyễn Cơ Thạch sang Mỹ từng đợt để thảo luận. Trịnh Xuân Lãng, nguyên đại sứ Việt Nam cs tại Liên Hiệp Quốc (LHQ) nhớ lại: "Năm 1988, tôi được cử sang làm đại diện tại LHQ, trên danh nghĩa Đại sứ tại LHQ, nhưng anh Thạch giao cho tôi công thức 70/30, tức là 70% thời gian là làm việc về Mỹ, 30% làm việc về LHQ... Sau chiến tranh, vấn đề MIA là vấn đề gay gắt, thuộc về tâm lý, tình cảm, chính trị rất lớn của nước Mỹ. Tình cảm là bởi vì 2.000 người chồng, người con của nước Mỹ bị ghi vào diện "mất tích”, gây xáo trộn nước Mỹ, bức xúc trong dư luận”. "Tình hình lúc đó căng như dây đàn", Lãng kể. "Lực lượng cực hữu, như cựu ngoại trưởng Henry Kissinger, và cựu Tổng thống Richard Nixon dùng vấn đề MIA phản đối vấn đề bình thường hóa. Thậm chí một số thành phần ở Mỹ kích động những gia đình có người mất tích chống lại tiến trình này. Các bức ảnh giả vu cáo Việt Nam giam giữ tù binh Mỹ được tung ra gây xáo động dư luận. Có một bức ảnh 3 tù binh Mỹ còn sống, trong đó gia đình Mỹ nhận là chồng, là bố. Gia đình cũng không tin là họ còn sống đã đến gặp tôi. Tôi rất khó xử, cuối cùng đã đề nghị bên nhà cho gia đình vào VN để xác minh. Cô con gái vào không giải quyết được gì. Còn bức ảnh tù binh Mỹ bị đưa sang Lào, phải đến Hải Dương để xác minh. Chưa hết, một số cựu nhân viên KGB dựng đứng tin rằng Việt Nam đưa tù binh sang Liên Xô, chính họ đã phỏng vấn. Đây thực sự là một tin chấn động nước Mỹ. Thậm chí một tướng của KGB còn ra điều trần trước QH Mỹ. Thực tâm tôi cảm thấy rất bất bình, và xin ý kiến chỉ đạo ở nhà, Bộ Ngoại giao chỉ nhắc nhở quan điểm rằng "không ai có quyền lợi dụng vấn đề MIA, vì đây là vấn đề nhân đạo. Tuy nhiên bản thân chính quyền Mỹ cũng muốn lập quan hệ ngoại giao, muốn giải tỏa vấn đề về MIA, nếu còn thì không thể bình thường hóa quan hệ được. Vì vậy đích thân họ đi điều tra. Sau khi tiến hành điều tra kỹ lưỡng có kết quả điều tra họ đã đưa ra dư luận để cải chính, bức ảnh 3 người Mỹ là họa báo Liên Xô từ năm 1924, nông trường tập thể. Còn ảnh ở Lào là ghép đi ghép lại những hình ảnh cũ ở chiến trường Campuchia. Chính quyền Mỹ một mặt báo cho ta biết sự thật, một mặt tuyên bố công khai đây đều là những bức ảnh bịa đặt. Trước đó chính quyền Mỹ đã cử một toán điều tra sang Liên Xô, và kết quả một cuộc điều tra công phu của QH Mỹ đều kết luận vấn đề các bức ảnh về tù binh Mỹ là không có thật”. Tài liệu tham khảo - Hồ sơ Văn hóa Mỹ của Hữu Ngọc - Why Việt Nam? của Archimedes Patti, - 42 đời Tổng thống Mỹ của William Adegregorio, - Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ - những bài học lịch sử của Vũ Minh Giang. - Hồi ký của Joseph Damond, trưởng đoàn đàm phán hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao vc Nguyễn Cơ Thạch và Ngoại trưởng Mỹ James Baker. Bài cuối: Ngày 3.2.1994 Đường đến Washington DC Trước khi bỏ cấm vận, việc đi lại của phái đoàn ngoại giao Việt Nam tại LHQ rất khó khăn. Trịnh Xuân Lãng - nguyên Đại sứ Việt Nam cs tại LHQ - nhớ lại: "Ban đầu, lệnh cấm vận Mỹ chỉ cho phép phái đoàn ta không được ra khỏi New York quá 25 dặm, lấy New York làm trung tâm. Nếu đi với mục đích nhân đạo thì được. Đầu tiên, các quan chức Việt Nam lên Washington theo lời mời của các tổ chức nhân đạo. Sau này, tôi thường xuyên lên Washington để gặp các nghị sĩ Quốc hội, các quan chức Thượng viện, Hạ viện Hoa Kỳ. Các nghị sĩ như McCain, John Kerry, Bob Kerry, Bob Smith. Các doanh nghiệp Mỹ cũng ủng hộ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam". Ngày 7.8.1989, Việt Nam cs và Hoa Kỳ bắt đầu có các cuộc đối thoại chính thức đầu tiên về vấn đề Campuchia tại trụ sở LHQ. Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao vc Nguyễn Cơ Thạch đã có một số cuộc gặp với Ngoại trưởng Mỹ James Baker. Từ ngày 27 - 29.9.1990, Nguyễn Cơ Thạch và James Baker tiếp tục gặp nhau và đây là cuộc gặp cấp cao chính thức đầu tiên giữa hai chính phủ kể từ sau Hiệp định Paris 1973. Hai bên không tiết lộ chi tiết, nhưng Bộ trưởng vc Nguyễn Cơ Thạch nói: "Người Mỹ cần phải hiểu rằng khác với các đường phố của New York, các hiệp định quốc tế bao giờ cũng có hai chiều. Trong bất kỳ trường hợp nào, chúng tôi có thể chờ đợi thêm để có các quan hệ thương mại và ngoại giao nếu cần thiết". "Roadmap" và những ngày cuối cùng Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Lê Bàng lúc đó là Phó đại sứ tại Liên Hiệp Quốc. Trịnh Xuân Lãng nhớ lại: "Ngày 9.4.1991 là một ngày không bao giờ quên đối với tôi. Sáng hôm đó, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ Richard Salomon bay từ Washington đến New York và trao cho tôi, đại diện phía Việt Nam cs bản "Road map" tức bản lộ trình bình thường hóa. Trong đó có hai vấn đề chính là MIA và Campuchia, bao gồm 4 bước. Tháng 9.1991 khi Hiệp định Paris về Campuchia bắt đầu thì cũng là lúc chúng ta tiến hành lộ trình". Ngày 21.11.1991, Thứ trưởng Ngoại giao vc Lê Mai từ Việt Nam sang cùng với Richard Solomon đàm phán lần đầu tiên về bình thường hóa quan hệ hai nước tại New York. Thật ra, đến cuối năm 1992, tức là khi cuộc bầu cử tổng thống bước vào giai đoạn cuối, có tin Tổng thống G.Bush (cha) chuẩn bị bỏ cấm vận trước lễ Noel, vì lúc này ông ấy cũng không thể ở Nhà Trắng thêm 4 năm nữa. Tổng thống Bush cũng muốn trở thành vị tổng thống khép lại vấn đề Việt Nam đối với nước Mỹ. Nghe ông Bush có ý định như vậy, Nixon và cựu Ngoại trưởng Kissinger kịch liệt phản đối. Có một câu chuyện khác, đó là ngay trước cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1992, chúng ta đã liên hệ với Bill Clinton (lúc đó là Thống đốc bang Arkansas), qua một người bạn làm luật sư của ông Clinton, vì chúng ta biết lập trường chống chiến tranh Việt Nam của ten Clinton. Và mọi chuyện đã diễn ra rất tốt đẹp". Cho đến tháng 3.1993, Trịnh Xuân Lãng chính thức kết thúc nhiệm kỳ của mình tại LHQ, Phó đại sứ vc Lê Bàng lên thay. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao vc Lê Bàng nhớ lại: "Lúc này chưa phải hết khó khăn, tù binh Mỹ vẫn là một vấn đề lớn, có những thông tin sai lệch về tù binh và phía chúng ta vẫn tiếp tục giải thích". Tuy nhiên, vào tháng 7.1993, Tổng thống Clinton quyết định cho các định chế tài chính như Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) có thể cho Việt Nam vay tiền. Lê Bàng kể lại: "Sáng 3.2.1994, đó là một kỷ niệm không thể nào quên đối với tôi. Đầu giờ sáng hôm đó, Bộ Ngoại giao Mỹ gửi thông báo mời tôi đến Washington nói là "có việc", họ chỉ thông báo vắn tắt như vậy. Đến Washington vào buổi trưa, khi tôi đang ăn trưa với giáo sư Fred Brown của Đại học Tổng hợp John Hopkins tại một nhà hàng thì nhận được một cú điện thoại qua máy di động từ Bộ Ngoại giao Mỹ "mời lên có việc". Họ vẫn nói ngắn gọn như vậy. Đến nơi, họ thông báo là nửa tiếng nữa tại Nhà Trắng Tổng thống Clinton sẽ chính thức tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, họ yêu cầu tôi giữ bí mật thông tin đó. Và lúc đó là khoảng 3 giờ chiều giờ Washington, tôi về nhà một người bạn và bật ti vi lên xem. Chúng tôi đã rất xúc động trước sự kiện này vì đây là cả một quá trình đấu tranh gian nan. Trong thời gian bị cấm vận, có thể nói là chúng ta hết sức khó khăn, không những kinh tế bị ảnh hưởng mà cả các quan hệ ngoại giao quốc tế cũng vậy". "Trước đó, tôi và một người bạn Mỹ rất thân đánh cuộc với nhau là Mỹ đã bỏ cấm vận trong năm nay chưa, tôi nói có, và người bạn Mỹ nói chưa. Cuối cùng, người bạn thua, phải trả cho tôi 5 đô la và nói: Thực ra tôi rất muốn thua trong vụ cá cược này, chúc mừng các bạn. Tôi vẫn giữ đồng 5 đô la này làm kỷ niệm như là một cột mốc đáng nhớ". Xuân Danh Tài liệu tham khảo: - Hồ sơ văn hóa Mỹ của Hữu Ngọc - Why Việt Nam ? của Archimedes Patti - 42 đời tổng thống Mỹ của William Adegregorio - Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ - những bài học lịch sử của Vũ Minh Giang - Hồi ký của Joseph Damond - trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
|
|