|
Post by vietnam on May 11, 2009 3:55:35 GMT -5
|
|
|
Post by vietnam on May 11, 2009 14:20:23 GMT -5
Nhận Định về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Tác giả: Đại tướng Louis C. Wagner Jr., Danh Mục: • Tài Liệu - Tủ Sách Ngày đăng: 6/17/2008 Lời giới thiệu: Đại tướng Louis C. Wagner Jr., khi còn là sĩ quan cấp tá, giữ chức vụ cố vấn trưởng các đơn vị Bộ Binh và Thiết Giáp Việt Nam Cộng Hòa tại Vùng 1 Chiến Thuật trong hai nhiệm kỳ, ông có cái nhìn về Quân lực Việt Nam Cộng Hòa rất rõ-ràng. Trong Lời Nói Đầu của cuốn STEEL and BLOOD, South Vietnamese Armor and the War for Southeast Asia do Naval Institute Press xuất bản vào tháng 10-2008, Tướng Wagner đã hết lời ca ngợi các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa và thẳng thắn nhận định về khả năng tác chiến của quân đội Nam và Bắc Việt Nam, đồng thời ông cũng khách quan kể lại những gì ông đã ghi nhận được trong thời gian phục vụ tại Nam Việt-Nam. Nhân ngày Quân Lực 19-6-2008, chúng tôi trân trọng phổ biến tài liệu này đến quý chiến hữu. Đại-tướng Wagner nói: Hầu hết các cuộc chiến-tranh đều được một số sách, nhiều bất-tận, theo sau, bàn về những kỳ công và hùng khí của những người đã từng vào sinh ra tử. Chỉ cần nhắc đến trường hợp Thế Chiến II: Số sách liên quan đến cuộc chiến tranh này hiện vẫn được tiếp tục viết ra theo một tốc độ kinh-ngạc. Nhưng trường hợp cuộc chiến của chúng ta, lâu dài nhất tính đến nay, là chiến-tranh Việt-Nam, thì lại không như vậy. Tuy đã có một số sách viết về vai-trò của Quân Lực Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh này, nhưng chính vì cái bản chất thất nhân tâm của cuộc chiến mà phần lớn tác phẩm đã không thể hiện chính xác được thực tại chiến-tranh, như hàng triệu nam nữ quân nhân Hoa Kỳ đã cảm nhận rõ vì họ đã phục vụ tại đó. Kể ra đã có hàng triệu người Việt Nam luôn nêu cao danh dự, phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa suốt cả thời chinh chiến, nhưng số người viết thì không nhiều, mà lại viết quá ít về quân vụ của chính họ. Hậu quả là hiện có nhiều kẻ vẫn tin rằng quân sĩ Việt Nam đã không quyết tâm chiến đấu để bảo vệ tự do cho quê hương. Nhận thức tai hại này vẫn tồn tại ngay cả trong số đông các cựu chiến binh Hoa-Kỳ có mặt trong chiến tranh Việt Nam, nhưng đã không cùng hoạt động song hành hoặc phục vụ bên cạnh các đơn vị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đại tá Hà Mai Việt đã viết xong một cuốn lịch sử tuyệt vời, đề cập đến thành phần quan trọng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Đó là lực lượng Thiết Giáp. Việc sưu tập tài liệu và viết ra một cuốn sách không dễ dàng. Bởi lẽ chỉ có một số ít sử liệu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa liên quan tới cuộc chiến tranh lâu dài trước kia còn sót lại sau khi Bắc Việt đã xâm chiếm Nam Việt-Nam. Do đó, Đại tá Việt đã phải bỏ ra tám năm trường, làm việc cực nhọc, đi hàng ngàn dặm, để truy tầm tin tức và phỏng vấn nhiều người, cố công phục hoạt cho bằng được một cuốn lịch sử nói về các đơn vị Thiết Giáp thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tác phẩm của ông độc đáo ở chỗ này: Nó không những chỉ trình bày khía cạnh tốt đẹp, mà còn nói cả đến những cái yếu kém của đơn vị Thiết Giáp, và của cấp chỉ huy Thiết Giáp. Ông thuật chuyện điềm nhiên, trung thực. Khi đơn vị hoặc cấp chỉ-huy thi hành tốt đẹp, thì ông kể lại rõ ràng và còn giải thích tại sao; khi họ thất bại, ông cũng mô-tả ra. . . Quả thực họa hoằn lắm mới thấy được tính cách ấy trong một cuốn lịch sử chiến tranh. Sở dĩ tôi có được cái nhìn bao quát về Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa mà nhiều người khác không sao có được, vì chính tôi đã từng phục vụ qua hai nhiệm kỳ với tư cách cố vấn trưởng cho các đơn vị tác chiến Việt Nam. Trong giai đọan 1964-65, tôi làm cố vấn trưởng cho trung đoàn 5, thuộc sư-đoàn 2 Bộ-Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai-đoạn này, trung đoàn 5 liên miên đụng trận nặng nề với các đại đơn vị được huấn luyện và trang bị tốt của Việt-Cộng tại mấy tỉnh ở phía Bắc. Khu vực này kể từ năm 1965 về sau, là vùng hành quân của thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Trung đoàn 5 lúc ấy được chỉ huy tốt, nhưng trang bị kém vì phải xử-dụng các loại vũ khí cũ rích, và gần như không có hỏa lực pháo binh yểm trợ. Nhưng bất kể tình huống đó, quân sĩ của Trung đoàn này chiến đấu giỏi mặc dù phải chịu đựng nhiều thương vong. Trong những năm 1971-72, tôi đã làm cố vấn trưởng cho trung đoàn 51 bộ binh và lữ đoàn 1 kỵ binh, và cũng ở tại mấy tỉnh phía Bắc. Vì đã có kế hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh kể từ năm 1969, cả hai đơn vị này đều được trang bị vũ khí và quân dụng ngang hàng với các lực lượng Hoa Kỳ, ngoại trừ pháo binh và không-quân. Sự kiện nâng cấp này đã tạo ra một khác biệt lớn lao xét về hiệu năng tác chiến. Lớn lao đến nỗi khó tưởng tượng được trừ phi đã từng phục vụ với Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong cả hai giai đoạn kể trên. Tôi sẽ không xoáy sâu vào cuộc tấn công mùa Phục Sinh của Bắc Việt năm 1972, bởi lẽ trận chiến này đã được gói ghém, trình bày đầy đủ trong cuốn sách này rồi. Tôi chỉ muốn nói thêm rằng đại đa số các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa mà tôi đã phục vụ đều đã chiến đấu giỏi. Luôn luôn bị địch quân đông gấp bội tấn công, họ vẫn ngăn chặn và sau cùng đánh bại cái đội quân trang bị và huấn luyện tốt của Bắc Việt. Không lực Hoa Kỳ, được các sĩ quan cố vấn Lục quân và Thủy quân Lục chiến Hoa-Kỳ phối hợp, đã giữ một vai trò chủ chốt trong sự thành-công. Bù đắp cho những khiếm khuyết về trang bị trong ngành pháo binh và không quân Việt Nam. Điều này nói lên đặc tính của các đơn vị tác chiến thuộc Nam Việt Nam thời bấy giờ. Buồn thay, chính vì cái tình cảm phản chiến tại đất nước chúng tôi mà Quốc Hội đã cắt giảm viện trợ dành cho Nam Việt Nam giữa lúc Liên Sô đang chỉnh trang và tiếp vận ồ ạt cho Bắc Việt. Quân Bắc Việt được bồi dưỡng xong xuôi, đã xâm chiếm và đánh bại Nam Việt Nam vào năm 1975. Nhiều chiến hữu Nam Việt Nam của tôi đã chết trong cuộc chiến đó hoặc đã bị giam-cầm suốt nhiều năm dài, độc ác tại những nơi được gọi là các “Trại Cải tạo”. Đó là thời gian thuộc về lịch sử của quê hương chúng tôi, mà tôi không thể hãnh diện được. Câu chuyện trong cuốn Thép và Máu là câu chuyện cần được kể ra. Tôi hy vọng nó sẽ gây cảm hứng cho nhiều cựu quân nhân khác lên tiếng thêm và trưng ra thêm bằng chứng nhằm chống lại những huyền thoại hiện hữu, tai ác, xúc phạm đến Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi hãnh diện về thời-gian mà tôi đã trải qua, phục vụ cánh sát cánh với các chiến sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. T.D.B. dịch theo nguyên bản Virginia, ngày 6-6-2008
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:43:31 GMT -5
Vài Kỷ Niệm Về Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Và Tướng Lê Nguyên Vỹ.
TRIỆU VŨ Thứ Năm, Ngày 19 tháng 3-2009
LTS. Triệu Vũ là một giáo chức, bị động viên vào khóa 19 Trừ bị Thủ Ðức. "Cải tạo" trên 7 năm ở thượng du Bắc Việt, Ông cùng gia đình di dân qua Liên bang Mỹ năm 1990, và hiện ngụ tại Houston, Texas.Dù lịch sử đã sang trang từ lâu, bài ký ức về Tướng Lê Nguyên Vỹ, cố Tư lệnh SÐ 5 BB–người đã chọn chết theo thành, và không nỡ bắt "con em người ta gửi gấm cho mình" chết oan uổng ở những giờ phút tàn cuộc của chiến tranh Việt Nam–là một trong những tài liệu hiếm hoi, có giá trị sử liệu. Hợp Lưu trân trọng giới thiệu tác giả Triệu Vũ với quí độc giả.
Tạp Chí Hợp Lưu
Ðầu tháng 9-1965, sau khi tốt nghiệp khóa 19 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức, tôi về Bình Dương trình diện Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Ðây là một trong những đại đơn vị kỳ cựu của Quân lực VNCH, bao gồm các đơn vị thiểu số miền Bắc – mà đa số thuộc sắc dân Nùng thuộc vùng tự trị Móng Cáy của Ðại tá Woòng A Sáng. Di cư vào Nam, được mang tên Sư Ðoàn 3 Dã Chiến, sau đổi thành Sư đoàn 5 Bộ Binh, trấn giữ vùng đông bắc thủ đô Saigon và được coi như đơn vị tín cẩn nhất của chế độ.
Ngày ấy, Tướng Vỹ còn mang cấp bậc Thiếu Tá, giữ chức Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 9. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn đồn trú tại Bến Cát, sau dời lên Chơn Thành, cách tỉnh lỵ Bình Dương khoảng 50 km về hướng Bắc. Từ Bộ Tư Lệnh SÐ ở Phú Lợi - Bình Dương, tôi đã nhiều lần lên đó, khi thì đi cùng phái đoàn Thanh Tra, khi thanh tra một mình, theo lệnh đơn vị trưởng, nên tôi có nhiều dịp tiếp xúc với Thiếu Tá Vỹ và các Sĩ Quan trong Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn. Nhờ vậy, cũng từ những ngày đó, tôi biết thêm nhiều về cuộc đời "người lính chiến thực sự" Lê Nguyên Vỹ.
Tướng Vỹ sinh năm 1933 tại Sơn Tây, miền Bắc Việt Nam. Ông nguyên là sĩ quan binh chủng Nhảy Dù, thời Thiếu Tá Ðỗ Cao Trí còn giữ chức Liên Ðoàn Trưởng. Ông tham dự nhiều cuộc hành quân từ Bắc vào Nam. Năm 1955, sau cuộc tảo thanh Bình Xuyên ở Saigon - Chợ Lớn, ông được thăng cấp Ðại Úy. Ít năm sau, rời Nhảy Dù, Ông ra phục vụ tại Sư Ðoàn 5 BB. Ông được giao chức Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 2/9, rồi Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 9BB năm 1965 với cấp bậc Thiếu Tá sau một thời gian làm Chi Khu Trưởng Chi Khu Bến Cát.
Những ai từng làm việc với ông, dù thượng cấp, hay quân sĩ dưới quyền, đều chung một nhận xét: Ông là vị chỉ huy rất nóng tánh – theo tôi phải nói là trực tánh mới đúng. Trong một đặc san của Sư Ðoàn 5BB thuở đó, đã ghi như sau về Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 9 – tức Thiếu Tá Vỹ: "Có một lần Ông vung tay đập vỡ mấy cái mặt bàn". Nhưng nói gì thì nói, không ai có thể phủ nhận Ông là một sĩ quan chỉ huy hành quân tài giỏi, thủ cũng như công. Những phái đoàn thanh tra từ Tổng Tham Mưu, Quân Ðoàn, Sư Ðoàn khi đến quan sát nơi đóng quân của đơn vị Ông, đều hết lời khen ngợi. Bản doanh Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 9 tại Chơn Thành là một căn cứ phòng thủ hình ngũ giác kiểu mẫu.
Ðối với nhân viên thuộc Bộ Chỉ Huy, có lẽ Ban 2 vất vả hơn cả. Lý do đơn giản là Ông Trung Ðoàn Trưởng luôn quan tâm đến tình hình địch, tình hình bạn. Nhờ vậy, đơn vị do Ông chỉ huy đã ghi hết chiến công này đến chiến công khác, trong cũng như ngoài Khu 32 Chiến Thuật. Những địa danh, những mật khu, những chiến khu từ Bến Súc, Bến Sỏi qua Dầu Tiếng, Lộc Ninh, Hớn Quản, đến Ðồng Xoài, Phước Long, Phước Quả rồi mênh mông Tam Giác Sắt, Chiến Khu C, Chiến Khu D v.v. nơi nào cũng in dấu gót giầy hành quân của các chiến sĩ Trung Ðoàn 9.
Những năm 1965-1967, sau khi quân tác chiến Mỹ ào ạt đổ vào miền Nam, tình hình chiến trận cũng như chính trị có nhiều biến động. Trên mặt trận quân sự, CSBV công khai đưa các đơn vị chính qui vào vùng Cao nguyên Trung phần (Tây Nguyên, tức Mặt trận B-3) và Tây Bắc vùng Hỏa Tuyến (Mặt trận Trị-Thiên). Ðồng thời, CSBV cũng thành lập Sư Ðoàn 2 tại Quảng Ngãi và Sư Ðoàn 3 "Sao Vàng" tại Bình Ðịnh (Quân khu 5 CS). Tại miền Ðông Nam Phần (Quân Khu 7 CS), CSBV thành lập sư đoàn (Công trường) 9 tại Bình Long, 5 tại Bà Rịa (Căn cứ Mây Tầu) và 7 tại Phước Long.
Về chính trị, từ tháng 6-1965, chính phủ dân sự Phan Khắc Sửu - Phan Huy Quát rút lui, trả lại quyền điều hành đất nước cho quân đội! Người ta được nghe những cụm từ như Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương v.v., hoặc Tổng Cục A, Tổng Cục B, Cục Y, Cục Z v.v. Vì Quân Ðội điều hành việc nước, dĩ nhiên nhiều quân nhân được nắm giữ các chức vụ quan trọng tại các Bộ và nha, sở. Những cấp chỉ huy cao trong quân đội cứ thay đổi liên tục. Thực là đau lòng khi thấy phe này hạ bệ hoặc thanh toán phe kia, tôn giáo này kình chống tôn giáo nọ. Chắc không ai có thể quên vụ "bàn thờ ra đường" còn được gọi là vụ "Phật Giáo miền Trung" xẩy ra vào mùa Xuân 1966. Chính quyền Trung Ương tại Saigon năm ấy đã mang quân đội và cảnh sát ra Ðà Nẵng và Huế thẳng tay dẹp bàn thờ và phong tỏa chùa chiền. Một số lớn quân nhân theo Phật giáo đã bị thuyên chuyển từ Vùng I vào Vùng III hoặc vùng IV Chiến Thuật. Dân gian thời đó thường truyền miệng "được làm vua, thua làm đại sứ" hoặc "được làm vua, thua đi chữa bệnh" v.v. Trường hợp các Ông Dương Văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Ðỗ Cao Trí, Nguyễn Chánh Thi, Phạm Văn Liễu v.v. là những chứng nhân rực lửa hận thù hoặc xót xa, tiếc nuối, ngậm ngùi tới cuối đời. (Xem hồi ký Nguyễn Chánh Thi, Ðỗ Mậu, Phạm Văn Liễu, v.v.)
Thời gian này, Trung Ðoàn 9 của Trung Tá Vỹ thường phối hợp hành quân với các đơn vị của Sư Ðoàn 1 Bộ Binh Hoa Kỳ trong các chiến dịch tiến vào các mật khu Cộng Sản như Cedar Falls, Junction City v.v. Ông giữ vững lập trường một người lính chiến đấu, gắn bó với tiền tuyến, sát cánh cùng thuộc cấp giữ chắc tay súng truy cản địch quân ngoài mặt trận, chỉ lo chu toàn nhiệm vụ mà không quan tâm đến nhiều rối loạn chính trị, nhiều tranh giành quyền lực tại hậu phương.
Sự tham chiến của binh đội Mỹ – nhất là việc đánh bom miền Bắc để áp lực Hà Nội ngưng xâm lược miền Nam, chấp nhận sự hiện hữu và biên giới của hai thể chế chính trị do các cường quốc ngấm ngầm chấp nhận – gặp sức phản kháng và chống đối trên toàn thế giới. Ngay tại Mỹ, phong trào phản chiến cũng ngày một dâng cao, khởi đi từ những cuộc biểu tình ngồi chống lệnh động viên trong các đại học, rồi đến những cuộc biểu tình ngoài đường phố. Bởi vậy, từ năm 1966-1967, chính phủ Tổng Thống Lyndon B. Johnson phải tìm cách tiếp xúc với Bắc Việt để tìm một giải pháp chính trị.
Trong khi đó, tại miền Nam, các phe phái, Tướng Tá vẫn không ngừng tranh chấp, thanh toán lẫn nhau. Tình huynh đệ chi binh và mục tiêu chiến lược bảo vệ miền Nam khỏi họa Cộng Sản không đủ ngăn chặn những mưu bá, đồ vương. Người ta cho rằng miền Nam sẽ ổn định nếu chấm dứt tình trạng quân đội nắm quyền và tổ chức bầu cử càng sớm càng tốt. Thế nhưng oái oăm thay, sau khi liên danh Nguyễn Văn Thiệu -Nguyễn Cao Kỳ thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 9-1967 và dẹp yên được chống đối của phe Phật Giáo cùng sinh viên, học sinh, tình hình hậu phương bề ngoài yên tĩnh, thực ra có biết bao cột sóng ngầm cuồn cuộn. Sự kết hợp bất đắc dĩ của liên danh Thiệu - Kỳ có nguy cơ trở thành đối đầu và tiến đến thanh toán nhau trong những ngày tới.
Ngoài chiến trường, chỉ nói riêng khu 32 Chiến Thuật (gồm 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long, Phước Long), vùng trách nhiệm của Sư Ðoàn 5 BB, đã mở rất nhiều cuộc hành quân bình định, hành quân truy quét địch, cho nên tình hình an ninh tạm ổn. Lại thêm lúc này quân đội Mỹ vào miền Nam đã lên con số khá cao. Quốc lộ 13, còn có tên gọi là "Quốc lộ máu", đoạn Bình Dương - Bình Long đã ít bị phục kích hoặc gài mìn. Hoặc đoạn đường "gai lửa" Bình Dương - Phước Long trên Quốc lộ 14 cũng được khai thông.
Ðặc biệt thời gian này, Tiểu Ðoàn 2 Trung Ðoàn 9BB đã ghi một chiến công lớn. Nhờ tinh thần chiến đấu anh dũng, quyết tâm kháng cự, lại được phi pháo yểm trợ, Tiểu đoàn đã bẻ gẫy một cuộc tấn công của địch vào Bộ chỉ huy, đóng tại Phước Quả, cách tỉnh lỵ Phước Long hơn 10 km về phía tây nam. Do chiến thắng trên, Tiểu Ðoàn Trưởng 2/9 (Ðại Úy T.) được thăng cấp Thiếu Tá, sau về làm Trung Ðoàn Phó Trung Ðoàn 9 BB.
Như đã lược nhắc, từ năm 1967, phong trào phản chiến trên nước Mỹ dâng cao. Những vụ biểu tình đòi rút binh đội Mỹ khỏi Việt Nam không ôn hoà như trước mà có phần quá khích, có khi còn đốt cờ Mỹ hoặc xé thẻ trưng binh v.v. Chính phủ Johnson bối rối, hơn nữa lại sắp có tổng tuyển cử vào năm tới (1968). Ðây là một thách thức lớn của Tổng Thống Johnson và Ðảng Dân Chủ. Qua trung gian Tổng thư ký LHQ, Pháp, Vatican cùng một số nước khác, chính phủ Johnson tìm cách dò ý Hà Nội về một giải pháp chính trị. Trong khi đó, bộ máy chiến tranh tại Hà Nội, được Liên Sô và Trung Cộng cố vấn, đã bắt mạch được thế lúng túng của Hoa-Thạnh-Ðốn, nên ra sức chuẩn bị một trận đánh lớn để chứng tỏ khả năng hiện diện và tiềm năng quân sự của họ tại chiến trường miền Nam, đồng thời làm chao đảo tinh thần nhân dân và Quốc Hội Mỹ cũng như tạo áp lực với chính phủ Johnson tiến tới bàn hội nghị.
Ðúng vào những ngày Tết năm Mậu Thân 1968, Hà Nội đơn phương hủy bỏ thỏa thuận hưu chiến, mở cuộc Tổng Tấn Công vào Saigon và 44 tỉnh, thị xã của VNCH. Mặt trận tại Bình Dương và BTL/SÐ5 khởi diễn đêm mùng 1 rạng mùng 2 Tết (31-1-1968). Lúc này, quân số hiện diện tại các đơn vị thuộc BTL/SÐ, cũng như Tiểu Khu Bình Dương, trường Công Binh, Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh v.v. không tới 50%. Thế mà, dù cho địch có chuẩn bị thật kỹ, bảo mật tối đa và đặc biệt tấn công bất ngờ, chúng vẫn không làm chủ tình hình. Giao tranh dữ dội tại khu vực Lò Chén và trường Công Binh trong tỉnh lỵ. Ðịch cũng đặt những "chốt" chặn xung quanh thị xã và pháo kích vào Phú Lợi, cách Bình Dương 5km về hướng đông, nơi đặt Bộ Tư Lệnh SÐ5BB, mục đích cầm chân, không cho tiếp viện. Lập tức, Sư Ðoàn điều động đơn vị của Trung đoàn 7BB giải toả từ phía nam lên và đặc biệt lệnh cho Trung Ðoàn 8 của Ðại Tá Vỹ ở Bến Cát (lúc này Ông đã thăng cấp Ðại Tá, chỉ huy Trung Ðoàn 8BB) đưa đơn vị về giải tỏa từ phía bắc và phía đông. Ðại Tá Vỹ đặt Bộ chỉ huy Hành Quân tại Bưng Cải, khoảng giữa tỉnh lỵ và BTL/SÐ. Ông đích thân điều động cuộc hành quân đánh đuổi địch ra khỏi thị xã và các chi khu lân cận, đồng thời tiếp tục truy quét tàn quân địch.
Nhìn chung, cuộc tổng tấn công và tổng khởi nghĩa của Việt Cộng năm Mậu Thân đã thất bại nặng nề. Nhưng về chính trị, chúng đã đạt thắng lợi đáng kể. Trước áp lực từ nhiều phía, tháng 3-1968, Tổng Thống Johnson tuyên bố không tái tranh cử và hai tháng sau, Hoa-Thạnh-Ðốn cùng Hà Nội cử phái đoàn tới Paris để thương nghị. Số phận VNCH đang nằm trên bàn cờ chính trị cũng như lịch sử VN sắp sang một trang mới.
Sau những đợt hành quân giải tỏa năm Mậu Thân, Ðại Tá Vỹ trở về Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn tại Bến Cát. Thế là, sau khi chỉ huy Trung Ðoàn 9 trên 3 năm, rồi Trung Ðoàn 8 trên 2 năm, Ðại Tá Vỹ đã thực sự dẫn giắt và có công xây dựng thành 2 Trung Ðoàn chủ lực hùng hậu của SÐ5BB. Chính Tướng Phạm-Quốc-Thuần, người đã nắm chức Tư Lệnh SÐ5 hơn 4 năm (có lẽ lâu hơn các vị Tư Lệnh khác) chắc rất hãnh diện và quý mến vị Trung Ðoàn Trưởng này. Ðổi lại, Ðại Tá Vỹ được địch quân treo giá tính mạng rất cao. Ðể có thể chiêu dụ hoặc thanh toán Ông, địch đã dùng nhiều phương cách, kể cả ám sát và mỹ nhân kế v.v. Ðịch còn dùng thủ đoạn khác là lợi dụng tình cảm quan hệ gia đình từ miền Bắc gửi thư cho Ông. Nhưng chúng đã không thực hiện được một ý đồ nào. Ông và các quân sĩ thuộc quyền, tiếp tục truy lùng và diệt địch, tiếp tục lập chiến công. Những trận đánh tại Phú Hòa Ðông, bên kia sông tỉnh lỵ Bình Dương, vòng lên Cầu Ðịnh, Bầu Bàng, Bầu Lòng, qua tận Phú Giáo, hoặc những vụ phục kích trên hành lang di chuyển của địch, bắt sống, hạ sát giao liên - kinh tài, tịch thu vũ khí - tài liệu v.v. khiến hoạt động quấy phá của địch trong vùng trách nhiệm suy giảm rõ rệt. Thời gian này, sự kiện đáng ghi nhớ là một lần nữa, SÐ5BB lại được tuyên dương công trạng trước Quân Ðội. Và tất cả quân nhân từ binh sĩ tới cấp Tướng thuộc SÐ hãnh diện được đeo Dây Biểu Chương Bảo Quốc Huân Chương màu đỏ hoàn toàn.
Tuy nhiên, chiến thắng quân sự của VNCH và Ðồng Minh năm 1968 không đủ làm nguội tham vọng chiếm miền Nam của Hồ Chí Minh - Lê Duẩn và Ðảng CSVN. Tại Mỹ, việc TT Thiệu chưa chịu gửi phái đoàn qua Paris tham dự hòa đàm trước ngày bầu cử phần nào giúp liên danh Nixon đắc cử khít khao, nhưng chính sách giải kết của Mỹ đã là hòn đá tảng. Tổng thống Nixon gọi TT Thiệu qua Midway thông báo sẽ bắt đầu triệt thoái quân Mỹ và Ðồng Minh, nhưng sẽ giúp VNCH tăng gia quân số cũng như trang bị vũ khí hiện đại hơn, trong khuôn khổ kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh (Vietnamization). Ðích thân TT Nixon, trong chuyến công du Á Châu, đã bí mật ghé Saigon vào hạ tuần tháng 7-1969, cho lệnh quân đội Mỹ triệt thoái nhanh hơn. Chính sách ngoại giao toàn cầu của Mỹ cũng thay đổi dần, từ "đối đầu" sang "hòa hoãn", "đối thoại". TT Nixon và Cố vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger bắt đầu sử dụng cả hai lá bài Nga Sô và Trung Cộng, để ép Hà Nội phải chấp nhận một giải pháp chính trị.
Ðầu năm 1970, vì quân đội Ðồng Minh đã một phần rút khỏi Việt Nam, trong khuôn khổ kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, BTL/SÐ5 di chuyển lên Lai Khê, cách quận lỵ Bến Cát khoảng 5km về hướng đông bắc, nằm trên Quốc lộ 13. Lai Khê xưa kia là nơi người Pháp xây dựng nhà máy, phòng thử nghiệm cao su và có trồng hàng trăm héc ta cao su làm mẫu. Lai Khê đã trở thành một căn cứ quân sự quan trọng, nơi đặt Bộ Tư Lệnh một Lữ Ðoàn của SÐ1BB Hoa Kỳ; và khi họ về nước, BTL/SÐ5BB tiếp nhận căn cứ trên. Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 8 cùng đóng chung trong căn cứ.
Thời gian này, Tướng Nguyễn Văn Hiếu đã thay Tướng Thuần làm Tư Lệnh. Ðại Tá Vỹ làm Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 8 thêm một thời gian trước khi đi thụ huấn tại Hoa kỳ. Và Trung Ðoàn này đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan do Tướng Hiếu đưa từ miền Trung về. Tiếc thay vị Ðại Tá Trung Ðoàn Trưởng mới (Bùi Trạch D.) đã thân bại danh liệt trong trận Snoul (nằm giữa tỉnh Kratie và biên giới Việt - Campuchia), khiến cả một Trung Ðoàn chủ lực của SÐ, với phù hiệu "Chúa Sơn Lâm" trên ngực áo trái, bị thảm bại, nay như người bệnh đang cần chữa trị, thuốc thang để mau có sức hồi phục – cả đơn vị chỉ còn khoảng 500 tay súng. Chính Tướng Hiếu cũng bị ảnh hưởng không tốt sau trận Snoul. Kể từ đây, con đường binh nghiệp của Tướng Hiếu đã rẽ sang một khúc quanh mới (và cuối cùng Ông đã tử nạn tại Văn Phòng Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn III với lý do "Bất cẩn khi lau chùi vũ khí?")
Năm 1971, sau khi tốt nghiệp khoá Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp tại Hoa Kỳ, Ðại Tá Vỹ được lệnh trở lại SÐ5BB, với chức vụ Tư Lệnh Phó SÐ. Ðương kim Tư Lệnh là Tướng Lê Văn Hưng. Ðại Tá Vỹ ra sức chấn chỉnh việc phòng thủ căn cứ Lai Khê, nơi đặt bản doanh chính của Bộ Tư Lệnh SÐ. Căn cứ Lai Khê có vòng đai phòng thủ khá rộng. Các pháo đài, các vọng gác làm bằng gỗ thông và bao đựng cát che chắn, có tính dã chiến, tạm bợ, do quân đội Ðồng Minh để lại, đã đến lúc phải tu bổ, sửa chữa nhiều. Ðích thân Ðại Tá Vỹ cùng các Ðơn vị trưởng đến từng vọng gác, từng pháo đài quanh căn cứ để kiểm soát, đôn đốc, tái thiết lập hệ thống phòng thủ. Ông chỉ thị các đơn vị phải đào những hầm trú ẩn hình chữ "A" để giảm thiểu thiệt hại cho binh sĩ khi địch pháo kích v.v. Cũng nhờ vậy mà sau nhiều lần tấn công của đặc công Việt Cộng, khi thì vài toán nhỏ, khi cả tiểu đoàn, cũng không thể nào xâm nhập sâu trong căn cứ. Trái lại, bị lực lượng bố phòng phát hiện kịp thời và phản kích khiến chúng thiệt hại nặng. Có lần, sau một cuộc tấn công xâm nhập, tổng số tử thi đặc công đếm được ngay tại vòng đai trong cùng của căn cứ lên tới hơn 40 xác. Ðây là con số khá lớn, vì căn bản, tấn công bằng đặc công là xử dụng những toán nhỏ, được huấn luyện rất thuần thục, nhằm gây tổn thất lớn về vật chất và tinh thần cho đối phương. Vả lại, phải mất một thời gian lâu dài, địch mới đào tạo bổ sung được hơn 40 đặc công.
Ngoài bản doanh chính tại căn cứ Lai Khê, Sư Ðoàn 5 đặt Bộ Tư Lệnh Hành quân tại thị trấn An Lộc, tức tỉnh lỵ Bình Long, nằm trên Quốc lộ 13, cách Saigon khoảng 100km về hướng bắc. Tướng Hưng và Ðại tá Vỹ thường luân phiên có mặt tại An Lộc để kịp đáp ứng tình hình.
Thời gian này, kế hoạch "Việt Nam hóa" chiến tranh đã gần hoàn tất. Cả Mạc-Tư-Khoa lẫn Bắc Kinh đều áp lực Hà Nội sớm giải quyết chiến tranh. Lê Ðức Thọ – nhân vật quyền lực thứ ba trong bộ Chính trị Ðảng CSVN – nhiều lần mật đàm tại Paris cùng Cố vấn An Ninh Quốc Gia Mỹ Henry Kissinger, trong chiến lược "vừa đánh vừa đàm". Về phương diện quân sự, nhân thế thất bại chiến lược của quân lực VNCH tại Hạ Lào và Campuchia, Hà Nội quyết định mở một đợt tấn công mới trong mùa Xuân-Hè 1972, với miền Ðông Nam Việt làm "điểm", và Quảng Trị cùng Cao nguyên Trung phần làm "diện", nhằm tiêu hao lực lượng VNCH và mở rộng lãnh thổ kiểm soát, chuẩn bị cho giải pháp "ngưng bắn da beo". Trên mặt trận ngoại giao, Hà Nội muốn lợi dụng năm tranh cử Tổng thống ở Mỹ để ép chính phủ Richard Nixon phải nhượng bộ ngưng yểm trợ chế độ VNCH của Tổng Thống Thiệu, hầu thành lập một chính phủ hòa hợp. Hà Nội còn muốn thành lập một thủ đô cho Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, dưới bảng hiệu mới Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
Tuy nhiên, vào tháng 1-1972, do Tướng Abrams dự đoán được ý đồ của Hà Nội – đã gia tăng những cuộc oanh tạc B-52 khiến các trục tiếp vận chiến lược của CSBV bị thiệt hại nặng nề – cuối cùng Bộ Chính trị Ðảng CSVN đổi ý, chọn Quảng Trị làm "điểm" [chủ yếu], mặt trận miền Ðông và Cao nguyên chỉ còn là "diện" [hỗ trợ]. Hạ tuần tháng 3-1972, đích thân Văn Tiến Dũng mang hơn 1 quân đoàn với đầy đủ tăng pháo vượt qua giới tuyến Bến Hải đánh chiếm Quảng Trị.
Khác với những đợt tấn công năm Mậu Thân (2/1968, 5/1968, 9/1968) mà các nhà nghiên cứu và bình luận gọi là cuộc "tấn công tự sát", lần này Hà Nội, với mục đích tạo ưu thế tại bàn hội nghị, đồng loạt mở 3 mặt trận lớn tại Quảng Trị, Kon Tum và Bình Long.
Những ngày đầu tháng 4-1972, đã có tin tình báo ghi nhận những cuộc chuyển quân của địch từ phía bên kia biên giới, theo hướng bắc và đông bắc tiến gần đến Lộc Ninh, một quận lỵ thuộc tỉnh Bình Long, cách thị trấn An Lộc khoảng 20km về phía tây bắc. Ðây là nơi đặt Bộ Chỉ Huy Chiến đoàn 9 (gồm Trung đoàn 9 BB, tiểu đoàn Biệt động quân, Chi đoàn Thiết giáp, tiểu đoàn Pháo binh v.v.). Thế rồi, rạng sáng ngày 6 tháng 4 năm 1972, vẫn với chiến thuật quen thuộc tiền pháo hậu xung, lực lượng địch với quân số đông gấp ba quân trú phòng, lại có chiến xa yểm trợ mở cuộc tấn công. Ðại Tá Chiến đoàn trưởng Nguyễn Công V. cùng một số sĩ quan tham mưu bị bắt làm tù binh. Trong khi đó, thị trấn An Lộc, tức tỉnh lỵ Bình Long, bị địch pháo kích từ mấy ngày trước, mở màn cho những trận mưa pháo ròng rã trên ba tháng trời. Người ta bàng hoàng, lo lắng được tin Lộc Ninh thất thủ. Tướng Hưng và Ðại Tá Vỹ đều có mặt tại BTL Hành quân để điều động quân sĩ trong vùng được gọi là mặt trận Bình Long - An Lộc.
Ngày 13-4-1972, Việt Cộng tung 3 Sư đoàn bộ binh (Công trường 5, 7, 9), có pháo và chiến xa yểm trợ tấn công. Mở đầu là những trận mưa pháo rót vào thị xã từ nửa khuya. Ðạn pháo nổ liên tục trải khắp thành phố, rung chuyển mặt đất. Người ta không thể ước tính được có bao nhiêu trái đạn pháo và cũng không định hướng được địch đã pháo từ phía nào. Không kể những vị trí quân sự như Bộ Tư Lệnh Hành Quân/SÐ5, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long, Bộ Chỉ Huy TrÐ 8 v.v., bệnh viện, trường học, chợ, nhà dân, trung tâm tạm cư cho người di tản từ Lộc Ninh đều bị trúng pháo địch. Cả thành phố chìm trong lửa khói. Rồi bỗng nhiên địch ngừng pháo. Bên ngoài, trời vừa hừng sáng, những cột khói đen vươn lên cao. Người ta nghe được tiếng máy gầm gừ của đoàn cơ giới tiến vào thị xã. Không! Không thể lầm được! Chiến xa địch đang di chuyển, càng lúc càng gần Bộ Tư Lệnh Hành Quân. Ðây là lần đầu địch sử dụng chiến xa tại chiến trường miền Ðông và cũng là lần đầu tiên, binh sĩ của ta phải đối phó, nên có phần nào hoảng hốt, bối rối.
Nhưng lạ thay, các họng súng đại bác trên chiến xa không thấy nhả đạn, địch hình như đang dò tìm mục tiêu, chúng đã mất phương hướng. Một chiếc T54 đang nghiến xích sắt trên mặt đường sát bên hông BTL/Hành Quân. Mọi người, từ binh sĩ tới Tư Lệnh chiến trường, đều nín thở như chờ đợi một thảm họa và hầu như phó mặc cho số phận. Bỗng Ðại Tá Vỹ lao khỏi hầm, với nón sắt, áo giáp và đặc biệt khẩu súng chống chiến xa M72 trên tay, theo sau là Trung úy sĩ quan tùy viên. Tới bờ tường phòng thủ, vừa lúc chiến xa địch vượt qua khỏi cổng chính khoảng 20 mét, Ông quỳ người, giữ tư thế tác xạ, đưa M72 lên vai. Người sĩ quan tùy viên kế bên, khom người quan sát. Mọi người trong hầm chỉ huy hồi hộp phóng tầm nhìn qua lỗ châu mai. Một tiếng nổ. Và một luồng lửa đỏ tống về phía sau. Chiến xa địch bị trúng hỏa tiễn, bốc khói nhưng vẫn cố di động trước khi trở thành một khối sắt xám xịt vô dụng bên vệ đường.
Quân sĩ từ trong hầm chỉ huy đổ ra ngoài reo hò mừng rỡ. Bây giờ người ta mới thực sự tin M72 đã bắn hạ chiến xa địch mà suốt mấy năm qua, từ khi được trang bị, chưa có cơ hội tác xạ. Ai ngờ ngày hôm đó, trong cơn nguy khốn, vị Ðại Tá Tư Lệnh Phó chiến trường lại làm nhiệm vụ một khinh binh, đích thân sử dụng M72 triệt hạ T54 của Bắc Việt. Câu chuyện Ðại Tá Vỹ bắn hạ chiến xa địch lan truyền, tinh thần quân sĩ trú phòng tại Bình Long - An Lộc lên cao. Ðó đây có những báo cáo về Bộ Tư Lệnh, cho biết đã bắn hạ thêm nhiều chiếc khác. Hình như chiến xa địch bị vô hiệu hoá vì không có bộ binh phối hợp, có lẽ do hiệu quả những đợt B52 trải nhiều thảm bom suốt ngày đêm hôm trước.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:44:34 GMT -5
Vài Kỷ Niệm Về Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Và Tướng Lê Nguyên Vỹ. Vì Hà Nội mở chiến dịch Xuân Hè 1972 khắp 3 vùng chiến thuật, lực lượng Tổng trừ bị VNCH (Dù và TQLC) bị phân tán mỏng. Sau đó, Bộ Tổng Tham Mưu giữ TQLC ở vùng I, và đưa Nhảy Dù về vùng III và vùng II. Quân Ðoàn III còn được tăng phái một số đơn vị của Quân Ðoàn IV như SÐ21BB, SÐ9BB. Liên Ðoàn Biệt Cách Dù cũng vào mặt trận hầu có thể sớm giải tỏa An Lộc. Nếu An Lộc thất thủ, Sàigòn tất nhiên bị đe doạ. Trong khi các lực lượng giải tỏa gặp rất nhiều khó khăn tại các nút chặn quanh thị xã An Lộc, nhất là tại Xa Cam, khoảng 10km về phía nam, thì lực lượng tử thủ bên trong thị xã như sống trong hỏa ngục. Hàng ngày, cái thị trấn nhỏ bé nhận nhiều ngàn đạn pháo của địch, cộng thêm tiếng bom nổ của các phi cơ oanh kích chiến xa địch trên đường tiến gần thị xã, tiếng bom từ B52 trải xuống quanh vùng dội lại v.v. Liên lạc từ BTL Hành Quân đến các đơn vị bên ngoài bị gián đoạn. Tinh thần mọi người quá căng thẳng và rơi vào tình trạng khủng hoảng. Cũng có thể nhận xét của Tướng Hollingsworth, Cố vấn Quân Ðoàn III, rằng Tướng Hưng, Tư Lệnh chiến trường, như người "mất hồn" và "không làm được việc gì cả" là quá khắt khe chăng? An Lộc bị vây hãm càng lâu, tinh thần quân sĩ trú phòng càng xuống. Thiếu ngủ, thiếu dinh dưỡng, thiếu nước, v.v. lại thêm môi trường ô nhiễm vì xác tử thi đã thối rữa, bốc mùi v.v. thực không sao tả hết được nỗi kinh hoàng cùng cực của các chiến sĩ tử thủ An Lộc ba mươi sáu năm về trước (cũng vào THÁNG TƯ quái ác). Vì "tất cả cho chiến trường", cho nên kế hoạch tiếp tế, tản thương đã lập tức thực hiện song song với việc giải tỏa. Việc tiếp tế thả dù khởi đầu không được như ý. Phi cơ phải tránh phòng không địch, nên bay quá cao và có nhiều kiện hàng rơi không đúng nơi dự tính. Lại thêm địch tiếp tục pháo nên việc đón nhận các tiếp liệu phẩm gặp khó khăn. Ðã có những quân nhân tử nạn vì bị kiện hàng rơi trúng, không kịp tránh, hoặc bị trúng đạn pháo trước khi chạm tay vào các vật phẩm tiếp tế. Dẫu vậy, không như Cổ Thành Quảng Trị ở Vùng I hay Tân Cảnh (Dakto) ở Vùng II, thị trấn An Lộc đã đứng vững, chứng minh tinh thần anh dũng, quyết chiến của các chiến sĩ tử thủ cũng như giải tỏa, trong mặt trận Bình Long - An Lộc. Kết thúc trận chiến, sau này theo thống kê, cả hai bên đều thiệt hại nặng. VNCH vẫn kiểm soát được các tỉnh lỵ, huyện lỵ (trừ Lộc Ninh) và thị trấn trên Quốc lộ 13, đoạn Bình Dương - Bình Long, Việt Cộng kiểm soát vùng nông thôn và ven ranh. Di chuyển lên Bình Long, Phước Long, phải dùng phi cơ, không còn thênh thang đường bộ như năm trước. Rời chiến trường Bình Long - An Lộc, một trận chiến làm rúng động thế giới, Ðại Tá Vỹ về làm Phụ Tá Hành quân Tư Lệnh Quân Ðoàn III rồi được chỉ định làm Tư Lệnh lực lượng đặc nhiệm (gồm liên đoàn Biệt Ðộng Quân, Thiết Giáp, Pháo Binh v.v.). Ngoài ra, Ông cùng một phái đoàn được đi du ngoạn Ðài Loan gọi là để tưởng thưởng các chiến sĩ hữu công. Sư Ðoàn 5BB cũng có một Tư Lệnh mới, Ðại Tá Trần Quốc Lịch thay Tướng Hưng từ sau trận chiến An Lộc. Những cuộc giao tranh ác liệt không còn, thỉnh thoảng địch "đóng chốt" hoặc bắn xẻ. Năm 1973, Ðại Tá Vỹ thuyên chuyển về Sư Ðoàn 21 BB, giữ chức Tư Lệnh Phó. Ít lâu sau, chính Tướng Hưng lại về làm Tư Lệnh Sư Ðoàn 21 một thời gian trước khi nhận chức Tư Lệnh Phó Quân Ðoàn IV. Rừng núi miền Ðông Nam Phần khác với vùng sình lầy miền Tây. Hơn hai mươi năm trước, Thiếu Úy Vỹ đã cùng bao đồng đội, lao mình ra phỏi phi cơ ở độ cao mấy ngàn bộ, khi thì nhảy ngay trên đầu địch, khi thì nhảy xuống sau lưng địch, đánh bọc hậu, thì nay, dù Sư Ðoàn 5 hay Sư Ðoàn 21, dù Quân Ðoàn III hay quân Ðoàn IV, đời chiến binh đâu chẳng là nhà. Và nhiệm vụ nào thượng cấp đã giao, phải ra sức chu toàn. Với nhiệm vụ của một Tư Lệnh Phó, Ðại Tá Vỹ thường bay thị sát trong vùng và không may, trong một phi vụ quan sát, máy bay gặp nạn, Ông bị văng ra khỏi phi cơ nhưng như có phép lạ, chỉ bị gẫy xương ống chân và xây xát, bầm tím trên mặt, trên thân thể. Còn sống sót khi máy bay gặp nạn là điều hiếm thấy và quân y viện đã săn sóc, bó bột chân; xong để Ông về nhà dưỡng thương ba tháng trước khi tháo băng bột. Thời gian dưỡng thương, đi lại phải nhờ vào cặp nạng nhôm quân y viện cho mượn, sinh hoạt cần thiết hàng ngày đôi lúc phải nhờ người khác. Nhưng đây cũng là thời gian hiếm có trong đời để nhớ về những trận đánh, những chiến trường và những chiến công. Là một chiến sĩ từng xông pha ngoài trận tuyến, dày dạn chiến trường, mà nay chỉ làm bạn với chiếc máy thu thanh, thu hình, tin tức chỉ xoay quanh Việt Cộng vi phạm hiệp định bao nhiêu lần, đã đón nhận bao nhiêu tù binh, giành dân lấn đất ở đâu v.v., Ông thường tự hỏi chẳng lẽ mang danh chiến sĩ mà cứ loanh quanh trong căn phòng hơn 20 mét vuông với đôi nạng hay sao?.... Thoắt đã gần 3 tháng, còn 2 tuần nữa là tới ngày tháo bột. Những bằng hữu, chiến hữu lui tới thăm hỏi cũng thưa dần. Trong khi ấy, sau trận chiến An Lộc, Sư Ðoàn 5 BB cần được bổ sung và chỉnh đốn về mọi mặt, từ quân số đến trang thiết bị. Ðại Tá Trần Quốc Lịch, đã được thăng cấp Chuẩn Tướng. Bộ Tham Mưu/SÐ gồm Ðại Tá Tham Mưu Trưởng Ð., Trưởng Phòng 1 H., Trưởng Phòng Tổng Quản Trị T.H., Trưởng Phòng 4, Tiểu Ðoàn Tiếp Vận, Trung Tâm Huấn Luyện Sư Ðoàn v.v. cộng với các Trung Ðoàn Trưởng mới … tập họp thành một "…" (không biết dùng từ nào cho thích hợp), làm Sư Ðoàn "tuột dốc" thê thảm. Nạn bè phái, chạy chọt chức vụ, cấp bậc, lo lót về đơn vị yểm trợ, lính ma, lính kiểng, ăn chơi, trụy lạc v.v. khiến Trung Ương không thể dung dưỡng được lâu. Và kết quả, Chuẩn Tướng Lịch bị cách chức Tư Lệnh, giáng cấp, chờ ngày ra toà (dịp này, Chuẩn Tướng Lê Văn Tư/SÐ25BB cũng bị cách chức và giáng cấp). Vào một ngày đầu tháng 11-1973, Ðại Tá Vỹ nhận lệnh về đảm nhiệm chức vụ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 BB với trọng trách chấn chỉnh, thanh lọc và lấy lại uy danh ngày xưa. Thời gian này, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần đã thay Tướng Nguyễn Văn Minh làm Tư Lệnh Quân Ðoàn III và Quân Khu III. Lệnh trên đã ban ra, buộc Ðại Tá Vỹ phải yêu cầu các quân y sĩ tháo băng bột ở chân sớm hơn dự dịnh một tuần và ngày 7 tháng 11-1973, lễ bàn giao diễn ra tại Bộ Tư Lệnh/SÐ ở Căn Cứ Lai Khê. Trở lại chiến trường miền Ðông lần này, lại nhận một trọng trách lớn, Ðai Tá Vỹ bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh, sắp xếp các sĩ quan ở Trung Ðoàn và Bộ Tham Mưu. Ông rất hài lòng với ba Trung Ðoàn Trưởng: Trung Tá Quế, từ đơn vị Biệt Cách Nhảy Dù chỉ huy Trung Ðoàn 9; Trung Tá Hùng, thụ huấn tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu, về chỉ huy Trung Ðoàn 8; và Trung Tá Vượng, Trung Đoàn 7. Trường hợp Trung Tá Vượng tưởng cũng nên mở dấu ngoặc để nói thêm: Ông từ binh chủng Thủy Quân Lục Chiến, về Sư Ðoàn 5 làm ... sĩ quan Thanh Tra! Ðại Tá Vỹ, không muốn phí phạm nhân lực và muốn tạo cơ hội tốt cho Trung Tá Vượng, nên đã trao Trung Ðoàn 7 cho Ông. Ðối với Bộ Tham Mưu Sư Ðoàn, trải qua những kinh nghiệm chiến trường và những phúc trình đầy đủ, Ðại Tá Vỹ muốn có một phụ tá biết xử dụng khả năng, sức mạnh của thiết giáp, kỵ binh nên Ðại Tá Thoàn thuộc binh chủng Thiết Giáp đã về làm Tư Lệnh Phó/SÐ, và Trung Tá Ð.Ð.Chinh, một Sĩ Quan Tham Mưu nhiều năm kinh nghiệm thay Ðại Tá Ðăng trong chức vụ Tham Mưu Trưởng. Dĩ nhiên phần lớn các trưởng phòng thuộc Bộ Tham Mưu/SÐ cũng lần lượt ra đi. Thế là SÐ5BB bây giờ đã mang một bộ mặt mới và quân sĩ đã có niềm tin mới vào các cấp chỉ huy. Con đường trước mặt là phải ngăn chặn và giáng trả những vi phạm, phải giành lại những nơi mà địch lấn chiếm sau hiệp định tháng 1-1973, tới nay còn đóng "chốt" và cố thủ. Ngoài ra, việc phòng thủ các vị trí đóng quân cũng là mối quan tâm lớn của vị tân Tư Lệnh. Bài học đắt giá từ chiến trường An Lộc khiến các đơn vị đã tích cực hơn nhiều trong việc thiết lập hệ thống phòng thủ. Ngoài việc đào giao thông hào quanh đơn vị, lập hầm trú ẩn an toàn cho binh sĩ, mỗi đơn vị bắt buộc phải đào một giếng nước v.v. Riêng vòng đai phòng thủ căn cứ, ngoài hệ thống mìn bẫy dĩ nhiên phải có, Ðại Tá Vỹ đặc biệt giao cho Tiểu Ðoàn 5 Công Binh sản xuất thực nhiều chông nhỏ rải xung quanh các pháo đài quanh căn cứ. Loại chông này, lấy vật liệu từ kẽm gai, có hình dáng như 4 cái đinh, mỗi đinh dài khoảng 3cm, mũ của đinh tụ lại ở giữa, bốn đầu nhọn của đinh có ngạnh giống lưỡi câu, hướng ra ngoài. Khi chông rải ra, lúc nào cũng có một mũi nhọn hướng lên trời để chờ đợi những bàn chân "đi giải phóng". Ðại Tá Vỹ muốn tạo niềm tin cho các quân sĩ, tin vào khả năng tác chiến, tin vào vũ khí và hỏa lực, tin vào hệ thống phòng thủ vững chắc và nhất là tin vào tinh thần quyết chiến của cấp chỉ huy cùng đồng đội, thì cho dù tiền pháo hậu xung, cho dù biển người, cho dù xe tăng T54, T56 v.v. cũng không làm sờn lòng chiến sĩ SÐ5. Tuy rất bận rộn với công vụ, Ðại Tá Vỹ thường dành vài giờ mỗi tháng để nhắn nhủ hoặc tâm tình cùng quân sĩ tại võ đường của SÐ. Ðặc biệt, rút kinh nghiệm chiến trường An Lộc, Ông đã chỉ thị Trung Ðoàn 8 cho tác xạ biểu diễn hoả tiễn TOW (được trang bị từ cuối năm 1972), một loại hoả tiễn tối tân có thể điều khiển tìm mục tiêu, để quân sĩ trú phòng vững tin hơn. Thời gian này, Sư Ðoàn lại được bổ sung hai Sĩ Quan nhiều kinh nghiệm tham mưu và chiến trận: Ðại Tá Nguyễn Mạnh Tường và Ðại Tá Từ Vấn. Ðại Tá Tường xuất thân binh chủng Nhảy Dù, trước khi về SÐ là Tiểu Khu Phó TK/Bình Ðịnh; Ðại Tá Vấn nguyên là Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn 22 Biệt Ðộng Quân. Về an ninh diện địa, trong vùng trách nhiệm của SÐ5BB, Việt Cộng vi phạm Hiệp Ðịnh ngừng bắn nhiều lần, nhưng chỉ lẻ tẻ và ở mức độ thấp. Ðơn vị tác chiến của SÐ đã trực tiếp giáng trả hoặc hỗ trợ các đơn vị Ðịa Phương Quân, Nghĩa Quân giành lại thôn, ấp xa xôi do địch tạm chiếm. Tuy nhiên vào khoảng gần cuối năm 1974, cách quận lỵ Bến Cát hơn 10km về phía tây nam, đồn Rạch Bắp bị địch tràn ngập. Ðây là một trọng điểm kiểm soát hành lang di chuyển của địch. Lực lượng đồn trú bị tổn thất nhẹ và đã rút ra ngoài an toàn. Bộ Tư Lệnh chỉ thị Trung Ðoàn 9 phải đưa một đơn vị hành quân giải tỏa. Ðịch đã rút lui về vùng Tam Giác Sắt chỉ để lại chừng một trung đội cố thủ tại đây. Trải qua mấy ngày đầu, lực lượng tái chiếm vẫn dậm chân tại chỗ. Ðịch núp dưới giao thông địa đạo tránh bom và pháo. Khi ta xung phong lại gặp hỏa lực dữ dội của địch. Cho nên đơn vị của TrÐ 9 đến giải tỏa, thay đổi chiến thuật. Trong khi cả tiểu đoàn vây hãm vòng ngoài, có những toán nhỏ với vũ khí nhẹ và lựu đạn, xâm nhập và tiêu diệt từng ổ kháng cự. Thế là cũng với quân số tương đương, ta chiếm lại được Rạch Bắp. Niềm vui chiến thắng kéo dài tới ngày Quốc Khánh 1-11-1974, ngày Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ được vinh thăng Chuẩn Tướng. Một số các quân nhân khác cũng được tưởng thưởng và thăng cấp trong dịp lễ kỷ niệm này. Ðặc biệt sắc lệnh thăng thưởng cấp Tướng chỉ có hai vị: H.V.Lạc lên Chuẩn Tướng thực thụ, và Lê Nguyên Vỹ nhiệm chức. Khoảng trung tuần tháng 12-1974, từ phía đông bắc căn cứ Lai Khê, tin dữ đưa về: Việt Cộng tấn công một số chi khu của tỉnh Phước Long như Ðôn Luân, Ðức Phong và đang uy hiếp tỉnh lỵ. Mọi liên lạc tiếp viện, yểm trợ không thể dùng đường bộ, chỉ hoàn toàn trông vào không lực VNCH. Trong khi phi trường Biên Hòa, phi trường Phước Long, và BTL/SÐ5 bị pháo liên tục thì Sư đoàn 7 của địch, có tăng và pháo yểm trợ mỗi ngày một xiết chặt vòng vây quanh Phước Long. Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III đã không vận tăng cường đến Phước Long lực lượng Biệt Cách Dù, một tiểu đoàn bộ binh và 3 đại đội trinh sát. Ngoài ra rất nhiều phi tuần đánh bom quanh tỉnh lỵ. Nhưng vì đánh giặc theo kiểu "con nhà nghèo", bắn một viên đạn, thả một trái bom đều phải tính thành tiền, vả lại làm gì còn B52 trải bom thảm theo yêu cầu nữa, lại không còn một lực lượng Tổng Trừ Bị nào tăng phái cho Quân Ðoàn, vì thế Phước Long chỉ cầm cự được thêm ít lâu và thất thủ vào ngày 6-1-1974. Ðây là tỉnh lỵ đầu tiên của VNCH bị địch lấn chiếm trong chiến dịch "tầm ăn dâu" hay là "giành dân lấn đất". Không biết do áp lực nào, Tổng Thống Thiệu đưa Tướng Dư Quốc Ðống về thay Tướng Thuần. Hình như Tướng Ðống cũng lập kế hoạch giải tỏa và cần tăng viện một sư đoàn, nhưng không được đáp ứng vì không đủ quân, nên có ý xin từ chức. Rồi vài tháng sau, Tướng Nguyễn Văn Toàn thay Tướng Ðống. Tướng Thuần, Ðống hoặc Toàn làm tư lệnh, Phước Long vẫn nằm trong tay Việt Cộng và hình như Phủ Tổng Thống hay Bộ Tổng Tham Mưu đã quay mặt với lý do nơi đây không phải là vị trí chiến lược quan trọng. Chỉ trong vòng 3 tháng mà hai lần thay Tư Lệnh quân đoàn bảo vệ Saigon. Rồi lại một tin không vui từ Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn III truyền đi: Tướng Hiếu đã tử nạn!!! Nghe tin này, người ta thực hoang mang và xúc động. Trong khi đó, sau khi chiếm được Phước Long, Việt Cộng tảng lờ những chống đối, lên án, tại Ủy ban kiểm soát đình chiến, tại Ban liên hợp quân sự v.v. cứ khăng khăng "chỉ đánh trả lại những vi phạm Hiệp định Paris" của VNCH. Quan trọng hơn hết, Hoa Kỳ không có phản ứng, hoặc phản ứng lấy lệ. Dĩ nhiên, đối với Hoa Kỳ, chiến tranh VN đã là dĩ vãng. Kể từ năm 1967, họ đã từng bước lập kế hoạch, nào là thư từ qua lại, nào là đi đêm, hoạt động con thoi, nào là qua trung gian các cường quốc rồi chiến tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh, rồi leo thang, rồi ném bom Hà Nội v.v. Cuối cùng, gần 6 năm sau, đúng nửa đêm ngày 27 rạng 28-1-1973 giờ quốc tế, có một bản văn được ký kết tại Hội nghị Paris với tên gọi "Hiệp Ðịnh về Chấm Dứt Chiến Tranh và Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam" theo nhu cầu và quyền lợi của quốc gia Hoa Kỳ. Hơn 60,000 lính tác chiến Mỹ còn lại đã triệt thoái. Hầu hết tù binh Mỹ được phóng thích, kể cả Ðại tá Không quân John McCain – đương kim ứng cử viên Tổng thống Mỹ – sau hơn 5 năm đủ mùi vị đầy đọa, hạ nhục tại Hỏa Lò Hà Nội. Dù chẳng phải không tiên liệu được tham tâm nhất thống miền Nam của Lê Duẩn và Ðảng Lao Ðộng Việt Nam, nhưng TT Nixon và Ngoại trưởng Kissinger không có một lựa chọn nào khác, đành vui hưởng cái gọi là "hòa bình trong danh dự" [peace with honor] từ mùa Xuân 1973. (Không biết đây có phải là Mỹ đã "thua" và phải "tháo chạy" như có người đã nhận xét?). Tại Bộ Tư Lệnh SÐ5BB, đầu năm 1975, Ðại Tá Từ Vấn giữ chức vụ Tham Mưu Trưởng thay Ðại Tá Chinh xin thuyên chuyển về trường Hạ Sĩ Quan Nha Trang. Ðại Tá Nguyễn Mạnh Tường, theo trên cho biết, có liên hệ đến vụ đảo chánh 11-11-1960, nên không được chấp thuận chức vụ Tham Mưu Trưởng. Tướng Vỹ chỉ định Ông làm Phụ Tá Hành Quân. Nhìn chung Quân đội VNCH giai đoạn này, đã ở thế thủ. Viện trợ quân sự bị cắt giảm nhiều, không đủ lực mở những cuộc hành quân quy mô, có tăng, có pháo và phi cơ yểm trợ đầy đủ như trước. Tướng Vỹ cho biết, trong tình hình xấu nhất, Ông có thể cầm cự 6 tháng không cần tiếp tế. Nhưng Hà Nội bắt đầu phát động chiến dịch Xuân-Hè 1975, với hy vọng làm ăn ở miền Tây nguyên. Ba sư đoàn Bắc quân, được tăng pháo và đặc công yểm trợ, tấn công và chiếm được thị xã Ban Mê Thuột, nơi đặt Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 BB vào thượng tuần tháng 3-1975. Tư lệnh Quân đoàn II và Bộ Tổng Tham Mưu hoàn toàn bị bất ngờ. Giữa lúc các lực lượng cơ hữu của QĐ II đang lo tái chiếm Ban Mê Thuột, TT Thiệu triệu tập một phiên họp mật với Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Ðại Tướng Cao Văn Viên và Trung Tướng Ðặng Văn Quang tại hành lang Dinh Ðộc Lập, tiết lộ đã quyết định triệt thoái khỏi Pleiku và Vùng I chiến thuật, rút về lập tuyến phòng thủ Phan Rang - Ban Mê Thuột. Lý do chính là phái đoàn Nghị sĩ mới từ Mỹ về cho biết viện trợ tài khóa 1975-1976 lại bị cắt giảm. TT Thiệu đành phải thực hiện chiến lược "đầu bé, đít to" – cắt nhỏ dần lãnh thổ kiểm soát, cốt sao giữ được Vùng III và Vùng IV. Quyết định này được thông báo cho Tướng Trưởng ngày 12-3-1975: Hoàn trả Nhảy Dù về Sài Gòn; nếu cần, triệt thoái Huế, về giữ Ðà Nẵng. Hai ngày sau, TT Thiệu cùng các Tướng Khiêm, Viên và Quang bay ra Cam Ranh, họp mật với Tướng Phạm Văn Phú, và cho lệnh triệt thoái Kontum - Pleiku. Tướng Phú đề nghị cho hành quân cấp Quân Đoàn dài theo Quốc lộ 7-B – từ ngã ba Thuần Mẫn trên lộ 14, xuống Cheo Reo (Phú Bổn), Củng Sơn, rồi Tuy Hòa. Vì lý do "bảo mật", ngay ngày 16-3, toàn bộ lực lượng QÐ II bắt đầu rút khỏi Pleiku. Các lực lượng Cảnh sát, Ðịa Phương Quân và Nghĩa quân đều bị bỏ lại. Ngay trong đêm 16-3, hỗn lọan đã bùng nổ ở Pleiku, khi Sư Đoàn 6 Không Quân di tản gia đình và thân nhân. Hàng chục ngàn dân chúng Pleiku thu góp tài sản đổ về đường 7-B. Văn Tiến Dũng, dù bất ngờ, cũng sai quân đuổi theo truy kích. Ðoàn di tản bị kẹt đọng lại ở Cheo Reo, và rồi Củng Sơn. Quốc lộ 7-B trở thành địa ngục trần gian cho những quân nhân QÐ II di tản. Toàn bộ xe tăng, thiết giáp và pháo bị lọt vào tay CSBV. Chưa đầy 5000 người di tản tìm được về Tuy Hòa. Tư lệnh lực lượng bảo vệ, Chuẩn Tướng Tất, bị bắt sống. Trực thăng cứu thoát được Chuẩn Tướng Cẩm, Tư lệnh phó QĐ II, về Tuy Hòa, nhưng sau này vẫn lọt vào tay CS. Lý do TT Thiệu ra lệnh triệt thoái, tới nay vẫn còn là dấu hỏi lớn, vì đã mở đầu cho sự sụp đổ hoàn toàn của miền Nam Việt Nam. Người ta nghĩ rằng trước khi trở thành Tổng Thống, Ông đã là một Trung Tướng, đã là Bộ Trưởng Quốc Phòng, vậy thì đằng sau quyết định đó, có ẩn ý gì? ... Chỉ chắc một điều là quyết định này không do Mỹ chỉ thị để có thể "tháo chạy". Ðại tướng Khiêm và Trung tướng Quang đã khiến các nhân viên Mỹ cực kỳ bực dọc vì không thông báo cho Mỹ biết việc này, khiến các nhân viên Mỹ ở vùng II và Vùng I thất điên bát đảo. Hạ tuần tháng 3-1975, sau khi cuộc triệt thoái cao nguyên trở thành thảm bại, TT Thiệu cho lệnh Tướng Trưởng bỏ ngỏ các tỉnh Quân khu I, rút về tử thủ Ðà Nẵng. Nhưng ngày 29-3, Ðà Nẵng bị bỏ ngỏ. Các tỉnh duyên hải miền Trung cũng lần lượt sụp đổ như lâu đài trên bãi cát. Ngay đến Phan Rang, quê hương của TT Thiệu, cũng di tản từ ngày 2-4-1975. Lữ Ðoàn 3 Dù đang trên tàu về Sài Gòn, được lệnh đổ bộ xuống Nha Trang, rồi từ đây kéo lên Khánh Dương, chốt chặn mức tiến của SÐ 10 CSBV. Một Lữ đoàn Dù khác, cùng tàn quân SÐ 2 BB và SÐ 6 KQ, được điều ra Phan Rang lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Ðoàn III. Nhưng chốt phòng thủ chiến lược này bị cánh quân miền Ðông của Lê Trọng Tấn, với quân số hơn 1 quân đoàn, diệt gọn trong hai ngày 16/17-4-1975. Ngày 18-4-1975, Long Khánh bỏ ngỏ. Tướng Toàn phải di tản Không quân xuống Cần Thơ. Mặc dù hai Sư Đoàn 25 BB và 5 BB còn trấn giữ phía Tây Bắc và Bắc Sài Gòn, tình thế đã tuyệt vọng. Bắc quân lên tới hơn 3 quân đoàn, với tăng, pháo hợp đồng. Tối 21-4-1975, TT Thiệu bàn giao cho Phó TT Trần Văn Hương, để "trở lại chiến đấu bên các chiến hữu". Nhưng bốn ngày sau, hai ông Thiệu, Khiêm bí mật rời Sài Gòn bằng phi cơ Mỹ. TT Hương cũng chỉ ở Dinh Ðộc Lập được một tuần lễ, rồi ủy quyền cho Quốc Hội. Chiều ngày Thứ Hai, 28-4-1975, Ðại Tướng Dương Văn Minh tuyên thệ nhậm chức Tổng Thống – với hy vọng đạt một giải pháp màu hồng với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Ðiều Tướng Minh và nhiều chuyên gia ngoại quốc không biết là vai trò MTDT/GPMN đã hầu như chấm dứt. Lê Duẩn – người không ngừng cổ võ "cách mạng là tấn công" – cho lệnh phải giải quyết càng sớm càng tốt, nếu có thể trước năm 1976 như dự định. Tướng Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu không chọn đường tử thủ. Sáng ngày 29-4-1975, Thủ Tướng Mẫu chính thức yêu cầu người Mỹ rút khỏi VN, đóng cửa văn phòng tùy viên quân sự (DAO) – một bước ngoại giao có tính toán giúp Mỹ rảnh tay ra đi. Cũng ngày 29-4-1975 này, Tướng Toàn và Bộ Tư Lệnh QÐ III từ Biên Hòa di chuyển về Gò Vấp, 5km bắc Thủ đô Sài Gòn. Riêng Sư Ðoàn 5, lực lượng vẫn bảo toàn nguyên vẹn. Theo Tướng Vỹ, có thể địch tránh không muốn đụng SÐ5, nên chúng pháo cầm chân và tiến quân về Sàigòn theo hai hướng đông và tây của Lai Khê, đồng thời đặt các nút chặn phía nam của Lai Khê, Bình Dương. Sư Ðoàn 5 cũng được lệnh chuẩn bị di chuyển về phía nam để tái phối trí. Sáng 30 tháng 4-1975, sau buổi họp Tham Mưu thường lệ chừng một tiếng đồng hồ, người ta bàng hoàng nghe tin TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Ông còn nhân danh Tổng Tư Lệnh Quân Ðội ra lệnh cho quân nhân các cấp buông súng, chờ bàn giao! Ðúng là sét đánh ngang tai! Tướng Vỹ lúc đó ưu tư nhiều, vẻ mặt trầm lặng, khác với bản tánh thường ngày. Ông tâm sự với một số sĩ quan tham mưu thu hẹp bên cạnh, với nét mặt bình thản khác thường: "Lệnh trên đã ban ra, phải thi hành. Hơn nữa, con em người ta giao cho mình, không lẽ đem nướng vào giờ thứ 25 sao? Ðối với các anh em thì tùy ý quyết định". Xong Ông đi về phía trailer [phòng lưu động của quân đội] dùng làm phòng ngủ riêng cho Tư Lệnh. Ít phút sau, hai tiếng nổ khô khan vọng ra. Mọi người hốt hoảng chạy tới. Tướng Vỹ đã dùng khẩu súng ngắn của Ông để tự sát. Vết đạn xuyên từ phía dưới cằm lên đầu. Các Sĩ Quan hiện diện kính cẩn nghiêng mình, không cầm được nước mắt. Lúc ấy là 12 giờ rưỡi trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975. Trong khi mọi người vội vã đưa thi hài Tướng Vỹ an táng tạm trong vòng đai căn cứ thì phía ngoài hàng rào, Việt Cộng dùng loa phóng thanh, âm lượng thật lớn kêu gọi mọi người bên trong đầu hàng. Khoảng 3 giờ chiều, Bộ Tham Mưu và các đơn vị mới tự động rời khỏi căn cứ, không có súng nổ. Nhưng mới qua khỏi quận lỵ Bến Cát, bị địch chận lại, tịch thu tất cả vũ khí, quân trang dụng. Hạ sĩ quan trở xuống cho tự túc về điạ phương, sĩ quan giữ lại, phân theo cấp bậc để đưa đi tù. Trang quân sử về Sư Ðoàn 5 Bộ Binh chấm dứt ở thời điểm này. * * * Từ lâu, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, rồi sau những năm tháng bị Việt Cộng giam cầm, hành hạ, tôi đã có ý định ghi lại vài kỷ niệm về Sư Ðoàn 5 Bộ Binh và Tướng Lê Nguyên Vỹ. Ðã gần 33 năm trôi qua, tôi chưa thực hiện được ý nguyện này. Khi còn ở trong nước cũng như kể từ khi định cư tại Mỹ mười mấy năm trước, biết bao nhiêu câu hỏi của bằng hữu, của đồng đội, của người thân xoáy sâu mãi trong tâm trí tôi. Ai cũng yêu cầu tôi nói đôi điều về Tướng Vỹ. Tôi biết ở đâu đó, rải rác một vài dòng trên báo chí, hay vài phút trong một chương trình phát thanh tiếng Việt, không đủ thỏa mãn người đọc, người nghe. Lại nữa, tôi là một sĩ quan của Sư Ðoàn 5BB, suốt 10 năm rưỡi trong quân ngũ, 2 năm dành cho quân trường và một đơn vị ngoài SÐ, 8 năm rưỡi còn lại dành cho Sư Ðoàn 5 và tôi đã khoác quân phục mang phù hiệu SÐ5 tới ngày cuối cùng. Ai mà không hãnh diện khi có dịp nhắc đến đơn vị của mình, lại còn hãnh diện hơn nữa khi nhắc đến cấp chỉ huy đơn vị đã anh dũng, can đảm tuẫn tiết, quyết không chấp nhận đầu hàng địch. Ngày nào chưa ghi được đôi dòng, dù là không đầy đủ lắm về Tướng Lê Nguyên Vỹ, tôi còn rất áy náy, như gánh nặng chưa trút xuống được và thấy mình mắc một món nợ chưa kịp trả. Món nợ ấy là niềm hãnh diện mà Tướng Vỹ đem lại cho SÐ5 BB nói riêng và Quân lực VNCH nói chung. Tướng Vỹ là người lính chiến đấu ngoài mặt trận với đầy đủ cái OAI cái DŨNG của nhà Tướng. Tôi cũng muốn nhắc nhở một sự thực mà người ta muốn chối bỏ là Miền Nam có nhiều dũng tướng, thành mất, Tướng phải chết theo thành, như Tướng Lê Nguyên Vỹ đã làm. 30 tháng 4-1975, ngày tang lớn. Những bàng hoàng, xúc động sau 33 năm, nay đã lắng dịu phần nào. Cuộc sống nơi xứ người và tuổi 70 khiến tâm trí tôi bình thản hơn. Ðôi dòng đơn sơ trên là những sự thực về Tướng Vỹ mà tôi biết, dĩ nhiên chưa phải là tất cả. Dẫu sao, đây là những dòng tâm thành, thay nén nhang dâng lên tưởng niệm vị anh hùng dân tộc Lê Nguyên Vỹ nhân ngày giỗ thứ 33 của người. Triệu Vũ, Tháng 4-2008.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:45:56 GMT -5
Vết xích chiến xa trên đất Kontum mùa Hè đỏ lửa 1972 Lê Quang Vinh, Chi Ðoàn 1/8
--------------------------------------------------------------------------------
Mưa giăng phủ trên nền trời Kontum, hạt mưa nhẹ như sương mù, những hạt mưa chỉ mang lại ướt át, lầy lội, những hạt mưa không gây chết chóc ai. Nhưng giữa những cơn mưa vô tình đó là một vùng Komtum khói lửa. Ðịch pháo như mưa, pháo theo mưa liên tục trút xuống thành phố và các vị trí của quân ta mà Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn là mục tiêu mưa pháo của địch. Trong những cơn mưa pháo đó, mỗi khi đạn đạo của pháo thu ngắn lại do tầm điều chỉnh của Bắc quân, là vị trí của Chi Ðoàn bị ăn đạn. Lý do là vị trí phòng thủ của thiết giáp chỉ cách Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn chưa tới 500 mét. Gia đình kỵ binh các cấp đều ăn ngủ bên cạnh chiến xa, tất cả trong tình trạng sẳn sàng tác chiến, nhận lệnh, chỉ cần khoảng 2 phút là tất cả xích sắt chiến xa chuyển động. Cùng lúc, khả năng tác chiến của Chi Ðoàn được phục hồi sau khi được trực thăng tiếp tế cơ phận và sửa chữa các chiến xa bị hư. Chi Ðoàn có được 10 chiếc M41 trong tay sẳn sàng tham chiến. Giữa tháng 5/1972, SÐ23BB và các đơn vị thống thuộc đã bẽ gẵy ít nhất là 2 cuộc tấn công của Bắc quân, song áp lực địch vẫn còn đè nặng trên thị trấn Cao Nguyên này. Quốc lộ 14 lại bị chốt cứng tại đèo Chu Pao. Phương tiện tiếp tế duy nhứt cho mặt trận Kontum là thả dù, mà địa điểm thả là bãi thả dù nằm phía Nam khu nghĩa địa. Nếu dù tiếp tế rơi bên này bờ suối thì lọt vào tay bạn, nếu gió đưa dù qua bên kia bờ suối thì địch có dịp ăn gạo xấy, thịt hộp của phe ta! Cả tháng trời chỉ có gạo xấy và thịt hộp, không có một miếng rau hay lương thực tươi, mà nếu từ trời bỗng rơi xuống mấy miếng thịt heo tươi anh em cũng chưa chắc dám ăn. Cái cảnh heo ăn thịt người làm anh em lợm giọng. Trước mắt chúng tôi, có mấy lần chứng kiến bầy heo đói sút chuồng chạy rong dọc đường Nguyễn Huệ, Phương Nghĩa phía Nam phi trường Kontum. Ðàn heo giành nhau gậm xé một cái chân người, kéo lê trên vệ đường với chiếc giép râu còn dính chặc ở bàn chân, y như trong một phim ma kinh dị...
Như mọi ngày, địch pháo ngày, pháo đêm, pháo trong cơn mưa, pháo khi trời nắng, pháo lúc sương mù... Nhưng đêm nay, địch bỗng ngưng pháo. Trực giác chiến trường cho biết có một cái gì bất thường, nghĩa là địch chuẩn bị giở trò. Các Chi Ðội báo động và tăng cường canh gác. Trời Kontum tối đen như mực, màn đêm lại rải xuống những cơn mưa phùn tê buốt thịt da, héo hắt lòng chinh nhân đang chong súng chờ giặc. Thời gian chầm chậm trôi như con kiến bò từ lổ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi, những con mắt chong vào đêm tối. Vừa qua khỏi nửa khuya, khắp nơi, hàng loạt tiếng nổ vang rền như phá tung màn đêm. Ðịch bắt đầu đợt tấn công mới. Qua hệ thống truyền tin, Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn nhận các báo cáo:
- Ðịch vào tới phi trường!
- Ðịch tấn công Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 44BB trong thành Dak - Pha
- Ðịch tấn công hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh....
Nằm trong tầm quan sát của Thiết Kỵ, trong cái tĩnh lặng của màn đêm lạnh lẽo giăng giăng mưa lạnh, chợt mìn chiếu sáng và claymore đồng loạt nổ rực sáng về phía cánh Bravo, nơi bãi thả dù tiếp tế những ngày vừa qua. Bravo khai hỏa. Ðại bác và đại liên nổ rền một góc thành phố Kontum. Mìn chiếu sáng và hỏa châu rọi rõ khu vực giao tranh, soi rõ bước chuyển quân của địch khi địch bị hỏa lực khủng khiếp của chiến xa bắn giạt về phía Nam khu trường học, nhưng cuộc di quân trốn đạn của định vẫn bị hỏa lực cánh Bravo bám chặt và bị dồn ngược lại để sau cùng lui về bờ suối, vừa rút vừa bắn trả bằng đại liên, B40, 41 và cả AT3 nhưng không gây thiệt hại cho các chiến xa cánh Bravo, vì địch không nhìn ra vị trí các chiến xa. Hỏa lực địch dồn vào vách các căn nhà cháy phía sau lưng kháng tuyến của Bravo.
Hỏa châu đã thay mặt trời. Tiếng súng ngưng, chiến trường im lặng. Mặt trời lại từ từ bò lên thế hỏa châu. Tôi phóng ống dòm qua các vùng địch xâm nhập tấn công hồi đêm, xác địch nằm la liệt trên những gò đất, trên những bụi cây ngoài tuyến phòng thủ. Ðịnh bụng là sẽ xin lệnh Sư Ðoàn cho các đứa con bung ra truy kích và khai tác chiến quả, tôi chưa bốc máy thì bất ngờ Trung Tâm Hành Quân Sư Ðoàn gọi khẩn cấp:
- Toàn bộ gia đình Tài Lực rời vị trí, giao lại cho Bộ Binh. Chuẩn bị cải cách để giải tỏa áp lực địch trong thành Dak - Pha và tái chiếm lại phi trường Kontum!
- Tài Lực nhận rõ!
Lệnh ra, trong phút chốc, tất cả chiến xa lăn xích rời vị trí tiến ngược vào thành phố, rẽ trái tại đường Lê Lợi rồi đổi hướng Bắc để vào thành Dak-Pha. Tại khu nghĩa địa nhỏ trước cổng Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn, địch ẩn nấp trong các gò mả và giao tranh ác liệt với Trinh Sát Sư Ðoàn. Cách thành Dak - Pha khoảng 500m về phía Nam, có một khu vườn mít, tôi cho lệnh các chiến xa chui hết vào trong đó để ẩn nấp và quan sát mục tiêu.
Cổng thành Dak - Pha sập đổ nát nhưng bức tường thành phía Nam vẫn đứng nguyên sừng sững, phân chia trong và ngoài. Tôi nhìn đăm đăm vào tháp nước nơi khẩu 12 ly 8 của địch đặt trên nóc tháp tác xạ lên máy bay, tác xạ vào các cánh quân ta tiến vào trong thành. Không thể đi bằng cổng chính để làm mục tiêu cho địch tác xạ, tôi lệnh cho ba chiến xa dưới quyền:
- Chuẩn bị khoan tường để tiến vào thành!
- Nhận rõ!
Ngay tức khắc, ba chiếc M41 như ba con cua sắt dương càng húc vào tường. Rầm! Rầm Rầm! Tường vừa sập, chiến xa tràn vào, tác xạ liên tục vô cổng chính và các căn nhà sập gần tháp nước, nơi địch bắn ra. Vừa lọt vào bờ thành là các chiến xa đầu chạm địch dữ dội. Toàn bộ Chi Ðoàn vượt qua bức tường đổ. Ðịch có mặt khắp nơi, trong đống gạch vụn, sau bức vách đổ, sau nhưng ngôi nhà sụp, trong hầm, trong hố, sau gốc cây... Chỗ nào cũng có tiếng súng địch nhắm vào thiết giáp.
Bên cạnh, cuộc ác chiến từ hồi đêm còn đang diễn ra tại Bội Chỉ Huy Trung Ðoàn 44BB, nơi trước đó đã đặt Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn. Nhìn chung, địa thế rất khó điều động chiến xa. Tôi quyết định nhanh, chia gia đình ra từng phân đội, cứ hai chiến xa tiến theo một trục để yễm trợ và bảo vệ lẫn nhau. Trục tiến là đường đi giữa hai dãy nhà đổ nát, một chiếc chạy sát dãy bên phải, một chiếc chạy sát dãy bên trái, thận trọng tối đa khi tới ngả tư. Ðịch ẩn nấp trong những căn nhà đổ nát nên tất cả mọi loại vũ khí đều được đem ra sử dụng: Ðại bác phóng vào hầm địch, đại liên 50 và 30 dìm cứng địch trong vòng tử địa, lựu đạn được tung vào từng ô cửa sổ, từng góc nhà, từng lổ trống vách tường. Vũ khí chống chiến xa của địch bị vô hiệu vì khoảng cách hai bên quá gần. Trong trận quần thảo cận chiến sinh tử này, thế bám trận của địch bị vỡ và địch tháo chạy về hướng Bắc, để lại vô số cán binh bị chết và bị thương, một tổn thất nặng nề. Các đơn vị bộ binh của Trung Ðoàn 44 tức tốc tràn ra khỏi vị trí phòng thủ, và một trận phản công ác liệt diễn ra khắp nơi trong thành Dak- Pha.
Chi Ðoàn đã hoàn thành nhiệm vụ. Trong trận giải tỏa thành Dak – Pha, Chi Ðoàn bị hy sinh cũng không nhỏ, kể cả 5 sĩ quan và 3 chiến xa bị hư hại. Dù vết thương còn đang rướm máu, gia đình Tài Lực lại nhận tiếp lệnh của thượng cấp: Rời Dak – Pha, giao lại cho Bộ Binh, di chuyển gấp để giải tỏa phi trường. Xích sắt chiến xa lại nghiến đường bụi đỏ mà ào ào tiến lên, lại lao vào "gió cát" mà chừng như nghe đâu đó âm thanh của một thứ "hồn tử sĩ gió ù ù thổi" trong gió Kontum từ thành Dak – Pha thổi theo vết lăn của xích sắt...
* * *
Phi trường Kontum nằm về phía Ðông của thành phố và ở vị trí Ðông Nam thành Dak - Pha. Phi đạo chạy dài theo chiều Ðông - Tây. Phía Nam phi đạo, gần cổng ra vào có vài căn nhà dành cho hành khách Air Việt Nam và An Ninh Phi Trường. Phía Bắc phi đạo có một số ụ để máy bay. Cuối phi đạo và dọc theo hàng rào phi trường là những lô cốt bảo vệ phi trường. Phi trường là một trong những mục tiêu quan yếu mà Bắc quân phải tấn chiếm.
Tiếng khua động của xích sắt chiến xa không át được tiếng súng nổ vang mỗi lúc một rõ từ hướng hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh. Tôi mừng trong bụng là tiếng đại liên 50 vẫn còn nổ ròn rã, vì điều nay cho biết địch chưa chiếm được căn cứ Trung Ðoàn, dù có nhiều đám cháy trong doanh trại. Từ các ụ máy bay cuối phi đạo, địch đặt đại liên bắn vào Trung Ðoàn Thiết Giáp để yễm trợ cho bộ binh tấn công vào hậu cứ Thiết Giáp và khu vực Quân Tiếp Vụ gần thành Dak - Pha... Một vài lô cốt bị địch thổi sập, nhưng địch vẫn chưa lọt vào được.
Ðịch chưa vào được là hậu cứ Thiết Giáp chưa mất, lực lượng quân ta vẫn còn. Tôi lệnh cho phân đội chiến xa đầu bọc về phía Nam của hậu cứ Thiết Giáp, sau đó chuyển sang hướng Ðông rồi bố trí đợi lệnh. Tôi cần thời gian để quan sát, ước lượng ý đồ, khả năng và mục tiêu của địch... trước khi có kế hoạch tấn công. Ước lượng sai, hành động sai là tự sát. Ðịch đã ở trong vị thế đã dàn trận và tấn công. Tôi nghĩ đến cái câu của người xưa "biết mình biết địch, trăm trận trăm thắng." Thắng bại gì thì chưa biết, nhưng chỉ biết là yếu tố địch, khả năng địch, lực lượng địch, vũ khí địch... tôi chưa nắm hết, mà biết mình thì tôi biết khá rõ.
Mặc dù được bổ sung trên 10 sĩ quan sau trận ác chiến trong nghĩa địa và sửa chữa, bổ sung chiến xa, nhưng khi giải tỏa thành Dak - Pha, gia đình Tài Lực bị hy sinh nghiêm trọng một số sĩ quan ưu tú để bây giờ, đối chiến với Bắc quân đã chiếm phi trường và đang uy hiếp dữ dội hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh, Chi Ðoàn chỉ còn lại hai sĩ quan là Chi Ðoàn Trưởng và Thiếu úy Nguyễn Văn Tám. Các Chi Ðội, Phân Ðội chiến xa được trao quyền chỉ huy cho các Hạ Sĩ Quan Kỵ Binh kế quyền. Trong tình huống nguy khốn mà vết xích chiến xa chỉ có đường lăn tới, thầy trò chúng tôi đựa lưng nhau chiến đấu. Tôi gọi Tám:
- Nhiệm vụ của cậu là ở lại với 2 M113 và bảo vệ cho 3 chiến xa bị hư. Tất cả chiến xa còn lại và anh em Hạ Sĩ Quan gia đình Chi Ðoàn do tôi điều động. Nhiệm vụ phải hoàn thành trong bất cứ tình huống nào! Cậu nhận rõ?
- Rõ 5! Thẩm quyền!
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:47:11 GMT -5
Giọng Tám chắc và quyết liệt. Tôi họp tham mưu bỏ túi với tất cả anh em còn lại mà trong đó tôi là Chi Ðoàn trưởng, người sĩ quan duy nhất trong trận đánh sắp diễn ra. Tuy nhiên, tôi vô cùng tin tưởng những Hạ Sĩ Quan Thiết Kỵ can đảm và đầy kinh nghiệm của Chi Ðoàn. Theo lệnh tôi, tất cả chiến xa còn lại của Chi Ðoàn được chia làm 3 Phân Ðội:
- Phân đội 1 gồm 2 chiến xa, do Trung Sĩ Nhất Y – Ðê – Niê ( người Thượng) chỉ huy.
- Phân đội 2 gồm 2 chiến xa, do Thượng Sĩ Bảo chỉ huy.
- Phân đội chỉ huy gồm 3 chiến xa do tôi, Chi Ðoàn trưởng, trực tiếp chỉ huy.
Qua hệ thống âm thoại đặc biệt của gia đình Tài Lực, tôi gọi, 2 Phân Ðội và giao trách nhiệm:
- 1 tấn công địch ở ụ máy bay đầu. Phân Ðội Chỉ Huy trách nhiệm giữ cạnh sườn phải cho 1, sau khi 1 vào tới mục tiêu, Phân Ðội Chỉ Huy tấn công mục tiêu 2 ở ụ máy bay thứ hai. 2 bảo vệ phía Nam, và Ðông khi Phân Ðội Chỉ Huy chiếm mục tiêu thì 2 tức tốc tấn công mục tiêu 3 ở ụ máy bay thứ ba. Ngay sau đó, 1 rút ra bảo vệ cạnh sườn mặt Ðông cho 2. Tất cả 1,2 nhận rõ?
- 1, 2 nhận rõ 5! Thẩm quyền!
Xích sắt chiến xa bắt đầu lăn trên kế hoạch, sau lưng là bộ binh SÐ23 tùng thiết theo sát chiến xa. Bắc quân đang chỉa tất cả các loại vũ khí vào hậu cứ Trung Ðoàn Kỵ Binh, bất ngờ tiếng xích sắt vang sau lưng họ. Bắc quân ngỡ ngàng hoang mang trong tình huống này. Chỉ với 7 chiến xa mà Bắc quân đã chào đón vô cùng nồng nhiệt với pháo 130 ly, cối 120 ly, đại bác 75 ly không giật. Pháo địch bắn thành một hàng rào lửa cản chiến xa, lấy phi đạo làm ranh giới.
Ðể tránh bị ăn pháo, tôi lệnh cho phân đội 1 tác xạ và lao thẳng vào mục tiêu với tốc độâ nhanh tối đa, trong lúc đó, phân đội chỉ huy trải lưới lửa vào cạnh sườn địch từ từ ụ máy bay 1 đến ụ máy bay 2. Chiến xa phân đội 1 đã gặp sự chống trả mãnh liệt của địch với đại liên được đặt ngay trên bờ thành cùng với B40 và B41 tác xạ thẳng vào đội hình của phân đội, đồng thời pháo và đại bác 75 ly không giật của địch từ cuối phi đạo cũng đồng loạt trút đạn vào các chiến xa đang tấn công. Chiến xa vẫn tiến. Một trung đội bộ binh bám sát theo chiến xa. Mục tiêu địch càng lúc càng gần, và "Ầm! Ầm!" Ðại lên địch trên bờ thành ụ máy bay số 1 bị đại bác chiến xa bắn tung, chiến xa ủi mục tiêu và bộ binh tràn ngập liền sau đó. Tiếng hô "xung phong" muốn át cả tiếng đạn nổ vang trời.
Trận đánh càng lúc càng ác liệt và không kém phần hào hứng. Tinh thần chiến đấu tuyệt vời của Thiết Giáp và Bộ Binh SÐ23 thể hiện rõ ngay trên trận mạc máu lửa. Người trúng đạn nằm lại tại chỗ, còn khả năng bắn yễm trợ anh em cứ tiếp tục bắn. Người không bị đạn cứ tiếp tục xông vào phía trước. Chiến xa nào đứt xích thì nằm lại, tiếp tục tác xạ theo khả năng còn lại của mình, chiến xa nào còn nguyên cứ lăn xích xông tới. Cả 3 phân đội chiến xa và bộ binh quần thảo với địch đến xế chiều, từng ụ đại liên địch, từ ụ 75 ly không giật của địch... liên tục bị nổ tung và tràn ngập. Ðến chiều cùng ngày, Bắc quân bị đẩy sát hàng rào phía Ðông phi trường và sau đó bị quét sạch.
Súng im tiếng trên toàn phi trường và hậu cứ Trung Ðoàn Kỵ Binh. Khói từ những đám cháy còn phảng phất trong ánh chiều tà. Trận địa xơ xác, tiêu điều, những vị trí súng bị phá hủy, những thây người, những vết xích ngang dọc. Tôi cho chiến xa tiếp cận hàng rào phi trường về mặt Ðông, số tử thương của địch bỏ lại nơi này có hơn một tiểu đoàn.
Màn đêm kép sụp đến che kín dần những tang thương đổ nát của chiến trường. Công tác thu dọn chiến trường và tản thương xong, gia đình Tài Lực di chuyển về vị trí được chỉ định, và mắt vẫn chong vào bóng đêm vất vưởng âm hồn tử sỉ hai bên.
Lê Quang Vinh
Phụ chú liên hệ:
- Ngày 3/5/1972, TT Việt Nam Cộng Hòa bay lên Kontum, đáp trực thăng đến mặt trận thăm viếng và ủy lạo chiến sĩ. Mùi thuốc súng vẫn chưa tan trong thành phố. Cùng ngày, vị Tổng Tư Lệnh Quân Ðội đã gắn một sao lên cổ áo vị Ðại Tá Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Lý Tòng Bá, đồng thời cũng là tư lệnh chiến trường Kontum 1972. Cùng lúc, có quyết định thăng một cấp cho hầu hết các chiến binh tham dự mặt trận.
Chi Ðoàn Thiết Kỵ 1/8 đã là một trong những nhân tố vô cùng quan trọng đóng góp cho chiến thắng giải tỏa và cứu Kontum, từ ngày nhổ chốt Chu Pao đến lúc chiếm lại phi trường Kontum. Chi Ðoàn đã hy sinh cho chiến thắng này:
- 68 kỵ binh mũ đen, trong đó có 18 sĩ quan. - Trên 300 bị thương - 2 chiến xa M41 bị phá hủy. - 10 chiến xa bị hư hại nặng.
Ðổi lại về phía địch:
- Trên 10 chiến xa T54 bị bắn cháy. - Bắt sống một T54 còn nguyên vẹn. - Hơn một ngàn chết bỏ xác tại trận địa, số tử thương và bị thương được đồng đội mang theo không rõ.
Chi Ðoàn, với những tổn thất nặng nề như trên nhưng lúc nào cũng còn khả năng tác chiến và hoàn thành nhiệm vụ trong khói lửa, một phần nhờ lòng ưu ái của Ðại tá Nguyễn Xuân Hường, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 Kỵ Binh Thiết Giáp. Gần như Ðại tá Hường đã vét cạn nhân lực của hai Chi Ðoàn 2/8 và 3/8 để bổ sung cho 1/8 sau những trận giao tranh nặng nề. Ðiều này được thể hiện rõ trong trận giải tỏa phi trường Kontum và hậu cứ Trung Ðoàn 14 Kỵ Binh. Khi trực thăng còn đang đáp xuống sân vận động để di tản thương binh cũng là lúc những sĩ quan và binh sĩ Kỵ Binh Thiết Giáp đổ xuống từ trực thăng để tăng cường, bổ sung cho gia đình 1/8 kịp lúc cho những trận đánh kế tiếp. Chính vì thế, toàn thể Kỵ Binh Thiết Giáp, nhất là Chi Ðoàn 1/8, đã rất kính mến người anh cả Kỵ Binh Ðại tá Nguyễn Xuân Hường.
Sau khi Kontum được giải tỏa, Chi Ðoàn 1/8 vẫn lại là đơn vị Thiết Kỵ duy nhất ở lại Kontum chứ không được thay thế để dưỡng quân, để rồi vài tháng sau đó, 1/8 Thiết kỵ lại cùng Bộ Binh SÐ23 lại quần thảo với Bắc quân trong một trận dạ chiến ác liệt để tái chiếm căn cứ hỏa lực Non Nước gần Ngô Trang nằm về hướng Tây Bắc Kontum, đánh bật 2 tiểu đoàn địch ra khỏi vị trí đóng chốt, cứu nguy cho Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 53 và toán cố vấn Mỹ.
Khi căn cứ hỏa lực Non Nước lọt lại vào tay ta, Trung tá cố vấn trưởng Trung Ðoàn đã nói trước mọi người:
- Ðây là đơn vị chiến xa tuyệt vời mà lần đầu tiên trong đời binh nghiệp tôi mới chứng kiến trong trận đánh!
Cũng sau đó, chính ông đã đề nghị cấp huy chương "anh dũng bội tinh/silver star " của Hoa Kỳ cho Chi Ðoàn Truởng 1/8 Thiết Kỵ Lê Quang Vinh.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:49:30 GMT -5
Người Lính Chưa Qua Sông
Nguyễn Phúc Sông Hương Tiểu Ðoàn Trưởng. Sư Ðoàn 18 Bộ Binh. Tù cải tạo. Hiện sống lưu vong ở Hoa Kỳ.
--------------------------------------------------------------------------------
Trích Tuyển tập "Những Trận Ðánh Không Tên Trong Quân Sử" sẽ ra mắt tại Nam Cali ngày 08/02/2003 và Bắc Cali ngày 15/02/2003. Sách dày 420 trang bìa 4 màu, gồm 21 tác giả với 34 truyện/ký. Giá bán mỗi cuốn 25US ; sẽ trích ra 5US/cuốn để giúp đỡ anh em TPB/VNCH. Liên lạc: nsvietnam@yahoo.com . * * *
(Cho cháu Trúc Vy khi cháu khôn lớn để cháu hiểu và thương ngày xưa của ông ngoại)
Ngày thứ mười hai của trận chiến, từ khi lên Bộ Tư Lệnh họp và nhận lệnh trở về, Tiểu Ðoàn Trưởng luôn trầm tư. Nhiều lần Tiểu Ðoàn Trưởng nhìn Tiểu Ðoàn Phó như muốn nói gì đó nhưng rồi lại lắc đầu, yên lặng. Qua vô tuyến, các đại đội báo cáo vẫn tiếp tục hoạt động lục soát trong khu vực trách nhiệm và tìm thấy rất nhiều xác lính CS và các loại vũ khí của họ trong rừng cao su hướng Tây Nam thị xã. Tiểu Ðoàn Trưởng cho lệnh các Ðại đội trưởng: "không cần thiết phải thu lượm chiến lợi phẩm." Ðến sáu giờ chiều, Tiểu Ðoàn trưởng họp các đại đội trưởng cho lệnh chuẩn bị di chuyển lúc sáu giờ ba muơi phút. Im lặng vô tuyến kể từ giờ phút này. Bảy giờ kém mười lăm, khi Tiểu Ðoàn vừa đến điểm tập trung tại ngã ba Tân Phong sát quận đường Xuân Lộc, Tiểu Ðoàn Phó và các đại đội trưởng mới biết lệnh bỏ Xuân Lộc. Mọi người tái mặt nhưng không ai nói gì. Tiểu Ðoàn Truởng nhìn sâu vào mắt Tiểu Ðoàn Phó Nguyễn Mạnh Tông như muốn san sẻ nổi buồn và sự lo lắng của bạn mình. Nguyễn Mạnh Tông có vợ và mẹ vợ đang ở Xuân Lộc. Bây giờ quân rút, số phận người thân ở lại sẽ ra sao khi quân lính CS tràn vào phòng tuyến trống nội ngày mai. Nguyễn Mạnh Tông nhìn Tiểu Ðoàn Trưởng gật đầu và nói trong xúc động: - Không chỉ riêng gia đình tôi mà còn rất nhiều gia đình vợ con binh sĩ Sư Ðoàn phải chịu ở lại. Buồn và lo thật nhưng đành chịu. Nếu Thiếu Tá có cho tôi biết trước, tôi cũng sẽ không về từ biệt gia đình. Mọi người ai cũng biết đến bài học rút quân đầy cay đắng của quân dân vùng Cao nguyên vừa mới tháng trước đây thôi. Gia đình kéo theo, lính không còn lòng dạ nào để chiến đấu...
Rút bỏ Xuân Lộc theo tình hình biến chuyển của chiến trường, và tình hình chung của đất nước, nhưng dù sao đi nữa, lòng người lính Sư Ðoàn cũng vô cùng đau xót khi phải bỏ vùng đất nhà quen thuộc. Và còn nữa: sự liên hệ mật thiết với người ở lại, ra đi chẳng khác gì ruột cắt làm đôi. Ðêm đó trên đường hành quân, anh em binh sĩ nhận ra được Tư Lệnh Sư đoàn kiêm Tư lệnh mặt trận Xuân Lộc, Thiếu Tướng Lê Minh Ðảo, cùng di chuyển đường bộ với họ... Tại sao Tư Lệnh không xử dụng trực thăng riêng của ông? Buổi trưa họp ở BTL, Tiểu Ðoàn Trưởng nhận thấy Tư Lệnh không được khoẻ, gương mặt hốc hác với đôi mắt sâu và thâm quần của một người mất ngủ. Thế mà đêm nay rút quân ông lại không xử dụng trực thăng riêng của mình để được khoẻ thân và an toàn như nhiều cấp Tướng lãnh chỉ huy khác? Thêm một lần nữa, vị Tướng trẻ chứng tỏ tinh thần sát cánh chiến đấu cùng với thuộc cấp, trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong những giờ phút sinh tử. Với một cấp chỉ huy như vậy thì anh em binh sĩ làm sao mà không hăng say chiến đấu... Nhìn lại, ba năm giữ chức vụ Tiểu Ðoàn Trưởng dưới quyền ông, vỏn vẹn chỉ có ba chai Martel mình tặng ông trong dịp Tết. Ðáp lại khi Tiểu đoàn về trú đóng gần bộ Tư Lệnh Sư đoàn, ông đã ưu ái tổ chức tiệc, dạ vũ cho tất cả sĩ quan Tiểu đoàn và chính ông cùng tham dự, lên sân khấu đàn và hát cho anh em binh sĩ nghe.
Sư đoàn 18 rút khỏi Xuân Lộc, xe tăng và bộ binh càn qua chốt địch chận trên đường 22 mà đi, về đến Bình Giả vào sáng hôm sau gần như toàn vẹn. Chỉ riêng anh em chiến sĩ Lữ Ðoàn Dù tăng cường cho mặt trận Xuân Lộc rút sau, trách nhiệm đoạn hậu nặng nề đã chạm súng với quân CS bám theo. Trở về căn cứ Long Bình vài ngày để bổ sung vũ khí. Ngày 25 tháng Tư, Tiểu đoàn theo Trung đoàn lên lập phòng tuyến tại vùng Trãng Bom, ranh giới Biên Hòa, Long khánh. Cùng với một Chi đoàn M113 thuộc Thiết Ðoàn 5 do Ðại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, Tiểu đoàn dàn quân bên này hào sâu cắt ngang Quốc Lộ 1. Quân số Tiểu Ðoàn sau trận Xuân Lộc còn lại trên 300. Một điều khiến các cấp chỉ huy Tiểu đoàn rất vui là không một người lính nào đào ngủ dù mấy ngày ở Long Bình, Biên Hòa, nơi anh em có nhiều cơ hội để bỏ về Sài Gòn, nơi có gia đình đang trông đợi. Tất cả anh em không đành lòng bỏ lại bạn bè, cấp chỉ huy, tất cả cùng chấp nhận đồng lao cộng khổ cho đến giờ phút cuối cùng. Sáng ngày 27 tháng Tư, xe tăng địch bò đến phía bên kia phòng tuyến. Hai chiếc M41 của Thiết Ðoàn 5 nguỵ trang chực sẳn bắn đại bác 90 ly trúng một tăng địch. Nhưng, từ hai mặt phải trái cách quốc lộ 1 khoảng trên 100 mét, cùng một lúc lính bộ binh và xe tăng địch xuất hiện. Thì ra lực lượng địch biết không thể băng qua hào sâu nên len lỏi trong rừng, bọc vòng tạo thành thế gọng kềm để kẹp chặt Trung đoàn 48. Qua vô tuyến, lúc đó mới biết rằng Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn và Tiểu Ðoàn 1 đóng trong đồn điền cao su Trãng Bom đã rút về hướng Nam từ lúc tờ mờ sáng. Như vậy tại tuyến đầu chỉ còn lại Tiểu đoàn 3 và một Chi Ðoàn M113 trong lúc xe tăng và bộ binh địch ào ào tràn ra từ ba hướng. Sau lưng không còn lực để dựa thì còn đánh đấm gì được nữa!.Nếu không nhanh chân thì chắc chắn sẽ bị quân CS bao vây cắt đường rút và diệt gọn. Tiểu Ðoàn Trưởng lệnh cho các đứa em phân tán, rút nhanh ra đường. Tội nghiệp chi đoàn M113 của Ðại úy Sơn phải tức tốc phân tán để đón những người bạn bộ binh trong lúc tăng địch bắn phá dữ dội. Nếu thiếu tinh thần chiến đấu và đồng đội thì anh em thiết giáp đã bỏ bạn bè bộ binh, vì thật ra M113 đâu phải là đối thủ của tăng T54 CS. Ngay cả M41 của mình cũng đã quá già nua yếu ớt đối với T54. Nhưng nếu M113 mà bỏ chạy thì đâu còn là chiến sĩ Thiết Giáp Quân lực VNCH. Hơn nữa, Tiểu đoàn 3/48 với Chi đoàn 3 Thiết Ðoàn 5 đã quá quen biết giao tình qua bao cuộc hành quân chung khắp vùng 3 chiến thuật và bên kia biên giới Campuchea trong năm 1970. Chi đoàn M113 của Ðại úy Sơn vốn đã quen địa hình nên sau khi đã gom được bộ binh liền rút rất nhanh. T54 địch đuổi theo, nhưng không làm được gì. Ðây thật sự là một cuộc rút chạy. Ðáng buồn thật. Ðáng buồn vì phải bỏ lại hai chiếc M41 anh hùng ở tuyến đầu, đáng buồn vì đơn vị chưa nổ một phát súng đã tìm đường thoát thân. Nhớ lại đêm nào ở mặt trận Bến Cát Bình Dương năm 1973, lính Tiểu Ðoàn đuổi tăng địch, bắn cháy tăng địch, và mới hai tuần trước đây thôi lúc còn ở mặt trận Xuân Lộc, tăng địch là miếng mồi ngon cho M72. Ðáng buồn khi nghĩ đến anh em chiến sĩ Ðịa Phương quân ở căn cứ Bầu Cá chiến đấu trong tuyệt vọng. Tội nghiệp cho những chiến sĩ và gia đình con bị bỏ lại trong căn cứ Bầu Cá nhỏ bé, cô đơn. Ngày 28 tháng tư, Tiểu đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Nguyễn Văn Nô, Thiết Ðoàn Trưởng Thiết Ðoàn 5 làm tuyến án ngữ mặt bắc căn cứ Long Bình. Ngày hôm đó, chỉ có tăng của hai bên bắn nhau, còn bộ binh ngồi chơi, la hét cổ vỏ mỗi lần tăng địch bị trúng đại bác 90 ly của M41. Lúc này mà có M48 lâm trận thì T54 của địch chắc phải cháy như cây đuốc nhiều hơn nữa. Từ đồi cao nhìn xuống Quốc lộ, người lính Sư đoàn hết sức khâm phục những người bạn Nghĩa quân Hố Nai, chỉ với súng carbin và M16 trong tay cũng bố trí chận đánh bộ binh địch nếu địch dám xâm phạm vào vùng đất xóm làng thân thương của họ. Ngày 29 tháng tư, lúc 5 giờ chiều, Tư Lệnh gọi Trung Tá Thiết đoàn trưởng Thiết Ðoàn 5 và Tiểu đoàn trưởng 3/48 đến BTL trong căn cứ Long Bình để họp cùng Tướng lê Minh Ðảo, Trung Tá Nguyễn Văn Nô và Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/48. Khi đang họp thì chuông điện thoại reo vang . Tướng tư Lệnh nhấc ống nghe. Một phút sau ông bỏ máy với vẻ chán nản và nói: - Tổng Thống Dương Văn Minh hỏi chúng ta có giữ được Long Bình Biên Hòa để chờ thương thuyết không? Ông nhìn thẳng hai thuộc cấp rồi chậm rải từng tiếng một: - Phải giữ bằng mọi giá, đây là vòng đai cuối cùng để bảo vệ Sài Gòn! Ông nhướng đôi mắt sáng lên: - Thiết Ðoàn của Trung Tá Nô chưa suy xuyển bao nhiêu phải không? Còn em, quân số Tiểu đoàn còn được bao nhiêu ? - Thưa Thiếu Tướng, còn đủ, chưa mất mát người nào từ khi rời khỏi Xuân Lộc! Nhìn hai anh em chúng tôi, Thiếu Tướng nói với giọng cương quyết: - Các em phải chiến đấu toàn lực, không được để mất thêm một tấc đất nào!
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:50:58 GMT -5
Người Lính Chưa Qua Sông
Trên tấm bản đồ hành quân vùng 3 Chiến thuật, đầy ký hiệu màu đỏ chỉ các đại đơn vị địch: Quân đoàn 1 từ hướng Bắc theo QL 13, QÐ2 và 4 từ hướng Ðông Bắc đang áp sát Biên Hòa, QÐ 3 từ Tây Bắc theo QL 1 gần Củ Chi, các Sư đoàn, Trung đoàn, tổng cộng gần 16 Sư đoàn quân CS với những mũi tên đỏ cùng chỉ hướng Sài Gòn. Trung Tá Nô lắc đầu khi nhìn khuôn mặt hốc hác vì thiếu ngủ và lo âu của vị Tư Lệnh. Mình cũng vậy thôi phải không Trung Tá, nhưng dù sao thì chúng ta ngày quần thảo với địch quá mỏi mệt, đêm nằm xuống đầu không kịp suy nghĩ đã bị hơi đất xông lên kéo giấc ngủ đến rất mau. Những giấc ngủ mệt nhưng có còn hơn không. Tư Lệnh thì chắc không ngủ được bởi cái đầu chứa đầy hình ảnh những mũi tên đỏ chỉ về Thủ đô. Ngày mai sẽ có giải pháp, Tổng Thống Dương Văn Minh vừa nói như vậy. Giải pháp như thế nào. Giải pháp gì khi chúng ta đang ở trong thế yếu? Nhượng bộ và nhượng bộ mà thôi. Lời nói của Tổng Thống khi ông nhậm chức ngày hôm kia rỏ ràng đã tỏ ra quá nhiều nhân nhượng và sợ hải kẻ thù, làm mất tinh thần toàn quân. Ông dùng hai chữ "anh em" để chỉ kẻ xâm lược như một đòn tình cảm, nhưng chắc chắn ông chẳng bao giờ được phe bên kia đáp ứng trong "tinh thần anh em" đó. Khoảng 11 giờ đêm 29 tháng Tư, đài phát thanh Sài Gòn phát lời huấn lệnh của Tướng ba sao Vĩnh Lộc, quyền Tổng Tham Mưu trưởng QLVNCH: - Các cùi cố gắng giúp Tổng Thống hoàn thành nhiệm vụ lịch sử! Có phải chăng đây là lời giả biệt của vị Tướng ba sao? Linh cảm cho anh em chiến sĩ biết rằng lại thêm một cấp chỉ huy cao cấp đào ngủ, bỏ nước ra đi. Có một chút gì cay đắng, buồn bực và khinh thường trong lòng những người chiến binh. Không! Chúng tôi không bỏ hàng ngủ! Vẫn còn những người lính Bộ Binh và Thiết Giáp đầy gian khổ nguy nan này, vẫn còn rất nhiều đơn vị trên các trận tuyến chung quanh Thủ đô yêu quý. Sư đoàn 5 ở Lai Khê của Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Sư Ðoàn 25 ở Củ Chi của Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá, và hàng hàng lớp lớp chiến sĩ anh hùng các đại đơn vị Tổng trừ bị Dù, Thủy Quân Lục chiến, Biệt Ðộng Quân. Những cánh chim đại bàng của không quân VNCH vẫn còn bay, những hạm đội của Hải quân vẫn còn trên sông ngòi, mặt biển Tổ quốc.
Ðêm đó, pháo địch từ mọi hướng rót xuống Long Bình như không ngừng nghỉ. Khoảng 3 giờ sáng toàn thể các đơn vị được lệnh rút khỏi Long Bình kéo về bờ Nam sông Ðồng Nai làm phòng tuyến. Lúc qua thành phố Biên Hòa, thật ngạc nhiên khi nhìn thấy rất nhiều xe tăng tối tân M48 bố trí khắp nơi trong thành phố. M48 nằm đây để chờ T54 của địch vào thành phố rồi mới nổ súng hay sao ? Biết còn có cơ hội nổ súng hay không? Sao Tư Lệnh Quân đoàn Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn không tăng cường M48 cho chiến tuyến Trãng Bom mà giao trách nhiệm nặng nề cho những chiếc 41 có từ Ðệ Nhị thế chiến? Tiểu đoàn Trưởng nuốt nước bọt đắng khô cổ nhưng nước mắt thì như muốn ứa ra đầy uất ức. Người ta quý những chiếc tăng 48 này hơn những mạng người. Một chiếc tăng M48 giá mấy triệu Mỹ kim trong lúc giá một người lính bằng 12 tháng tiền tử tuất. Thôi đi, đừng suy nghĩ vẩn vơ, ngươi chỉ là một sĩ quan chỉ huy nhỏ, cầm Tiểu đoàn còn chưa xong, biết gì mà vội trách móc các cấp chỉ huy cao cấp của mình! Ngày 30 tháng Tư lúc trời vừa hừng sáng, đơn vị vừa xuống xe đang bố trí gần khu Nghĩa trang Biên Hòa thì quân CS với xe tăng treo cờ MTGP dẩn đầu đoàn Molotova theo xa lộ hướng về Sài Gòn. Họ đi một cách ngang nhiên như đoàn xe diễn hành. Mấy chiếc tăng dẩn đầu, thỉnh thoảng còn nổ súng bắn vu vơ vào hai bên đường, còn bộ binh trên xe Molotova vẫn ngồi yên. Hỏa lực từ vài chiếc M113 trên đồi Nghĩa trang bắn theo nhưng đoàn xe CS vẫn tiếp tục theo hướng đã định. Lúc này thì Bộ Binh đã tách rời Thiết Giáp. Không biết Thiết Ðoàn 5 sau đó về đâu, còn Bộ Binh gồm Bộ Chỉ Huy Trung Ðoàn 48 với Trung đoàn trưởng Trung Tá Nguyễn Chí Công và toàn bộ Tiểu đoàn 3 cùng băng đồng tìm cách về Sài Gòn. Trung Ðoàn phó là Trung Tá Khôi đi cùng Tiểu đoàn 1/48 cũng trực chỉ hướng Thủ Ðô. Người lính lúc này sốt ruột lắm. Phải di chuyển cho nhanh về tiếp tay với các lực lượng bạn ở Sài Gòn để giữ cho được Thủ đô yêu quý của người miền Nam. VC từ trong các làng, sau các lùm tre bắn đuổi theo, anh em cũng không cần bắn trả lại. Thỉnh thoảng nghe những tiếng nổ lớn từ hướng Sài Gòn, và nhìn những cụm khói đen bốc cao từ lòng Thủ đô, bước chân người lính như muốn bốc lên khỏi những cánh đồng đất bùn đang làm chậm bước. Thấy lính Sư Ðoàn, anh em Ðịa Phương Quân bỏ đồn bót, xách súng đạn chạy theo để cùng về Sài Gòn chiến đấu. Ðồn bót làm gì nữa khi Sài Gòn sắp mất. Nhưng!!!... Lúc đó khoảng mười giờ, cái thời gian lạ hoắc và đáng nguyền rủa. Bàng hoàng, sửng sốt, tuyệt vọng bỗng ào đến giữ chặt cứng những bước chân, làm mắt hoa lên và tim như nghẹt thở khi tiếng nói của một người xa lạ vang lên từ chiếc radio nhỏ người lính mang theo bên mình. Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, ông là ai? Chắc ông không phải là Nguyễn Hữu Hạnh, con cọp Ba Ðầu Rằng nổi tiếng, từng khiến Cộng Sản kinh sợ ở Biệt Khu 41 Phước Bình Thành? Nguyễn Hữu Hạnh này là Nguyễn Hữu Hạnh xa lạ vừa được Tổng Thống hai ngày phong chức Tham Mưu trưởng QLVNCH. Chúng tôi nghi ngờ ông không phải là một vị Tướng lãnh của QLVNCH, bởi vì nếu thật ông là Tuớng từng cầm quân trận mạc thì chắc ông đã không quên ý chí kiêu hùng của người lính VNCH. Chúng tôi, những con xe đã ủi hết cuộc đời, những con tốt đã liều lĩnh qua sông, những con mã chạy không kịp thở, những con pháo tự nổ tung xác để làm gì trong bao nhiêu năm tháng qua, để bây giờ phải lắng nghe, tuân thủ cái lệnh buông súng đầu hàng nhục nhã!? Quý vị không thấy nhưng chúng tôi thấy những bạn bè đã hy sinh đang sống lại, khóc lóc và nguyền rủa... Ngay cả những oan hồn người lính CS chết trên đường vào Nam cũng đang cười vào đầu óc ngây thơ của quý vị đang ngồi trong dinh Ðộc Lập, trong bộ Tổng Tham Mưu!! Ðầu hàng! Thật quá dể. Chúng tôi có thể làm được điều đó ngoài mặt trận, nhưng những người lính trực diện vơi súng đạn đã không làm vì còn danh dự, trách nhiệm đối với Quân Lực và Tổ Quốc. Không bao giờ chúng tôi nghĩ đến ngày QLVNCH phải đầu hàng. Thực tế tại các chiến trường trong nhiều năm chiến đấu đã cho chúng tôi niềm tin rằng QLVNCH mạnh hơn quân CS Bắc Việt trên mọi mặt. Chúng ta yếu kém hơn họ trên mặt trận tuyên truyền láo khoét mà thôi. Chao ơi, nào ai muốn chiến tranh huynh đệ tương tàn. Nhưng có ai nhận chúng ta là huynh đệ không? Và họ có nghĩ gì đến tổ quốc Việt Nam hay là chỉ phục vụ cho tổ quốc Cộng sản bạo tàn? Chúng ta không muốn chiến tranh, chúng ta chỉ là kẻ tự vệ. Kẻ tự vệ bao giờ cũng sáng ngời lý tưởng, huống gì lý tưởng chiến đấu của chúng ta là hai chữ Tự Do. Này, các "người anh em", hãy đến đây nhận lấy vũ khí, rồi trả thù, hành hạ, đánh đập, tù ngục chúng tôi. Khi buông súng là mặc nhiên chấp nhận tất cả. Và để rồi xem ý nghĩa hai chữ "anh em" mà thượng cấp chúng tôi dùng sẽ như thế nào! Anh em đồng đội của tôi ơi, cho đến giờ phút này, tuy lòng đau đớn nhưng chúng ta thật bình thản, không hề mảy may sợ hãi, bởi vì chúng ta đã cầm súng để tự bảo vệ mình. Chúng ta chiến đấu trong tinh thần dân tộc máu đỏ, da vàng, không thẹn với lương tâm bởi tinh thần mã thượng và nhân đạo của con nguời đối với con người nơi trận tuyến. Chúng ta quý mạng sống kẻ thù như mạng sống của mình. Chưa, chưa bao giờ chúng ta nhẫn tâm ném một trái lựu đạn xuống hầm VC vì tiếng khóc của bà mẹ, của người vợ van xin cho đứa con, cho người chồng lầm đường. Chưa bao giờ chúng ta căm thù, hành hạ kẻ vừa bắn ngã đồng đội anh em mình bởi vì chúng ta hiểu đó là quy luật của chiến trường. Những người lính hai bên ai cũng muốn mình chiến thắng. Người lính miền Nam chúng ta nổ súng không có thù hận đem theo. Và đó cũng là một nguyên nhân mà chúng ta thành kẻ chiến bại ngày hôm nay.
* * *
Lúc này là 11 giờ 30, mặt trời và mặt đất như chưa bao giờ biết nhau như những người lính chưa bao giờ phải buông súng đầu hàng. Gần ba trăm tay súng, bỗng chốc tự mình làm cho mình còn lại tay không. Tay không trong hiện tại đớn đau và tay không trong tương lai khốn cùng. Ba trăm con người sắp hàng bước đi trước họng súng của mười du kích CS. Có lẻ trong giây phút này đây quý vị trong Dinh Tổng Thống cũng không hơn gì chúng tôi. Nơi đây, những du kích này còn lo sợ chúng tôi phản ứng còn quý vị thì đang ngoan ngoãn vâng lời dạ thưa tôi xin bàn giao, tôi xin đầu hàng. Trong Dinh tổng Thống không có mẹ già khóc, không có những em nhỏ nhìn theo mến thương, trước đám đông, nhiều đồng bào còn hoan hô các anh chiến sĩ QLVNCH. Ðây là đồng bào thuộc xã Long Thạnh Mỹ, Thủ Ðức, những con dân miền Nam nhân ái , yêu chuộng tự do. Họ đang đứng thành hàng hai bên đường, không phải để đón tiếp kẻ cầm vũ khí trong tay mà đón tiếp những người vừa bị lột trần giày, nón. Những nụ cười rất quen thuộc, thân thương mà kẻ chiến thắng cũng như quý vị cao chạy xa bay, đầu hàng không bao giờ được trao tặng. Cởi dày, cởi áo phải chăng là khúc cuối của vở bi kịch? Phải, chính là bi kịch, nhưng đoạn cuối thì chưa đến. Vì là bi kịch nên cha, mẹ, anh chị, em đứng hai bên đường rơi nước mắt. Tất cả mọi người đều sợ chiến tranh, giờ đây chiến tranh đã chấm dứt mà sao đồng bào nơi đây không cảm thấy có niềm vui. Phải chăng khi đã thật sự thấy tận mắt những gương mặt hốc hác, những nụ cười không lành lặn, trọn vẹn, những áo bạc màu rách vai, những đôi dày vẹt đế đầy bùn đất... đồng bào mới hiểu được có những chịu đựng tận cùng của con người nơi các chiến sĩ miền Nam của họ. Và chính đó là tình thương chân thật . Mừng cho các con còn sống! Mừng cho các anh yên lành! Chúng con nghe mẹ nói, muốn cầm tay mẹ và thì thầm mẹ ơi, chúng con đang chết từ giây phút này, một cái chết dưới thấp hơn tất cả cái chết trên đời thưa mẹ. Các anh muốn nói với em rằng có những vết thương đang hằn sâu, sâu hơn những vết thương các anh nhận từ chiến trận .
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:52:06 GMT -5
Người Lính Chưa Qua Sông
Một tên xã đội trưởng du kích hỏi: - Ai là cấp chỉ huy ở đây? Mọi người chờ đợi. Tiểu Ðoàn Trưởng trả lời: - Tôi! - Anh tập họp tất cả binh lính! Xã đội trưởng nói, giọng không được tự chủ khi đối diện với mấy trăm con người mắt nhìn hắn như trêu ghẹo... Lúc đó trong sân chùa Long Thạnh Mỹ, những người lính ngồi bệt xuống đất, cởi những chiếc vớ nhà binh rồi đưa lên mũi ngửi, mỉm cười nhìn nhau. Phải không bạn, chúng mình mang những đôi vớ này đã mấy ngày từ hôm rút khỏi Trãng Bom mà không có thì giờ để thay chiếc khác. Cởi những đôi vớ ra, bàn chân thật thoải mái nhưng tâm hồn sao lại u uất. Mùi hôi của vớ không nặng bằng mùi phiền muộn. Khi thấy anh em binh sĩ cởi giày, nhiều bà con chạy về nhà lấy dép ra cho. Lính và dân trao đổi giày nhà binh và dép nhẹ với những nụ cười như muốn nói với nhau: "Cám ơn em đã cho anh đôi dép, đôi dép khiến đôi bàn chân anh nhẹ nhàng. Cám ơn anh đã nhường cho em đôi giày lính, đôi giày này sẽ tiện lợi cho em trong những tháng ngày tương lai." Thấy đồng bào vui mừng khi nhận đôi bốt mòn đế, người lính ngạc nhiên nhưng rồi chợt hiểu. Phải, chính từ giờ phút này đây, những cuộc đời sẽ thay đổi, những khốn khó đang chực chờ. Tội nghiệp các em đang độ tuổi lớn khôn, chỉ mới ngày đầu mà đã thấy ra con đường tương lai đen tối! Khoảng hai giờ chiều thì đồng bào đem thức ăn đến sân chùa Long Thạnh Mỹ. - Các con ăn cơm cho đở đói! - Các chú ăn cho thật no nghe!. - Các anh cứ tự nhiên như ăn cơm của mình!Ðồng bào trong xã mời các anh, thương các anh lắm! Ðã lâu lắm rồi, đây là bữa cơm thịnh soạn nhất mà người lính chiến đấu được hưởng. Cơm gạo trắng, thịt heo kho măng thơm phức. Nhiều đồng bào đứng xem lính ăn, cười mãn nguyện. - "Trưa nay ăn thịt kho, chiều nay ăn cá lóc kho nghe các con!" Mẹ nói. - "Ra giếng chùa tắm cho mát rồi đi nghĩ cho khoẻ nghe các con!" Cha bảo. Tội nghiệp vị sư già gần 70 tuổi, không quen mùi thức ăn sinh vật, nhưng cũng đi từ nhóm này đến nhóm khác thăm hỏi như là một người cha sau bao ngày xa xách con mình. Hầu hết anh em binh sĩ đều ăn uống tự nhiên, rất ngon lành. Những sĩ quan chỉ huy thì không bình yên như vậy. Có người không nuốt nổi vì nước mắt lưng tròng. Khóc vì tủi nhục và cũng vì sung sướng. Nếu chiến đấu không có lý tưởng, không vì tự do hạnh phúc của dân tộc thì sao có được bữa cơm đầy tình nghĩa đáp đền hôm nay. Buổi chiều sân chùa vắng lặng vì anh em binh sĩ vào chơi trong làng. Trung Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn Trưởng và vài sĩ quan ở lại nghe vị sư già nói chuyện. Trước đây, sư đã từng có chức vụ trong ủyban kháng chiến Liên khu 5 ở miền Trung, nhưng sư bỏ trốn vào Nam khi nhận rõ bản chất của người CS. Sư nói: - Quân Ðội miền Nam có lý tưởng nhưng không tinh nhuần lý tưởng, lại thiếu khôn ngoan xảo quyệt, nhân nghĩa giả như Cộng Sản. Khi được hỏi về tương lai của miền Nam thì vị sư lắc đầu: - Thầy e rằng rồi đây ngay những chiếc áo tu nâu sồng nghèo khó cũng khó được mặc! Ðôi mắt vị sư buồn nhìn về xa xôi: - Từ khi cuộc chiến bùng nổ lớn, mất miền Trung, đồng bào hàng hàng lớp lớp chết vì chạy giặc, kinh kệ không vào trong đầu óc thầy nữa! Ðôi mắt sư nhìn sâu vào mắt mọi người với tiếng thở dài. Giọng một người run run: -- Vì đau khổ của chúng sanh mà tâm thầy không an, đôi mắt thầy hướng ra ngoài cửa Phật, còn chúng con hôm nay có được giây phút an lạc hiếm hoi trong cuộc đời. Chỉ sợ mai đây khi bước ra khỏi bóng chùa... Sư chắp tay hướng lên bàn thờ Phật: - Mô Phật! Bây giờ thì mọi chuyện đã xong, chỉ mong rằng họ sẽ khôn ngoan giải quyết trong tình nghĩa huynh đệ, đồng bào ruột thịt thì mới mong oán oán không chất chồng! Lời Sư trầm hẳn xuống: - Các con rồi đây phải cố gắng nhẩn nhục chịu đựng, chấp nhận tất cả. Thầy tin rằng đồng bào mình không ai không thương các con. Hãy tạm quên lý tưởng mà luôn luôn nghĩ đến sự tồn tại thực tế của gia đình mình! Khi nghe Sư hỏi thăm gia cảnh mình, tự nhiên mọi người đều ứa nước mắt. Nước mắt sư cũng ứa ra. Vì thương nhớ quê nhà, lo âu cho đạo pháp hay biết trước số phận sắp tới của những con người còn trẻ đang quây quần trước mặt mà thầy khóc? Có lúc nào đó, lòng chợt nhớ đến mẹ. Không biết mẹ còn ở Huế hay lạc bước đến phương nào từ khi Huế mất. - Ðêm nay thầy không thỉnh kinh, các con vào chánh điện mà nghỉ! Sư nói, rồi nhẹ nhàng đứng dậy. Anh em cũng đứng dậy chào người. Sư bước đi, dáng gầy xiêu xiêu. Màu nắng chiều tháng Tư nhạt nhòa trên vai áo nâu sồng, màu nắng loang lổ trên bậc thềm chùa như những mảnh vá của tâm hồn những người tạm nương nhờ cửa Phật đêm nay. Buổi tối anh em binh sĩ về sân chùa đầy đủ. Dưới ánh trăng mờ mọi người nằm la liệt, có người ngủ say bất động như xác chết. Một vài tiếng ho, ú ớ từ đâu đó vang lên. Không ngủ được, Nguyễn Mạnh Tông ngồi dậy nói : - Anh Ba ơi, anh em mình đi một vòng trong sân thử xem!* Trần Văn Minh ÐÐT Ðại Ðội Chỉ huy, nghe nói cũng ngồi dậy: - Em đi với anh Ba và anh Tư! Tông hỏi: - Có cần đếm thử xem anh em còn đủ không? - Thôi khỏi cần. Chắc không có anh em nào bỏ đi đâu! Tiểu Ðoàn Trưởng nghĩ thầm: "Anh em ai bỏ đi lúc này cũng được nhưng chắc không ai nỡ, anh em biết rằng nếu có người bỏ đi thì ngày mai các sĩ quan chỉ huy sẽ bị làm khó dể. Anh em ở lại để tỏ rỏ tình huynh đệ và tính kỷ luật của đơn vị một lần cuối. Cám ơn các em. Chúng ta chỉ còn với nhau ở nơi yên tỉnh này một đêm thôi. Rồi ngày mai... "
* * *
Mọi người ngước mắt nhìn bầu trời phương xa đang treo lơ lửng một vài trái sáng. Chắc chắn đâu đó, quanh Sài Gòn và ngay trong lòng Sài Gòn giờ phút này vẫn còn có những người vẫn tiếp tục chiến đấu. Còn vùng 4 chiến thuật nữa. Vùng bốn không đầu hàng CS. Tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng là những danh tướng, quý vị sẽ không tuân lệnh tổng thống Dương Văn Minh. Vùng bốn dân đông, kinh tế phồn thịnh sẽ là nơi quy tụ những anh hùng. Khi ba người trở lại chỗ cũ thì thấy mấy anh em thuộc Trung đội Quân báo của thượng sĩ Bé đang ngồi nhìn dáo dác chung quanh. Bé nói: - Em giật mình thức dậy không thấy Thiếu Tá và hai Ðại Úy nên gọi anh em dậy đi tìm! Tiểu Ðoàn Trưởng cám ơn rồi bảo mọi người đi ngủ. Tình cảm anh em vẫn còn gắn bó quá, thật không có gì thay đổi dù Tiểu Ðoàn Trưởng bây giờ không còn là Tiểu Ðoàn Trưởng, sĩ quan không còn là sĩ quan... Ðặt lưng nằm xuống, nhưng ba người vẫn không ngủ được. Giờ phút này, thật sự chỉ có giờ phút này mới nghĩ đến gia đình vợ con, mấy ngày qua chỉ nghĩ đến sự an nguy của đơn vị. Chỉ có những người lính chiến đấu mới biết rõ điều này hơn ai hết. Một đêm yên lành, thể xác bềnh bồng trôi qua đêm. Sáng 1 tháng 5, nắng đã lên ngoài sân chùa. - Mời Trung Tá, Thiếu Tá uống trà! Nguyễn Toàn, nguyên là người phụ trách cơm nước cho Tiểu Ðoàn Trưởng, pha trà và mời. -Thôi anh Toàn, đừng gọi Trung Tá, Thiếu tá, Ðại Úy gì nữa, mọi người đều như nhau, cùng một hoàn cảnh cả! - Dạ, nhưng tụi em vẫn xem như không có gì thay đổi! Tiểu Ðoàn Trưởng quay qua người lính quân báo bên cạnh, hỏi nhỏ: - Cây súng nhỏ của tôi cậu còn giữ không? Người lính nỡ nụ cười: - Em xin lỗi, em cố giữ như lời Thiếu Tá dặn, nhưng mấy anh em khuyên em ném nó đi, coi chừng Thiếu Tá nóng nảy làm bậy, khổ cho gia đình. Tụi em thấy mấy người du kích có vẻ nể nang chúng ta, họ không dám làm nhục Thiếu Tá và các vị sĩ quan đâu. Loạng quạng tụi em bẻ họng tụi nó hết! Khoảng 11 giờ trưa, xã đội trưởng xuống gặp Tiểu Ðoàn Trưởng, yêu cầu tập trung binh sĩ để nhận giấy chứng nhận cho ra về. Theo lời Tiểu Ðoàn Trưởng, mọi người kéo nhau xuống tập họp tại sân xã. Tiểu Ðoàn Trưởng và các Sĩ Quan nhận giấy rồi phát lại cho anh em binh sĩ . Ðứng trước anh em đang tập họp, Xã đội trưởng VC nghiêm sắc mặt rồi nói: - Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam khoan hồng cho tất cả các binh sĩ nguỵ về với gia đình. Yêu cầu khi về địa phương phải đến trình diện chính quyền Cách Mạng. Các sĩ quan cấp úy cũng sẽ được ra về nội trong chiều nay. Riêng sĩ quan cấp Tá sẽ được chuyển lên Ủy Ban Quận quyết định. Ai nhận giấy tờ xong bây giờ có thể ra về! Xã Ðội Trưởng dứt lời, đưa mắt nhìn anh em binh sĩ. Anh em vẫn đứng yên, mắt hướng về những người chỉ huy cũ chờ đợi. Tiểu Ðoàn Trưởng bước đến trước anh em nhưng miệng như không thốt ra được lời nào. Một phút rồi hai phút, bỗng trong hàng quân có tiếng khóc. Tiểu Ðoàn Trưởng ứa nước mắt. Anh em ứa nước mắt. Tiểu đoàn trưởng nói và chớp chớp đôi mắt để làm khô nhanh hạt lệ đang ứa ra. - Ô kìa, sao lại... Anh em! Từ trước đến nay tôi chưa bao giờ thấy một anh em nào khóc, ngay cả khi chứng kiến sự hy sinh của bạn mình. Bây giờ hết chiến tranh rồi, hết chết chóc rồi, anh em sẽ ra về xây dựng cuộc đời mới, sống hạnh phúc với gia đình vợ con thì tại sao lại làm như đàn bà thế, phải vui cười lên chứ. Cười như tôi đây này! Tiểu Ðoàn Trưởng nói và cố mỉm cười. Cái mỉm cười lạ lùng nhất mà mọi người chưa bao giờ thấy. Anh em mỉm cười theo, có người cười thành tiếng nhưng vẫn có người còn sụt sùi. "TÐ 3/48 chưa bao giờ bại trận, ngay cả bây giờ cũng vậy, không được tỏ ra yếu đuối trước họ, không thể để họ xem thường tinh thần người lính miền Nam". Tiểu Ðoàn Trưởng nói thầm với mình rồi quét đôi mắt sáng đầy cương quyết nhìn mọi người. Tiểu Ðoàn Phó Nguyễn Mạnh Tông gật đầu nhận hiểu. Anh em nhận hiểu như đã nhiều lần nhận hiểu khi nghe cấp chỉ huy mình nói trước giờ xuất quân . - Bây giờ anh em có thể ra về, nhưng hãy trả lời tôi trước khi chúng ta chia tay! Tiểu Ðoàn Trưởng chống hai tay vào hông, một cử chỉ quen thuộc mỗi lần đứng trước hàng quân. -Tất cả! Ngồi... - Xuống! - Ðứng... - Dậy! Cả ba trăm người trả lời cùng với động tác ngồi xuống và đứng dậy một lượt, âm thanh hùng hồn vang động làm rung rinh tâm hồn những cán binh VC và đồng bào có mặt khiến họ đều nhất loạt vỗ tay. Khi mọi người bắt tay nhau từ giả, Tiểu Ðoàn Trưởng quay qua hỏi trung sĩ Lê Văn Tạo:
- Ngoài anh Tạo biết gia đình Sơn, còn có ai biết nữa không?
- Chỉ một mình em biết thôi, em đã chuẩn bị tất cả rồi, xác Sơn đã được đưa lên xe lam, chốc nữa em sẽ đưa Sơn về nhà cho gia đình Sơn!
Giọng Tạo thật buồn và anh nói tiếp:
- Nó cố giữ cái máy truyền tin nên bị hụt cẳng khi qua sông, em kêu nó buông cái máy ra mà nó không chịu nghe... Ðánh nhau không chết bây giờ lại chết, may mà sáng nay xác nỗi lên còn không thì ... - Có mấy trăm đây, em lấy mà trả tiền xe! - Thưa Thiếu Tá không, người chủ xe lam không lấy tiền! Sơn ơi! Cái chết của em đau lòng mọi người lắm, nhưng em sẽ bất tử trong lòng anh em bởi vì tất cả chúng ta không ai quên được những giờ phút Tiểu Ðoàn lội qua sông để mong đến với Sài Gòn đang kêu cứu.
* * *
Gã tù binh đứng như trời trồng giữa buổi trưa ngày cuối tháng tư nắng gắt. Gã nhắm mắt lại, tai nghe lao xao những lời từ giả. Tay gã muốn cử động khi có bàn tay ai nắm chặt nhưng bàn tay gã như khô đi và cứng ngắt. Gã đứng đó và thấy một dòng sông đang chảy xiết với hình ảnh những người lính vội vã lội qua sông. "Sơn ơi! Sao em không chịu buông cái máy truyền tin, còn giữ nó làm chi trong giờ phút sau cùng khi không còn gọi được một ai, không nghe ai gọi mình!" Hởi con sông đang chảy xiết và sẽ chảy mãi trong trái tim đau đớn của ta! Ta làm sao quên dòng chảy ào ạt của ngươi đã nhận chìm, cuốn trôi đôi tay người lính đang nâng chiếc máy truyền tin lên cao, lên cao. Hởi người lính muốn qua sông về với Sài Gòn mà chưa qua được! Anh vẫn thấy đôi mắt em hướng về Thủ Ðô buổi sáng 30 tháng Tư. "Ngày xưa khi anh mở mắt chào đời, Mẹ yêu, theo gương người trước chọn lời,... đặt tên cho người nặng tình yêu nước vào nôi ( Phạm Duy). Không biết con sẽ hát bài ca này bao nhiêu lần trong cuộc đời lưu lạc Mẹ ơi!...
Nguyễn phúc Sông Hương
* (Các danh xưng anh Ba, anh Tư, anh Năm ... mà Sĩ quan Tiểu đoàn 3 dùng từ khi thiếu Tá Phương (anh hai) còn làm Tiểu Ðoàn Trưởng năm 1972, lúc đó Tiểu Ðoàn Trưởng hiện tại là Tiểu đoàn Phó, là anh ba)
Ghi chú của nhóm chủ trương:
Sau khi SÐ18 được lệnh bỏ trống mặt trận Long Khánh và rút về ven biên Sài Gòn, không có một tin tức, văn bản hay báo chí nào nói đến cuộc chiến đấu bi hùng và tuyệt vọng của những người lính VNCH trong những ngày hấp hối sau cùng của miền Nam. Ðọc "Người Lính Chưa Qua Sông", chúng ta như sống lại những ngày bi tráng và đau thương của quân lực. Nó là truyện thực, là vết tích của lịch sử bị bỏ quên, và nó đã sống lại trong tập truyện này.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:53:28 GMT -5
Còn đâu những huyền thoại bịp trong cuộc chiến Ðông Dương 1955 – 1975 khi cộng sản Việt Nam hiện hình buôn dân bán nước Hồ Ðinh
-------------------------------------------------------------------------------- (Nguyệt San Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết đặc biệt của Hồ Ðinh nhân ngày quân lực 19/6/2002. Hồ Ðinh là một trong những cây bút cột trụ của tạp chí Lửa Việt và Nguyệt San Việt Nam từ hơn hai thập niên qua... và là một trong vài nhà văn quân đội viết và chiến đấu bền bĩ nhất hiện nay tại hải ngoại.../HT) Ngày 1 tháng 5 năm 1975, VNCH coi như hoàn toàn sụp đổ sau khi Dương văn Minh ra lệnh buông súng đầu hàng, nhưng có điều kỳ quái là Lê Duẩn, vua của đất Bắc lúc đó, lại lên đài tuyên bố " không có kẻ thắng, người bại ", chứ không phải do ông chủ tịch Mặt trận GPMN Nguyễn hữu Thọ,nhân vật mà báo chí trong và ngoài nước luôn nhắc nhở từ tháng 12/1960 cho tới 10 giờ trứa ngày 30-4-1975. Ðây là sự thật chứ không phải cảnh giả ngộ, vì tại Sài Gòn hôm đó, hình bóng của chính phủ lâm thời miền Nam coi như cũng chết tiệt theo chính phủ VNCH, kể luôn cái hai bên nằm trong trại David, Tân sơn Nhất. Hình ảnh còn thấy đưọc sự sống của mặt trận là mấy lá cờ nửa xanh, nửa đỏ giữa có ngôi sao vàng,được treo lủng lẳng theo đoàn tăng, pháo Liên Xô,nhưng toàn do bộ đội Bắc bộ phủ lái. Riêng Mặt Trận gì gì đó, nghe đồn đã về thủ đô nhưng rồi ai tớ, ai thầy, đã quá rõ ràng trên hàng ghế danh dự nơi khán đài do Phạm Hùng, Trần văn Trà chủ tọa. Màn hài kịch dài mấy chục năm chấm dứt. Người nam kẻ bắc từ đó lại ôm nhau chìm trong vũng bùn ô uế của xã nghĩ a thiên đàng. Lừng lẫy nhất trong mặt trận hửu danh vô thực, có Nguyễn thị Bình, một trong những người của bốn phe đã đặt bút ký vào trong manh giấy lộn cũng là tờ đoạn mãi VNCH cho CS của cặp Nixon-Kissiger, ngày 27-1-1973, sau này thành đám lục bình nổi trôi theo con nước ròng, nước lớn trên các kênh rạch, sông Hậu, sông Tiền, Y thị và đồng bọn trong cái mặt trận ma, bị vứt vào quên lãng như tờ giấy lộn trên với cái thân phận bù nhìn, phất phơ, ngồi trơ mắt ếch. Thế nhưng, chứng nào tật nấy, còn lên báo năm 1995 nói ngọng, vẽ rắn thêm chân, chỉ hươu nói ngựa vào cái thời điểm, mà khắp VN và thế giới, ai cũng đã biết hết sự thật não nùng . Ðời mà đến thế thì thôi , hoặc im miệng ngồi lãnh tem phiếu dưỡng già, hay khá khá hơn như Nguyễn Hộ, Nguyễn văn Trấn..ít ra còn dám viết lại những lỗi lầm của mình trót dại theo giặc phản dân hại nước. Không làm được hai điều trên mà còn tệ hơn ,lấy uy danh của ông ngoại mình, vốn là bậc anh hùng dân tộc, đem ra bêu xấu khắp nước , vì sự lố lăng , lừa bịp và phản bội của chính mình.
Hai mươi bảy năm qua rồi, ngày nay các huyền thoại BỊP một thời làm mù mắt cả nước cũng theo chuyện xưa, tích củ, chuyện bán nước buôn dân, tàn theo mùa chinh chiến, bởi vì tầm quan trọng lịch sử của một cuộc chiến, hầu như do các huyền thoại liên hệ quyết định nhưng huyền thoại cũng là con dao hai lưỡi, để kết luận sự thành bại của cuộc chiến. Những gì có hôm nay trên đất Việt, mới thực sự đánh giá ai là giặc là nguỵ và ai mới xứng đáng đi vào lịch sử.
(Nguyễn Thị Bình khoe trên báo KTNN số 188 ngày 10-10-95, về chuyện bịp trong hiệp định NBVN năm 1973).
1- BẮC VIỆT XÂM LĂNG MIỀN NAM:
Ngày nay qua những khai quật của lịch sử trong núi kho tàng dữ liệu, từ Pháp, Mỹ cho tới Tàu Cộng, từ Việt cộng miền Nam cho tới Cộng gộc đất Bắc..và VNCH, cho thấy những chiến thắng của Lê Duẩn, Võ nguyên Giáp, Văn tiến Dũng..tại miền nam trong suốt 20 năm đối mặt với QLVNCH, thật ra không có gì là vĩ đại như đảng tuyên truyền. Những trận Ấp Bắc, Ðầm Dơi, Hiệp Hoà, Suối Ðá,An Lão, Bình Giã..cho tới cuộc đại chiến hồi Tết Mậu Thân, những trận long trời lở đất trên đất Cao Miên, Hạ Lào, rồi Vũng Rô, Ba Gia, Phụng Dư, Ðồng Xoài, Ðức Cơ, Bố Ðức, Cồn Tiên, Làng Vây, Cô Tô, Trí Pháp..và mùa hè đỏ lửa 1972 cho đến hồi gần kết cuộc tại PhanThiết, Xuân Lộc, Long An, Sài Gòn..mọi nơi, khắp chốn, từ trong núi cho tới thị thành, lúc nào cũng đánh lén, hồi nào cũng biển người, khi nào cũng có hỏa lực hùng hậu đưọc viện trợ hay mua chịu trả sau từ Nga, Tàu..nhưng đâu có lần nào thây không phơi đầy bãi, đánh nhanh, rút vội quay về rừng ? Cho tới khi thảm kịch VN chính thức thành hình ngày 27-1-1973, qua cái gọi là hiệp định chấm dứt chiến tranh, sau 4 năm 9 tháng Mỹ và khối CS quốc tế cò kè bán mua cái thân xác nhược tiểu VNCH. Khi người Mỹ rút bỏ VN bắt đầu từ thập niên 70 qua chương trình VN hoá chiến tranh, không có Mỹ chiến đấu bên cạnh không ngờ những năm 1970-1973, QLVNCH qua những Sĩ quan trung cấp, trong mọi quân binh chủng từ Nhảy Dù, TQLC, LLÐB, BÐQ, Thiết Kỵ, cho tới các Sư đoàn bộ binh 1,2,3,5,7,9, 18,21,22,23,25 kể cả các đơn vị Ðịa phương quân , được các nhà quân sử xếp loại Lính thiện chiến nhất thế giới. Thật vậy, có là lính để chứng kiến lính VNCH trong các mặt trận long trời lở đất tại An Lộc, Kon Tum, Quãng Trị, Bình Ðịnh, Thưọng Ðức, Sa Huỳnh, Tống Lê Chân, Xuân Lộc và những ngày hấp hối tại Tây Ninh, Củ Chi, Long An, Biên Hoà, Sài Gòn..mới biết sự chiến đấu phi thường của những người lính lãnh một năm lương, không bằng một trận cười của các me tây, me Mỹ và các nhà trí thức khã kính của miền Nam, số ít ăn cơm ta thờ ma hồ hay như thị Bình khoe là theo VC từ lúc còn ở trong đền thờ ông ngoại là Phan chu Trinh tại Ða Kao, Sài Gòn. Hiệp định Paris 1973 là vết dao trí mạng của Kissinger đâm đúng ngay hồng tim của VNCH, khi Mỹ và CS quốc tế hiệp đồng, hợp thức hoá sự có mặt của bộ đội Bắc Việt trên lãnh thổ miền Nam, cắt và ngưng viện trợ cho QLVNCH như đã từng ký hưá để tháo chạy trong danh dự ngay cả trên nóc nhà, Nhưng trên hết khi Mỹ dùng viện trợ bắt ép VNCH ký nhận bản hiệp ước vô lý bất nhẩn 1973, cũng là lúc quân dân miền Nam khởi đầu sự tan rã vì bất bình trước sự kiện miền Nam đang thắng lớn, bỗng dưng đầu hàng cái mặt trận MA qua chấp nhận sự hiện diện của chính phủ LTMN Ma và quân đội giải phóng MA qua người Bắc thật. Thêm vào đó là bọn hàng binh phản chiến, bọn trí thức thời thượng khôn nhà dại chợ..tất cả hiệp đồng đâm sau lưng người chiến sĩ, thì bảo làm sao lính không chết tới bị thương ?
Về cái huyền thoại chống Pháp, chống Nhật, chống Mỹ cứu nước, thì cũng chẳng có gì vĩ đại như đảng ra rã tuyện truyền mút mùa nước nổi, vì chống Pháp là công của toàn dân có cả người anh vĩ đại phương bắc, Nhật thì đâu có đánh trận nào mà tự ý họ giãi giáp và rút về nước sau khi đầu hàng Ðồng Minh vô điều kiện, Riêng thắng Mỹ thì lại càng phải xét lai, vì với lực lưọng CSVN lúc đó, chỉ mới đưọc xếp loại ba trên thế giới, thắng hay bại đều do quân viện Nga-Hoa, hậu phương trên đất Bắc sau mấy chục năm chiến tranh triền miên khốc liệt, coi như sắp cạn kiệt kể cả người, vậy lấy gì để thắng Mỹ là một nước giàu mạnh trên thế giới, đúng nghĩa vật chất lẫn quân sự.
Tóm lại người Mỹ chỉ vì theo đuổi chính sách tự trói hay đúng ra theo đuổi một giải pháp chính trị cho Ðông Dương hơn là dùng bom đạn gây đổ vở chết chóc như CS chủ trương , quyền lực trên đầu súng, trong suốt mấy chục năm qua. Sự thực ngày nay về sức mạnh Mỹ qua cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991,Nam Tư và mới đây tại A Phú Hản, coi Nga Tàu kể cả Pháp chuyên rình ăn ké như pha, từ đó đủ chứng minh rằng với 500.000 quân Mỹ có hỏa lực hùng hậu nhất thế giới, hậu phương tiếp liệu vô tận, giàu mạnh và tài giỏi như quan thầy Nga còn tan hàng, nếu Mỹ thật tâm đánh giặc thì Bắc Việt sức nào mà đở nổi và chống được bao lâu? Ngay cả trên bàn cờ chính trị, CS đã thắng gì, dù có gây được vài ba phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ, nhưng đây là sản phẩm của bọn đạo tặc truyền thông da trắng, chứ không phải công của VC. Sau này mới biết được, người Mỹ đã dự liệu trước sự vi phạm trắng trợn hiệp định 1973 và bản tuyên cáo của La Cell St. Cloud vào tháng 6/1973 của Bắc Việt, để có lý do quốc tế hủy bỏ lời hứa viện trợ tái thiết cả chục tỷ đô la, phong tỏa kinh tế và cấm vận VC dài hạn cho tới đầu năm 1990 mới hủy bỏ.
Tóm lại cuộc chiến Ðông Dường lần thứ ba 1955-1975, dù cho có gọi bằng thứ danh từ gì chăng nửa như chiến tranh ủy nhiệm, chiến tranh giải phóng dân tộc, nội chiến Nam-Bắc..thì tựu trung cũng là Bắc Việt xâm lăng VNCH. Cái đa dạng và phức tạp từ trong định nghĩa ra tới thực chất, đều thoát thai qua lớp hỏa mù tuyên truyền và đống núi tài liệu tả bánh lù , đối chọi tréo cẳng ngổng làm cho lớp trẻ trong và ngoài nước, cũng như những kẻ bàng quang không biết đâu mà mò. Từ đó suy diễn bậy bạ và trút hết mọi thua thiệt vào kẻ chiến bại VNCH, đáng ra phải đưọc vinh danh vì công trạng giữ gìn và bảo vệ nước Việt trước sự xâm lăng nhuộm đỏ của CS quốc tế.
Bốn mươi lăm năm tìm đủ trăm phương ngàn kế, tận dụng hết tất cả thủ đoạn, xô lệnh sơn hà, gây cảnh máu sông, xương núi, để làm chủ cho được VN, cuối cùng giờ vinh quang, cũng là lúc những huyền thoại thay nhau òa vỡ trong biển lệ trùng trùng, ngay cái phút đối mặt, người miền Nam đã bẽ bàng trước cảnh bị gạt thâm canh, vì cái mặt trận MA chỉ là công cụ để bộ đội Hồ nhuộm đỏ đất Miền Nam nước Việt.
Rồi thì đổi đời bi thiết ngay trên vùng đất mới vừa đưọc cách mạng giải phóng, các anh hùng rừng núi Trường Sơn, mật khu Hố Bò, trung kiên với đảng , ngày thứ nhất về thành đã võ vàng lột xác trước cảnh sang giàu của vùng bị tạm chiếm, mà đảng bảo là đói khổ lầm than. Sự bịp bợm của cấp lãnh đạo làm tan vở huyền thoại về ‘ đạo đức cách mạng’. Thêm một lần nửa người Việt cả nước nhận thực về tình công sản, chỉ đẹp khi chưa nắm chính quyền như trước năm 1954 ở miền Bắc và 1975 tại miền Nam.
Ðất nước xơ xác tiêu điều dưới sự lãnh đạo của tập đoàn đỉnh cao trí tuệ, dân đói mặc bây, chỉ lo triễn lãm tội ác Mỹ Nguỵ, xây kỳ đài khắp quê làng, phố chợ, in sách để quảng bá về vụ Mỹ Lai, Bến Tre nhưng không nói tới thảm cảnh chôn sống giết dân Tết Mậu Thân tại Huế, trên đại lộ kinh hoàng, đường số 7, Bình Ðịnh, An Lộc, phóng đại huyền thoại Củ Chi lại quên là Ðịa đạo đã bị san bằng từ năm nào, kể cả cái R cũng thành bình địa, khiến Nguyễn chí Thanh phải tan xương nát thịt dưới bom Mỹ năm 1967. Tóm lại tất cả đều đi ngưọc lại lời Lê Duẩn tuyên bố, làm giặc chỉ để có quyền cướp của, giết người, hủy diệt tôn giáo, đình, chùa, nhà thờ, coi trí thức miền nam tệ hơn cục phân như Mao đã phán, kể cảø số ít trí thức đã góp phần đem vinh quang cho đảng. Nắm súng trong tay,lại bá đạo, tàn độc nên khắp miền Nam không thấy cảnh bàn thờ ra đường, ký giả đi ăn mày, cha tố cáo tham nhủng hay trí thức khùng coi đời như bửa tiệc nhân sinh. Tất cả im re lặng ngắt, thấy cán bộ đầu ngỏ đã thưa ông cần gì. Sự co mình của những kẻ hung hăng nhất của ngày củ, khiến đảng càng kiêu căng phách lối, đốt hết sách vở miền Nam, bỏ tù hằng triệu quân công cán cảnh VNCH trước cảnh sa cơ, cày mộ tử sĩ , đuổi hằng trăm ngàn người Hoa ra khỏi nước để hốt vàng, chiếm nhà, đoạt xí nghiệp, tài sản... khiến cả nước ngáp, đói vì bo bo độn gạo mọt. Nay hối hận thì cũng muộn màng, trước giao khoán phần chống giặc cho lính, còn hạ nhục, đâm lén, phủ phàng, nay lính đã rã ngủ, còn ai để bảo vệ cho dân? Nhưng thê thảm hơn hết là chính sách trồng người, mà nạn nhân là các thế hệ thanh thiếu niên cả nước, bị nhét vào đầu những trang sử Việt viết bằng ý thức hệ duy vật Mác Xít cọng sản quốc tế, vứt bỏ nhiều anh hùng liệt nử của dân tộc Hồng Lạc, đem tên những cha căng chú kiết, tự phong là liệt sĩ, nữ lưu gì gì đó trám đầy, cùng với những bịa đật tuyên truyền, làm hư hỏng cả một thế hệ thanh niên ngày nay. Cũng may, ngày tàn của đảng tới sớm, nên sự thật đã tẩy sạch hết mọi bẩn dơ, kỳ quặc trong số lớn lớp người trên. Hởi ôi, chỉ có 55 ngày đêm đại bại, mà VN phải chịu sống trong cơn ác mộng của xã nghĩa thiên đưòng, chẳng biết bao giờ mới ngóc đầu lên như nhân loại, để thở hít không khí trong lành của xã hội người.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 10:54:15 GMT -5
Còn đâu những huyền thoại bịp trong cuộc chiến Ðông Dương 1955 – 1975
2- CÒN ÐÂU NHỮNG HUYỀN THOẠI BỊP
TẤT CẢ ÐỀU LÀ CỦA ÐẢNG TA ÐÓ :
Trong Ðại thắng mùa xuân, Văn tiến Dũng đã nói một cách huỵt toẹt là nhiều người có liên hệ tới cuộc chiến VN, vào những giờ phút cuối cùng từ tổng thống Pháp Giscard d’Estaing, Ðại sứ Pháp tại VNCH Mérillon, Ðại sứ Mỹ Martin, cho tới Dương văn Minh cùng với nhóm thân cộng Chân Tín, Lý quý Chung, Dương văn Ba, Châu tâm Luân..đều bị cộng sản gạt một cách cay cú về chuyện hòa đàm. Nhưng chính cái xảo trá này, đã khiến cho cộng sản sau ngày 30-4-1975, phải trả một giá đích đáng, là không còn ai trong loài người TIN. Câu dồng dao "nói như vẹm nói" đã phát xuất từ đó.
Trong lúc Dương văn Minh, Nguyễn văn Huyền tin tưởng ngày mai trời lại sáng, ra lệnh cho tất cả quân binh chủng/QLVNCH còn đang chiến đấu khắp mặt trận, ráng thêm một chút thôi, ngày mai 30-4-1975, là có hòa bình, thì theo lời Trần văn Trà viết trong KTNN số 34 năm 1990, lúc 24 giờ ngày 29-4-1975, được Lê Duẩn chọn làm giờ G cho 5 quân đoàn Bắc Việt, từ 5 hướng tổng tấn công vào Sài Gòn. Ðây cũng là thời gian để cán bộ nằm vùng lộ mặt, xách động dân chúng nổi dậy diệt chính quyền. Lúc này Mỹ cũng đã kết thúc cuộc di tản theo kế hoạch Frequent Wind và mờ sáng ngày 30-4-1975, đại sứ cũng bay tới soái hạm Blue Ridge của hạm đội 7, sau đó là toán TQLC, kết thúc sự hiện diện của người Mỹ tại VN từ 1954
Thế là giấc mộng nhuộm đỏ miền nam cưu mang từ năm 1959 đã toại nguyện, từ đây các cấp cộng sản tự phong cho mình chức trời, khinh thường chẳng những bọn trí thức da trắng, mà cả da vàng mũi toẹt, cùng quốc dân VN. Cả đảng từ lớn tới nhỏ, từ Bắc bộ phủ quyền uy sông núi, cho tới đám cò mồi trong mặt trận MA, kể luôn sư đoàn 304 quàng khăn đỏ, mới lập đêm 29-4-1975, cũng phun châu nhả ngọc qua hàng ngàn câu chuyện cổ tích chỉ có trong đầu những con người mất nhân tính, kể lại, vẽ vời, gây ấn tượng và trên hết dùng súng bắt người đối diện TIN là gà có bốn chân. Nhưng phải nói là nhờ chính miệng các con bài trong chiếu, tự lật con bài tẩy của mình trước khán thính giả, người miền Nam mới chịu tin đó là sự thật . Thế là thêm một huyền thoại của đảng bị vùi dập phũ phàng trong ngàn muôn lời nguyền rủa và sự khinh bỉ tận tuyệt dù trước mặt vẫn phải đối diện với kẻ thù
* TRẦN VĂN DANH KỂ CHUYỆN PHONG THẦN :
Từ sau hiệp định ngưng bắn Ba Lê được thi hành năm 1973, Trần văn Danh, chỉ huy trưởng quân báo Bắc Việt, kiêm phó tham mưu trưởng Miền, coi về tình báo chiến lược, đặc công và biệt động, được Bắc bộ phủ cài đặc trong phái đoàn bốn bên, công khai ngồi chình ình nơi phòng có gắn máy lạnh tại trại David, Tân Sơn Nhất, Sài Gòn. Nhờ đặc quyền, đặc sũng này mà Danh đã thu nhập được gần như tất cả bí mật trong ngoài của VNCH và theo đó mà binh một ván bài bịp thần sầu qủy khóc, đưa Minh lớn vào bẩy rập quyền lực ảo tưởng để cuối cùng bị mang một tội danh thiên cổ. Ngay từ khi mặt trận MA được lên khuôn, Danh theo lệnh vào Nam từ tháng 12/1960 bằng đưòng Trường Sơn, hợp tác với Mười Cúc Nguyễn văn Linh đang nằm vùng tại đây. Rồi Ban quân sự Miền của Bắc Việt đưọc thành lập do Trần văn Quang chỉ huy, Danh phụ trách tình báo, đặc công. Theo Danh thú nhận, thời gian từ 1955-1963, hầu hết các cơ sở nằm vùng của cộng sản tại miền Nam bị tiêu diệt và thất bại nặng nề. Số lớn còn sống hoặc ra chiêu hồi hay bị bắt cầm tù. Nhân dịp này, miền Bắc đã tân tạo cơ quan, đem cán bộ cộng gộc vào làm tình báo và bọn này đã nằm vùng khắp các cơ quan đầu nảo từ Tòa đại sứ Mỹ cho tới dinh Ðộc Lập, bộ, nha, sở.. Theo Danh, trước khi tổng tấn công miền Nam năm 1975, Lê Duẩn chơi trước ván cờ thấu cáy bằng cách đánh Phước Long và các vùng lân cận do Danh (Ba Trần), Năm Thạch (Hoàng Cầm) và Năm Ngà (Nguyễn minh Châu) chỉ huy. Chiến dịch Phước Long để Hà Nội phát hiện một cách chắc chắn là Mỹ đã thật sự phủi tay, không can thiệp vào miền Nam, vì vậy Trung ương đảng mới quyết định công khai xé bỏ hiệp ưóc, đánh chiếm VNCH.
Giữa lúc trong dinh Ðộc Lập mê mãi chuyện thay ngựa, đổi vua để được VC chấm cho hòa hợp, hòa giải trong chính quyền liên hiệp cuội, thì Danh cho biết ngay ngày 24-4-1975, quân ủy miền Bắc đã ra lệnh cưỡng chiếm Sài Gòn., do Văn tiến Dũng, Phạm Hùng chỉ huy đầu nảo cùng với Trần văn Trà, Lê trọng Tấn, Lê Ðức Anh, Ðinh Ðức Thiện coi các lộ quân. Danh lo tình báo, Mười Cúc phụ trách sư đòan 304 nằm vùng và Võ văn Kiệt chuẩn bị ngựa xe, trà nước và người phe ta, chầu đón giặc bắc vào thành. Danh được Phạm Hùng phong tướng ngay đêm miền nam sụp đổ.
* ÐỒNG SĨ NGUYÊN KHOE BÁT QUÁI ÐỒ :
Ðọc trường thiên ký sự "Ðưòng đi không đền" của Xuân Vũ và dăm lần gót lính lội rừng, mới ý vị được sự khổ cực cùng tận của chiến tranh. Trường Sơn trong suốt cuộc chiến là mồ chôn hằng vạn tử sỉ của cả hai phía. Những địa danh như Ðồi không tên, Dốc pháo cụt, sông A Vương, Lũng Giằng, Khe Sanh, Dakto, A Shau,Ia-Drang, Pleime, Ðức Cơ.. ra tới tận miền Bắc, càng lúc trở nên khốc liệt khi chính thức là con đường chiến lược tải người và quân dụng vào xâm lăng miền Nam.
Tháng 11-1997, Võ nguyên Giáp nhắc lại đường Trường Sơn 559 do Ðinh đức Thiện và Ðồng sĩ Nguyên chỉ huy, nối Bắc bộ phủ đến tận các chiến trường Nam "ruột thịt", có kèm theo ống dẫn xăng dầu, dùng cho cơ giới và đoàn vận tải xuyên sơn. Theo Nguyên, bắt đầu chỉ huy binh đoàn 559 từ tháng 12-1966 với 750 xe vận tải, bốn binh trạm có nhiệm vụ chuyển tải người, quân dụng vào Nam. Một phần đường mòn chạy trên đất Lào và Kampuchia mà Hà Nội bảo là họ cho phép. Ðường chính thức ra đời vào ngày 19-5-1959 do công lao phác họa của Võ Bẩm, trải qua ba giai đoạn đường bộ, gùi thồ và xa lộ đất từ năm 1964 bằng xe cộ. Từ năm 1971,đường được mở rộng đồng thời với tuyến biển 759 nhưng hoạt động kém hiệu quả vì lực lưọng Hải quân/QLVNCH quá hùng hậu. Binh đoàn 559 có quân số trên 120.000 người, gồm 10.000 thanh niên xung phong, 1 sư đoàn cao xạ phòng không tăng phái và tám sư đoàn chiến đấu vận tải. Sau ngày ký hiệp định 1973, Hà Nội bỏ binh trạm và đưa quân thẳng vào Nam một cách công khai mỗi lần từ sư đoàn lên tới quân đoàn, kể cả cơ giới, pháo, tăng chỉ mất 12 ngày, thay vì 4 tháng như trước. Hai sư doàn quân xa dọc ngang xuôi ngược hết đông qua tây Trường Sơn , trước sự bất lực của VNCH vì không có hỏa lực để bắn hạ, còn Mỹ thì phủi tay khi ôm hết tù binh và cốt lính về nước. Tóm lại trong suốt cuộc chiến, Trường Sơn là bãi chiến trường đẳm máu nhất từ năm 1965 trở về sau. Nhưng hy sinh máu xương để được gì cho đất nước, hay chỉ là sự tưởng tiếc của những kẻ mắn may sống sót, những cô gái Trường Sơn mõi ngóng các chàng lính của cả hai bên, cho tới ngày tuổi xuân tháp cánh mà bóng ai vẫn biền biệt theo cái huyền thoại Trường Sơn đã chết héo trong tâm khảm của đồng bào sơn cước bị cướp bốc, khinh rẻ từ lúc có hòa bình.
* CỦ CHI ÐÃ NÁT TỰ LÂU RỒI :
Mấy lúc gần đây thấy đảng quảng cáo rầm rộ về cái địa đạo Củ Chi dài tới 250 km, mà bẽ bàng. Dù sao nguòi viết cũng đã ăn ngủ với Củ Chi hơn năm, khi Trung Ðoàn 43 biệt lập tăng phái hành quân cho tỉnh Hậu Nghĩa, mà tiểu đoàn 1/43 lại đóng thường xuyên ở thành đồng vách cát, gần như không sót một chỗ nào. Tóm lại Củ Chi mười lăm xã Phú Mỹ Hưng, An Phú, An Nhơn Tây, Nhuận Ðức, Trung Lập, Phú Hòa Ðông, Tân Thạnh Ðông, Trung An, Phước Vĩnh Ninh, Phước Thạnh, Phước Hiệp, Thái Mỹ, Tân Phú Trung và Tân Thông Hội, lính 43 không bỏ sót một chốn nào, nhưng đâu thấy địa đạo. Củ Chi nằm sát nách Sài Gòn, trên lãnh thổ có rất nhiều đường giao thông ngang dọc như quốc lộ 1, tỉnh lộ 15 chạy cặp sông Sài Gòn, tỉnh lộ 7A và 8A nối liền Bầu Trai, tỉnh lỵ Hậu Nghiã, qua Củ Chi, thông với Thủ Dầu Một. Suốt cuộc chiến, Củ Chi là giao điểm của tất cả hỏa lực của VNCH và Hoa Kỳ nhắm vào từ Sư doàn 25 HK, tới SD5,25 VNCH..vậy làm sao mà Củ Chi có thể trở thành địa đạo dài tới 250 km? Ðịa đạo Củ Chi như lời giải thích của các bô lảo trong vùng, xuất hiện trong thời gian khi chính phủ VNCH tiếp thu từ năm 1955, do các cựu kháng chiến Việt Minh, không đi tập kết mà cũng chẳng về tề, đào để phòng thân, cho nên xã nào cũng có. Sau đó tình hình khả quan, số lớn ra hợp tác với chính quyền hoặc trở thành người dân thường nên hầm thành hoang phế. Từ năm 1959 về sau, Hà Nội lại gây chiến, lập mặt trận ma đóng đô trong địa bàn quanh quẩn Tây Ninh, Hậu Nghĩa sát Củ Chi. Thế là du kích tìm các hầm hố, địa đạo củ moi dất để làm chổ trốn khi bị săn đuổi. Vì Củ Chi mưa nhiều, đất sốt, nên hầm hố sau một muà mưa rừng là xập nếu không tu bổ, trong hầm là hang ổ của các loại rắn, bò cạp, rít, chuột.. nên không mấy ai thích vào, trừ phi giây phút tử thần réo gọi. Số du kích, cán bộ bị rắn rít, bò cạp hạ sát, cũng không thua số thương vong bom đạn là mấy. Ðó là mặt thật của địa đạo 250 km trong tưởng tượng!
Ðịa đạo Củ Chi qua cuộc chiến thường được nhắc tới bằng các tên làng xóm quanh vùng như Hố Bò, Bến Ðình, Bến Dưọc..một vùng đồn điền cao su, giữa các mật khu nổi tiếng như Bời Lời, Trảng Bàng, Dương minh Châu, Tam giác Sắt. Mật khu Hố Bò, Củ Chi được Hà Nội gọi là Phân khu Sài Gòn - Chợ Lớn giao cho Mười Cúc và Võ văn Kiệt cai quản, có Trung đoàn 1012 ( Thủ đô) và 2 Tiểu đoàn Quyết Thắng 1,2 nhưng gần như chết hết qua nhiều lần đụng độ triền miên với Hoa Kỳ và SD25/VNCH. Từ sau Tết Mậu Thân 1968, quân số các đơn vị trên được bổ sung từ miền Bắc vào. Củ Chi tê liệt từ khi SD 25 Mỹ vào đóng tại Ðồng Dù, sau đó là SD 101 KVHK, thường dùng chiến dịch trực thăng bay vào tận ổ, nên sau này cán gộc cở Cúc, Kiệt thường ở dưới hầm cho chắc mạng.
* CHIẾN DỊCH ROM-PLOW ỦI XẬP ÐỊA ÐẠO CỦ CHI :
Gồm 12 chiếc xe ủi đất loại lớn, đưọc tướng Wayan, có vấn trưởng của Ðại Tướng Ðổ cao Trí, tư lệnh QÐ3 lúc đó, biệt phái cho TK/Hậu Nghĩa. Chiến dịch ủi quang khu Hố Bò, Củ Chi làm Hà Nội điên tiết . Ðể bảo đảm doàn xe cơ giới trong lúc khai quang, một thiết đoàn gồm M48 và M113 của Hoa Kỳ yểm trợ, bảo vệ an ninh, xe ủi được bọc bằng lưới chông B40 và bao cát, nên đã hoàn thành nhanh chóng công tác sau 15 ngày làm việc, địa đạo Củ Chi đã biến thành một vùng đất rộng thoáng quang, hầm xập người cũng biến mất. Hết Hố Bò tới Bời Lời, sau đó là đường Trảng Mít, Dầu Tiếng cuối cùng tới các căn cứ lõm của du kích ấp xã trong các quận Củ Chi, Trảng Bàng, Ðức Hòa, Ðức Huệ..Tình hình an ninh đưọc vãn hồi, huyền thoại địa đạo Củ Chi chỉ còn trong các sách giáo khoa và tài liệu tuyên truyền của đảng mà thôi.
Tóm lại địa đạo Củ Chi, Hố Bò, Bời Lòi đã bị đoàn cơ giới HoaKỳ hủy diệt năm 1970 như bình địa. Hầu hết cán bộ cán binh vưọt trốn qua đất Miên, vậy sau ngày 30-4-1975, thành đồng Củ Chi ở đâu mà trình diễn? Vậy mà vẫn có người tin, điều này làm cho thế giới phải nể sợ sự nói láo không ngọng của người CSVN, nhất là trong giai đoạn sự thật ai cũng biết hết.
Năm nay , người Việt trong và ngoài nước bừng lên niềm căm phẩn và tủi nhục khi phát giác thêm sự kiện Bắc bộ Phủ vì quyền lực cá nhân mà bán, nhượng giang san tổ quốc cho kẻ thù Tàu Cộng. Có diều nực cười trong nước, ngoài một số đếm trên đầu ngón tay chỉ mặt bọn phản quốc, các trí thức đương thời hầu hết đều im re, có một ông Bùi Duy Tân nào đó , lên báo thế giới mới hỏi ai là tác giả bài thơ ‘Nam quốc sơn hà’ thế thôi. Chuyện mới khơi lại chuyệc cũ mấy chục năm về trước, trong lúc Quảng Trị bị Hà Nội xua quân qua sông Bến Hải cuỡng chiếm, cùng lúc cả nước đắm chìm trong bom đạn ngoại xâm từ An Lộ, Bình Ðịnh lên tới Kon Tum, người dân chiến nạn và lính chết như rạ, thì tại Sài Gòn, thay vì cùng quyết lòng giết giặc, lại biểu tình, xuống đường.. rồi ngày 10-10-1974, nước đang trong cơn lửa loạn, Mỹ cúp viện trợ, VC từ Bắc vào Nam như sóng vở bờ , chuẩn bị cướp nưóc, thì lại biểu tình.. đi ăn mày. Ðây chắc là điềm báo trước, nên sau ngày 30-4-1975 cả nước gần như đi ăn mày trước sự cướp của, giựt nhà của kẻ thắng trận.
Nhớ ngày Quân lực 19-6-2002 Hồ Ðinh
|
|
|
Post by vietnam on Jul 11, 2009 2:25:35 GMT -5
Trận Ấp Bắc Thực Tế và Huyền Thoại
Lý Tòng Bá
1. Trận Ấp Bắc Thực Tế và Huyền Thoại
Nhân mùa 30/4 năm nay, sau khi nói chuyên qua phone, cựu tướng Lý Tòng Bá đã gửi tới tòa soạn một bài ký viết tay, trong đó, tướng Bá đã viết lại tỉ mỉ những sự thực về trận Áp Bắc, những sự thực mà một số sách báo ngoại quốc và CS đã xuyên tạc hay bóp méo sự kiện.
Tướng Bá nguyên là người chỉ huy ĐĐ7 M113 trong trận Áp Bắc đầu năm 1963 tại Mỹ Tho, sau này là tư lệnh Sư Đoàn 23 BB.
Với sự chấp thuận của tướng Lý Tòng Bá, bài viết này được Hải Triều viết lại (cách hành văn) mà không sửa đổi bất cứ ý chính và chi tiết nào. Toàn bộ nội dung bài viết vẫn được giữ nguyên vẹn. Mong là bàI viết này giải tỏa được một phần nổi uất nghẹn của tướng Lý Tòng Bá nói riêng và QLVNCH nói chung về những bất công và bất hạnh của quân lực trong cuộc chiến VN.
Chúng tôi xin được giới thiệu bài viết đặc biệt này đến quý độc giả nhân ngày 30/04 bất hạnh năm nay, và chân thành cám ơn niên trưởng lý Tòng Bá. HT
Trận Ấp Bắc được ghi vào quân sử trong cuộc chiến VN. Báo chí quốc tế, và kể cả sách báo VC cũng nhắc nhiều về Ấp Bắc. Đó là một trong những trận đụng độ khốc liệt quan trọng giữa Đại Đội 7 M113 của VNCH và quân VC tại Khu Chiến Thuật Tiền Giang. Nói rõ hơn, là tại mật khu Đồng Tháp Mười thuộc miền Tây Nam Bộ của VC, cách xa quận Cai Lậy Mỹ Tho trên dưới chỉ 10 cây số về hướng Đông Bắc.
Không giống như những lần trước với những cuộc đụng độ cấp trung đội hay đại đội, lần này, BTL Sư Đoàn 7 QLVNCH đã phải sử dụng cả một trung đoàn, lần đầu tiên mở ra cuộc hành quân "Trực Thăng Vận" với một tiểu đoàn Bảo An của tiểu khu Mỹ Tho tăng cường mà ĐĐ7 M113 của SĐ7 làm nỗ lực chính để đối đầu với VC. Và cũng là lần đầu tiên mở rộng chiến tranh, Cộng quân đã bất ngờ tung vào trận Ấp Bắc một lực lượng đáng kể gồm Tiểu đoàn 514 Chủ Lực Mỹ Tho, tiểu đoàn Chủ Lực Miền 263, chưa kể những thành phần dân quân du kích khác. Lợi dụng địa thế hiểm yếu quen thuộc, Ấp Bắc không khác gì hơn là một cái làng bỏ trống nằm giữa khu đồng ruộng ngập nước quanh năm, chằng chịt kinh rạch, và cũng là nơi mà VC luôn có mặt kiểm soát với nhiều lần chạm trận trong cuộc chiến 1945 - 1955, một lần nữa tại Ấp Bắc, họ đã áp dụng lối đánh lén, phục kích, bắn sẻ để trì hoãn thế trận và gây thiệt hại cho các cánh quân VNCH bạn trong giai đoạn đầu, hầu có thể tập trung lực về vị trí chọn lựa với hầm hố của cái gọi là "chiến thuật công kiên chiến", đánh cầm cự để tùy nghi khai thác chiến quả nếu được, bằng không, khi thấy thế yếu, họ lần lượt trốn chạy, rút nhanh theo kiểu mà họ thường nói là "chém vè" trong đêm tối, rút lui mất da.ng. Ý đồ và hoạch định trận Ấp Bắc khi đó là vậỵ Muốn hay không, VC đã biết lợi dụng những kẽ hở của quân VNCH mà người chỉ huy phía ta không để ý hoặc không tiên liệu những biện pháp thích ứng... để bất ngờ khai thác tình hình cho nhu cầu "tâm lý chiến và chính trị" trong chủ trương một cuộc chiến tiêu hao lâu dài kiểu "tầm ăn lá", nhất là trong thời gian đó, VC có nhu cầu phải gây lại uy tín và tinh thần cán binh đã mất trong vài tháng trước khi tiểu đoàn 502 Chủ Lực tỉnh Sa đéc bị tổn thất hàng trăm quân tại ranh giới Mỹ Tho - Sa Đéc trong trận đụng độ ác liệt với Đại Đội 7 M113 vào ngày 18 tháng 2 năm 1962. Trong trận đánh này, một nửa quân số của TĐ502 bị loại ra khỏi vòng chiến ngay trong những giờ phút đầu tiên của trận đánh, một nửa còn lại đã phải ngụp lặn trong cánh đồng ngập nước để tìm cách chém vè trong đêm tốị Thế nhưng số VC định chém vè này đều bị bắt sống. Kiểm điểm tổn thất, Đại Đội 7 M113 chỉ có một tử thương là Thượng sĩ Ninh, trung đội trưởng, và một số binh sĩ khác bị thương. Tại sao sự tổn thất giữa hai bên chênh lệch như thế này? Nguyên nhân, chúng ta phải hiểu là các đơn vị VC không biết được khả năng của loại xe M113 do hãng Chrysler của Mỹ chế tạo, nó hoàn toàn không giống loại xe được cho là những con cua lội nước, hay "Crabe" của quân Pháp cũng do Mỹ chế tạo, được sử dụng trong đệ nhị thế chiến, và được trang bị cho các chiến đoàn xe lội nước gọi là "GA" (Groupement Amphilies) mà có lần bị chính tiểu đoàn 502 của VC đánh thiệt hại nguyên một đơn vị.
Từ những yếu tố không biết về khả năng mới - cơ động trên của M113, các đơn vị VC đã dàn trận. Đúng như lời của một anh tù binh kể lại thì tình thế quả không giống như lần phục kích đoàn xe "Crabe" của quân Pháp. Những gì VC điều nghiên, dàn thế trận, chuẩn bị tinh thần cho cán binh lâm trận... đã không xẩy ra như những gì họ hoạch định và mong đợị Chẳng hạn xe M113 không có lần nào bị súng nhỏ bắn thủng như loại xe "crabe" của Pháp, và cũng không một lần nào thấy bất cứ một xa đội M113 nào phải ngừng lại từng chập để cho lính nhảy xuống gỡ gỡ rơm rạ, cỏ lúa... kẹt trong bánh xích xe làm xe không chạy được, để nhân cơ hội này, VC bất thần nổ súng tấn công.
Khi thế trận bùng ra, tôi đã ra lệnh các xa đội, từng chiếc lội nước, khai hỏa phóng thẳng ngay vào ổ phục kích của tiểu đoàn 502 đang dàn thành đội hình bán nguyệt ở giữa ruộng nước. Mũi tiến quân xông vào vị trí địch đang ngâm mình dưới nước, các xa đoàn M113 được đại liên và trung liên BAR đặt trên các xuồng ba-lá bắn yểm trơ.. M113 đã tung hoành với những khả năng đa hiệu bất ngờ ngoài dự liệu và sự hiểu biết của các cấp quân sự VC, đã làm cho thế trận phục kích giăng bẫy của VC bị tan vỡ thê thảm. Khi thanh toán chiến trường, không biết quân VC đã bố trí ở đó lúc nào, nhưng trên mình của mỗi cán binh VC còn sống sót, bị bắt làm tù binh, mỗi anh ít lắm cũng phải đeo 3,4 con đỉa, loại đỉa trâu không nhỏ của đồng bằng sông Cửu Long, no tròn đầy máu lớn bằng cỡ ngón tay cái, muốn rức nó ra phải dùng điếu thuốc đang cháy chấm vào đầu nó... Một anh VC được anh em binh sĩ kéo lên từ ruộng nước, đặt ngồi trên M113. Anh ta ngơ ngẩn nhìn quanh quẩn như mất hồn. Anh ta và đồng đội đã tham dự một trận đánh hoàn toàn không giống những gì cấp chỉ huy của anh ta huấn thị và dạy trên sa bàn hành quân.
Nhân viết lại những dòng này, chúng ta một lần nữa có thể nói đây không phải là lần duy nhất mà chạm trận với QLVNCH, địch đã bị tổn thất nặng nề, không phải chỉ có một lần, chỉ có ĐĐ7 chiến xa M113 thành đạt được song thường ít khi giới truyền thông bạn triệt để khai thác, mà chính Neil Shehan, người phóng viên chiến trường đã viết quyển "The Bright Shining Lie" nói về chiến tranh VN đã nhiều lần nghe nói đến. Có lần, anh theo xe M113 với tôi trong một vài cuộc hành quân tại Mỹ Tho, nhưng những lần đó lại không đụng độ với VC, vì thế, anh ta vẫn chưa chịu hiểu, và chưa thất sự thật, và vẫn mang nặng tinh thần trái ngược khi đề cập tới cuộc chiến đấu tự vệ của QLVNCH, mà thường là chỉ tìm và chú trọng tới chiến thắng, dù lớn hay nhỏ của VC để phóng đại, cho nên mãi đến bây giờ, dù Neil Shehan tôi coi là một người bạn quen thân, tôi cũng chẳng biết Shehan có chủ trương hay mục đích gì... Một người chịu khó, khá thông minh, đỗ đạt từ một Harvard nổi tiếng, thích tự do mà chỉ viết những bài báo lập luận phê bình ác ý và không chính xác nhắm vào QLVNCH. Nhứt là 30/4/75, anh ta đã cho xuất bản quyển "The Bright Shining Lie" với những biện luận bất công nhắm vào QLVNCH, một quân lực bị bất ngờ "ngã ngựa" vì sự phản bội của đồng minh. Sau khi xuất bản quyển sách nói trên, có một lần Shehan đã viết một bài khá lịch sự liên quan đến tôi trên tờ The New Yorker, đó là bài "After the War was over" xuất bản ngày 18/11/91, và anh ta đã gửi tặng cho tôi tờ báo đó. Phải chăng đây là lần cuối Shehan gián tiếp muốn tôi bỏ qua những lỗi lầm mà anh ta đã viết về tôi khi chỉ huy ĐĐ7 chiến xa M113 trong trận Ấp Bắc với những lập luận vô căn cứ và lệch lạc khi được vài cố vấn Mỹ thời đó kể lại câu chuyện với dụng ý bào chữa những khuyết điểm nông nổi của mình.
Sau gần 13 năm ở tù CS ra, tôi gặp Neil Shehan một lần tại VN, đến Mỹ năm 1991, tôi gặp lại Neil Shehan tại Las Vegas khi hắn tham dự một "convention" với sự có mặt của tướng Powell. Đó là lần gặp mặt lâu nhứt trong đó tôi kể lại tình tiết và sự thật của trận Ấp Bắc cho anh ta nghe: “ ... Ngày đó, sau đêm cuối cùng, Đại Đội 7 M113 rời thị xã tỉnh Mỹ Tho đến quận Cai Lậy, xuất phát theo đội hình hàng dọc (để giảm làm thiệt hại lúa) hướng về mục tiêu. Đại Đội M113 ít lắm cũng đã vượt qua 2 con kinh ngang trước khi vào vùng tiếp giáo với mật khu Bà Bèo của VC nằm dọc theo hai bờ kinh Tổng Đốc Lộc mà Ấp Bắc là một trong những vùng ven biên. Cùng lúc tôi nhận được lệnh từ Bộ Chỉ Huy hành quân nhẹ đặt ở Cai Lậy, Tiểu Khu Mỹ Tho là phải nhanh chóng đưa Đại Đội 7 M113 đến mục tiêu, vì nơi đó đã có một chiếc trực thăng bị rơi trong cuộc đổ quân lần đầu mà nguyên nhân có thể là lỗi vụng về kỹ thuật của phi công chứ chưa chắc là do đạn VC bắn. Đó là chiếc H21 hình thù như quả chuối già quá cũ gần đến ngày phế thải. Vì theo anh trung úy chỉ huy toán nhảy đợt đầu xuống mục tiêu Ấp Bắc cho tôi biết là anh không nghe bất cứ tiếng nổ nào lúc phi cơ đáp xuống mà chỉ nghe vài tiếng súng nhỏ sau đó. Không lâu sau đó, ĐĐ7 M113 phải đối diện với con kinh thiên nhiên mà nông dân địa phương gọi là "kinh lạn" không bờ ác nghiệt. Lần đầu dưới mắt tôi, nó như một dòng nước chảy xuôi qua một bãi ruộng bằng phẳng, lởm chởm vài bụi cỏ với lá rủ mình quặt què theo nước.. . Quả thật, nếu là một thi sĩ, con kinh lạch trước mặt sẽ là nguồn cảm hứng của muôn bài thơ, nhưng ở đây, nó như là khúc xương khó nuốt của những con trâu sắt M113. Canh cánh với trách nhiệm, lo cho sự an nguy của phi hành đoàn, tôi phân vân chưa biết phải xử trí ra sao. Có lần tôi đưa ra ý kiến lên ban cố vấn cũng như Bộ Chỉ Huy Hành Quân là nên chỉ thị cho một cánh quân bạn nào gần đó mở cuộc hành quân bộ đến nơi chiếc trực thăng bị rơi, dù chậm nhưng chắc chắn hơn là sử dụng ĐĐ7 M113. Lý do là không làm sao chúng tôi đoán biết việc vượt qua kinh lạch để tiến đến mục tiêu phải mất bao nhiêu thời gian. Xa đội chúng tôi thay nhau từng bước mò mẫm độc bờ kinh nhưng không lần nào cho xe băng ngang được vì lòng kinh toàn là bùn không đáỵ Vì không hiểu và nhận ra yếu tố đặc biệt này mà phía cố vấn Mỹ đã hiểu lầm, cho tôi là thiếu tinh thần trách nhiệm, không muốn đụng độ với địch quân. Đó là một nhận định phiến diện, cạn cợt, không hiểu thực trạng của địa thế chiến trường. Lối suy nghĩ và nhận định ấu trĩ ấy tôi không hề hay biết. Đến khi qua Mỹ, đọc quyển "The Bright Shining Lie" của N.Shehan có viết những điều ngộ nhận sai lầm đó về tôi, tôi mới biết. Lúc đó thì quá trễ để nói lại vần đề cho rõ. Nghĩ lại, trong cảnh đầu tắt mặt tối của tôi và anh em các xa đội, ông sĩ quan cố vấn J.Scanlon của chúng tôi ngồi luôn trên xe với chiếc máy truyền tin, không nhúc nhích một bước, đã nói gì với trung tá Vann, cố vấn SĐ7 đang bay trên đầu với chiếc L19. Sau khi Scanlon đưa ống nói cho tôi, lần đầu tiên tiếp chuyện thẳng với Vann, tôi nghe được một câu hắc búa của J.P. Vann: - Anh Bá! Nếu anh không cho xe qua kinh thì tôi sẽ nói cho Dại Tướng Lê Văn Tỵ bỏ tù anh!
Câu nói này tôi không bao giờ quên. Lúc vừa nghe, tôi tức giận đỏ bừng cả mặt. Tôi âm thầm tự nhủ, tại sao ông Vann này lại có thể thốt ra một câu như vậy! Tôi thẳng thắn trả lời: - Trung tá Vann! Tôi rất mong thấy ông đáp xuống đây để tận mắt ông nhìn thấy những khó khăn thực tế của trận địa và những gì chúng tôi đang làm. Bằng không, vì lý do nào đó mà tôi phải đi ở tù, thì đó chẳng qua là vì danh dự của người lính!"
Khi đó, trong đầu tôi bỗng thấp thoáng cái câu " 1 ngày lính là 9 ngày tù" của ai đó đặt ra và bây giờ tôi thấy như rất đúng. Tôi nói lời chào cám ơn Trung Tá Vann rồi cúp máỵ Theo tôi, đó là đầu dây mối nhợ của câu chuyện "ăn thua" trong trận Ấp Bắc. Vann, một sĩ quan cố vấn, nóng nảy quá độ, hăng say quá trớn, sợ bị qui trách nhiệm, "ăn thì OK, thua thì đổ thừa". Mà thực ra, trong trận Ấp Bắc có gì phải quan trọng hóa việc ăn thua, ngoài những trở ngại, những khó khăn chồng chất, chết chóc xẩy ra khi phải đánh nhau với kẻ thù dùng du kích chiến kiểu "nói láo, đánh lén, bắn sẻ, chém vè..." Ngày đó, trong trận cuối cùng, VC cũng đã bị ĐĐ7 M113 đẩy lui để lại 8 xác tại chỗ, kể cả người chỉ huỵ
Không bao giờ tôi quên những khó khăn gian khổ mà tôi và những anh em binh sĩ thuộc quyền tưởng là không tài nào vượt qua được, kể cả lần các M113 bị kẹt xích, kẹt bùn loay hoay giữa ruộng hơn một ngày đêm, anh em các xa đội phải thay nhau liên tiếp móc kéo xe ra khỏi vùng nguy hiểm... Cuối cùng, ĐĐ7 M113 cũng vượt qua được con kinh lạn ác nghiệt đó để tiến đến mục tiêu Ấp Bắc khoảng trên dưới 4 giờ chiều. Sau khi anh trung úy chỉ huy toán quân nhảy trực thăng đầu tiên xuống trận địa cho tôi biết tình hình tại chỗ, tôi ra lệnh cho cố chuẩn úy Nguyễn Văn Nho (anh là cây vợt vô địch bóng bàn của binh chủng thiết giáp) đưa trung đội I áp sát vào mé làng Ấp Bắc để dò dẫm. Trung đội chỉ huy và các trung đội khác tiếp theo tiến theo đội hình hàng dọc, trước khi tôi ra lệnh mở rộng đội hình thành hàng ngang, quân VC đã bất thần nổ súng cách trung đội 1 chỉ khoảng 50 thước, mở đầu cho trận đánh Ấp Bắc. Trong những giây phút khai hỏa đầu tiên của địch, chuẩn úy Nguyễn Văn Nho của Trung Đội 1, Thượng Sĩ Nguyễn Văn Hào của xe chỉ huy bị hy sinh, chưa kể một số xạ thủ đại liên 50 của các trung đội khác vừa chết vừa bị thương. Tổng số thiệt hại của Đại Đội 7 M113 từ phút đầu cho đến tàn trận là 8 chết và 14 bị thương. Số thiệt hại này phần lớn do các khẩu đại liên thời đó không có trang bị tấm chắn đỡ đạn. Sau trận Ấp Bắc, các loại lá chắn này mới thực hiện để che đạn cho các xạ thủ đại liên M113. Nhắc lại chuyện này, tôi vẫn phân vân thắc mắc tại sao người ta chỉ chịu trang bị thêm phương tiện và vũ khí mới cho quân đội VNCH sau khi các đơn vị quân đội chúng ta bị thiệt hai hay bị mất đi những chiến sĩ và cán bộ chỉ huy tài giỏi, gan dạ vì thiếu phương tiện chiến đấu thích hợp. Chỉ riêng một yếu tố là nếu trên xe M13, các xạ thủ đại liên có những lá chắn đạn an toàn cho xạ thủ thì trong trận Ấp Bắc thì số thương vong của chúng ta giảm nhiều, đồng thời ĐĐ7 M113 có thể đã đưa tiểu đoàn 514 Chủ Lực VC tỉnh Mỹ Tho tan tác đi theo tiểu đoàn 502.
Tôi nhớ một lần trước trận Ấp Bắc, đoán được ý đồ của VC là khi không còn cách nào khác để mở trận mới đánh với Đại Đội 7 M113, thì họ chỉ còn dựa vào ven làng, vào một thế đất mà chọn lựa để có thể dễ dàng gây khó khăn cho Đại Đội 7 M113 khi bất ngờ xuất hiện từ các hầm hố kiên cố được che khuất, tấn công khai hỏa vào các xạ thủ đại liên 50 trên xe M113 chứ không dám nằm giữa đồng ruộng phục kích như lần tiểu đoàn 502 của họ bị tiêu diệt ở tỉnh Sa Đéc. Tiên liệu điều như trên, tôi gửi lên cấp chỉ huy cũng như cố vấn Mỹ một đề nghị khẩn cấp và thiết thực việc trang bị lá chắn đạn an toàn cho xạ thủ đại liên càng sớm càng tốt... Đề nghị đó không được chấp thuận. Tướng Stilwell của phái bộ viện trợ Mỹ đã trực tiếp trả lời cho trung tá Nguyễn Văn Thiện, nguyên chỉ huy trưởng binh chủng Thiết Giáp ( 1957 - 1964) (*) bằng một câu mà tôi không bao giờ quên. Câu nói nguyên văn bằng tiếng Pháp của tướng Stiwell như sau: "le meilleur moyen de défense c'est tirer." Ờ nghĩa là "muốn bảo vệ mình, người lính chỉ có bắn!" Theo tôi, trên lý thuyết thì quá đúng, hoặc trong phim xi-nê cao bồi, hay tại "desert storm" với "bão sa mạc" thì còn có lý... chứ đối với chiến tranh du kích kiểu VC trên địa thế núi rừng, sông lạch VN thì chưa chắc câu của tướng Stilwell là câu thần chú hộ mạng, mà trận Ấp Bắc là một thí dụ điển hình. Làm sao chúng ta thấy được VC nằm phục kích trong nước, dưới lá, dưới sình mà bắn trước để bảo vệ mình.
Nhắc lại, cả một chiến đoàn gọi là GM100 của quân Pháp đã bỏ mạng tại đèo An Khê ở Pleiku trong chiến tranh Việt Pháp trước đây đã ở trong tình huống trên. Tôi rất may đã sống sót trong trận Ấp Bắc. Từng tràng đạn địch "thay nhau tránh né" khi bay qua đầu tôi, một điều kỳ lạ, mãi cho đến bây giờ tôi không biết tại sao mạng tôi còn, tại sao tôi còn sống với hàng loạt đạn vượt qua đầu để lại những tiếng kêu "bực...bực" bên taị. Có lần tôi đang bắn trả qua lại với đám VC đứng trong những hầm hố không quá 20 thước trước mặt, bất ngờ tôi thấy anh đại úy J. Scanlon đang ngồi trong M113 của tôi mở cửa sau M113 chỉ huy nhảy ra ngoài chạy mất dạng. Trong xe chỉ huy của tôi lúc đó có xác của thượng sĩ Nguyễn Văn Hào bị tử thương, và có lẽ lần đầu tiên anh chứng kiến tận mắt xác chết trong xe chỉ huy, chưa kể hai người bị thương khác nằm la liệt máu me, đó là anh Kiên, tài xế xe jeep riêng của tôi bị đạn xuyên cổ và anh lính kèn ngả xuống sau tiếng kèn xung phong ngả xuống bên tay mặt của tôi. Tình trạng này có lẽ đã làm cho Scanlon mất tinh thần, và đã thật sự gây khó khăn không nhỏ cho tôi trong việc điều động đơn vi.. Thành phần bị chết và bị thương trong những giây phút chạm súng đầu tiên phần đông là những anh em chỉ huy trưởng xa và xạ thủ đại liên 50 chứ không ai khác. Dĩ nhiên, trong tình huống đó, sức mạnh và đà tấn công của ĐĐ7 M113 bị yếu và khựng lại, nhứt là ở phía trước mặt tôi, giữa ĐĐ7 M113 và mé làng chỉ là một bãi nước không biết là ruộng hay là một vũng bùn. Nếu M113 kẹt dính ở đó thì vô cùng nguy hiểm. Trước tình huống đó, tôi dự định cho các xa đội lui về phía sau vài chục thước để bảo đảm an toàn hầu có thể dùng các loại pháo hỏa tập tiêu diệt mục tiêu mà tôi mới chợt nghĩ ra, vô cùng cần thiết để giải quyết một tình huống khó khăn. Không dùng pháo trong trường hợp này là một thiếu sót nghiêm tro.ng. Lúc đó, kể cả cố vấn Vann cũng chỉ lo cho an ninh phi hành đoàn của chiếc trực thăng bị rớt mà không có sáng kiến gì khác. Sau khi việc yêu cầu cung cấp hỏa tập được đáp ứng và ban ra, nó đã vừa tiêu diệt địch, vừa dọn đường cho một trận xung phong cuối cùng.
Từ bộ chỉ huy hành quân nhẹ của Tiểu Khu Mỹ Tho, Trung Tá Lâm Quang Thơ, tỉnh trưởng, lệnh cho tôi lui về phía sau 400 thước an toàn cho đơn vị để một phi tuần 2 chiếc B26 oanh tạc mục tiêụ Cần nói rõ thêm, mỗi lần dùng "phi pháo yểm" là mỗi làn từng đợt pháo và từng đợt phi cơ thay nhau đánh vào mục tiêu. Thường thì VC hay nằm dọc theo mé rừng hay ven làng trong các hầm hố kiên cố, còn nếu địa thế là vùng núi thì họ không nằm trên đỉnh mà lại bám các vùng yên ngựa hay bên sườn đồi... cho nên, tại Ấp Bắc, những đợt oanh kích của 2 chiếc B26 lúc đó chỉ có tác dụng tâm lý hơn là tiêu diệt đối phương.
Đúng khoảng trên dưới 5 giờ chiều, sau quả bom cuối cùng mà tôi thấy rõ rời bụng phi cơ rớt xuống giữa mục tiêu Ấp Bắc với hai cánh máy bay dường như run rẩy báo hiệu ngày phế thải... thì Đài Độ M113 ào ạt mở đợt tấn công lần chót, đẩy lui không khó quân VC ra khỏi các vị trí. Các toán quân VC bị đánh bật ra khỏi vị trí đã bỏ chạy tán loạn, để lại 8 xác chết, trong đó có cả một cấp chỉ huỵ Đúng như trong bài viết thêm của Neil Shehan về trận Ấp Bắc trong nguyệt san "The New Yorker" với bài "After the war was over", bài viết có đoạn : "Tối lại, quân VC có cho một thành phần nhỏ nào đó bò về mục tiêu Ấp Bắc để tìm xác anh chỉ huy..." Nhưng việc nói VC lén về Ấp Bắc tìm xác cũng là chuyện không thật. Làm sao có chuyện đó khi toàn Đại Đội 7 M113 đang nằm dàn trận chờ sẵn tại chỗ. Một tên chỉ huy VC bi tử thương là có thật, nhưng toán VC mò về lấy xác thì không. Tôi nhớ chiều hôm đó, khoảng 6 giờ, sau khi Đại Đội 7 M113 đã hoàn toàn làm chủ tình hình và chấm dứt trận đánh, thì việc cho một đơn vị Dù nhảy xuống cánh đồng trống phía sau lưng Đại Đội 7 là một điều vô ích. Có một toán nhỏ quân Dù bị gió chiều bọc cuốn đựa lạc vào một vùng không an ninh, đã gặp một thiệt hại nhỏ, nhưng đó quả là một thiệt hại không đáng xẩy ra và rất oan uổng. Đúng là tháng xui ngày rủi của quân ta.
Trong lửa đạn, trong trận đánh, cái đầu tôi với cái mũ nồi đen kỵ binh lúc nào cũng nhoi ra khỏi M113 mà đạn mọi phía bắn ào ào tới mà cái đầu chẳng bị trúng viên nào, làm cho tôi có cảm tưởng VC bắn rất tồi! Nhưng chưa hết, vào sáng sớm hôm sau, vì còn ấm ức về cái vùng sâu phía trong của mục tiêu Ấp Bắc chưa được chế ngự và lục soát kỹ, tôi đã quyết định mở cuộc hành quân loại bỏ túi - tức là "hạ chiến" - với một thành phần nhỏ của các xa đội tạm thời rời M113 để đánh bô.. Đến hơn nửa đường di quân, bất ngờ không biết ai gọi mà những tràng pháo binh loại 105 ly của phe ta không mời mà đến, thay nhau từng đợt 4 quả với 4 tiếng "bụp - bụp - bụp - bụp" nghe từ quận Cai Lậy vọng lại báo hiệu những lần đạn rời nòng bay đi. Những trái đạn chạm đất nổ vang, và chúng tôi mừng là nó không rơi vào vị trí chúng tôị Có khoảng 40 trái đạn bắn đi, có trái rơi cách chúng tôi khoảng 10 thước. Từ trong một cái hố với với máy truyền tin PRC trên lưng, Hạ Sĩ Tòng lúng túng gọi khẩn cấp về xe chỉ huy để chuyển lời yêu cầu của tôi yêu cầu Bộ Chỉ Huy Hành Quân cho ngưng cuộc pháo kích vì "chúng tôi đã đầu hàng vô điều kiện!" Trong khi tôi đang trong thế ngồi chồm hổm, đẩy mạnh lưng vào thành hố để tim bớt đập mạnh thì anh đại úy cố vấn J. Scanlon mất tinh thần, bò quanh bò quẩn trước mặt tôi... trông ngơ ngác như một con bê lạc bầỵ Theo tôi, nếu cảnh đó được Neil Shehan chứng kiến và viết đầy đủ lại trong quyển "The Bright Shining Lie" của anh ta thì chắc anh ta đáng lãnh giải "nobel" ở Thụy Điển chứ không phải giải Pulitzer mà anh ta nhận ở Mỹ. Cả CS , vì nhu cầu tuyên truyền chính trị, lẫn các nhà báo Mỹ, vì thiếu chứng liệu và nhiều thiên kiến, đã viết sai sự thực, xuyên tạc sự thực về cược chiến tự vệ anh dũng của quân dân miền Nam. Và cũng thể theo lời yêu cầu của một số chiến hữu cựu quân nhân QLVNCH và đồng minh, tôi đã gạn lọc trí nhớ để tìm lại những dữ kiện thật thuộc loại "đầu dây mối nhợ" của trận Ấp Bắc mà vì lý do chính trị và nhu cầu phản chiến, họ đã cố tình bóp méo sự thật. Tôi đã viết lại bằng tay, bằng chính thủ bút của mình. Và như chiến trường Ấp Bắc tan hoang, khi tôi viết xong bài này trên mấy trang giấy cuối thì dưới bàn viết của tôi là một đống giấy nháp với cây viết "bi" đã gần hết mực "dàn trận tan tác ngổn ngang" dưới gầm bàn. Viết bài này, tôi cũng có ý nhắc cho những ai chưa biết sự thật, là, với chiến thắng và kinh nghiệm từ trận Ấp Bắc, không biết bao nhiêu lần tôi đã đánh thắng những đơn vị địch quân từ các cấp tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn và cả quân đoàn của VC - bất cứ ở đâu, từ miền Tây, miền Đông Nam phần đến Tây Nguyên, đặc biệt là hầu hết các lần đó đều có sự hiện diện của J.P Vann, kẻ có lần đã đề nghị lên đại tướng Lê Văn Tỵ cho tôi đi tù - và sau này, cũng chính J.P.Vann vận động cho tôi lấy quyền chỉ huy SĐ23 BB đánh tan 3 sư đoàn VC do tướng Bắc quân Hoàng Minh Thảo, một trong những tướng hùng hổ nhất của Bắc Việt chỉ huy.
Từ những điều trên trong bài này, việc sách báo VC và Tây phương nói quân VNCH thua trong trận Ấp Bắc là xuyên tạc, là sai sự thật. Và nếu còn sống (**) đến hôm nay, chưa chắc J.P Vann đã cho N.Shehan viết trận Ấp Bắc một cách thiếu sót và sai lệch. Vì đó cũng chính là cái thiếu sót của J.P.Vann trong những phút giây đầu tiên của trận Ấp Bắc, vì ông chưa đủ kinh nghiệm và hiểu biết về chiến tranh du kích kiểu VC. Sự thiếu sót và thiếu kinh nghiệm đó của ông và ký giả Tây phương đã làm cho các bài viết về trận Ấp Bắc (cũng như nhiều lãnh vực khác...) bị bóp méo và hiểu lệch khác đi.
Cựu tướng Lý Tòng Bá Cựu tư lệnh SĐ25 BB/Cựu tù cải tạo. (Hải Triều đánh máy bài viết và sắp xếp hành văn với sự chấp thuận của tướng Bá)
Ghi chú:
* Trung Tá Nguyễn Văn Thiện, sau lên Đại Tá, phục vụ tại Quân Đoàn 1 của tướng Hoàn Xuân Lãm, là một trong hai người được tướng Nguyễn Văn Thiệu gọi về dinh Độc Lập để gắn sao cấp tướng. Chẳng may chiếc A37 chở anh về Sài Gòn bị ngộ nạn và mất tích.
** Ông Vann, trong một chuyến đến thăm tướng Bá ( Sư Đoàn 23 BB) đả tử thương trong một tai nạn máy bay tại Cao Nguyên. Chiếc trực thăng chở ông trên quốc lộ 14 gần Chu Paọ Đại Tá Nhu chỉ huy Biệt Động Quân là người chỉ huy cuộc tìm và thu hồi xác ông Vann và phi hành đoàn. Anh em Biệt Động Quân cho biết không hề nghe tiếng súng khi máy bay bi rớt. Dù đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân tai nạn, song người ta có thể dự đoán là máy bay rớt vì trục trặc kỹ thuật chứ không phải vì đạn phòng không. Chi tiết này ghi lại từ tướng Lý Tòng Bá qua cuộc điện đàm sáng 9/4/2001. HT
|
|
|
Post by vietnam on Jul 11, 2009 2:27:31 GMT -5
TRẬN ẤP BẮC
tác giả: cựu Đại tá Hà Mai Việt
Trích trong cuốn " THÉP và MÁU, Thiết-Giáp trong chiến-tranh Việt-Nam "
DẪN-NHẬP
Vào đầu tháng giêng năm 1963, tại Ấp Bắc, một làng nhỏ hẻo-lánh, dân cư thưa-thớt, với nhiều kinh rạch chằng-chịt, thuộc tỉnh định-Tường, cách Sài-Gòn khoảng 40 dặm về phía Tây-Nam, đã xảy ra một cuộc giao-chiến dữ dội giữa quân đội Việt-Nam Cộng-Hòa (VNCH) và Việt-Cộng (VC) mà địa-hình, địa-vật tại nơi này đã giúp địch-quân có nhiều ưu-thế trong việc phòng-thủ. Nơi đây cũng là ngoại-vi tiếp-cận của khu-vực mà Cộng-Sản gọi là mật-khu Ba-Bèọ
Trong thời điểm này, chi đoàn 5/1 thiết-vận-xa M113 (1) do tôi (đại-úy Hà-Mai-Việt) chỉ-huy, đang hành-quân tại Đồng-Xoài thuộc Vùng 3 Chiến-thuật thì vào lúc nửa đêm ngày 2-1-1963 được lệnh khẩn di-chuyển về Ấp Bắc để tăng-cường cho lực-lượng hành-quân đang bị địch-quân áp-lực nặng. Chi đoàn 5/1 được đặt dưới quyền điều động của đại-tá tư-lệnh sư đoàn 7 Bộ-binh kể từ ngày 3-1-1963 (2).
Nhân dịp này, chúng tôi nhận thấy, theo binh-thuyết, kế-hoạch hành-quân tiên khởi của trận Ấp Bắc khả-thi, nhưng trên thực-tế lại có những khuyết điểm mà các đơn-vi.-trưởng thường gặp như địch-tình không xác-thực, không có ưu-tiên không-yểm. Điểm sai trái nhất là không thống-nhất chỉ-huy (3), nếu không muốn nói là việc điều-quân khá phức-tạp. Ngoài ra chúng tôi cũng nhận thấy trận Ấp Bắc chỉ là một biến-cố quân-sự thông-thường, mặc dầu đây là lần đầu-tiên toàn-bộ một tiểu đoàn Bộ-binh được trực-thăng-vận đến điểm tập-trung (4). Sau nữa, chúng tôi không thấy có điều gì quan-hệ đến mức độ giới truyền-thông Hoa-Kỳ phải đem ra mổ xẻ để lươ.ng-giá chiến-tranh Việt-Nam.
Sau đây là những nét chính về cuộc hành-quân nàỵ
TÌNH-HÌNH CHUNG
Theo tin-tức tình-báo thì tại Ấp Tân-Thới, ở về phía Tây-Bắc Ấp Bắc khoảng một cây-số rưỡi, VC thiết-lập một đài truyền-tin vào cuối năm 1962. Cũng theo tin tình-báo thì địch có một đơn-vị cấp đại đội tăng-cường, quân-số khoảng hơn 100 người, bảo-vệ đài nàỵ Nhưng sau này người ta được biết, trên thực-tế thì địch đông gấp ba dự đoán. Tại Ấp Bắc có sự hiệnđiện của các tiểu đoàn 514 chủ-lực Tỉnh Mỹ-Tho, tiểu đoàn 263 chủ-lực Miền và dân-quân du-kích địa-phương. Quân-số của VC ước-lượng khoảng từ 350 đến 400 người (5).
Ngày 29-12, Bộ Tổng-tham-mưu Quân đội VNCH chỉ-thị cho Bộ Tư-lệnh Sư đoàn 7 Bộ-binh (BB) tổ-chức hành-quân tiêud diệt địch và triệt hạ đài truyền-tin nói trên (6). Cơ-sở này nằm giữa vùng đồng lầy ngập nước, có nhiều kinh rạch quanh-co, đáy sâu, đầy bùn, là những chướng-ngại-vật đáng kể cho thiết-quân-vận M113 (TQV M113) và cho ngay cả bộ-binh khi phải vượt quạ Trong khu-vực mục-tiêu, nhà cửa thưa-thớt. Dọc theo Cống Lương, hai bên bờ có nhiều cây tràm và cỏ dại rậm-rạp, địch có thể đào hầm-hố để phục-kích hay phòng-ngự.
Được lệnh của bộ Tổng-tham-mưu, đại-tá Bùi đình đạm, tư-lệnh sư đoàn 7 BB, cho mở cuộc hành-quân Đức-Thắng 1, khaid diễn ngày 2-1-1963, với ý định bao vây, triệt-hạ cơ-sở và tiêu điệt địch trong vùng Tân-Thới và Ấp Bắc (7). Theo kế-hoạch của bộ tư-lệnh sư đoàn 7 BB thì một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 11 BB cơ-hữu được trực-thăng-vận đến bãi đáp nằm về phía Bắc khu-vực hành-quân để tiến vào Ấp Tân-Thớị Đồng-thời, một thành-phần khác gồm 2 tiểu đoàn Bảo-An (8) thuộc tiểu-khu định-Tường, tiến từ phía Nam khu-vực hành-quân lên Ấp Bắc. Đại đội 7 Cơ-giới M113 (9), nguyên thống thuộc sư đoàn 7 BB, do đại-úy Lý-Tòng-Bá chỉ-huy, được tăng-phái cho tiểu-khu ịnh-Tường. Đại đội này từ Mỹ-Tho di-chuyển đến quận-ly. Cai-Lậy, rồi băng đồng tiến về hướng Đông-Bắc, nhắm vào Ấp Bắc. Ngoài các đơn-vị nói trên, sư đoàn 7 BB còn có 3 đại đội Bộ-binh và Biệt động-quân làm trừ-bị . Tổng-kết quân-số thuộc khu chiến-thuật Tiền-Giang tham-chiến lên đến gần hai ngàn ngườị Tương-quan lực-lượng: 4/1.
Nói về khả-năng tác-chiến và thành-quả của Đại đội 7 Cơ-giới (CG) do đại-úy Lý-Tòng-Bá chỉ-huy, người ta phải kể đến cuộc hành-quân trước đó hơn hai tháng: Ngày 25-9-1962, tại vùng ranh-giới Mỹ-Tho và Sadec, nhờ yếu-tố lưu động và bất-ngờ của TQV M113 lội nước, đại đội 7 Cơ-giới với 9 TQV M113 đã hạ được 150 VC, bắt sống 38 tù-binh thuộc tiểu đoàn 502 chủ-lực tỉnh Kiến-Phong, tịch-thu 27 vũ-khí đủ loại, trong đó có 1 đại-liên 30 và 2 trung-liên. Về phía đại đội CG chỉ có thượng-sĩ Ninh tử-thương và 1 binh-sĩ bị thương. Đây là lần đầu tiên tiểu đoàn 502 đụng đại đội 7 CG trong vùng Đồng-Tháp nên đối-phương đã bị thiệt-hại nặng và phải chém-vè thoát chạy ngay từ lúc đầu (10).
Ngoài ra, kể từ ngày đại đội 7 CG xuất-quân vào tháng 4 năm 1962 cho đến trước ngày đụng độ tại Ấp Bắc, đại đội này luôn-luôn giữ thế chủ động, đem lại nhiều chiến-thắng vẻ-vang khiến Cộng-quân thường tìm cách tránh né, không dám đụng độ. Kể từ sau trận Ấp-Bắc 1-1963 đến cuối năm 1964, trước khi được sáp-nhập vào Thiết đoàn 6 Ky.-Binh, đại đội 7 CG vẫn giữ vững vai-trò chủ động trên chiến-trường Đồng Tháp. Bằng vào những thành-tích của đại đội 7 CG trong năm 1962, bộ Chỉ-huy Thiết-giáp-binh đã khẩn súc-tiến việc thành-lập 4 chi đoàn Thiết-kỵ M113 đầu tiên cho các Trung đoàn Thiết-giáp. Nhưng những thành-tích nói trên lại không được giới truyền-thông Hoa-Kỳ ghi nhận.
Trong lúc sư đoàn 7 BB mở cuộc hành-quân Ấp Bắc vào sáng ngày 2-1-1963, thì tại tiểu-khu Tây-Ninh, thuộc Vùng 3 Chiến-thuật, hơn 60 phi-cơ thuộc không-lực Hoa-Kỳ và VNCH gồm 16 oanh-tạc-cơ B-26 và 24 khu-trục-cơ T-28 của HK, 26 khu-trục-cơ AD6 của Không-quân VN cũng có mặt trên bầu trời Tây-Ninh để yểm-trợ cho hơn 1,200 chiến-sĩ Nhảy Dù và một tiểu đoàn bộ-binh được trực-thăng-vận tấn-công vào 9 cơ-sở VC trong Chiến-khu C (11).
Cũng vì lý đo phần lớn trực-thăng bận tham đự hành-quân tại Tây-Ninh nên Sư đoàn 7 BB chỉ được cấp 10 trực-thăng vận-tải CH-21 (12) và 5 trực-thăng võ-trang UH-1 để đổ quân. Nên với số trực-thăng này, tiểu đoàn BB phải thả quân làm hai đợt, thay vì thả toàn-bộ tiểu đoàn trong cùng một lúc để đạt yếu-tố xung-kích và bất-ngờ.
DIỄN-TIẾN CUỘC HÀNH-QUÂN
Tại hướng Bắc mục-tiêu, theo kế-hoạch dự trù, 1 đại đội đầu-tiên của tiểu đoàn BB đã được trực-thăng thả xuống phía Bắc Ấp Tân-Thới vào lúc 07:00 giờ sáng ngày 2-1-1963. Ngay sau khi từ trực-thăng nhảy xuống, đại đội này chạm địch nên phải giữ an-ninh bãi đáp. Lại nữa, vì lý đo sương-mù dày đặc, kế-hoạch đổ quân được đình-hoãn lại khoảng hai tiếng. Vào khoảng gần 10:00 giờ sáng, thành-phần còn lại tiếp-tục nhảy xuống bãi đáp nhưng khi tiểu đoàn BB tiến vào mục-tiêu, các toán tiền-phong đã bị VC đóng chốt tại hướng Bắc và Tây-Bắc Ấp Tân-Thới ngăn chặn và cầm chân tiểu đoàn tại đâỵ
Về phía Nam Ấp Bắc, cũng vào lúc 07:00 giờ sáng, 2 tiểu đoàn Bảo-An Định-Tường lội nước (13) tiến từ phía Nam lên hướng Bắc bằng 2 trục song-hành (14) nhằm chặn địch tháo chạy về hướng nàỵ Trên đường tiến quân, khoảng 07:45 sáng, tiểu đoàn Bảo-An ở cánh Đông bất-thần lọt vào ổ phục-kích của VC tại Tây-Nam Ấp Bắc, thuộc khu Cống Lương. Địch quân ẩn-nấp dưới hố cá-nhân, được bao-phủ bởi những hàng cây và bờ bụi chạy dọc theo hướng Nam và Tây Ấp Bắc, đồng-loạt khai-hỏa khiến đại-úy tiểu đoàn-trưởng Bảo-An cùng 13 quân-nhân khác bị thương, đại đội-trưởng đại đội Bảo-An tiền-phong cùng 7 binh-sĩ tử-thương. Được tin này, thiếu-tá Lâm-Quang-Thơ, tiểu-khu-trưởng tiểu-khu Định-Tường, liền ra lệnh cho cả hai tiểu đoàn Bảo-An dừng lại làm nút chặn, đồng-thời xin bộ tư-lệnh Sư đoàn 7 BB điều động lực-lượng trừ-bị đến tăng-cường.
Trước khi đổ quân tiếp-viện, pháo-binh sư đoàn hỏa-tập tối đa vào 2 mục-tiêu Tân-Thới và Ấp Bắc. Tại giữa làng, trung-tâm của mục-tiêu, khói lửa ngụt trời, nhưng du-kích quân Cộng-Sản đã phân tán mỏng, ẩn-nấp kín đáo dưới những cụm cây ngoài bìa làng hướng về phía đồng ruộng có tầm quan-sát xa . Khoảng sau 10:00 giờ sáng, 10 trực-thăng CH-21 chở đại đội bộ-binh thả xuống bãi đáp cách Ấp Bắc về hướng Tây khoảng hơn 300 thước, ngay trong tầm quan-sát và tác-xạ của địch quân. Vào lúc này, một trực-thăng CH-21 đang chở quân bị trúng đạn, đáp xuống ruộng an-toàn, bộ-binh trên trực-thăng vô-sự. Trong khi ấy, hệ-thống chỉ-huy của VNCH và Hoa-Kỳ (HK) thiếu phối-hợp, không nắm vững tình-hình nên thiếu bình-tĩnh. Ngay sau đó, 1 trực-thăng võ-trang UH-1 xông đến để cấp-cứu, nhưng đã bị bắn hạ. Kế đó là 1 trực-thăng CH-21 bay đến với ý định cứu hai phi-cơ vừa bị rớt, cũng bị bắn rơi (15) . Tính đến trưa, về phía bạn có 5 trực-thăng bị rớt, trong đó có 1 trực thăng buộc phải đáp xuống vì lý do kỹ-thuật (16). Trong suốt cuộc hành-quân, cũng như trong thời-gian đổ-quân xuống vùng Ấp Bắc, đơn-vị hành-quân không có ưu-tiên không-yểm vì mặt-trận Tây-Ninh giữ ưu-tiên. Chính vì vậy mà tại Ấp Bắc, quyền chủ động chiến-trường đã mất, và 14 trong số 15 trực-thăng tham-chiến đã bị trúng đạn từ các vị-trí ẩn-nấp dọc theo bờ kinh bắn lên (17).
Khi được tin chiếc trực-thăng đầu tiên bị rớt, từ trên phi-cơ quan-sát L-19, trung-tá John Paul Vann, cố-vấn-trưởng sư đoàn 7 BB, dùng máy truyền-tin liên-lạc với đại-úy James Scanlon, cố-vấn đại đội 7 Cơ-giới M113, để yêu-cầu đại-úy Scanlon cho đại đội 7 CG tiến ngay vào Ấp Bắc. Nhưng vào lúc này, đại đội 7 còn đang ở hướng Tây, cách xa Ấp-Bắc khoảng gần 2 dặm, chưa vượt qua được Cống Bà Ký. Cống Bà Ký còn có tên là Kinh Lạn. Đây là lần đầu tiên đại đội 7 CG M113 gặp khó-khăn trong việc vượt kinh. Diễn-tiến vừa kể, đã được chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá (18) tường-thuật chi-tiết trong bài "Trận Ấp Bắc Thực-tế và Huyền-thoại" như sau:
Đại đội 7 M113 phải đối điện với con kinh thiên-nhiên mà nông đân địa-phương gọi là "Kinh Lạn" không bờ ác-nghiệt . . . . Nó như là khúc xương khó nuốt của những con trâu sắt M113 mà tôi đang cưỡi .Canh-cánh với trách-nhiệm, lo cho sự an-nguy của phi-hành đoàn, tôi phân-vân chưa biết xử trí ra sao . Có lần tôi đưa ra ý-kiến lên ban Cố-vấn cũng như bộ chỉ-huy hành-quân là nên chỉ-thị cho một cánh quân bạn nào gần đó mở cuộc hành-quân bộ đến nơi chiếc trực-thăng bị rơi, dù chậm nhưng chắc hơn là xử dụng đại đội 7 M113. Lý do là không làm sao chúng tôi biết được việc vượt qua Kinh-Lạn để tiến tới mục-tiêu phải mất bao nhiêu thời-gian. Xa đội chúng tôi thay nhau từng bước mò-mẫm dọc bờ kinh nhưng không lần nào cho xe băng ngang được vì lòng kinh toàn là bùn, không đáy . Vì không hiểu và nhận ra yếu-tố đặc-biệt này mà phía cố-vấn Mỹ đã hiểu-lầm, cho tôi là thiếu tinh-thần trách-nhiệm, không hăng-hái chiến đấu, không muốn đụng độ với địch-quân.
Cuối cùng, vào khoảng 1 giờ trưa, đại đội 7 CG đã vượt qua Kinh Lạn. Trên đường tiến vào mục-tiêu, đại đội 7 CG đã bắt tay được với viên trung-úy BB chỉ-huy cánh quân nhảy xuống Ấp Bắc. Vị sĩ-quan này cùng với binh-sĩ của ông còn đang trú-ẩn trong chiếc trực-thăng bị rớt đầu tiên, trong dịp này ông có phàn-nàn với đại-úy Bá như sau: Ngồi trên trực-thăng, mặc dầu tôi chỉ nghe thấy một vài tiếng súng nổ rời-rạc, bỗng thấy đoàn trực-thăng theo nhau chiếc đáp, chiếc lảo đảo, chiếc rớt, rồi rớt khi họ tiếp-cứu nhau.Tôi cho là vì các phi-công còn vụng-về (19).
Trong lúc 12 thiết-quân-vận M113 của đại đội 7 CG còn đang dò dẫm tiến vào mục-tiêu ở mé làng trước khi mở rộng đội hình hàng ngang, thì quân VC, từ các hầm-hố dưới những cụm cây dọc ven bờ kinh trước mặt, chờ cho xe M113 tiến tới gần, còn cách khoảng từ 15 đến 20 thước, bất-thần nổ súng khiến Chuẩn-úy Nguyễn-Văn-Nho thuộc trung đội 1/7 và Thượng-sĩ Nguyễn-Văn-Hào, trên xe chỉ-huy của đại đội, tử-thương (20). Sáu xạ-thủ đại-liên 50 thuộc các trung đội khác cũng lần-lượt gục ngã vì đại-liên 50 trên M113 không có lá chắn để che chở xạ-thủ mỗi khi tác-xạ (21). Cũng vì vậy mà trong trận Ấp Bắc đại đội 7 CG có 8 tử-thương và 7 bị thương, tổn-thất khoảng 15% quân-số tham-chiến.
Trước tình-trạng nói trên, Thiếu-tướng Huỳnh-Văn-Cao, tư-lệnh quân đoàn IV, bay đến bộ chỉ-huy hành-quân Sư đoàn 7 hội-thảọ Sau đó tướng Cao lên bộ Tổng-tham-mưu để can-thiệp và đề-nghị tăng-phái ngay một đại đội Nhảy Dù nhảy xuống khu-vực đại đội 7 CG đang chiếm giữ vào lúc 1 giờ trưa để giải-quyết chiến-trường trước khi trời tối . Nhưng bộ Tổng-tham-mưu lại tăng-phái tiểu đoàn 8 Nhảy Dù với 2 đại đội và nhẩy xuống Ấp Bắc vào khoảng 06:00 giờ chiều, lúc trời sắp tối . Một số nhảy đúng xuống vùng ấn định, nhưng phải nằm tại chỗ qua đêm, một số bị mắc trên cây trong làng, một số khác bị gió chiều thổi bạt vào giữa vị-trí địch nên đã bị hy-sinh oan-uổng (22).
Theo tướng Bá, là người đã chứng-kiến cảnh những cánh dù lạc hướng nói trên, cho biết: Một giờ trước đó, khoảng 5 giờ chiều, đại đội 7 CG đã đánh tan quân VC và chiếm xong mục-tiêụ Tôi dẫm trên xác quân VC còn bỏ lại, nhìn các chiến-sĩ Dù của ta đang lần-lần đáp xuống cánh đồng ở phía đằng sau đại đội 7 Cơ-Giớị Thật là một hình-ảnh tuyệt đẹp như cảnh trong Ciné và trận Ấp Bắc đã chấm dứt từ trước đó (23).
Lợi dụng màn đêm buông xuống, đồng-thời thừa lúc tiểu đoàn Dù đang đáp xuống phía Tây khu-vực hành-quân, VC tháo-chạy về hướng Đông Ấp Bắc, một cánh đồng hoang và cũng là một lỗ hổng của trận-chiến mà bộ tư-lệnh hành-quân đang bỏ ngỏ. Nhưng đến sáng hôm sau, ngày 3-1-1963, bộ tư-lệnh hành-quân vẫn điều động chi đoàn 5/1 Thiết-vận-xa M113 tăng-phái (24) tiến vào mục-tiêu với nhiệm-vụ tấn-công tiêu diệt địch thay vì khai-thác chiến-quả hay truy-kích. Điều đó chứng tỏ việc địch rút lui vào lúc nửa đêm là một bất-ngờ đối với bộ tư-lệnh hành-quân.
Trong khi trực-thăng lâm-nạn lại thiếu không-trợ, không có một đơn-vị bạn nào ngoài đại đội 7 CG gần chiếc trực-thăng bị rớt để kịp thời tiếp-cứu, trung-tá J.P. Vann sợ trách-nhiệm nên ông đã đổ lỗi cho đại đội 7 CG trì-trễ (25). Riêng đại-úy Scanlon, cố-vấn đại đội 7 CG, không hiểu rõ tình-hình nên không kịp thời báo-cáo trở-ngại địa-thế cho trung-tá Vann. Tệ hại hơn nữa là ngay sau khi đại đội 7 đụng địch, thượng-sĩ Hào tử-thương và ba người khác thuộc xa đội chỉ-huy bi.-thương, còn đang nằm sóng-sượt trên nóc xe hay dưới sàn xe chỉ-huy thì đại-úy cố-vấn Scanlon đã tung cửa sau của M113 chỉ-huy, bỏ chạy về phía sau (26). Mãi đến sáng sớm hôm sau, ngày 3-1-1963, Scanlon mới trở về với đại đội 7 CG, nhưng lúc này đại-úy Bá đã giải-quyết mọi trở-ngại và chiến-trường đã được thanh-toán. Kết-quả là tại mục-tiêu, đại đội 7 CG đã tìm thấy 8 tử-thi nằm rải-rác trên miệng hầm, trong đó có 1 cấp chỉ-huy VC (27).
Tính đến chiều ngày 3-1-1963, thiệt hại về nhân-mạng của các đơn-vị bạn và địch tham-chiến sau cuộc hành-quân hai ngày tại Ấp Bắc được ghi nhận như sau:
- Quân đội VNCH có 66 tử-thương và 109 bị thương (28).
- Về phía Hoa-Kỳ có 3 chết và 6 bị thương.
- Việt-Cộng có 36 bị bắt sống, để lại 18 xác, đem theo khoảng 50 thương-binh và một số tử-thi.
HẬU-QUẢ
Trận Ấp Bắc, trên thực-tế, đã kết-thúc ngay trong ngày đầụ Sang ngày hôm sau, mồng 3-1-1963, các phóng-viên Hoa-Kỳ mới đến vùng hành-quân khai thác tin-tức. Họ không hề hay biết gì hơn về cuộc hành-quân này ngoài những điều mà họ đã khai-thác được qua "báo-cáo sau khi chạm địch" của các cố-vấn Hoa-Kỳ. Nhưng tiếc thay, những báo-cáo này lại được viết trong khi các Cố-vấn còn đang bực-bội về vụ các cấp chỉ-huy VNCH đã bỏ lỡ cơ-hội chiến-thắng. Trong báo-cáo sau cuộc hành-quân, trung-tá John Paul Vann, cố-vấn sư đoàn 7 BB, nhận định như sau (29):
- Quân đội VNCH thiếu kinh-nghiệm tác-chiến, thiếu phối-hợp nên đã để tiểu đoàn 514 VC vượt thoát.
- Đại đội 7 Cơ-giới đã trì-trễ: Trong suốt 3 tiếng rưỡi đồng-hồ, thiết-quân-vận chỉ tiến được 1,500 thước mặc dù địch trang-bị vũ-khí nhe..
Nhận định nói trên của ông Vann, cũng như những báo-cáo tương-tự của các cố-vấn khác đã được giới truyền-thông coi như tài-liệu chính-thức dùng để khai-thác, chỉ-trích đường lối lãnh đạo của Hoa-Kỳ tại Đông Nam-Á và chính-sách mà họ cho là độc tài, sai trái của tổng-thống Ngô đình Diệm (30).
Thiếu-tướng Huỳnh-Văn-Cao, tư-lệnh Vùng 4 Chiến-thuật, thì cho rằng kế-hoạch hành-quân của Sư đoàn 7 BB không thích-ứng với địa-hình địa-vật, không dồn nỗ-lực chính vào mục-tiêu nên thất-bại (31).
Chuyện Ấp Bắc đã được báo-chí Hoa-Kỳ luân-phiên khai-thác, nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, liên-tiếp trong nhiều tháng. Nhưng hầu như chưa bao giờ họ nói đến những khó-khăn, trở ngại trong cuộc hành-quân này như thời-tiết xấu, địa-thế đồng lầy ngập nước, kinh rạch chằng-chịt, . . . Trái lại, các phóng-viên Hoa-Kỳ có mặt tại Sài-Gòn đã biến Ấp Bắc thành một vụ nổ lớn nhằm chỉ-trích chế độ Ngô đình Diệm và đường lối Hoa-Kỳ can đự vào chiến-tranh Việt-Nam. Hay nói khác đi, Ấp Bắc là vũ-khí chính để giới báo-chí truyền-thông khai-hoả.
Tóm lại, vấn đề cơ-quan truyền-thông Hoa-Kỳ cố tình khai-thác trận Ấp Bắc nhằm mục đích chỉ-trích đường lối của Hoa-Kỳ tại Việt-Nam, vì họ cho rằng chính-sách này có thể đưa Hoa-Kỳ đến chỗ phá-sản và hy-sinh thêm nhiều nhân-mạng. Hơn thế nữa, họ còn kịch-liệt chống đối chế độ Ngô đình Diệm vì họ cho rằng tổng-thống Diệm đã áp dụng chính-sách độc-tài, gia đình-trị, nhất là sau khi bà Ngô đình-Nhu tuyên-bố: "Tất cả báo-chí truyền-thông Hoa-Kỳ là Cộng-Sản." (32)
Lúc bấy giờ, báo-chí Hoa-Kỳ phần lớn cho rằng tổn-thất tại Ấp-Bắc là một thất-bại quan-trọng và chê-trách quân đội VNCH. Họ đánh-giá quân đội VNCH còn non kém, không đủ sức đương đầu với quân CSBV. Nhưng trên nguyên-tắc mà nói, không ai có thể nhìn vào kết-quả của một trận chiến nhỏ, cấp trung đoàn, tại một địa-phương hẻo-lánh, trong một hoàn-cảnh địa-thế khó-khăn để khẳng định hay kết luận không tốt về cả một quân đội hay một chính-thể của quốc-gia ấy.
Theo đa-số quan-sát viên chiến-trường thì sự-kiện xảy ra tại Ấp-Bắc là điều không may và đáng tiếc, ngoài ra việc thắng hay bại tại Ấp-Bắc cũng chỉ là chuyện bình-thường. Cũng kể từ sau trận Ấp Bắc, nhiều mâu-thuẫn về vấn đề chỉ-huy và phối-hợp đã xẩy ra giữa các giới-chức Hoa-Kỳ có thẩm-quyền.
Chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá, nguyên đại đội-trưởng đại đội Cơ-giới M113, cho biết: Vì John. P. Vann quá hăng say và quá lo cho số-phận của người Mỹ cũng như số trực-thăng bị tổn-thất nên mất bình-tĩnh để rồi vu-khống cho Quân đội VNCH mà chính tôi là người trong cuộc. Có lần Vann đã xin-lỗi tôi để yêu-cầu tôi bỏ qua cho ông khi gặp lại tôi tại tỉnh Bình Dương vào năm 1968 và Quân đoàn 2 vào năm 1972. Đó là sự thật (33).
Nói về Ấp Bắc, thiếu-tướng Huỳnh-Văn-Cao, là tư-lệnh Quân đoàn 4 trong thời-gian này, đã viết trong tập hồi-ký Một Kiếp Người như sau: Không may, mới ngày đầu năm, dương lịch, Sư đoàn 7 thất trận ở Ấp Bắc. Việc này là do Cộng-Sản nội-tuyến cao-cấp nên Sư đoàn chịu thất trận. Thua một trận nhỏ, mà báo chí sách vở dư luận ở Hoa-Kỳ làm rùm beng to chuyện lắm. Chỉ hư một chiếc M113, rớt một trực-thăng, chết và bị thương vài chục chiến-sĩ, thế mà Cộng-Sản khoác lác tuyên truyền lớn chuyện, xem như là chiến thắng Điện-Biên-Phủ không bằng (34).
Biến-cố Ấp Bắc đã gây một tiếng vang lớn bất lợi cho đệ nhất Cộng-Hòa Việt-Nam. Nó còn là giềng-mối cho báo-chí Hoa-Kỳ tranh-luận về việc quân-lực Hoa-Kỳ tham-chiến tại Việt-Nam và tạo cơ-hội cho Cộng-Sản Bắc-Việt tuyên-truyền.
Trích trong
“ Thép và Máu, Thiết-giáp trong chiến-tranh Việt-Nam “
của cựu đại tá Hà-Mai-Việt
Tài-liệu tham-chiếu và ghi-chú:
(1) Chi đoàn 5/1 Thiết-Vận-Xa M113 là 1 trong 4 chi đoàn thiết-kỵ đầu-tiên, thành-lập vào cuối năm 1962 theo khuôn mẫu của đại đội 7 và 21 Cơ-giới M113, nhưng xa đội là ky.-binh thay vì bộ-binh. Các chi đoàn này, thống-thuộc 4 trung đoàn Thiết-giáp, hành-quân trắc-nghiệm trên mọi địa-thế khác nhau trong 4 Vùng Chiến-thuật.
(2) Trưa ngày 3-1-63, chi đoàn 5/1 tuân-hành lệnh tấn-công vào Ấp Bắc nhưng địch quân đã rút lui từ đêm trước.
(3) Trong bài “Trận Ấp Bắc thực-tế và huyền-thoại” chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá kể lại chuyện khi ông còn là đại-úy đại đội-trưởng đại đội 7 Cơ-giới trong trận Ấp Bắc, từ trên máy bay quan-sát L19, Trung-tá J. P. Vann nói với ông qua máy truyền-tin : Anh Bá ! Nếu anh không cho xe qua kinh thì tôi sẽ nói với đại-tướng Lê-Văn-Tỵ bỏ tù anh. Hệ-thống chỉ-huy hành-quân quả là phức-tạp, không theo hệ-thống, cũng như không còn trật-tự nữạ Có lẽ ông Vann cho rằng mình là Tư-lệnh chiến-trường chứ không phải là Cố-vấn cho tư-lệnh Sư đoàn. Theo quan-sát-viên chiến-trường, trong cuộc hành-quân Ấp Bắc có nhiều thẩm-quyền chỉ-huy hay có ảnh-hưởng đến cuộc hành-quân như thiếu-tướng Huỳnh-Văn-Cao, tư-lệnh quân đoàn IV, đại-tá Daniel B. Porter, Cố-vấn quân đoàn, đại-tá Bùi đình đạm, tư-lệnh sư đoàn 7 BB, trung-tá John Paul Vann, cố-vấn sư đoàn, thiếu-tá Lâm-Quang-Thơ, tỉnh-trưởng kiêm tiểu-khu-trưởng định-tường.
(4) Theo tài-liệu ghi-nhận được thì 5 trực-thăng bị rớt: 1 vì lý do kỹ-thuật, 1 chiếc bị hạ vì lýđo bay vào tầm tác-xạ của VC, 2 chiếc khác bị loại vì lýđo phi-công can đảm hay khinh địch nên đã vội-vã nhảy vào tầm bắn của VC để cũng bị rớt. Theo thông-lệ của quân-lực Hoa-Kỳ trong chiến-tranh Việt-Nam, mỗi khi có một phi-cơ HK bị bắn hạ, dù là trực-thăng hay khu-trục, họ đã dồn tất cả ưu-tiên và phương-tiện vào việc cứu-nạn, bất-chấp lơ.i-hại, dù có phải rớt thêm vài chiếc nữạ Cũng vì vậy mà nhiều cuộc hành-quân của VNCH được HK yểm-trợ gặp trường-hợp nói trên đã bị khựng lại hay bỏ dở để lo cấp-cứu phi-hành đoàn. Tai hại hơn nữa là trực-thăng võ-trang đã được lệnh “chỉ bắn địch khi bị địch bắn trước”. Có lẽ chính vì vậy mà trực-thăng võ-trang đã không thám-sát bằng hỏa-lực để tìm và triệt-hạ các toán phòng-không mai-phục trước khi đổ quân. Kể từ khi bị tổn-thất 5 trực-thăng, Cố-vấn Hoa-Kỳ trở nên lúng-túng để đưa đến thất-bại và sau này giới truyền-thông HK khai-thác, làm lớn chuyện. Người ta cho rằng đây là một cuộc hành-quân trực-thăng-vận qui-mô đầu-tiên trong chiến-tranh VN nên phi-hành đoàn còn thiếu kinh-nghiệm.
(5) Theo tin-tức tình-báo thì quân VC bảo-vệ đài truyền-tin có khoảng hơn 100 người (1 đại đội tăng-cường) thuộc tiểu đoàn 514 chủ-lực. Sự thực thì địch đông gấp ba và đài truyền-tin đã được rời đi nơi khác trước ngày 1-1-1963 nhưng địch vẫn ở lại Ấp Bắc, tổ-chức địa-thế để nghênh-chiến.
ạ) Theo chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá trong bài hồi-ký “Trận Ấp Bắc thực-tế và huyền-thoại”, phổ-biến vào năm 2000, thì địch tung vào mă.t-trận Ấp Bắc tiểu đoàn 514 chủ-lực Mỹ-Tho và tiểu đoàn 263 chủ-lực Miền, chưa kể những thành-phần dân-quân du-kích khác.
b.) Theo đại-tá Harry G. Summers, Jr. trong Historical Atlas of the Vietnam War, Boston, New York, 1995, P. 80 thì trong vùng hành-quân, địch có 350 người thay vì 100 người, kể cả các thành-phần của tiểu đoàn 261 chủ-lực.
c.) Theo tướng Don Ạ Starry trong cuốn Mounted Combat in Vietnam (P. 25) thì vùng mục-tiêu Ấp Bắc được 3 đại đội VC chính-qui trang-bị đại-liên, súng cối 60 ly cùng một số đơn-vị du-kích tại địa-phương tổ-chức tuyến phòng-thủ dọc theo kinh Cống Lương, từ ấp Tân-Thới xuống tận Ấp Bắc.
(6) Trong thời-gian này các Quân đoàn đang được thành-lập nên bộ Tổng-tham-mưu đã ra lệnh thẳng cho Sư đoàn.
(7) Thoạt đầu, bộ tư-lệnh sư đoàn định khaiđiễn hành-quân vào ngày N, 1-1-63, sớm hơn một ngày, nhưng theo đề-nghị của đại-tá tư-lệnh sư đoàn 7 BB, ngày N được hoãn lại 24 giờ. Chính vì việc đình-hoãn này mà nội-tuyến CS đã thông-báo cho đồng bọn kịp thời phản-ứng. Ngay như việc binh-sĩ chuẩn-bị thamđự hành-quân rồi khựng lại, hay các đoàn xe tiếp-tế đạnđược di-chuyển cũng tự tố-giác cho bên ngoài biết sắp có biến động. Do đó, địch-quân có đủ thời-giờ chuẩn-bị trước để chạy hay ở lại kháng-cự.
(8) Bảo-An là một tổ-chức được hơ.p-nhất bởi ba tổ-chức bán quân-sự hình-thành trước năm 1954, đó là các tổ-chức Bảo-Chính đoàn tại Bắc-Việt, Việt-Binh đoàn tại Trung-Việt và Vệ-Binh Nam-Việt. Kể từ năm 1955, tổ-chức Bảo-An được đặt dưới quyền chỉ-huy của Tổng-Giám đốc Bảo-An. Đến năm 1964, tổ-chức Bảo-An được biến-cải thành địa-Phương-Quân, một lực-lượng thiết-yếu trong Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa với 1,100,000 ngườị
(9) Đại đội 7 cơ-giới là một trong hai đơn-vị bộ-binh cơ-giới đầu tiên thành-lập vào tháng 4-1962, thống-thuộc sư đoàn 7 và sư đoàn 21 BB để trắc-nghiệm tác-chiến trong vùng đồng-bằng sông Cửu-Long thuộc Vùng IV chiến-thuật. Mỗi đại đội Cơ-giới có 15 thiết-quân-vận M113 (TQV M113). Hỏa-lực của đại đội trên TQV gồm có 15 khẩu đại-liên 50, 18 khẩu đại-liên 30, 4 súng-cối 60 ly, và 3 súng phóng hỏa-tiễn 3.5. Trong khoảng thời-gian từ 11-6 đến 30-9-1962, hai đại đội 7 và 21 Cơ-giới đã hạ 502 VC và bắt sống 184 tù-binh, trong khi đó thiệt-hại về phía bạn gồm 4 chết và 9 bị thương. (Tham-chiếu Monograph of Armored Combat in Vietnam, 1976, PP. 8-13, của tướng thiết-giáp Donn Ạ Starry).
(10) Bị thất-bại lần này, CS đã ho.c-tập để tìm phương-thức chống lại trực-thăng và thiết-quân-vận M113. Họ nhắm vào những yếu điểm của chiến-cụ mới để khai-thác. Do đó họ đã tìm cách vô-hiệu-hóa hỏa-lực của M113 bằng cách triệt-hạ xạ-thủ đại-liên 50, là vũ-khí mạnh nhất trên TQV M113.
(11) Tại mă.t-trận Tây-Ninh, sau khi không-lực HK và VNCH oanh-kích dữ dội vào vùng mục-tiêu, 1,250 chiến-sĩ Dù đã được thả xuống để tiêuđiệt địch và thanh-toán chiến-trường. Kết-quả: Ta ti.ch-thu nhiều vũ-khí và tài-liệụ Về phía địch, quân-số tổn-thất ước-lượng từ 400 đến 800 tử-thương.
(12) CH-21 là loại trực-thăng vận-tải, thường được dùng để chở quân hay tiếp-tế trong lục-quân Hoa-Kỳ. Hình thù CH-21 giống như quả chuối khổng-lồ nên còn được người Mỹ gọi là “Flying Bananạ” Vào tháng 12-1961, Hoa-Kỳ đem sang Việt-Nam 2 đại đội trực-thăng CH-21 gồm 33 chiếc với đầy đủ phi-công và 400 chuyên viên tiếp-liệu và bảo-trì.
(13) Vì hành-quân trong vùng đồng lầy ngập nước nên tất cả các đơn-vị bộ-binh, cũng như khinh-binh thuộc đại đội Cơ-giới khi hạ-chiến, đều phải lội ruộng. Mực nước tùy chỗ, trung-bình trên dưới đầu gối, có khi cao tới thắt lưng.
Trong cuộc phỏng-vấn tại Colorado ngày 11-8-2001, đại-úy Dương-Khang nguyên là trung đội-trưởng của đại đội trinh-sát thuộc tiểu đoàn 3, trung đoàn 12, sư đoàn 7 BB, có mặt trong trận Ấp-Bắc, ông cho biết: Tại phía Bắc vùng hành-quân, trong lúc đơn-vị trinh-sát sư đoàn đang lội nước ngang tới bụng, thì 2 tên VC, ngồi trên thuyền tam-bản neo sẵn, dùng trung-liên FM BAR bắn xối-xả vào đoàn người đang lội dưới ruộng. Nhiều chiến-sĩ của đại đội không kịp trở tay!
Nói về nỗi cực-khổ của các chiến-sĩ, ky.-binh và bộ-binh tùng-thiết, hành-quân trong vùng đồng lầy, ngập nước, tướng Lý-Tòng-Bá viết như sau: Không bao-giờ tôi quên những khó-khăn, gian khổ mà tôi và những anh em binh-sĩ thuộc quyền, tưởng là không tài nào vượt qua được với nhiều lần các M113 thay nhau kẹt xích, kẹt bùn, loay-hoay giữa ruộng. Có lần hơn cả hai ngày đêm, anh em các xa đội với quần áo trận đang mặc, từ ướt rồi khô, rồi từ khô đến ướt. Cứ miệt mài thay nhau liên-tiếp móc kéo xe ra khỏi từng vũng bùn, khỏi vùng nguy-hiểm.
(14) Một tiểu đoàn Bảo-An tiến trên trục ở hướng Đông và tiểu đoàn Bảo-An thứ nhì tiến trên trục bên hướng Tâỵ
(15) Trong thời-gian này, trực-thăng CH-21 không được võ-trang và trực-thăng võ-trang UH-1 Hueys, trang-bị 2 đại-liên 30 và 16 hỏa-tiễn cỡ 2.75in, cũng chỉ được bắn địch sau khi địch khai-hỏa trước hay nói khác đi nếu địch có bắn thì mới được bắn lạị (Trang 67 Vietnam War, The 1963 Debacle, Richard F. Newcomb, 1987 Part of the explanation for Ấp Bắc, Harkins said, was the rule that helicopters could not fire until fired upon, and the Mohawks were unarmed).
(16)William M. Hammond, The Military and The Media, Wash., DC, 1988, P31.
(17) Theo Dave R. Palmer trong Summons of the Trumpet, trang 33, để chống lại trực-thăng, VC được trang-bị tối-thiểu 2 đại-liên 50 và súng tự động đủ loại, xạ-thủ đã được huấn-luyện cẩn-thận về kỹ-thuật chống máy-baỵ
(18) Năm 1972, đại-tá Lý-Tòng-Bá, tư-lệnh sư đoàn 23 Bộ-binh, được tổng-thống Nguyễn-Văn-Thiệu vinh-thăng chuẩn-tướng đă.c-cách tại mă.t-trận Kontum kiêu-hùng.
(19) Chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá, tại Las Vegas, NV, kể lại vào ngày 14-11-2001.
(20) Lý-Tòng-Bá, Trận Ấp Bắc thực-tế và huyền-thoại, Sàigòn Nhỏ Houston, 2001, PP. 38-39.
(21) Sở dĩ xạ-thủ đại-liên 50 dễ bị hạ là bởi đại đội Cơ-Giới còn trong thời-gian trắc-nghiệm, TQV M113 chưa được trang-bị lá chắn cho đại-liên 50. Trong khi tác-chiến, xạ-thủ đại-liên 50 đã để lộ từ ngực đến đầu, khiến địch dễ sát-hạị Ngoài ra, TQV M113 được sản-xuất với mục đích chuyên-chở bộ-binh. Trên M113 cũng như trên các xe thiết-giáp khác, Đại-liên 50 thường dùng để phòng-không nên không có lá chắn cho dễ xoay trở. Vào đầu thập-niên 60, sau khi trắc-nghiệm trên chiến-trường VN, TQV M113 mới được xử dụng như một chiến-xa nhẹ, có khả-năng băng đồng, lội nước, trong vai-trò xung-kích, nên Đại-liên 50 sau này đã được trang-bị lá chắn bằng thép do căn-cứ 80 Quân-Cụ VNCH thực-hiện. Những lá chắn này sau đã trở thành khuôn-mẫu cho Hoa-Kỳ ứng dụng. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng trong dịp vinhđanh 712 khoá-sinh VNCH tốt-nghiệp tại trường Thiết-Giáp Fort Knox, Kentuckey, từ năm 1955 đến năm 1975, vào ngày 25-5-2000 tại đại-hội thường-niên Thiết-giáp-binh HK tổ-chức tại Fort Knox, tiến-sĩ Lewis Sorley, sĩ-quan Thiết-giáp HK hồi-hưu, hiện chuyên viết quân-sử, đã trình-bày trước cử-tọa như sau: “Theo tướng Don Starry và giáo-sư George Hofman trong cuốn binh-sử của Thiết-giáp Hoa-Kỳ, mang tựa đề Camp Colt to Desert Storm, trong chương nói về Chiến-tranh Việt Nam, tôi nhận thấy rằng Thiết-Quân-Vận M113 (TQV M113) là một Chiến-mã của cuộc chiến này, và chính Thiết-giáp-binh Việt Nam đã sửa đổi TQV M113 như tăng-cường hỏa-lực, làm lá chắn đỡ đạn, bọc thêm thép, biến M113 thành một loại thiết-xa nhẹ có khả-năng băng đồng, vượt sông, được gọi là Thiết-kỵ xa (Armored Cavalry Assault Vehicle = ACAV). Chúng ta đã học lại của họ, rồi hệ-thống hóa những điều mà họ đã khai-triển.”
(22) Huỳnh-Văn-Cao, Một Kiếp Người, Chantilly, Virginia, 1993, P. 18-19.
(23) Chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá, tại Las Vegas, NV, kể lại vào ngày 14-11-2001.
(24) Về tổ-chức và trang-bị của chi đoàn 5/1 Thiết-kỵ, trong thời-gian trắc-nghiệm, cũng gần giống như của đại đội 7 Cơ-giớị Nhưng Armored Personnel Carrier M-113 của đại đội Cơ-giới lấy tên là “Thiết-quân-Vận M113” dùng để chuyên-chở bộ-binh. Còn chi đoàn Thiết-kỵ cũng trang-bị M113 nhưng được xử dụng như một chiến-xa nhẹ trên mọi địa-thế nên được gọi là “Thiết-vận-xa M113”.
(25) Hành động hốt-hoảng và báo-cáo sai-lạc của Cố-vấn J. P. Vann chính là đầu giây mối nhợ khiến trận Ấp Bắc trở nên một đề-tài nóng bỏng, để từ một trận không có gì quan-trọng đưa đến việc giới truyền-thông Hoa-Kỳ lươ.ng-giá mơ-hồ mà kết-luận là quân đội VNCH còn non kém.
(26) Chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá, tại Las Vegas, NV, kể lại vào ngày 1-1-2002.
(27) Sự kiện này đã được chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá xác nhận ngày 31-12-2001.
(28) Dave R. Palmer, Summons of the Trumpet, Presidio Press, CA, 1978, P. 37.
(29) William M. Hammond, Public Affairs: The Military and The Media, 1962-1968, Center of Military History USA, Washington D.C., 1988, PP. 31-33.
(30) William M. Hammond, Public Affairs: The Military and The Media, P. 35.
(31) Huỳnh-Văn-Cao, Một Kiếp Người, P. 18.
(32) William M. Hammond, Public Affairs: The Military and The Media, P. 31-37.
(33) Chuẩn-tướng Lý-Tòng-Bá, tại Las Vegas, NV, kể lại vào ngày 14-11-2001.
(34) Huỳnh-Văn-Cao, Một Kiếp Người, P. 88.
|
|
|
Post by vietnam on Jul 11, 2009 2:32:20 GMT -5
NHỮNG PHI VỤ BẮC PHẠT CỦA KHÔNG QUÂN VIỆT NAM
Hồi ký của KQ Trần Đình Giao De Couteau
Với sự cộng tác của KQ Hoàng Bá Mỹ, KQ Nguyễn Kim Chung, KQ Phạm Quốc Tiến và KQ Nguyễn Văn Phước
* Thân tặng:
- Những anh em Kiểm báo đã làm việc với tôi tại TRUNG TÂM KIỂM BÁO 41 PANAMA CONTROL trong những năm 1964- 1965 và 1969 tại Đà Nẵng.
* Đồng kính tặng: - Đại Tá Dương Thiệu Hùng, cựu Tư Lệnh KĐ 41, người đã hướng dẫn 6 phi tuần khu trục A1H oanh kích những vị trí quân cộng sản Bắc việt tại Đồng Hới ngày 28-2-1965, bị phòng không địch bắn trúng nhưng đã can đảm lái tầu về tới ngoài khơi vịnh Đà Nẵng, nhảy dù an toàn và được cứu cấp đưa về căn cứ.
- Tưởng niệm anh hùng phi công, cố Trung Tá Phạm Phú Quốc, Tư Lệnh KĐ 23CT, đã anh dũng đền nợ nước trong phi vụ oanh tạc căn cứ quân cộng sản Bắc việt tại Hà Tĩnh ngày 19-4-1965.
VÀI HÀNG VỀ TRUNG TÂM KIỂM BÁO PANAMA:
TTKB Panama tọa lạc trên đỉnh núi Sơn Chà cao hơn 2,500 bộ trên bán đảo Tiên Sa trong vịnh Đà Nẵng. Phía Bắc là đèo Hải Vân, phía Tây là thành phố Đà Nẵng ngăn cách bởi con sông Hàn với một trục lộ giao thông duy nhất là cây cầu Trịnh Minh Thế, phía Đông là căn cứ Hải quân Tiên Sa và biển Nam Hải, phía Nam là làng Mỹ Khê với hai địa danh nổi tiếng là Ngũ hành sơn và bãi biển Mỹ Khê đã từng được Hollywood dùng làm bối cảnh cho một "show TV" rất nổi tiếng ăn khách trong cuộc chiến VN là "CHINA BEACH". Núi Sơn Chà còn có tên là "Núi khỉ" người Mỹ gọi là "Monkey mountain" vì có cả ngàn con khỉ sống trong khu rừng bao quanh núi, đặc biệt có loài khỉ được gọi là con "Giáo hoàng" vì những chú khỉ này có bộ lông ngũ sắc trông giống như mầu áo đức Giáo hoàng thường mặc khi hành lễ. Ngoài khỉ, còn có nhiều thú rừng khác như heo rừng, thỏ và loài nai nhỏ tý gọi là con "cheo"chỉ cao lối 25 đến 30 phân, thịt ăn rất thơm ngon. Từ chân núi lên tới đỉnh là một đường đèo vòng vèo dài hơn 7 cây số, có khúc dốc cao tới 25%, xe chạy lên núi chỉ có thể chạy số một hoặc số hai mới leo nổi. Đỉnh núi Sơn Chà luôn luôn có mây mù bao phủ và lạnh, anh em kiểm báo gọi là "đỉnh ngàn năm mây bay".
Đài Panama do Không Quân Mỹ thiết lập năm 1961, được trang bị hai máy radar tối tân là FPS 20 (search radar)có tầm dò tìm phi cơ ở xa tới 500 miles và máy FPS100 (height finder) có thể khám phá thấy phi cơ bay cao trên 100 ngàn bộ.
PANAMA YỂM TRỢ HÀNH QUÂN VÀ NHỮNG PHI VỤ BẮC PHẠT:
Tôi được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng Hành quân Trung Tâm Kiểm Báo Đà Nẵng tháng 6 năm 1964. Chỉ huy trưởng đài lúc đó là Đại úy Đặng Văn Tiếp (1). Tôi ở trong cư xá sĩ quan độc thân bên Không đoàn 41. Không Đoàn trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Kim Khánh, Không Đoàn Phó là Thiếu Tá Vũ Văn Ước. Tôi được cấp một xe Dodge 4x 4 làm phương tiện đi làm. Hàng ngày tôi phải lái xe 20 cây số từ căn cứ Đà Nẵng sang Sơn Chà rồi leo đèo hơn nửa tiếng lên đài trên đỉnh núi làm việc cho tới 4 giờ 30 chiều mới xuống núi trở về cư xá bên Không đoàn. Phòng hành quân TTKB của tôi có 3 toán hành quân làm việc luân phiên 24/24 do 3 sĩ quan Weapons Controller trách nhiệm là các Thiếu úy Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Mai và Hoàng Bá Mỹ (2), Sĩ quan Phụ tá HQ của tôi là Thiếu-úy Nguyễn Anh, sĩ quan Kỹ thuật là Thiếu úy Khiếu Thiện Kế (3). Công việc hàng ngày của Panama là phối hợp với Trung Tâm Hành Quân Không trợ I (ASOC 1) và Không Đoàn 41 theo dõi, yểm trợ những phi vụ hành quân oanh kích quân Việt cộng, tải thương, tiếp tế quân bạn , cấp cứu v.v...Ngoài ra, chúng tôi còn có nhiệm vụ kiểm soát vùng không phận trách nhiệm (air surveillance), theo dõi những phi vụ oanh tạc Bắc Việt của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ và hoạt động của những phi cơ Mig của Trung Cộng trên đảo Hải Nam (cách Đà nẵng gần 500 dậm).
Cuối năm 64, Thiếu Tá Khánh du học, Thiếu Tá Ước thuyên chuyển về Bộ Chỉ huy Không chiến (AOC: Air operation center)ở Sài Gòn, Thiếu Tá Dương Thiệu Hùng được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Không Đoàn 41. Thiếu Tá Hùng là Giám Đốc Huấn luyện TTHLKQ Nha Trang những năm 60, 61 khi tôi là sĩ quan Phụ tá Trường Quân sự. Gặp lại tôi, anh rất vui mừng, bắt tôi đưa lên thăm cơ sở radar trên đỉnh núi và rất quan tâm đến nhiệm vụ của đài kiểm báo.
Đầu năm 1965, tình hình quân sự trở nên sôi động. Cộng sản Bắc việt đưa nhiều sư đoàn chính qui xâm nhập Quân Khu 2 và Quân Khu 1. Ngày 1-2-65, chúng tấn công căn cứ Pleiku phá hủy một số trực thăng của Hoa Kỳ, và đặt chất nổ phá hoại CLB hạ sĩ quan Mỹ ở Qui Nhơn, đồng thời pháo kích doanh trại quân đội Hoa Kỳ và VNCH ở Phước Tường gần căn cứ KQ Đà Nẵng. Để trả đũa và cảnh cáo CS Bắc Việt, Hoa Kỳ cho nới rộng mục tiêu oanh tạc miền Bắc từ vĩ tuyến 17 cho đến vĩ tuyến 19. Từng đoàn khu trục F 100 và F 105 liên tục oanh tạc những vị trí địch từ Vĩnh Linh tới Đồng Hới, Hà Tĩnh. Không Quân VNCH cũng khởi sự tham gia những phi vụ Bắc phạt từ tháng 2-65.
PHI VỤ BẮC PHẠT ĐẦU TIÊN
Ngày 5-2-65, dưới sự chỉ huy dẫn đầu bởi Chuẩn-Tướng Tư Lệnh KQ Nguyễn Cao Kỳ diễn tiến như sau:
Trở về đài, Đ/úy Tiếp triệu tập một cuộc họp ở phòng hành quân chỉ thị cho Thiếu Úy Kế phòng Kỹ Thuật phải check tất cả các máy radar dò phương hướng (search radar), đo cao độ (height finder) , máy truyền tin, và radar scope trong tình trạng khả dụng 100%. Riêng phòng Hành quân, các sĩ quan Chỉ đạo trưởng và sĩ quan chỉ đạo phải đích thân điều khiển những HSQ radar operator giầu kinh nghiệm làm "flight following"phi vụ đặc biệt quan trọng này vì là phi vụ Bắc phạt đầu tiên của KQVN và do ông TLKQ hướng dẫn. Sáng hôm sau, tôi sang đài sớm từ 6 giờ sáng cùng Thiếu úy Mỹ check accuracy của từng radar scope và cắt đặt những operator expert ngồi làm việc trong dark room ở các vị trí plotter, AST, ASS v.v..
Mỹ cũng nhờ counterpart là Tr/úy Peoples lo giúp về Rescue khi cần và thường xuyên liên lạc với các đài của Hoa kỳ là đài YANKEE (airborne radar) ở ngoài khơi vịnh Bắc Việt và đài PRETTY GIRL ở Đông Hà để nhờ họ cùng làm Flight following. Riêng tôi lo liên lạc với TACC/North Sector (USAF) để xin yểm trợ khi có phi cơ địch lên nghênh cản. Đúng giờ G, khoảng 1 giờ trưa , Panama nghe danh hiệu "Tiger Crystal 1" gọi trên tần số UHF, phi vụ Bắc phạt bắt đầu khởi sự. Thiếu úy Mỹ , sĩ quan chỉ đạo trưởng toán C và Th/úy Bàn, sĩ quan phụ tá ngồi trước một radar scope dưới sự quan sát của Đ/úy Tiếp và tôi. Sau khi Tiger Crystal liên lạc với Panama, tất cả đều im lặng vô tuyến...Chúng tôi bắt đầu hồi hộp theo dõi trên màn ảnh radar và tần số trực HQ. Theo ước tính thì thời gian từ giờ G cho đến TOT (time over target) vào khoảng 45 phút. Chỉ 45 phút thôi mà sao thấy dài thế. Tôi đứng cạnh máy radar Trung sĩ I Thành trưởng toán chăm chú quan sát. Tôi coi đồng hồ rồi bảo Mỹ:"còn 5 phút nữa, khi họ lấy cao độ vào mục tiêu mình sẽ có radar contact". Tôi tiếp tục nhìn giờ và "count down " ngầm trong bụng ...rồi ở những giây cuối cùng trên tần số...chúng tôi nghe rõ giọng (Đ/úy Tường mực):"2, 3, 4, 5, 6, 7, 8... 1 gọi: tất cả lấy cao độ, chuẩn bị vào mục tiêu". Tiếp theo là những tiếng micophone bấm "Bụp bụp", mấy phút sau trên màn ảnh radar bắt đầu thấy xuất hiện các chấm lân tinh di chuyển theo hướng mục tiêu đã kẻ sẵn. Rồi thình lình nghe trên tần số tiếng la " Một in...rồi Hai in... Ba in...cho đến Tám in...Các operator chăm chú theo dõi đếm đủ 8 chấm biểu hiệu 8 phi tuần trên scope đang di chuyển theo hướng ngược ra khơi lấy hướng Nam trở về căn cứ. 10 phút sau nghe Tiger Crystal 1 một gọi:" Panama, Tiger Crystal 1 gọi, over". Th/úy Mỹ trả lời:"Tiger Crystal1, Panama nghe bạn 5/5". Tiger Crystal1 báo cáo :"phi vụ hoàn tất, mọi người vô sự,chúng tôi trở về căn cứ, over". "Roger Tiger Crystal 1, congratulation , over". "Thank you Panama". Trên đường về, Tiger Crystal báo cáo có súng phòng không địch bắn lên lẻ tẻ nhưng chả ăn thua gì cả ! Sau đó, Panama chuyển giao Tiger Crystal sang tần số đài GCA hướng dẫn về đáp phi trường Đà Nẵng. Đ/úy Tiếp và tôi cùng toàn thể anh em toán hành quân C thở phào nhẹ nhõm và vui mừng khi thấy phi vụ hành quân Bắc phạt thành công mỹ mãn không tổn thất. Chúng tôi nghe anh em bên Không Đoàn kể lại : sau khi đáp, bước xuống parking, Tướng Kỳ đã được Thiếu Tướng Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 đích thân tới dưới cánh phi cơ đón và hai ông tướng đã "hug" nhau trong khi mọi người vỗ tay chào mừng dưới ống kính quay phim của đài truyền hình và máy ảnh của các phóng viên. Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tuyên bố đặc biệt ân thưởng mỗi hoa tiêu tham dự phi vụ hành quân Bắc phạt Anh Dũng Bội tinh với nhành Dương liễu, các sĩ quan yểm trợ hành quân được tưởng thưởng ADBT với ngôi sao bạc, những quân nhân bảo trì phi cơ và vũ khí được tưởng thưởng ADBT với ngôi sao đồng. Thiếu Tướng TLQĐ còn ra lệnh cho trưng dụng nhà hàng Bạch Đằng ngoài bờ sông Hàn đêm nay hoàn toàn dành cho Không quân mở tiệc liên hoan. Các phi vụ Bắc phạt của KQVN cứ tiếp diễn song song với những cuộc oanh kích hàng ngày của Không lực, TQLC và hải quân Mỹ theo nhịp độ mỗi tuần một lần cho đến khi các mục tiêu oanh tạc được nới ra tới vĩ tuyến 19.
PHI VỤ BẮC PHẠT ngày 28-2-65.
Lúc 2PM, Thiếu-Tá Dương Thiệu Hùng, TLKĐ 41 đích thân chỉ huy 6 phi tuần khu trục bay ra oanh kích những mục tiêu địch ngoài tỉnh Đồng Hới cách Đà nẵng khoảng 1 tiếng 15 phút bay. Đặc biệt phi vụ này có sự tham gia của phi cơ khu trục Không Đoàn 62 trên Pleiku do Trung Tá Tư Lệnh KĐ Trần Văn Minh (4) hưỡng dẫn ra Đà Nẵng tham dự cuộc hành quân Bắc phạt. Trước giờ khởi sự, tôi lái xe đưa Tr/Tá Minh lên đỉnh núi vào phòng hành quân quan sát các sĩ quan điều không theo dõi phi cơ bay hành quân. Lúc các phi tuần khu trục cất cánh, tôi mời Tr/Tá Minh ra ngoài sân đài, ngồi trên một tảng đá cao nhìn xuống vịnh Đà Nẵng đếm từng chiếc A1 rời căn cứ hướng về mục tiêu phía bắc. Tôi chỉ chiếc A1 bay giữa trong phi đội dẫn đầu là Th/Tá Hùng, TLKĐ 41, danh hiệu là Flying Tiger 1 (Phi Hổ 1). Vì giới hạn mục tiêu oanh tạc đã được Mỹ công bố trước (từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 19) nên cộng sản Bắc Việt đã có đủ thời giờ di tản các đơn vị tiếp liệu, hậu cần, các kho dự trữ về những vùng ngoài vĩ tuyến 20, và chỉ để lại những đơn vị phòng không được bố trí và che dấu khéo léo nên đã gây thiệt hại cho phi cơ của Không quân Mỹ và KQVN không ít. Trong một phi vụ oanh tạc Vĩnh Linh, chiếc A1 do Thiếu úy Nguyễn Đình Quý (khóa 61) bị bắn rơi đã crashed ngay trên DMZ(5)bên bờ sông Bến Hải. Thiếu úy Nguyễn Quốc Đạt (khóa 63A) bị trúng đạn nhảy dù ra bị địch bắt sống làm tù binh. Phi vụ lần này gồm 3 phi tuần A1H của KĐ 62 Pleiku và 3 phi tuần A1H của Phi đoàn 516 (Phi Hổ) do Tr/ úy Ôn Văn Tài hướng dẫn, tổng cộng là 18 phi cơ, mục tiêu oanh tạc là Đồng Hới. Trên đường bay đi, máy bay của ta đã phát hiện nhiều PT boat của cộng sản ngoài duyên hải từ DMZ (5)trở ra và khi tới mục tiêu, các phi cơ của KQ ta đã gặp phải hỏa lực phòng không dầy đặc của địch, đủ loại đại liên, cao xạ 37 ly. Ngay đợt oanh tạc của phi tuần thứ nhất, Phi Hổ 1 đã bị trúng đạn đại liên 50 và động cơ bị chảy dầu. Sau khi thả hết bom, Flying Tiger1 hướng ra biển cố gắng lấy cao độ để có thể bay về đến bên này vĩ tuyến 17 để được cấp cứu. Wing man Flying Tiger2 là Th/úy Vũ Khắc Huề báo cáo Panama là Flying Tiger1 bị trúng đạn phòng không và xin rescue. Tôi và Tr/ Tá Minh đến bên scope của Th/úy Phước quan sát cuộc điều động cứu cấp. Tr/ Tá Minh hỏi tôi:"radar có bắt được tín hiệu của phi cơ Th/Tá Hùng lái không ?". Tôi nói:"được, nếu phi cơ bay ở cao độ trên 3 ngàn bộ và "squawk emergency". Tôi bảo Th/úy Phước báo cho ASOC 1 và Phòng Hành Quân Chiến cuộc KĐ 41 biết tin Flying Tiger1 bị bắn và xin xe cứu hỏa, xe cứu thương túc trực chờ ngoài phi đạo, đồng thời xin 2 trực thăng H 34 của Phi đoàn 213 airborne sẵn sàng cấp cứu trong trường hợp Th/Tá Hùng phải bỏ phi cơ nhảy dù cho an toàn. Thiếu úy Phước cũng nhờ counterpart Mỹ (USAF) xin trợ giúp trong việc rescue Flying Tiger1 đang trên đường bay về căn cứ. Khoảng gần 4 PM, Panama có radar contact với Flying Tiger1 ở cao độ 5000 bộ phía nam của DMZ lối 30 miles. Capt Knight(USAF) cho biết có 1 trực thăng CH 54 của US NAVY đang bay theo Flying Tiger và sẵn sàng rescue. 20 phút sau, Flying Tiger1 kêu "May Day" báo cáo động cơ bốc khói dữ dội sắp phát hỏa và phi cơ bắt đầu mất cao độ ! Lúc 4 giờ 45, Thiếu Tá Hùng gọi:"Panama control, Phi Hổ 1 gọi, over ". "Phi Hổ 1, Panama nghe bạn 5/5 ". " Panama, tôi còn cách Đà Nẵng khoảng 20 miles, cao độ 3500 bộ, tôi sẽ phải bỏ phi cơ nhảy dù vì động cơ đã bắt đầu cháy !" 10 phút sau, Đ/úy Knight cho tôi biết VNAF Flying Tiger1 crashed ở 25 miles off shore, pilot nhảy dù xuống biển đã được CH 54 của US Navy rescue và đang trên đường bay về Quân y viện Duy Tân Đà Nẵng. Trung Tá Minh yêu cầu tôi đưa ông trở về Không Đoàn 41 để đón các phi hành đoàn và thăm Thiếu Tá Hùng ở quân y viện. Hai H34 rescue được gọi về đáp.
Sau phi vụ này, Thiếu Tá Hùng được nghỉ 15 ngày dưỡng sức rồi trở lại tiếp tục chỉ huy Không Đoàn 41 và điều hành những phi vụ Bắc phạt cho đến tháng 5- 65. Trong khoảng thời gian này, anh còn có thêm nhiệm vụ yểm trợ các lực lượng Cảnh sát trung ương do Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan ra mở chiến dịch dẹp các tổ chức Phật giáo biểu tình, đem bàn thờ Phật xuống đường gây xáo trộn chính trị.
PHI VỤ BẮC PHẠT 19-4-65, oanh tạc Hà Tĩnh.
Phi vụ này được chỉ huy và hướng dẫn bởi Trung Tá Phạm Phú Quốc, Tư Lệnh Không Đoàn 23 CT Biên Hòa với 6 phi tuần A1H và A1G. Mục tiêu : kho đạn và kho tiếp liệu của quân Bắc Việt ở tỉnh Hà Tĩnh.
Sĩ quan chỉ đạo trưởng đài Panama là Thiếu úy Hoàng Bá Mỹ, SQPT là Thiếu úy Phạm Quốc Tiến, toán C. Sĩ quan trực ASOC 1 là Trung úy Hoạt. Hai trực thăng H 34 (rescue team) trực ở Đông Hà danh hiệu là "butterfly 1 và Butterfly 2".
Như thường lệ, trong nhiệm vụ "flight following" và rescue, hai toán radar hành quân Việt Mỹ (VNAF & USAF) đã làm việc side by side rất chặt chẽ. Các máy radar scope, truyền tin trong tình trạng toàn hảo. Hệ thống air surveillance và rescue giữa Panama control và các đài YANKEE (C 121 airborne radar) và PRETTY GIRL ở Đông Hà gần DMZ được phối hợp chặt chẽ thường trực. Th/úy Mỹ ngồi một scope đích thân theo dõi, scope kế bên là Tr/úy Peoples (USAF) để dễ bề phối hợp giúp đỡ nhau. Hôm ấy tôi thấy trên Plotting board vẽ đầy những tracks về hướng Bắc VN. Đó là những phi cơ F 100, F 105, A 18 của USAF và US NAVY đang oanh tạc Bắc Việt. Các phi tuần của KQVN (18 phi cơ) cất cánh lúc 1 PM, danh hiệu là "Tiger Red". Danh hiệu của Trung Tá Quốc là "Tiger Red 1". Panama đã hướng dẫn Tiger Red tới mục tiêu oanh tạc và trở về gần như an toàn mặc dù gặp phải hỏa lực phòng không địch bắn lên dữ dội. Khi các phi tuần bay trở về đến gần đảo HÒN CỌP (Tiger island), một hòn đảo nhỏ ở ngoài khơi phía bắc DMZ lối 5 miles, thì bỗng thấy Tiger Red1 báo cáo thấy có súng dưới đất bắn lên. Một lát sau, Panama nghe Tiger Red 2 báo cáo : "Tiger Red 1 bị bắn rớt rồi và đã crashed xuống đất gần bãi biển !"Tiger Red2 cho biết tiếp:"Red1 bị bắn, quay lại định thanh toán ổ phòng không thì bị hạ !"Tôi và Th/úy Mỹ cùng giật bắn người lên, Mỹ báo tin Tiger Red1 crashed cho Tr/úy Hoạt ASOC 1 biết. Tr/úy Hoạt cũng bấn lên và yêu cầu Panama nhờ Hoa Kỳ lo giúp rescue Tr/Tá Quốc. Cả phòng hành quân đầy nghẹt những gương mặt lo âu. Hai chiếc H 34 trực cấp cứu ở Đông Hà được lệnh cất cánh. Một lát sau Butterfly báo cáo là mưa gió kéo đến, trần mây rất thấp, không thể bay xa được nữa và xin quay lại Đông Hà. Th/úy Mỹ quay sang Tr/úy Peoples nói: "Có 1 chiếc A1H của VNAF bị hạ ở tọa độ... gần Tiger island, các anh có chiếc rescue nào gần đó không?" Peoples nói: "chờ một chút, tụi tôi cũng có 1 F 100D bị bắn rơi đang làm rescue!"
Khoảng 3 PM, Tr/úy Hoạt ASOC 1 gọi Panama cho biết: "lệnh của Ch/Tướng Tư Lệnh KQ là bằng mọi cách phải rescue Tr/Tá Quốc cho bằng được!" Thấy tình hình nghiêm trọng, tôi vội chạy lên 3rd floor gặp Colonel Champlin (TACC/North Sector) nhờ liên lạc Hạm Đội 7 (US Navy 7th Fleet) xin yểm trợ cấp cứu. Một lát sau, Ch/Tướng Kỳ đích thân điện thoại nói chuyện với Đ/úy Tiếp để tìm hiểu việc rescue Tr/Tá Quốc. Th/úy Mỹ giao scope cho Th/úy Tiến làm flight following rồi chạy sang scope của Tr/úy Peoples theo dõi việc rescue và báo cáo diễn tiến về ASOC 1 và BTLKQ. Peoples nói: "chúng tôi còn một CH 54, tôi đang dẫn vào vùng phi cơ crashed dưới sự air cover của 2 chiếc F 4C, anh xác định lại tọa độ đi". Mỹ kêu Th/úy Tiến đo lại tọa độ rồi đưa cho Lt Peoples. Một lát sau, Lt Peoples cho biết 2 chiếc F 4C đã nhận ra tọa độ chiếc A1 của Tr/Tá Quốc nhưng thấy dưới đất có rất đông người (có lẽ là dân làng) đang chạy tới chỗ phi cơ lâm nạn.." Tiếp theo, chiếc CH 54 cũng báo cáo là trời mưa to gió lớn, lại thêm có mấy chiếc canoe (có thể là PT boat của VC) từ trong bờ chạy ra và có súng ở dưới bắn lên nên không thể bay vào rescue được ! Các phi cơ rescue quần thảo trên vùng phi cơ rớt một lát nữa rồi bay về...Tôi, Th/úy Mỹ, Th/úy Tiến và Lt Peoples nhìn nhau lắc đầu thất vọng ! Col Champlin vỗ vai tôi nói : sorry vì cuộc rescue đã thất bại ! Lt Peoples cho biết trước đó hơn một tiếng USAF cũng có 2 chiếc F 100 bị bắn rơi nên việc giúp rescue Tr/Tá Quốc bị chậm... Tôi bảo Th/úy Tiến báo cáo ASOC 1 là cuộc rescue Tr/Tá Quốc đã không thực hiện được. Lúc đó là đúng 5 giờ chiều ngày 19 tháng 4 năm 1965. Đại-úyTiếp, tôi và Thiếu-úy Mỹ ngậm ngùi lên xe jeep lái xuống núi, lòng buồn rười rượi trước sự anh dũng đền nợ nước của một chiến hữu, một vị chỉ huy cao cấp của KQ lâm nạn mà không cấp cứu lấy được xác về...
Tổng kết những phi vụ Bắc Phạt của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta đã tổn thất :
7 phi cơ A1H và A1G bị bắn hạ và 7 anh hùng phi công đã anh dũng đền nợ nước:
Trung Tá Phạm Phú Quốc. Trung Úy Vũ Khắc Huề Trung Úy Nguyễn Tấn Sĩ Trung Úy Nguyễn Hữu Chẩn Thiếu Úy Nguyễn Đình Quý Thiếu Úy Nguyễn Thế Tế Thiếu Úy Nguyễn Quốc Đạt (bị bắt làm tù binh sau khi nhảy dù) Tổ Quốc ghi ơn các anh .
KQ Trần Đình Giao De Couteau
|
|
|
Post by vietnam on Jul 13, 2009 0:56:27 GMT -5
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:28:09 GMT -5
Lược trình về cuộc hành quân tại Cam Bốt năm 1970 của Liên quân VNCH-Hoa Kỳ Vào cuối tháng 4/1970, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3/QL.VNCH và Bộ Chỉ huy lực lượng Hoa Kỳ tại Vùng 3 chiến thuật đã phối hợp tổ chức hai cuộc hành quân ngoại biên nhằm triệt hạ các căn cứ địa của CSBV trên phần đất Cam Bốt. Cuộc hành quân thứ 1 khai diễn vào ngày 29 tháng 4/1970 mang tên Toàn Thắng 42 với thành phần tham chiến ban đầu gồm có: Sư đoàn 18 Bộ binh, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, Liên đoàn 3 Biệt động quân, lực lượng Pháo binh, Công binh thống thuộc Quân đoàn 3... Hai ngày sau, vào 6 giờ sáng 1/5/1970, cuộc hành quân thứ hai mang tên Toàn Thắng 43 khởi động với lực lượng chính là lữ đoàn 3 Nhảy Dù VNCH và các binh đoàn Hoa Kỳ sau đây: Lữ đoàn 3/Sư đoàn 1 Không kỵ, Lữ đoàn 2 Thiết kỵ, thiết đoàn 2/34; tiểu đoàn 2/47 Bộ binh cơ giới (hành quân Toàn thắng 43). Sau hai tháng liên tục truy kích CQ, đến cuối tháng 6/1970, lực lượng đặc nhiệm Hoa Kỳ trở về Vùng 3 chiến thuật, riêng lực lượng VNCH, các đơn vị đã luân phiên tham dự chiến dịch quy mô và dài hạn này. *Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ Westmoreland và kế hoạch hành quân tại Cam Bốt Lúc cuộc hành quân diễn ra, vị tham mưu trưởng của Lục quân Hoa Kỳ là Đại tướng Westmoreland (vừa từ trần ngày 18/7/2005, thọ 91 tuổi), nguyên Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại VN từ 1964-1968. Là một thành viên trong Bộ tham mưu Liên quân Hoa Kỳ (Hải, Lục, Không quân), Đại tướng Westmoreland đã tham dự nhiều cuộc họp mật về kế hoạch tấn công CSBV trên đất Cam Bốt, một số sự kiện đặc biệt về kế hoạch này được Đại tướng Westmoreland ghi lại trong cuốn hồi ký của ông. Sau đây là những ghi nhận của Đại tướng Westmoreland về quyết định của Tổng thống Nixon về cuộc hành quân nói trên. Phần này được tổng hợp dựa theo bản dịch của dịch giả Duy Nguyên đối chiếu với tài liệu của Trung tâm Quân sử Lục quân Hoa Kỳ. * Tổng thống Nixon và kế hoạch hành quân truy kích CSBV trên đất Căm Bốt: Sau khi hoàng thân Sihanook bị lật đổ vào tháng 3/1970, chính phủ Lon Nol lên nắm quyền tại Căm Bốt thì chính ông Henry Kissinger (cố vấn của Tổng thống Nixon) đã khởi xướng cuộc hành quân vào Căm Bốt để tấn công các căn cứ quân CSBV đặt trên lãnh thổ nước này. Vài ngày sau, tức ngày 1 tháng 5, Tổng thống Nixon thảo luận với bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird và các thành viên trong bộ Tham mưu Liên quân tại trung tâm Hành quân Ngũ Giác Đài. Tổng thống Nixon cả quyết nói đi nói lại nhiều lần: "Quét sạch sành sanh các căn cứ địa. Các anh phải cho công chúng biết quyết định này, những quyết định táo bạo làm nên lịch sử", rồi ông kể: như quyết định của Tổng thống Roosevelt đánh chiếm khu đồi San Juan, tuy nhỏ nhưng thật ý nghĩa khiến công chúng không ai ngờ nổi." Tổng thống át hết mọi người nhưng dường như có vẻ vội vàng và kết luận quá chóng vánh. Khi Tổng thống chuẩn bị bước đi, tôi (Đại tướng Westmoreland) chận ngang. Sự hứng chí không kiềm hãm và kỳ vọng quá lớn của Tổng thống về những kết quả mỹ mãn cũng cần phải điều chỉnh sao cho phù hợp với thực tế có thực hiện nổi hay không chứ. Tôi muốn báo cho Tổng thống biết là chỉ còn một tháng nữa là đến mùa mưa. Lúc ấy sự đi lại của các phương tiện cơ giới như xe vận tải, chiến xa, phi cơ đều gặp nhiều trở ngại vô cùng khiến chúng tôi không thể nào quét sạch tất cả các căn cứ đó được. Vì không nghe nói đến thời gian quy định cho sự tham gia của quân đội Hoa Kỳ trong cuộc hành quân nên sau khi nghe lời tuyên bố này của Tổng thống, hàng loạt các cuộc biểu tình của sinh viên, báo chí cũng làm rùm beng, kể cả các thành viên trong Quốc hội cũng lên tiếng la ó. Bất chấp các giới hạn đã buộc từ trước, cuộc hành quân sang đất Cam Bốt cũng đã đạt được một số thành quả. Một phần các căn cứ địch bị phá hủy, nhưng điều chính yếu là các đơn vị tham gia cuộc hành quân đã không tìm ra bộ phận đầu nảo của Trung ương Cục Miền Nam của CSVN, đó là mục tiêu hàng đầu của chiến dịch tảo thanh mà chẳng may Tổng thống Nixon lại tiết lộ trước cho báo chí biết. Địch quân thì bỏ chạy trước nhưng vẫn để lại hơn 10 ngàn xác, vô số quân trang quân dụng bị phá hủy và số lương thực cho khoảng 25 ngàn quân ăn trong một năm đã bị tịch thu. Bây giờ muốn CS không thể trở lại lập căn cứ được là quân đội VNCH phải ở lại đóng quân lâu dài tại đó, và việc này phải mất một thời gian mới hoàn thành được. Nhờ vậy các cuộc tấn công của địch quanh vùng Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng Cửu Long sút giảm trông thấy. Thêm vào đó ông Lon Nol ra lệnh đóng cửa hải cảng Sihanoukville làm cho tàu bè địch không còn đường tiếp tế nữa. Còn một cách ngăn chận không cho địch xâm nhập vào lãnh thổ Căm Bốt nữa là ném bom. Đầu năm 1969, Tổng thống được quyền sử dụng B 52 nên ông cho tấn công trong vùng dân cư thưa thớt và được hoàng thân Sihanook chấp thuận với điều kiện là các cuộc ném bom này phải được giữ kín. Nay người thay thế Sihanook là Lon Nol, một nhân vật chống Cộng tích cực, việc tấn công này càng được ũng hộ mạnh mẽ hơn. Chủ trương giữ bí mật các cuộc ném bom trong lãnh thổ Căm Bốt của Tổng thống được chuẩn bị trong hai hồ sơ: một hồ sơ ghi những mục tiêu này là những mục tiêu nằm trong lãnh thổ Việt Nam, một hồ sơ khác ghi tên mục tiêu khác bị tấn công. Năm 1973 công luận phẫn nộ vì có tin do các quân nhân Không quân tiết lộ các mục tiêu này. Không nghi ngờ gì nữa, có cả sự mặc cả giữa các giới chức cao cấp rồi. Tuy nhiên vì các mục tiêu này thuần túy quân sự, và được chính phủ Căm Bốt chấp thuận, nên dù lần thứ hai bị công luận chống đối, vẫn được tiếp tục như thường. Sỡ dĩ có sự phản đối như vậy theo tôi có lẽ do tòa Bạch Ốc hay bộ trưởng Quốc phòng thông báo cho Quốc hội biết. Hải cảng Sihanouk cấm không cho tiếp liệu của địch chở vào cùng với các đợt ném bom vào các căn cứ và việc hải quân Việt-Mỹ tăng cường tuần tiễu mặt biển khiến cho Bắc Việt phải trông cậy vào con đường tiếp tế là đường mòn Hồ Chí Minh. Tấn công đường mòn này bằng bộ binh là bước kế tiếp, do vậy đến tháng Hai năm sau (1971) quân CSBV đã chuẩn bị đối phó. (Ngày 8/2/1971, Quân lực Việt Nam Cộng Hòa khởi động cuộc hành quân Hạ Lào). * Đại tướng Westmoreland nhận định về cuộc hành quân Lam Sơn 719 (Hạ Lào): Do có lệnh không cho sử dụng kinh phí cho quân đội Hoa Kỳ vào các cuộc hành quân vượt khỏi lãnh thổ VNCH do Thượng viện áp đặt vào tháng 12 năm 1970 nên lực lượng Hoa Kỳ không thể tham dự cuộc hành quân này, nhưng sẵn sàng yểm trợ Không quân, tiếp tế cùng yểm trợ về Pháo binh tầm xa đặt tại Khe Sanh. Dù cho các tin đồn trong giới quân nhân và báo chí Mỹ đã làm cho CSBV biết mà chuẩn bị trước, nhưng quân đội VNCH đã thu đạt được chiến thắng thần tốc. Họ tiến sâu vào lãnh thổ Lào chừng 25 cây số và tiến đánh hầu hết các mục tiêu định trước, nhưng về sau CSBV cố sức phản công. Vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh nên một vài nơi không thể tiếp tế được nên các đợt vị này phải rút lui. Việc rút lui trước một hỏa lực mạnh của địch lúc nào cũng là công tác khó khăn nhất của một đơn vị khi lâm trận. Lúc này mới thấy sự chuẩn bị của phía Việt Nam có nhiều khuyết điểm. Phối hợp chỉ huy ở cấp cao nhất không đồng bộ và kế hoạch tấn công diễn ra quá nhanh khiến cho các đơn vị không yểm trợ nhau hữu hiệu gây khó khăn cho phía Hoa Kỳ yểm trợ có kết quả. Sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ và vị chỉ huy tổng quát phía Việt Nam lại ở hai căn cứ khác nhau. Phải ghi nhận rằng binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa tại chiến trường Lào rất can đảm. Phi công Hoa Kỳ bay yểm trợ và tiếp tế cũng rất can trường. Tôi thật sự vô cùng xúc động khi nghe tin hai chiến binh Hoa Kỳ có hành động rất đáng khâm phục. Người sống sót duy nhất sau vụ phi cơ rớt trong một chuyến tải thương cho căn cứ hỏa lực VNCH là hạ sĩ nhất Dennis Fuji giúp các binh sĩ trú phòng Việt Nam chiến đấu chống trả quân địch bằng cách hướng dẫn trực thăng võ trang bắn phá và phi cơ oanh tạc trút bom xuống quanh căn cứ suốt ba ngày liền, cuối cùng cứu được căn cứ này khỏi bị địch tràn ngập. Fuji là một trong những nhân viên phi hành của phi đội tiếp tế tải thương cho đồn biên phòng khác nhưng hỏa lực phòng không địch quá dày dặc. Thoạt đầu phi công không chịu thấu nhưng cuối cùng anh đã xuống được. Khi phi cơ cất cánh lên lại thì bị trúng đạn và bốc cháy nhưng viên phi công đã khéo léo lết đến một căn cứ khác và đáp xuống. Về sau phi hành đoàn được cứu về nhưng Fuji đã tình nguyện ở lại. Trong hai ngày đêm anh liên tiếp phụ giúp việc gọi hỏa lực yểm trợ để giải tỏa áp lực địch bao vây quanh căn cứ này. Sau hai lần bị thương anh mới chịu trở về để chữa trị. Binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa còn biết thêm một tên gọi trên vô tuyến nữa là Music 16 tức Đại úy Keith A. Brandt, người đã có công cứu 88 binh sĩ VNCH cầm cự trong một hố bom để đối đầu với lực lượng địch chỉ cách họ trong tầm ném lựu đạn. Sau khi đã đổ đạn dược xuống được nơi chiến đấu, Đại úy Brandt còn hướng dẫn một phi đội đến để giải cứu. Khi gần đến vị trí thì hỏa lực địch bắn quá rát khiến anh phải cất cánh lên cao: Đạn bắn hỏng hệ thống thủy lực và máy bị phát hỏa, anh gọi máy về báo như vậy, nhưng vẫn cố gắng bay vòng lại lần nữa để hướng dẫn phi đội đến vị trí khi trực thăng anh đã thấy một vệt khói dày dặc phun ra. Chỉ điểm vị trí xong, anh bay vòng ra và nói: Tôi sẽ bay ra sông. Lần cuối cùng nghe anh nói là: Máy tôi hỏng rồi, hộp số bị hư. Vĩnh biệt, cho tôi gửi lời nhắn với gia đình. Tôi chết đây. Gần đến sông thì phi cơ phát nổ và rớt xuống lùm cây bên bờ. Đại úy Brandt được truy thăng, tấm gương hy sinh của đại úy thật cao cả.Trong lúc đó, bất chấp làn mưa đạn của địch, phi cơ giải cứu vẫn tiến hành công tác. Họ trở về với những trực thăng khệnh khạng vì quá tải. Vì trực thăng không đủ chỗ ngồi, binh sĩ VNCH có người phải bu càng. Đối với những ai thấy rõ từ đầu đến cuối mới cảm phục lòng can đảm của các chiến sĩ VNCH và sự gan dạ của các phi công trực thăng.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:29:15 GMT -5
Bộ Quốc phòng Mỹ phân tích thực trạng VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, phân tích về thực trạng VNCH vào những tuần lễ cuối cùng của cuộc chiến. Bộ Quốc phòng Mỹ ghi nhận rằng Chính Phủ VNCH phải đương đầu với nhiều vấn đề hiện lên nhanh chóng, có thể phân ra làm ba loại chính. -Trước hết, các vấn đề cụ thể và vật chất. Vấn đề quan trọng nhất là Cộng quân Bắc Việt,bao gồm số lượng, gia tăng lực lượng và các hoạt động. Tiếp đến, là sử tổn thất đại qui mô của ba tuần lễ qua về nhân sự và quân cụ, ngoại trừ và đến khi được bổ sung, đặt một QLVNCH bị suy yếu vào một tình thế thảm khốc đối với mối đe dọa càng gia tăng của Cộng quân Bắc Việt. Trong lãnh vực dân sự, là một trào dâng làn sóng di cư, khiến hơn 10 phần trăm toàn dân cần thiết thực phẩm, quần áo, cư trú, thuốc men tạo nên một gánh nặng cho guồng máy chính phủ. Đáp ứng được những nhu cầu cấp bách này của dân di cư là cả một vấn đề lớn, nhưng định cư và nhập họ vào những vùng dưới quyền kiểm soát của chính phủ quả là một trách vụ quá lớn. Còn có những vấn đề cụ thể khác không kém phần quan trọng (tỉ như, duy trì đường xá và đường giây thông tin thông suốt, vận chuyển thực phẩm, duy trì trật tự và luật lệ tối thiểu tại những vùng tràn ngập dân di cư, kiểm soát và ngăn ngừa các hoạt động phá rối của đặc công Việt Cộng tại những vùng chưa hẳn bị địch tấn công), nhưng những vấn đề này lu mờ trước ba vấn đề cụ thể kể trên. Cộng thêm vào đó, phải kể tới một lô các vấn đề mới chớm nở mà các chuyên viên có thể gọi là thuộc phạm vi "hành chánh". Trước hết là cần cung ứng lãnh đạo, và chỉ đạo cần thiết để đối phó với các vấn đề cụ thể nêu trên. Tiếp đến là cần lãnh đạo và quản trị, về mặt quân sự và mặt dân sự, cần thiết để lôi cuốn một quốc gia sau một loạt thất bại, chận đứng tinh thần chủ bại và thất vọng, phát huy một tinh thần hiệp nhất và một chí hướng chung cho toàn quốc, và thực hiện một trận đánh sống còn. Trong bối cảnh Việt Nam, tình hình đòi hỏi một sự lãnh đạo và một hành chánh hữu hiệu kiểu như của nội các chiến tranh của Anh do Thủ Tướng Churchill cầm đầu sau trận Dunkirk và sự tan vỡ của Pháp. Tới giờ phút này, hình thức kiểu lãnh đạo và hành chánh này không có được, và tại Việt Nam, không có eo biển Anh để ngăn chận làn sóng thủy triều của cuộc xâm chiếm và có được một giây phút nghỉ ngơi và tái tổ chức. *Tình hình Quân lực VNCH Về tình hình của các lực lượng VNCH, Bộ Quốc phòng Mỹ nhận định như sau. Trong quân đội, các vấn đề tâm lý càng tập trung và nặng nề hơn. Các đơn vị quân đội tại vùng ven biển Quân Đoàn 2 biết là họ sẽ bị tràn ngập nay mai. Mặc dù có được một vài thành công chiến thuật tại địa phương, các đơn vị thuộc Quân Đoàn 3 có thể lâm vào tâm trạng thất bại và vô vọng. Tại vùng đồng bằng miền Tây, các chỉ huy trưởng QLVNCH khẳng định là tinh thần chiến binh còn tốt và khi vị tấn công họ sẽ chiến đấu, nhưng khi nói chuyện riêng với những người Mỹ mà họ quen biết, và tin tưởng kín miệng, chính những vị chỉ huy trưởng này báo động c là tinh thần chiến binh họ không đứng vững nếu như có tin thất bại lớn tại Quân Đoàn 3. Một trong những vấn đề trọng yếu về mặt tâm lý và thái độ tại mọi tầng lớp trong giới quân đội cũng như dân sự, là sự tin tưởng VNCH đã bị bỏ rơi, và ngay cả bị phản bội, bởi Hoa Kỳ. Cộng Sản dùng mọi phương cách tuyên truyền và chiến tranh tâm lý để nung nấu quan điểm này. Càng tiến cao lên trong bực thang cấp bậc và phẩm trật thì các cảm tưởng này càng rõ rệt. Cảm nghĩ này hầu hết đều bắt nguồn từ Hiệp Định Ba Lê và sự rút lui tiếp sau của Hoa Kỳ. Ai nấy đều tin tưởng Chính Phủ VNCH bị ép buộc ký kết hiệp định này, sau khi Hoa Kỳ và Bắc Việt ngầm thỏa thuận cho phép Hoa Kỳ triệt thoái quân đội và tiếp nhận các tù binh để đánh đổi lấy hành động bỏ rơi Nam Việt Nam. Cảm tưởng bỏ rơi này càng khắc sâu hơn nữa bởi cảm nghiệm thấy Hoa Kỳ không công khai nhìn nhận VNCH đang trong tình trạng nguy ngập và không sẵn sàng cung ứng yểm trợ cần thiết. *Bộ Quốc phòng Mỹ nhận định về Chính phủ VNCH Báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ nhận định: Tất cả các vấn đề kể trên tác động lẫn nhau. Một trong những hậu quả của sự tương tác này là sự thiếu tin tưởng, càng ngày cang lan rộng, vào giới lãnh đạo tối cao của Chính Phủ VNCH trong quần chúng có ý thức chính trị cao và trong giới quân đội. Các cố vấn thân cận của Tổng Thống Thiệu không còn được ai nể trọng nữa. Sự bực tức này càng ngày càng chĩa vào cá nhân Tổng Thống Thiệu. Ý thức chung là nếu có bất cứ một cuộc đảo chánh nào xảy ra, dù có thành công đi nữa, cũng kéo theo thảm họa; nhưng ta có thể quyết đoán là nếu khủng hoảng tin tưởng này không được hóa giải, Tổng Thống Thiệu sẽ phải từ chức. -Các ý định và kế hoạch hiện tại của Chính Phủ VNCH Chính Phủ VNCH có một "kế hoạch chiến lược" nhưng nó được duyệt xét lại hình như hằng ngày tùy theo các biến cố. Ngày 25/3/1975, kế hoạch này hình dung một địa bàn tại Đà Nẵng và một tuyến phòng thủ về phía nam đặt tại ven biển ở Bình Định hay, nếu thất bại, ngay phía dưới Tuy Hòa trong tỉnh Phú Yên. Tuyến phòng này băng qua các tỉnh Tuyên Đức và Lâm Đồng, rồi tới Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh và kéo qua Tây Ninh. Từ khi kế hoạch được thiết lập, Đà Nẵng đã mất, vị trí của Chính Phủ VNCH tại vùng ven biển thuộc Quân Đoàn 2 đã tan rã ở phía bắc Cam Ranh. Chính Phủ VNCH có ý định tái tổ chức và tái võ trang các đơn vị QLVNCH bị tan hàng trong các trận đánh tháng vừa qua càng nhanh chóng càng tốt. Chính phủ VNCH cũng có ý định dùng các biện pháp khác để tăng cường lực lượng QLVNCH bằng tăng cấp các lực lượng địa phương quân và các liên đoàn Biệt Động Quân. Sự thành công trong nỗ lực này tùy thuộc vào khả năng Chính Phủ VNCH có thể chỉnh đốn sự yếu kém trầm trọng trong giới lãnh đạo và chỉ huy và trong khả năng của giới này trong việc biến cải kế hoạch này thành hành động có tổ chức. Tổng Thống Thiệu và Đại tướng Viên ý thức được điểm này và hứa sẽ hành động sửa đổi. Vấn đề di cư cũng có những khiếm khuyết về mặt điều hành ,nghiên cứu và hành chánh. Mối quan tâm và ý chí muốn nâng đỡ có đấy và có thể lợi dụng tới cảm tình từ các nguồn mạch quốc tế muốn tiếp ứng ngân khoản, nhân sự y tế, tiếp liệu, vân vân... Bác Sĩ Phan Quang Đán,Phó Thủ Tướng đặc trách di cư, đang làm hết sức mình, nhưng hiện chưa có một guồng máy trong Chính Phủ VNCH khả dĩ giải quyết các chi tiết phức tạp của một vấn đề thật là quá lớn. Kết quả là gánh nặng được đặt lên vai một vài giới chức, kể cả tại cấp địa phương; một số giới chức này đã đương đầu trách vụ với nhiều sáng kiến để giải quyết những khủng hoảng cấp thời, nhưng những nỗ lực này mang tính cách cá nhân, lẻ tẻ và không nằm trong một hệ thống toàn diện. Tuyên truyền và chiến tranh tâm lý và ngay cả sự đả thông tối thiểu với chính dân chúng cũng khiếm khuyết về mặt khái niệm và theo dõi hành động. Bộ Quốc phòng Mỹ kết luận: Nói tóm lại, Chính Phủ VNCH có hy vọng và mong muốn đáp ứng, nhưng những ý định này ít được tập trung và tổ chức đúng mức. Chính phủ, đặc biệt là giới hành chánh, đang trong tâm trạng chấn động và bấn loạn, và giới cao cấp nhất hình như không ý thức được hoàn toàn hay thấu hiếu mức độ rất lớn của tất cả các vấn đề này của Chính Phủ VNCH.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:30:29 GMT -5
Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Mỹ, lượng định tình hình VN tháng 3/1975 Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV). Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần nhận định của ông về thực trạng chiến trường VN vào tháng 3/năm 1973. Hiệp Định Ba Lê ký ngày 27/1/1973 không đánh dấu cho sự bắt đầu của hòa bình tại Việt Nam, nhưng đánh dấu cho sự bắt đầu của sự phát huy về phía Cộng Sản trong việc tiếp tế và tiếp vận để Bắc Việt tiếp tục gây hấn quân sự tại Việt Nam. Trong 26 tháng kế tiếp từ ngày Hiệp Định được ký kết, Bắc Việt (BV) kiến tạo lại đường mòn HCM thành một huyết mạch tiếp vận chính dưới bất cứ thời tiết nào. BV xây đắp một đường tiếp liệu dài 350 dặm vào Nam Việt Nam để chuyển vận quân cụ. Khi hệ thống tiếp vận này hoạt động tối đa, BV tăng gấp bốn lần số lượng pháo binh trận địa, tăng lên rất nhiều súng phòng không và phái xuống gấp sáu lần số chiến xa vào Nam Việt Nam so với số lượng tháng 1/1973. Đồng thời, BV tăng số quân lên gần 200 ngàn người. Tất cả những hành động này vi phạm trắng trợn Hiệp Định Ba Lê. Ngược lại, Hoa Kỳ không chu toàn bổn phận duy trì mức độ trang bị quân cụ cho Nam Việt Nam như Hiệp Định cho phép. Đạn dược giảm thiểu 30 phần trăm từ 179 ngàn tấn khi ngưng bắn xuống tới 126 ngàn tấn khi cuộc tấn công của quân BV khởi sự. Xăng nhớt và các bộ phận máy móc bị cắt giảm 50 phần trăm đối với Không Quân Việt Nam. Sự phác họa kiểm điểm vừa nêu trên khiến xảy ra tình trạng hiện thời tại Nam Việt Nam. Tình trạng này vừa khó lường vừa mong manh. Nó thay đổi rất rõ rệt trong tháng 3 và còn có thể thay đổi nhanh chóng hơn trong các tuần, hay ngay cả các ngày tới. Ngày 10/3, Cộng quân phát động "Gia Đoạn II" của chiến dịch 1975. Hai sư đoàn quân BV tấn công Ban Mê Thuột, một ngã rẽ chiến thuật tại Tây Cao Nguyên, chỉ được QLVNCH bảo vệ sơ sài. Cũng cùng một lúc, các đơn vị Cộng quân BV phía tây Sàigòn phát động một nỗ lực quyết liệt nhằm loại trừ sự hiện diện của chính phủ VNVH, cho Cộng quân một hành lang ngắn đoạn và an toàn hơn để xâm nhập vào phía nam của Đồng Bằng Sông Cửu Long và, đồng thời, khóa chặt hai con đường giữa Sàigòn và Tây Ninh. Vào giữa tháng 2, Tổng Thống Thiệu gửi Nghị Sĩ Trần Văn Lắm sang Hoa Kỳ trong một sứ vụ riêng tư để thẩm định thái độ của Quốc Hội liên quan đến Việt Nam và viễn tượng của một hành động ủng hộ về sự viện trợ của giới lập pháp. Nghị sĩ Lắm đệ trình một thẩm định rất yếm thế, mà Tổng thống Thiệu cảm thấy đồng quan điểm với các phiếu bỏ vào tháng 3 của phía đảng Dân Chủ tại Hạ Nghị Viện. Tổng thống Thiệu đang suy nghĩ mông lung về sự lượng định đen tối của Nghị sĩ Lắm khi Cộng quân phát động các cuộc tấn công thuộc "Giai Đoạn II" kể trên. TT Thiệu thấy VNCH đương đầu với một cuộc tấn công qui mô của Cộng Sản trùng hợp với sự cắt giảm, mà cũng có thể sự chấm dứt của viện trợ Mỹ. Ông và các cố vấn của ông do đó đã quyết định rằng một triệt thoái chiến lược tối cần cho sự tồn tại của Chính Phủ VNCH. Khái niệm chiến lược mới này đòi hỏi xóa bỏ các vùng núi ít dân cư của Quân khu 1 và 2 để tập trung các tài nguyên và nhân lực để bảo vệ Quân khu 3 và 4, cộng thêm các vùng ven biển thuộc Quân khu 1 và 2 ; các vùng này là vùng sản xuất nông nghiệp của Nam Việt Nam và là nơi tập trung dân cư đông đảo. Chiến lược này có vẻ hợp lý và ước đoán tính chất cần thiết của Tổng thốngThiệu là đúng. Tuy nhiên khi đem nó ra thi hành thì thật là thảm bại. Trong buổi họp ngày 13/3 với Tướùng Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Tổng Thống Thiệu phác họa khái niệm chiến lược mới của ông và sự quyết định rút Sư Đoàn Dù từ Quân Đoàn 1 về Quân Đoàn 3, mặc dù Tướng Trưởng hết sức phản đối cho là sự rút sư đoàn dù đi sẽ khiến quân Chính Phủ VNCH không thể nào giữ vững nổi phòng tuyến. Trong mười hai ngày kế tiếp (13-25/3) có nhiều do dự, cả tại Quân khu 1 lẫn tại Sàigòn, liên quan tới vấn đề phần đất nào phải giữ, và đặc biệt có cần thiết cố bảo vệ Huế hay không. Vì lẽ lệnh nhận được từ Sàigòn thay đổi liên miên, Tướng Trưởng đã phải thay đổi thế dàn quân ít nhất là ba lần, mặc dù Cộng quân gia tăng cường độ tấn công không ngừng. Thành phố Quảng Trị được di tản trong trật tự ngày 19/3, nhưng trước khi tuyến phòng mới của Chính Phủ VNCH được thiết lập dọc theo sông Mỹ Chánh, các lực lượng địa phương quân đã tan hàng trước áp lực của Cộng quân BV; Sàigòn rút Lữ đoàn dù cuối cùng tại Quân khu 1 , thế là một sự tan rã xảy ra. Áp lực của Cộng quân BV tăng lên rất nhanh từng ngày. Huế được di tản ngày 25/3, nhưng lúc đó các đơn vị Cộng quân BV đã cắt đứt Quốc Lộ 1 phía nam thành phố và việc triệt thoái 20 ngàn chiến binh khỏi Huế, bao gồm hầu hết là Sư Đoàn 1 QLVNCH, trở nên lệ thuộc vào rút lui vội vã, không chuẩn bị trước và đầy nguy hiểm bằng đường biển. Cũng trong thời gian này, các đơn vị giàn mỏng của Chính Phủ VNCH tại Quảng Nam, Quảng Tín, và Quảng Ngãi bị phân tán bởi các lực lượng của Cộng quân BV. Sự hiện diện của Chính Phủ VNCH tại Quân khu 1 thu gọn lại tại địa bàn Đà Nẵng. Lực lượng còn sót lại tại vùng này,bao gồm Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư Đoàn 3 QLVNCH, cố gắng lập tuyến phòng tại Đà Nẵng, nhưng nỗ lực này không thành công. Mười ngàn quân trú phòng của VNCH phải đương đầu với hơn 30 ngàn quân Bắc Việt. Tình trạng càng phức tạp thêm với làn sóng của hơn một triệu dân di tản. Với tổng số 2 triệu người tìm cách thoát ly ra khỏi thành phố, bấn loạn lan tràn và ngày 28/3 trật tự tan biến. Các chiến xa quân BV tiến vào thành phố ngay sau đó. Không quá 50 ngàn dân di tản được đem ra khỏi bằng máy bay hay tàu thủy, và Chính Phủ VNCH thành công trong việc cứu vớt 22 ngàn chiến binh, trong số đó có khoảng 9 ngàn Thủy quân Lục chiến (TQLC) và 4-5 ngàn lính thuộc Sư Đoàn 2 và 3 QLVNCH, nhưng số mạng của phần còn lại của đám quân dân cán chính tại Đà Nẵng thì không biết ra sao. Tại Quân khu 2 Tổng Thống Thiệu và Tư Lệnh Quân khu 1 là Tướng Phú, họp tại Cam Ranh ngày 14/3 để bàn thảo tình hình sau khi mất Ban Mê Thuột. Trong buổi họp này, Tổng Thống Thiệu phác họa khái niệm chiến lược mới của ông, triệt thoái khỏi cao nguyên và củng cố lực lượng quân chính phủ để bảo vệ các vùng ven biển huyết mạch. Không rõ lời lẽ chính xác của Tổng Thống Thiệu như thế nào, nhưng Tướng Phú hiểu là ông được phép tùy nghi di tản hoàn toàn và ngay lập tức Pleiku và Kontum, mặc dù không hề có một kế hoạch hay một sự chuẩn bị nào cả. Việc di tản khởi sự hai ngày kế đó, với sự di tản các lực lượng QLVNCH về vùng ven biển tại Tuy Hòa, theo hai Quốc Lộ 14 và Hương Lộ 7B ngang qua Phú Bổn và Phú Yên. Cộng thêm vào những nỗi khó khăn gây nên bởi một cuộc di tản không được chuẩn bị, 7B là một con đường phụ, không được xử dụng từ nhiều năm nay, với nhiều cầu bất khả dụng và các khúc sông cạn không được khai triển. Chỉ huy và kiểm soát sụp đổ. Sáu liên đoàn Biệt Động Quân và một trung đoàn Bộ Binh từ Kontum và Pleiku phái đến, bị phân tán lẫn lộn trong đám đông dân sự trên 200 ngàn hỗn độn chạy theo đàn quân rút lui. Có ít ra hai hoặc có thể ba trung đoàn quân BV tiến lên hướng bắc từ Darlac tới Phú Bổn và Phú Yên để đánh phá đoàn quân di tản, kết quả là các đơn vị tàn quân sống sót tới Tuy Hòa ngày 26/3 không còn sức chiến đấu nữa. Cảnh dân chúng bị chết trên đường rút lui thật là thảm khốc. Đang khi những biến cố trên tiếp diễn, Chính Phủ VNCH đưa một lữ đoàn dù từ vùng Huế vào tỉnh Khánh Hòa để ngăn chận từ hai tới bốn trung đoàn Cộng quân BV đang đuổi theo thành phần còn lại của Sư Đoàn 23 QLVNCH chạy từ Ban Mê Thuột theo hướng đông băng qua tỉnh Darlac. * Đại tướng Weyand nhận định về cuộc chiến đấu của Quân lực VNCH Tình trạng quân sự trong tuần đầu của tháng 4 cần được thẩm định chiếu theo điều gì xảy ra trong tháng 3. Giữa tình trạng hỗn độn của Quân đoàn 1 và 2 , một số đơn vị QLVNCH đã chiến đấu cừ khôi. Nếu không có sự chiến đấu hữu hiệu của TQLC và một số đơn vị thuộc Sư Đoàn 3 QLVNCH, không ai có thể thoát ra khỏi Đà Nẵng. Tại Ban Mê Thuột (và một số khu vực của tỉnh Darlac ), các đơn vị thuộc Sư Đoàn 23 QLVNCH cầm cự hơn một tuần lễ đối đầu với hai sư đoàn Cộng quân. Các trung đoàn 40 và 41 thuộc Sư Đoàn 22 QLVNCH đã chiến đấu dũng mãnh để cầm chân các lực lượng đông đảo hơn của Cộng quân tại phòng tuyến ven biển tại Qui Nhơn trong tỉnh Bình Định. Tuy nhiên, ảnh hưởng gây nên bởi các biến cố trong tháng 3 đã đưa đến những hậu quả xấu cả trên lãnh vực thực tế, và tệ hại hơn, lẫn tâm lý.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:31:25 GMT -5
Bộ Quốc phòng Mỹ lượng định về lực lượng Cộng quân và lực lượng VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weynad, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, phân tích về tình hình miền Nam trong hạ tuần tháng 3/1975 và những ngày đầu tháng 4/1975. Vào khoảng ngày 1/4, tổng số các lực lượng tác chiến Cộng Sản tại Nam Việt Nam, mà đa số thuộc thành phần các đơn vị Cộng sản Bắc Việt, lên tới trên 200 ngàn người, chia ra thành 123 trung đoàn gồm 71 trung đoàn bộ binh, 7 trung đoàn công binh tác chiến, 4 trung đoàn thiết giáp, 16 trung đoàn pháo binh và 25 trung đoàn phòng không. Trong khi đó, lực lượng QLVNCH chỉ tổng cộng khoảng 54 ngàn chiến binh, chia ra thành 39 trung đoàn/lữ đoàn hay tương đương, 18 trung đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn thiết giáp, 5 liên đoàn biệt động quân, 3 lữ đoàn dù và 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến. Nếu được tái trang bị, quân số tác chiến của QLVNCH có thể tăng thêm với các chiến binh thuộc các đơn vị còn lại sau các cuộc đụng độ trong tháng 3 tại Quân khu 1 và Quân khu 2 , nhưng điều này đòi hỏi thời gian. Tính đến ngày 1/4, lực lượng Cộng quân tại Nam Việt Nam trội vượt lực lượng QLVNCH với tỷ lệ 3 chọi 1. * Tình hình tại Quân khu 3 và Quân khu 4 của VNCH Trình bày về tình hình tại Quân khu 3 và Quân khu 4, Đại tướng Weyand ghi nhận như sau. Về mặt lãnh thổ (vào những đầu tháng 4/1975), Chính Phủ VNCH đã mất hết Quân khu 1, và gần hết Quân khu 2. Chính Phủ VNCH hiện còn nắm giữ một giải đất ven biển xuôi nam từ Cam Ranh đến biên giới Quân khu 3 Chiến Thuật, cộng thêm mảnh đất phía nam của tỉnh Tuyên Đức. Tỉnh Lâm Đồng thất thủ ngày 1/4, thành phố Đà Lạt được di tản ngày 2/4 và phần còn lại của tỉnh Tuyên Đức đang tan rã. Tại Vùng 3 Chiến Thuật, tỉnh Phước Long đã mất trong tháng 1. Trong tháng 3, lãnh thổ bị hao mòn thêm theo một vòng cung trải rộng 50 dậm phía tây, bắc và đông Sàigòn. Các cuộc đụng độ trong Quân khu 3 lẻ tẻ và, đôi khi mạnh nhưng tại đây, QLVNCH tương đối đứng vững trong ba tuần cuối tháng 3/1975. Tại Quân khu 3, vào đầu tháng 4/1975, các lực lượng QLVNCH chưa phải đối diện với một quân số địch đông đảo hơn. Mặc dù Cộng Sản đang gây áp lực mạnh tại nhiều khu vực (chẳng hạn, Tây Ninh và quanh Xuân Lộc) và rõ ràng đang toan tính những đợt tấn công mới, các lực lượng QLVNCH ghi nhận chung là đứng vững và chiến đấu cừ khôi, và đồng thời gây thiệt hại trầm trọng cho một số đơn vị Cộng Sản. Trong vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (Quân khu 4), không có mấy thay đổi trong mấy tuần cuối tháng 3/1975. Lực lượng tương quan không mấy chênh lệch. Tình hình chiến thuật có thể hao mòn nhanh chóng nếu các đơn vị Cộng Sản tăng thêm vào trong vùng hay nếu Chính Phủ VNCH điều động một trong ba sư đoàn hiện có mặt tại Quân khu 4 lên Quân khu 3. Về mặt quân sự, Chính Phủ VNCH ở trong thế thủ và bị vây hãm. Các thất bại trong tháng 3 và các hậu quả kéo theo sau- mất mát lãnh thổ, thương vong quân sự và dân sự, di chuyển to tát của hơn hai triệu dân di tản--đã ảnh hưởng tiêu cực nặng nề trên cơ cấu chính trị và xã hội của Nam Việt Nam. Sâu đậm tới mức độ nào thì không thể lường được, vì dân chúng Nam Việt Nam còn trong tâm trạng giao động mạnh và vì sự hiểu rõ điều gì đã xảy ra trong Quân khu 1 và 2 chưa được lan rộng tới, ngay cả tại Sàigòn, huống hồ là các vùng nông thôn thuộc Quân khu 3 hay Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long trù phú. *Ý định và kế hoạch của Cộng sản Bắc Việt Trong phần trình về kế hoạch của Cộng sản Bắc Việt, Đại tướng Weyand ghi nhận như sau. Khó có thể đoán được toan tính của Bắc Việt và có lẽ trung ương đảng CSVN của Hà Nội đang ráo riết thảo luận về những đường hướng hành động tới. Những bằng chứng hiện có cho thấy Hà Nội đang cân nhắc hai đường lối chính: a. Áp đặt nỗ lực tối đa để khai thác các chiến thuật mới đây và các lợi điểm hiện tại tại chiến trường của Quân đội Cộng sản Bắc Việt để phá đổ Chính Phủ VNCH và loại khử Chính Phủ này trên địa hạt một thực thể điều hành chính trị. b. Củng cố các thắng lợi mới và cố gắng tạo thêm một hay hai chiến thắng (chẳng hạn, đánh Sư Đoàn 25 QLVNCH và/hay đánh chiếm Tây Ninh)., rồi kêu gọi một thương thảo dẫn tới sự đầu hàng của Chính Phủ VNCH, đặt kế hoạch để đi tới một chiến thắng quân sự vào cuối năm 1975 hay 1976, nếu không dùng biện pháp chính trị để ép buộc Chính Phủ VNCH chịu chấp nhận một hình thức "chính phủ liên hiệp" khiến Cộng Sản thực sự kiểm soát được Nam Việt Nam trên bình diện chính trị. Từ khi ký kết Hiệp Định Ba Lê năm 1973, Hà Nội liên tục cải tiến khả năng quân sự tại Nam Việt Nam bằng cách liên tục cải tiến các hạ tầng cơ sở tiếp vận (đường xá, đường mòn, kho chứa, vân vân, tại Lào và tại Nam Việt Nam) và liên tục chuyển quân, tiếp liệu và quân cụ,tất cả vi phạm trắng trợn điều khoản 7 của Hiệp Định 1973. Hoạt động này lúc trồi lúc sụt trong suốt 26 tháng qua, nhưng không khi nào đình trệ. Trong mùa hè 1974, khi tình hình chung của vị thế Chính Phủ VNCH còn sáng sủa, sự tăng vận này của Bắc Việt có phần suy giảm. Nó bắt đầu tái phát mạnh ngay sau các biến chuyển chính trị tại Hoa Kỳ mùa hè năm ngoái và sau khi Quốc Hội cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam. Mức tiếp vận nhân sự và quân cụ từ Bắc Việt đổ xuống, và, do đó, khả năng của Cộng quân tại phần đất miền Nam, bắt đầu gia tăng vào cuối năm 1974. Nhịp độ gia tăng mạnh từ khởi đầu năm 1975 tiếp qua tháng 2 và tháng 3, và hiện thời thì đang ở mức độ tối đa. Chắc chắn Hà Nội đã có kế hoạch hành động tấn công ở một mức độ cao vào mùa xuân này. Nhìn lại, "Giai Đoạn I" của chiến dịch tháng Giêng (lấn chiếm tỉnh Phước Long), trong số các yếu tố khác, hình như là để trắc nghiệm xem Hoa Kỳ sẽ có phản ứng gì đối với hành động mà chính Hà Nội phải nhìn nhận là vi phạm trắng trợn Hiệp Định Ba Lê 1973. Xét theo hành vi tiếp sau của Cộng Sản, chẳng hạn, gia tăng quân số, du nhập các đơn vị trừ bị chiến lược của Cộng quân, tấn công Ban Mê Thuột với hai sư đoàn Cộng quân Bắc Việt (một sư đoàn thuộc đơn vị trừ bị chiến lược mới từ Hà Nội đưa xuống miền Nam) và hô hào lớn tiếng trong các nỗ lực tuyên truyền của Cộng Sản rêu rao Hoa Kỳ "bất lực"-hình như Hà Nội đã quyết định là HK quá bận tâm với các vấn đề khác để mà phản ứng mạnh đáng kể trước bất cứ điều gì Bắc Việt có thể làm tại Việt Nam. Các chỉ dụ của đảng CSVN, các chỉ thị của giới cao cấp tuyên bố trong tháng 1 và 2, và ngay qua tới tuần thứ ba của tháng 3 cho thấy ít ra mục tiêu khởi thủy của chiến dịch 1975 nhắm tới một thành quả không hẳn là toàn thắng-chẳng hạn, cải tiến vị trí lãnh thổ (có thể bao gồm chiếm đoạt thành phố Tây Ninh), đánh tỉa và đánh dằng dai các đơn vị QLVNCH, và gây áp lực toàn diện phủ đầu Chính Phủ VNCH. Mục tiêu chính của chiến dịch này hình như là đặt để Cộng Sản vào một tư thế thượng phong khiến CS có thể đòi buộc một thương thảo đưa tới một chính phủ liên hiệp, và, nếu điều này không xảy ra, khiến CS có thể phát động một cuộc tấn công "dứt điểm" vào năm 1976. Khó có thể lường được các mục tiêu của Hà Nội đã tăng vọt lên làm sao và tham vọng của họ đã gia tăng làm sao gây nên bởi các biến cố của mấy tháng qua tại Nam Việt Nam-và tại Hoa Kỳ, đặc biệt là chính Hà Nội cũng không có thì giờ để tiêu hóa những biến chuyển mới nhất đây. Tuy nhiên, mức độ đổ quân và tiếp liệu từ Bắc Việt xuống Nam Việt Nam cho thấy chắc chắn Hà Nội có ý định tiếp tục thúc đẩy lực lượng xâm lược viễn chinh tấn công.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:32:47 GMT -5
Bộ Quốc phòng Mỹ đề nghị những biện pháp cứu nguy VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, về những biện pháp khẩn cấp cứu nguy VNCH trong tháng 4/1955 -Những gì xảy ra tại miền Nam Việt Nam trong tháng tới hay sau đó, tùy thuộc rất nhiều vào những gì được thực hiện, hay không được thực hiện, bởi Bắc Việt, Chính Phủ VNCH, và Hoa Kỳ trong hai tới ba tuần tới hay ngay cả trong những ngày tới. -Ngoại trừ lực lượng Cộng quân Bắc Việt bị chận đứng tại trận địa hay Hànội bị thuyết phục ngưng chiến qua ngã ngoại giao hay ngã nào khác, Cộng sản Bắc Việt sẽ đánh bại Chính Phủ VNCH trên bình diện quân sự. Không có dấu chỉ cho thấy Bắc Việt đang gặp khó khăn tiếp vận hay bắt đầu thiếu hụt nguồn tiếp liệu. Sự nam tiến của chỉ một, nếu không nói là hai, trong số năm sư đoàn Cộng quân Bắc Việt hiện đang có mặt tại Quân khu 2 sẽ đủ để tấn công lực lượng VNCH tại vùng ven biển thuộc Quân Đoàn 2. Nếu một trong số năm sư đoàn của Cộng quân Bắc Việt hiện đã có mặt tại Quân khu 2 được đưa xuống Quân khu 3 đặc biệt là nếu được tăng cường với pháo binh và chiến xa, cán cân lực lượng tương quan hiện tại Quân khu 3 sẽ bị nghiêng ngửa. Các lực lượng của VNCH tại vùng Đồng Bằng (Miền Tây Nam phần), đủ khả năng đương đầu với lực lượng Cộng quân hiện đã có mặt trong Quân khu 4, và vùng này sẽ không đứng vững nổi nếu Quân khu 3 tan rã sau các cuộc thất bại tại Quân khu 1 và Quân khu 2. -Hình ảnh phác họa trên may ra có thể biến cải đang khi Chính Phủ VNCH điều quân tại Vùng 3 CT với các đơn vị sống sót từ Vùng 1 và 2. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi thời gian để tái tổ chức và tái trang bị. Chúng ta có thể chẩn đoán là Bắc Việt có thể tiến quân và xung trận các sư đoàn hiện diện tại Nam Việt Nam nhanh hơn là Chính Phủ VNCH có thể thiết lập các sư đoàn tân trang. -Còn phần Chính Phủ VNCH, phải thực hiện những công tác thật sự hữu hiệu không những để ngăn ngừa sự suy thoái của vị trí quân sự tại Quân khu 3, nhưng cũng để, và có lẽ quan trọng hơn,-hiến cho dân chúng và giới quân đội, một thôi thúc tâm lý tin tưởng vào tài lãnh đạo của các nhân vật tối cao của Chính Phủ VNCH. Trong lãnh vực tinh thần, miền Nam Việt Nam, ít ra tại Quân khu 3, kể cả Sàigòn, rất gần kề miệng dốc đưa tới thất bại và vô vọng của một sự đổ vỡ cơ cấu toàn diện. *Vai Trò và Các Lựa Chọn Hành Động của Hoa Kỳ Về phần vai trò và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ trong tình hình nguy kịch của VNCH, bản phúc trình của Đại tướng Weyand viết như sau. -Điều gì Hoa Kỳ làm, hay không làm, trong những ngày tới có lẽ là yếu tố định đoạt cho những biến cố xảy ra trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng đối với điều gì Sài Gòn hay Hà Nội làm hay không làm. Một mình Hoa Kỳ không thể cứu vãn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể, cho dù có vô tình đi nữa, xô đẩy Nam Việt Nam xuống hố chôn. -Đề nghị cụ thể của tôi có thể được phân thành hai loại. Có những hành động ngắn hạn, một phần về mặt thể lý nhưng chính yếu về mặt tâm lý,cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép buộc đình trệ hành động. Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng trong tình thế hiện tại thời giờ là điều tối cần. Thứ đến, có những hành động dài hạn, tuy mang tính chất vật chất nhưng cũng có khía cạnh tâm lý mạnh mẽ, cần thiết nếu muốn Nam Việt Nam có tí hy vọng tồn tại trước sự tàn phá của Bắc Việt hay thương thảo một hiệp ước khác hơn là đầu hàng. Điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt. Cảm quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm quan này đã khiến Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu triệt thoái khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ liễu tại các tỉnh phía bắc. Cảm quan này được cấu tạo bởi các hành động sau đây: Ngay sau khi ký kết Hiệp Định Ba Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ trình để cung ứng cho nhu cầu của Nam Việt Nam cho tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được xuất ra--thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó 500 triệu mỹ kim còn lại bị từ khước không được tháo khoán. Đối với tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ trình để duy trì khả năng tự vệ của Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp thuận,thanh thỏa 44 nhu cầu. Những hành động này đã giúp khai sinh khủng hoảng tin tưởng khiến Chính Phủ NVN dùng tới biện pháp triệt thoái chiến lược. -Điều then chốt cho sự tồn tại sống còn của quốc gia Việt Nam nằm trong khả năng của Chính Phủ VNCH ổn định tình thế, và đem các nguồn lực quân sự chống đối lại sức tấn công của Bắc Việt. Khả năng ổn định tình thế này tùy thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục hạ tầng giới quân nhân và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và còn có thể chận đứng Bắc Việt. Tuy đó là trách vụ chính của Chính Phủ Việt Nam, các hành động về phía Hoa Kỳ mang tính chất quyết liệt trong việc tái tạo niềm tin. Hành động mà Hoa Kỳ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho Việt Nam,Bắc lẫn Nam,-là dùng không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn công hiện tại của Cộng quân Bắc Việt. Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, những tấn công này sẽ gây tổn thất lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt về mặt nhân sự và quân cụ, và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lý đối với các chiến binh xâm lăng. Những tấn công không tập này cũng sẽ khiến giới lãnh đạo Ha Nội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ mà hiện giờ họ không có, đến hậu quả tai hại có thể xảy đến nếu họ làm ngơ lời cam kết chính thức họ đã hứa với Hoa Kỳ. Giới lãnh đạo quân sự VNCH thuộc mọi cấp bậc đều luôn lập đi lập lại tầm mức quan trọng của sử dụng B-52 phản công chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và quan điểm này hợp lý về mặt quân sự. Tôi ý thức đến các khó khăn về mặt pháp lý và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không tập này. Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là xác định cách rõ ràng Hoa Ky quyết tâm ủng hộ Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh định tích cực của Tổng Thống và các giới chức cao cấp Mỹ. Tinh thần suy sụp của dân chúng Việt Nam đã hứng khởi lên rõ rệt khi phái đoàn Hoa Kỳ do Tổng Thống phái đi với nhiệm vụ điều tra tình hình đặt chân tới Sàigòn. Có thêm những hành động tương tợ như vậy sẽ minh chứng mối quan tâm của Hoa Kỳ. Cộng thêm vào các lời xác định của Ngành Hành Pháp, cần thêm nỗ lực tạo một mối quan tâm chung tại mọi lãnh vực trên đất Hoa Kỳ. Sự ủng hộ từ các thành viên của Quốc Hội; xác định lập trường ủng hộ từ các nhân vật có trọng trách trong và ngoài chính phủ; và sự thông cảm trong giới báo chí Hoa Kỳ sẽ cải biến cảm quan về phía Hoa Kỳ liên quan đến tình hình tại Việt Nam.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:33:43 GMT -5
Bộ Quốc phòng Mỹ đề nghị mức quân viện cứu nguy VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, về mức quân viện khẩn cấp cứu nguy VNCH trong tháng 4/1955. Trong phần trình bày vền vai trò và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ trong tình hình nguy kịch của VNCH, bản phúc trình của Đại tướng Weyand đã ghi nhận rằng"điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ." Từ nhận định này, Đại tướng W eyand nêu ra những nỗ lực khẩn cấp của Hoa Kỳ để cứu nguy VNCH: --Hoa Kỳ cần tiếp tục nhấn mạnh tác động của Việt Nam đối với niềm tin đặt để vào sự can dự của Hoa Kỳ. Thế giới rõ ràng thông cảm các cam kết của Hoa Kỳ đối với Việt Nam trong quá khứ. Ai nấy đều ý thức sự mất mát về nhân lực và tài lực trong việc đeo đuổi sự cam kết này. Các chính phủ trên thế giới đều biết quá khứ, nhưng sẽ coi sự bất lực ủng hộ Nam Việt Nam hiện tại đang trong cơn khủng hoảng sống chết như là một thất bại trong quyết tâm về phía Hoa Kỳ. Nếu chúng ta không cố gắng, trong tương lai, bạn cũng như thù sẽ coi như chúng ta không còn biết đến chữ tín là gì nữa. -Các lời xác định ủng hộ của Hoa Kỳ là quan trọng, nhưng chúng phải được hỗ trợ bởi những hành động cụ thể chứng tỏ quyết tâm của Hoa Kỳ đứng sau lưng đồng minh của mình. Tuy các tài nguyên quân sự tùy thuộc tối hậu vào ngân khoản bổ túc Quốc Hội chấp thuận cho tài khóa này, nhưng hiện giờ còn dư hơn 150 triệu mỹ kim từ 700 triệu mỹ kim Quốc Hội đã chuẩn chi với Đạo Luật Chuẩn Chi Quốc Phòng. Số tiền này có thể được dùng để đáp ứng nhu cầu cấp bách ngay bây giờ và cho một vài tuần tới. Tuy nhiên, sự tiêu xài của ngân khoản thặng dư này sẽ làm hao mòn nhanh chóng khả năng hỗ trợ của Hoa Kỳ. Một ngân khoản chuẩn chi, có lẽ khoảng 722 triệu, cần thiết cấp bách để đáp ứng những nhu cầu quân sự căn bản để tạo nên cơ may sống còn cho Việt Nam Cộng Hòa. *Chi tiết về ngân khoản quân viện cho VNCH Về các chi tiết của ngân khoản quân viện cho VNCH này, Đại tướng Weyand trình bày như sau. Chiến dịch tấn công hiện tại của Bắc Quân khiến mất mát quân cụ trầm trọng cần được thay thế ngay bây giờ: Năm Sư Đoàn QLVNCH đã bị phá hủy hay bất khả dụng và một sư đoàn khác chỉ được cứu vãn một phần. Tuy không thể xác định con số chính xác về sự mất mát nhân sự và quân cụ giờ phút soạn thảo bản thẩm định này, sau đây là những mất mát chiến cụ biết được : Đạn dược (dự trữ tồn kho mà thôi) $129.0 triệu Súng ống cá nhân và đội tốn $24.6 triệu Pháo binh $16.0 triệu Thiết vận xa $85.0 triệu Quân xa thiết bị bánh cao su $77.0 triệu Dụng cụ truyền tin $15.6 triệu Tiếp liệu $6.3 triệu Y tế $7.9 triệu Công binh $1.8 triệu Tồn kho tổng quát $110.5 triệu Tổng cộng $473.7 triệu --Thêm vào đó Không Quân Việt Nam mất 393 máy bay trị giá 176.3 triệu mỹ kim, 52.8 triệu mỹ kim đạn dược, và 68.6 triệu mỹ kim bộ phận và khí cụ yểm trợ. --Trong cuộc tấn công hiện tại Hải Quân VNCH mất ba chiến hạm trị giá 2.4 triệu mỹ kim và 5.4 triệu mỹ kim tiếp liệu và khí cụ yểm trợ. Tổng cộng, sự mất mát của QLVNCH trong cuộc tấn công hiện tại về tiếp liệu và quân cụ được ước tính vào khoảng 779.2 triệu mỹ kim. Những mất mát này không bao gồm đạn dược gài nòng căn bản, các đơn vị yểm trợ không thuộc về sư đoàn và các công trình xây cất tỉ như phi đạo, hải cảng và các cơ sở quân sự. Chính Phủ VNCH tin rằng có thể chận đứng được cuộc tấn công hiện tại với các lực lượng hiện có và tái thiết bị. Chính phủ VNCH dự tính giữ lại một Việt Nam Cộng Hòa thu hẹp bao gồm một phần lãnh thổ phía đông nam của Quân khu 2 , hai phần ba lãnh thổ phía nam của Quân khu 3 và tất cả Quân khu 4 . Phần đất phải giữ chứa đựng hầu hết dân số và có đủ điều kiện cho một thể chế chính trị và kinh tế tồn tại được. Họ đang thực hiện một kế hoạch tái tổ chức, nếu thi hành thành công, thì có thể bảo vệ về mặt quân sự cho một Việt Nam Cộng Hòa thu gọn. *Các biện pháo tái trang bị, tái tổ chức các đơn vị VNCH Đại tướng Weyand trình bày tiếp: "Trong giờ phút soạn thảo phúc trình này (thượng tuần tháng 4/1975), kế họach tái tổ chức của Chính Phủ NVN có ý định tái thiết bị bốn sư đoàn bộ binh, cải biến 12 liên đoàn biệt động quân thành bốn sư đoàn biệt động quân và tăng cấp 27 liên đoàn lực lượng địa phương quân thành 27 trung đoàn bộ binh. Để có thể hữu hiệu, việc thi hành phải được thực hiện tức khắc. Trong giả thuyết Chính Phủ NVN có thể ổn định tình thế quân sự hiện tại, với các chiến cụ và tài nguyên nhân lực hiện tại nắm trong tay và trong sự giới hạn của ngân khoản chuẩn chi cho tài khóa 1975, họ cần có được ngay một số chiến cụ đòi hỏi một chuẩn chi mới." Theo ước tính của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, điều kiện cấp thời như sau: --Trang bị cho bốn sư đoàn: $138.6 triệu --Biến cải 12 liên đoàn Biệt động quân thành bốn sư đoàn: $118.0 triệu --Biến cải 27 liên đoàn Địa phương quân thành 27 trung đoàn Bộ binh: $69.6 triệu --Đạn dược bộ binh cho hành quân tác chiến và tái thiết mức độ tồn kho: $198.0 triệu --Đạn cho không quân hành quân tác chiến và tái thiết tồn kho: $21.0 triệu --Nhiên liệu hành quân tác chiến và tái thiết mức độ tồn kho: $10.4 triệu --Tiếp liệu và bộ phận sửa chữa chung: $21.0 triệu --Yểm trợ y tế (bệnh xá và trang bị) $7.0 triệu --Phi cơ, bộ phần rời, khí cụ yểm trợ, sửa chữa phi đạo: $44.9 triệu --Phí tổn vận chuyển tiếp liệu và khí cụ: $93.7 triệu Tổng cộng $722.2 triệu Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ ước tính các vật liệu trên có thể được giao vào tay Việt Nam Cộng Hòa nội trong 45 ngày kể từ khi có ngân khoản. Phải hiểu là nếu không có các vật liệu bổ sung này, QLVNCH sẽ tiêu hao hết đạn dược hiện có trong kho trước khi tài khóa năm nay chấm dứt với mức độ giao tranh hiện tại. Không thể tái tạo các đơn vị bất khả dụng nếu không có các vật liệu bổ sung này.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:34:36 GMT -5
Từ phúc tình của Đại tướng Weyand đến mật trình của Sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn về tình hình VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Tiếp đó,vào ngày 9/4/1975, Đại Sứ Graham Martin gửi bức công điện sau đây báo cáo tình hình quân sự tại các vùng còn thuộc về Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa. Sau đây là nội dung bản phúc trình, dựa theo tài liệu được phổ biến trong cuốn "Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu, Một viên ngọc quân sự ẩn tàng", do ông Nguyễn Văn Tín, em ruột của Tướng Hiếu, sưu tầm và biên soạn. (Bạn đọc muốn mua tập tài liệu này, xin liên lạc với Tin Nguyen, 1144 Simpson Street, Bronx, NY 10459) *Phúc trình ngày 9/4/1975 của Sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn gửi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ -Nơi gửi : Sứ Quán Hoa Kỳ Sàigòn -Kính gửi Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ tại Washington, khẩn cấp -Thông tri Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Washington, khẩn cấp -Sứ Quán Hoa Kỳ Bangkok, khẩn cấp -Sứ Quán Hoa Kỳ Canberra, khẩn cấp -Phái Đoàn Hoa Kỳ tại Hòa Đàm Ba Lê, khẩn cấp -Sứ Quán Hoa Kỳ Vạn Tượng, khẩn cấp -CINCPAC HI, khẩn cấp -USSAG NKP TH, khẩn cấp -Sứ Quán Hoa Kỳ Jakarta, Ưu Tiên -Sứ Quán Hoa Kỳ Phnom Penh, Ưu Tiên -Sứ Quán Hoa Kỳ Tehran, Ưu Tiên -Lãnh Sự Hoa Kỳ Biên Hòa -Lãnh Sự Hoa Kỳ Cần Thơ Đề Tài: Những nét chính trong cuộc tấn công của Bắc Quân -- Tổng lược cho thời kỳ kết thúc trưa ngày 9/4/2005. 1. Tổng Quát Hoạt động quân sự gia tăng đột phát tại Quân khu 3 trong 24 tiếng vừa qua với các cuộc tấn công nặng nhằm vào Xuân Lộc, thủ phủ tỉnh Long Khánh, cách Sàigòn khoảng 60 cây số về phía đông trên Quốc Lộ 1. Một đơn vị thuộc Sư Đoàn 5 Cộng sản Bắc Việt (CSBV) tấn công gần Tân An, thủ phủ tỉnh Long An, làm ngưng trệ giao thông trên Quốc Lộ 4 đưa tới vùng Đồng Bằng. Phi trường quân sự Biên Hòa bị pháo kích nặng. Hoạt động chung tại vùng Đồng Bằng có chiều giảm thiểu. 2. Quân khu 3 CSBV leo thang mức độ giao tranh cách thấy rõ tại Quân khu 3 trong 24 tiếng vừa qua. Một vụ tấn công lớn nhắm thẳng vào Xuân Lộc, thủ phủ của tỉnh Long Khánh, dẫn đầu bởi Trung Đoàn 812 thuộc Sư Đoàn 6 CSBV. Một trận xung phong bộ binh được yểm trợ bởi pháo binh, chiến xa và thiết vận xa được phát động vào sáng sớm ngày 9/4. Các đặc công đã lọt vào tới khu chợ búa của thành phố và giao tranh nặng trong và quanh thành phố. Xuân Lộc được bảo vệ bởi Trung Đoàn 43 thuộc Sư Đoàn 18. Đơn vị này đã suy yếu trong trận giao tranh tại Định Quán và Hoài Đức tháng trước. Các lực lượng CSBV chiếm ngự các đồi núi gần ngã tư Quốc Lộ 1 và 20 và cản trở các nỗ lực tăng phái của của VNCH cho Trung Đoàn 43 với các đơn vị của Trung Đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 18. Sự thất thủ của Xuân Lộc sẽ tạo một hiểm nguy trầm trọng cho căn cứ Long Bình và vùng Biên Hòa. Một chiến đoàn chiến xa QLVNCH đang di chuyển tới một vị trí nằm phía đông Biên Hòa. Tại Long An, có các vụ tấn công tại phía nam và tây nam của Tân An, tỉnh lỵ của tỉnh này, với các đơn vị của Trung Đoàn 275 thuộc Sư Đoàn 5 CSBV tham chiến một trong các vụ tấn công này. Quốc Lộ 4 bị gián đoạn trong một thời gian, nhưng nay đã được khai thông. Phi trường quân sự Biên Hòa và vùng lân cận bị pháo kích nặng từ 5 giờ đến 7 giờ 30 sáng ngày 9/4. Hai phi công bị chết, và một bồn xăng tại một hậu cứ QLVNCH bị phá hủy. Một bích kích pháo phát nổ cách chung cư tổng lãnh sự khoảng từ 1000 đến 150 mét. Một toán trinh sát VNCH tiếp xúc với dân chúng địa phương tại vùng lân cận Nha Trang. Theo báo cáo của đội toán này, tất cả các cơ quan quân sự và dân sự đều nằm dưới sự kiểm soát của CABV, và tất cả các văn phòng đều treo cờ Bắc Việt. Các chiến xa thoạt đầu đã xâm nhập thành phố, nhưng nay đã rút ra khỏi. CSBV đang dùng đài phát thanh Nha Trang để tuyên truyền dân chúng. Đủ loại súng phòng không được đặt để dọc theo bờ biển từ phía bắc đến phía nam của Nha Trang. Vào lúc 6 giờ chiều ngày 8/4, liên lạc viễn liên bị gián đoạn với thành phố Thiện Giáo cách Phan Thiết khoảng 15 cây số về phía bắc, thủ phủ của tỉnh Bình Thuận. Vào lúc đó Thiện Giáo bị các lực lượng CSBV tấn công mạnh. Bản doanh của tỉnh lỵ bị trúng đạn và đã được di chuyển tới một địa điểm nằm ngoài thành phố. Phan Thiết vẫn nằm trong sự kiểm soát của Chính Phủ VNCH và tỉnh trưởng tin tưởng ông có thể đối phó với mối đe dọa. Hiện giờ năm chiến hạm đang bắn yểm trợ các lực lượng QLVNCH quanh Phan Thiết. Không Quân VNCH tiếp tục hành quân từ phi trường quân sự Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận và các đơn vị QLVNCH chu toàn an ninh cho căn cứ này. Các nguồn tình báo cho biết các đơn vị Bắc Quân trong vùng có thể đang chuẩn bị di chuyển tới Phan Rang. Tư Lệnh Phó Quân đoàn 3/ Quân khu 3 Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, đã bị chết tại bàn giấy chiều tối ngày 8/4, với một viên đạn duy nhất xuyên vào đầu. Cái chết của Tướng Hiếu được coi là một trường hợp "ngộ nạn gây nên bởi súng." 3. Quân khu 4 Hoạt động trong toàn bộ vùng Đồng Bằng giảm thiểu trong 24 tiếng vừa qua, vì các đơn vị của Sư Đoàn 4 CSBV rút ra khỏi xung quanh Cần Thơ. Tư Lệnh Sư Đoàn 21 VNCH cảm nghiệm Sư Đoàn 4 CSBV sẽ tái đụng độ trong thời gian ngắn, rất có thể với các cuộc tấn công biển người. Tình hình Mộc Hóa yên tịnh tiếp sau các cuộc tấn kích nặng ngày hôm qua, và Sư Đoàn 5 CSBV đang di chuyển từ vùng quanh Mộc Hóa tới khu Mỏ Vẹt dọc theo ranh giới Hậu Nghĩa. Quốc Lộ 29 dẫn tới Mộc Hóa đã bị gián đoạn từ ngày 6/4. Các cuộc tấn công gia tăng dọc theo Quốc Lộ 23 dẫn tới thành phố Sa Đéc, và Quốc Lộ này bị gián đoạn trong hầu hết ngày 8/4. Các tiểu đoàn mới được thiết lập cho Sư Đoàn 21 bị hụt quân số bởi mức độ đào ngũ trầm trọng và sẽ chỉ hữu dụng khi quân số ổn định.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:36:19 GMT -5
Kế Hoạch Của Ngũ Giác Đài Cứu Nguy Việt Nam Năm 1975 VƯƠNG HỒNG ANH .
LTS: Tiếp theo loạt bài Tưởng niệm 30-4, VB giới thiệu đến bạn đọc những tài liệu đặc biệt liên quan đến các sự kiện quân sự, chính trị giưã VNCH và Hoa Kỳ, đã được Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại Hoa Kỳ giải mật và chuyển giao cho Văn Khố Quốc gia Hoa Kỳ.
* Bộ Quốc phòng Mỹ đề nghị những biện pháp cứu nguy VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, về những biện pháp khẩn cấp cứu nguy VNCH trong tháng 4/1955 -Những gì xảy ra tại miền Nam Việt Nam trong tháng tới hay sau đó, tùy thuộc rất nhiều vào những gì được thực hiện, hay không được thực hiện, bởi Bắc Việt, Chính Phủ VNCH, và Hoa Kỳ trong hai tới ba tuần tới hay ngay cả trong những ngày tới. -Ngoại trừ lực lượng Cộng quân Bắc Việt bị chận đứng tại trận địa hay Hànội bị thuyết phục ngưng chiến qua ngã ngoại giao hay ngã nào khác, Cộng sản Bắc Việt sẽ đánh bại Chính Phủ VNCH trên bình diện quân sự. Không có dấu chỉ cho thấy Bắc Việt đang gặp khó khăn tiếp vận hay bắt đầu thiếu hụt nguồn tiếp liệu. Sự nam tiến của chỉ một, nếu không nói là hai, trong số năm sư đoàn Cộng quân Bắc Việt hiện đang có mặt tại Quân khu 2 sẽ đủ để tấn công lực lượng VNCH tại vùng ven biển thuộc Quân Đoàn 2. Nếu một trong số năm sư đoàn của Cộng quân Bắc Việt hiện đã có mặt tại Quân khu 2 được đưa xuống Quân khu 3 đặc biệt là nếu được tăng cường với pháo binh và chiến xa, cán cân lực lượng tương quan hiện tại Quân khu 3 sẽ bị nghiêng ngửa. Các lực lượng của VNCH tại vùng Đồng Bằng (Miền Tây Nam phần), đủ khả năng đương đầu với lực lượng Cộng quân hiện đã có mặt trong Quân khu 4, và vùng này sẽ không đứng vững nổi nếu Quân khu 3 tan rã sau các cuộc thất bại tại Quân khu 1 và Quân khu 2. -Hình ảnh phác họa trên may ra có thể biến cải đang khi Chính Phủ VNCH điều quân tại Vùng 3 CT với các đơn vị sống sót từ Vùng 1 và 2. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi thời gian để tái tổ chức và tái trang bị. Chúng ta có thể chẩn đoán là Bắc Việt có thể tiến quân và xung trận các sư đoàn hiện diện tại Nam Việt Nam nhanh hơn là Chính Phủ VNCH có thể thiết lập các sư đoàn tân trang. -Còn phần Chính Phủ VNCH, phải thực hiện những công tác thật sự hữu hiệu không những để ngăn ngừa sự suy thoái của vị trí quân sự tại Quân khu 3, nhưng cũng để, và có lẽ quan trọng hơn,-hiến cho dân chúng và giới quân đội, một thôi thúc tâm lý tin tưởng vào tài lãnh đạo của các nhân vật tối cao của Chính Phủ VNCH. Trong lãnh vực tinh thần, miền Nam Việt Nam, ít ra tại Quân khu 3, kể cả Sàigòn, rất gần kề miệng dốc đưa tới thất bại và vô vọng của một sự đổ vỡ cơ cấu toàn diện. *Vai Trò và Các Lựa Chọn Hành Động của Hoa Kỳ Về phần vai trò và các lựa chọn hành động của Hoa Kỳ trong tình hình nguy kịch của VNCH, bản phúc trình của Đại tướng Weyand viết như sau. -Điều gì Hoa Kỳ làm, hay không làm, trong những ngày tới có lẽ là yếu tố định đoạt cho những biến cố xảy ra trong mấy tuần tới; điều này cũng đúng đối với điều gì Sài Gòn hay Hà Nội làm hay không làm. Một mình Hoa Kỳ không thể cứu vãn Nam Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ có thể, cho dù có vô tình đi nữa, xô đẩy Nam Việt Nam xuống hố chôn. -Đề nghị cụ thể của tôi có thể được phân thành hai loại. Có những hành động ngắn hạn, một phần về mặt thể lý nhưng chính yếu về mặt tâm lý,cần để nâng tinh thần Nam Việt Nam và, nếu có thể, ép buộc đình trệ hành động. Điều này chỉ mua được thời giờ, nhưng trong tình thế hiện tại thời giờ là điều tối cần. Thứ đến, có những hành động dài hạn, tuy mang tính chất vật chất nhưng cũng có khía cạnh tâm lý mạnh mẽ, cần thiết nếu muốn Nam Việt Nam có tí hy vọng tồn tại trước sự tàn phá của Bắc Việt hay thương thảo một hiệp ước khác hơn là đầu hàng. Điều kiện tiên quyết và cấp bách là Việt Nam cảm thấy Hoa Kỳ ủng hộ. Cảm quan này quan trọng về mọi mặt. Cảm quan Hoa Kỳ giảm thiểu ủng hộ Nam Việt Nam khuyến khích Bắc Việt tiếp tục tấn công. Chính cảm quan này đã khiến Việt Nam Cộng Hòa bắt đầu triệt thoái khỏi các vị trí lẻ tẻ và lộ liễu tại các tỉnh phía bắc. Cảm quan này được cấu tạo bởi các hành động sau đây: Ngay sau khi ký kết Hiệp Định Ba Lê, 1.6 tỷ mỹ kim được đệ trình để cung ứng cho nhu cầu của Nam Việt Nam cho tài khóa 1974; 1.126 tỷ mỹ kim được xuất ra--thanh thỏa 70% nhu cầu. Tiếp sau đó 500 triệu mỹ kim còn lại bị từ khước không được tháo khoán. Đối với tài khóa năm nay, 1.6 tỷ được đệ trình để duy trì khả năng tự vệ của Nam Việt Nam; 700 triệu được chấp thuận,thanh thỏa 44 nhu cầu. Những hành động này đã giúp khai sinh khủng hoảng tin tưởng khiến Chính Phủ NVN dùng tới biện pháp triệt thoái chiến lược. -Điều then chốt cho sự tồn tại sống còn của quốc gia Việt Nam nằm trong khả năng của Chính Phủ VNCH ổn định tình thế, và đem các nguồn lực quân sự chống đối lại sức tấn công của Bắc Việt. Khả năng ổn định tình thế này tùy thuộc, một phần lớn, vào khả năng thuyết phục hạ tầng giới quân nhân và dân sự là chưa đến nỗi mất tất cả, và còn có thể chận đứng Bắc Việt. Tuy đó là trách vụ chính của Chính Phủ Việt Nam, các hành động về phía Hoa Kỳ mang tính chất quyết liệt trong việc tái tạo niềm tin. Hành động mà Hoa Kỳ có thể làm để gây nên ấn tượng tức khắc cho Việt Nam,Bắc lẫn Nam,-là dùng không lực Hoa Kỳ để chận đứng thế tấn công hiện tại của Cộng quân Bắc Việt. Cho dù chỉ giới hạn trên phần đất Nam Việt Nam và chỉ thực hiện trong một thời gian giới hạn, những tấn công này sẽ gây tổn thất lớn lao cho lực lượng viễn chinh Bắc Việt về mặt nhân sự và quân cụ, và sẽ tạo một chấn động về mặt tâm lý đối với các chiến binh xâm lăng. Những tấn công không tập này cũng sẽ khiến giới lãnh đạo Ha Nội phải đắn đo suy nghĩ, thái độ mà hiện giờ họ không có, đến hậu quả tai hại có thể xảy đến nếu họ làm ngơ lời cam kết chính thức họ đã hứa với Hoa Kỳ. Giới lãnh đạo quân sự VNCH thuộc mọi cấp bậc đều luôn lập đi lập lại tầm mức quan trọng của sử dụng B-52 phản công chống lại một lực lượng địch to lớn hơn và quan điểm này hợp lý về mặt quân sự. Tôi ý thức đến các khó khăn về mặt pháp lý và chính trị gây nên bởi việc thi hành biện pháp không tập này. Một việc quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là xác định cách rõ ràng Hoa Ky quyết tâm ủng hộ Nam Việt Nam. Việc này phải bao gồm lời minh định tích cực của Tổng Thống và các giới chức cao cấp Mỹ. Tinh thần suy sụp của dân chúng Việt Nam đã hứng khởi lên rõ rệt khi phái đoàn Hoa Kỳ do Tổng Thống phái đi với nhiệm vụ điều tra tình hình đặt chân tới Sàigòn. Có thêm những hành động tương tợ như vậy sẽ minh chứng mối quan tâm của Hoa Kỳ. Cộng thêm vào các lời xác định của Ngành Hành Pháp, cần thêm nỗ lực tạo một mối quan tâm chung tại mọi lãnh vực trên đất Hoa Kỳ. Sự ủng hộ từ các thành viên của Quốc Hội; xác định lập trường ủng hộ từ các nhân vật có trọng trách trong và ngoài chính phủ; và sự thông cảm trong giới báo chí Hoa Kỳ sẽ cải biến cảm quan về phía Hoa Kỳ liên quan đến tình hình tại Việt Nam.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:37:50 GMT -5
Bộ Quốc phòng Mỹ phân tích thực trạng VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weyand, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, phân tích về thực trạng VNCH vào những tuần lễ cuối cùng của cuộc chiến. Bộ Quốc phòng Mỹ ghi nhận rằng Chính Phủ VNCH phải đương đầu với nhiều vấn đề hiện lên nhanh chóng, có thể phân ra làm ba loại chính. -Trước hết, các vấn đề cụ thể và vật chất. Vấn đề quan trọng nhất là Cộng quân Bắc Việt,bao gồm số lượng, gia tăng lực lượng và các hoạt động. Tiếp đến, là sử tổn thất đại qui mô của ba tuần lễ qua về nhân sự và quân cụ, ngoại trừ và đến khi được bổ sung, đặt một QLVNCH bị suy yếu vào một tình thế thảm khốc đối với mối đe dọa càng gia tăng của Cộng quân Bắc Việt. Trong lãnh vực dân sự, là một trào dâng làn sóng di cư, khiến hơn 10 phần trăm toàn dân cần thiết thực phẩm, quần áo, cư trú, thuốc men tạo nên một gánh nặng cho guồng máy chính phủ. Đáp ứng được những nhu cầu cấp bách này của dân di cư là cả một vấn đề lớn, nhưng định cư và nhập họ vào những vùng dưới quyền kiểm soát của chính phủ quả là một trách vụ quá lớn. Còn có những vấn đề cụ thể khác không kém phần quan trọng (tỉ như, duy trì đường xá và đường giây thông tin thông suốt, vận chuyển thực phẩm, duy trì trật tự và luật lệ tối thiểu tại những vùng tràn ngập dân di cư, kiểm soát và ngăn ngừa các hoạt động phá rối của đặc công Việt Cộng tại những vùng chưa hẳn bị địch tấn công), nhưng những vấn đề này lu mờ trước ba vấn đề cụ thể kể trên. Cộng thêm vào đó, phải kể tới một lô các vấn đề mới chớm nở mà các chuyên viên có thể gọi là thuộc phạm vi "hành chánh". Trước hết là cần cung ứng lãnh đạo, và chỉ đạo cần thiết để đối phó với các vấn đề cụ thể nêu trên. Tiếp đến là cần lãnh đạo và quản trị, về mặt quân sự và mặt dân sự, cần thiết để lôi cuốn một quốc gia sau một loạt thất bại, chận đứng tinh thần chủ bại và thất vọng, phát huy một tinh thần hiệp nhất và một chí hướng chung cho toàn quốc, và thực hiện một trận đánh sống còn. Trong bối cảnh Việt Nam, tình hình đòi hỏi một sự lãnh đạo và một hành chánh hữu hiệu kiểu như của nội các chiến tranh của Anh do Thủ Tướng Churchill cầm đầu sau trận Dunkirk và sự tan vỡ của Pháp. Tới giờ phút này, hình thức kiểu lãnh đạo và hành chánh này không có được, và tại Việt Nam, không có eo biển Anh để ngăn chận làn sóng thủy triều của cuộc xâm chiếm và có được một giây phút nghỉ ngơi và tái tổ chức. *Tình hình Quân lực VNCH Về tình hình của các lực lượng VNCH, Bộ Quốc phòng Mỹ nhận định như sau. Trong quân đội, các vấn đề tâm lý càng tập trung và nặng nề hơn. Các đơn vị quân đội tại vùng ven biển Quân Đoàn 2 biết là họ sẽ bị tràn ngập nay mai. Mặc dù có được một vài thành công chiến thuật tại địa phương, các đơn vị thuộc Quân Đoàn 3 có thể lâm vào tâm trạng thất bại và vô vọng. Tại vùng đồng bằng miền Tây, các chỉ huy trưởng QLVNCH khẳng định là tinh thần chiến binh còn tốt và khi vị tấn công họ sẽ chiến đấu, nhưng khi nói chuyện riêng với những người Mỹ mà họ quen biết, và tin tưởng kín miệng, chính những vị chỉ huy trưởng này báo động c là tinh thần chiến binh họ không đứng vững nếu như có tin thất bại lớn tại Quân Đoàn 3. Một trong những vấn đề trọng yếu về mặt tâm lý và thái độ tại mọi tầng lớp trong giới quân đội cũng như dân sự, là sự tin tưởng VNCH đã bị bỏ rơi, và ngay cả bị phản bội, bởi Hoa Kỳ. Cộng Sản dùng mọi phương cách tuyên truyền và chiến tranh tâm lý để nung nấu quan điểm này. Càng tiến cao lên trong bực thang cấp bậc và phẩm trật thì các cảm tưởng này càng rõ rệt. Cảm nghĩ này hầu hết đều bắt nguồn từ Hiệp Định Ba Lê và sự rút lui tiếp sau của Hoa Kỳ. Ai nấy đều tin tưởng Chính Phủ VNCH bị ép buộc ký kết hiệp định này, sau khi Hoa Kỳ và Bắc Việt ngầm thỏa thuận cho phép Hoa Kỳ triệt thoái quân đội và tiếp nhận các tù binh để đánh đổi lấy hành động bỏ rơi Nam Việt Nam. Cảm tưởng bỏ rơi này càng khắc sâu hơn nữa bởi cảm nghiệm thấy Hoa Kỳ không công khai nhìn nhận VNCH đang trong tình trạng nguy ngập và không sẵn sàng cung ứng yểm trợ cần thiết. *Bộ Quốc phòng Mỹ nhận định về Chính phủ VNCH Báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ nhận định: Tất cả các vấn đề kể trên tác động lẫn nhau. Một trong những hậu quả của sự tương tác này là sự thiếu tin tưởng, càng ngày cang lan rộng, vào giới lãnh đạo tối cao của Chính Phủ VNCH trong quần chúng có ý thức chính trị cao và trong giới quân đội. Các cố vấn thân cận của Tổng Thống Thiệu không còn được ai nể trọng nữa. Sự bực tức này càng ngày càng chĩa vào cá nhân Tổng Thống Thiệu. Ý thức chung là nếu có bất cứ một cuộc đảo chánh nào xảy ra, dù có thành công đi nữa, cũng kéo theo thảm họa; nhưng ta có thể quyết đoán là nếu khủng hoảng tin tưởng này không được hóa giải, Tổng Thống Thiệu sẽ phải từ chức. -Các ý định và kế hoạch hiện tại của Chính Phủ VNCH Chính Phủ VNCH có một "kế hoạch chiến lược" nhưng nó được duyệt xét lại hình như hằng ngày tùy theo các biến cố. Ngày 25/3/1975, kế hoạch này hình dung một địa bàn tại Đà Nẵng và một tuyến phòng thủ về phía nam đặt tại ven biển ở Bình Định hay, nếu thất bại, ngay phía dưới Tuy Hòa trong tỉnh Phú Yên. Tuyến phòng này băng qua các tỉnh Tuyên Đức và Lâm Đồng, rồi tới Xuân Lộc thuộc tỉnh Long Khánh và kéo qua Tây Ninh. Từ khi kế hoạch được thiết lập, Đà Nẵng đã mất, vị trí của Chính Phủ VNCH tại vùng ven biển thuộc Quân Đoàn 2 đã tan rã ở phía bắc Cam Ranh. Chính Phủ VNCH có ý định tái tổ chức và tái võ trang các đơn vị QLVNCH bị tan hàng trong các trận đánh tháng vừa qua càng nhanh chóng càng tốt. Chính phủ VNCH cũng có ý định dùng các biện pháp khác để tăng cường lực lượng QLVNCH bằng tăng cấp các lực lượng địa phương quân và các liên đoàn Biệt Động Quân. Sự thành công trong nỗ lực này tùy thuộc vào khả năng Chính Phủ VNCH có thể chỉnh đốn sự yếu kém trầm trọng trong giới lãnh đạo và chỉ huy và trong khả năng của giới này trong việc biến cải kế hoạch này thành hành động có tổ chức. Tổng Thống Thiệu và Đại tướng Viên ý thức được điểm này và hứa sẽ hành động sửa đổi. Vấn đề di cư cũng có những khiếm khuyết về mặt điều hành ,nghiên cứu và hành chánh. Mối quan tâm và ý chí muốn nâng đỡ có đấy và có thể lợi dụng tới cảm tình từ các nguồn mạch quốc tế muốn tiếp ứng ngân khoản, nhân sự y tế, tiếp liệu, vân vân... Bác Sĩ Phan Quang Đán,Phó Thủ Tướng đặc trách di cư, đang làm hết sức mình, nhưng hiện chưa có một guồng máy trong Chính Phủ VNCH khả dĩ giải quyết các chi tiết phức tạp của một vấn đề thật là quá lớn. Kết quả là gánh nặng được đặt lên vai một vài giới chức, kể cả tại cấp địa phương; một số giới chức này đã đương đầu trách vụ với nhiều sáng kiến để giải quyết những khủng hoảng cấp thời, nhưng những nỗ lực này mang tính cách cá nhân, lẻ tẻ và không nằm trong một hệ thống toàn diện. Tuyên truyền và chiến tranh tâm lý và ngay cả sự đả thông tối thiểu với chính dân chúng cũng khiếm khuyết về mặt khái niệm và theo dõi hành động. Bộ Quốc phòng Mỹ kết luận: Nói tóm lại, Chính Phủ VNCH có hy vọng và mong muốn đáp ứng, nhưng những ý định này ít được tập trung và tổ chức đúng mức. Chính phủ, đặc biệt là giới hành chánh, đang trong tâm trạng chấn động và bấn loạn, và giới cao cấp nhất hình như không ý thức được hoàn toàn hay thấu hiếu mức độ rất lớn của tất cả các vấn đề này của Chính Phủ VNCH.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:39:27 GMT -5
Bộ Quốc phòng Mỹ lượng định về lực lượng Cộng quân và lực lượng VNCH Như VB đã trình bày, vào tuần lễ cuối cùng của tháng 3/1975, Tổng thống Ford đã cử Đại tướng Frederick C. Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, đến Việt Nam để tìm hiểu tình hình.. Đại tướng Weyand là một vị tướng đã từng phục vụ ở chiến trường Việt Nam qua nhiều chức vụ khác nhau: Tư lệnh Sư đoàn 25 Hoa Kỳ, Tư lệnh Bộ chỉ huy tiền phương Lực lượng 2 đặc nhiệm, Tư lệnh phó bộ Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam (tư lệnh là Đaị tướng Creighton W. Abrams), sau cùng là Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Yểm trợ Hoa Kỳ (MACV).Đại tướng Weyandrd đã thăm và tìm hiểu tình hình VN từ ngày 28/3/1975 đến ngày 4/4/1975. Trở về Mỹ, ông đã làm một phúc trình đặc biệt lên Tổng thống Ford về tình hình VN và những đề nghị khẩn cấp để cứu nguy VNCH. Sau đây là phần phúc trình của Đại tướng Weynad, Tham mưu trưởngï Lục quân, đại diện Bộ Quốc phòng Mỹ, phân tích về tình hình miền Nam trong hạ tuần tháng 3/1975 và những ngày đầu tháng 4/1975. Vào khoảng ngày 1/4, tổng số các lực lượng tác chiến Cộng Sản tại Nam Việt Nam, mà đa số thuộc thành phần các đơn vị Cộng sản Bắc Việt, lên tới trên 200 ngàn người, chia ra thành 123 trung đoàn gồm 71 trung đoàn bộ binh, 7 trung đoàn công binh tác chiến, 4 trung đoàn thiết giáp, 16 trung đoàn pháo binh và 25 trung đoàn phòng không. Trong khi đó, lực lượng QLVNCH chỉ tổng cộng khoảng 54 ngàn chiến binh, chia ra thành 39 trung đoàn/lữ đoàn hay tương đương, 18 trung đoàn bộ binh, 2 lữ đoàn thiết giáp, 5 liên đoàn biệt động quân, 3 lữ đoàn dù và 2 lữ đoàn thủy quân lục chiến. Nếu được tái trang bị, quân số tác chiến của QLVNCH có thể tăng thêm với các chiến binh thuộc các đơn vị còn lại sau các cuộc đụng độ trong tháng 3 tại Quân khu 1 và Quân khu 2 , nhưng điều này đòi hỏi thời gian. Tính đến ngày 1/4, lực lượng Cộng quân tại Nam Việt Nam trội vượt lực lượng QLVNCH với tỷ lệ 3 chọi 1. * Tình hình tại Quân khu 3 và Quân khu 4 của VNCH Trình bày về tình hình tại Quân khu 3 và Quân khu 4, Đại tướng Weyand ghi nhận như sau. Về mặt lãnh thổ (vào những đầu tháng 4/1975), Chính Phủ VNCH đã mất hết Quân khu 1, và gần hết Quân khu 2. Chính Phủ VNCH hiện còn nắm giữ một giải đất ven biển xuôi nam từ Cam Ranh đến biên giới Quân khu 3 Chiến Thuật, cộng thêm mảnh đất phía nam của tỉnh Tuyên Đức. Tỉnh Lâm Đồng thất thủ ngày 1/4, thành phố Đà Lạt được di tản ngày 2/4 và phần còn lại của tỉnh Tuyên Đức đang tan rã. Tại Vùng 3 Chiến Thuật, tỉnh Phước Long đã mất trong tháng 1. Trong tháng 3, lãnh thổ bị hao mòn thêm theo một vòng cung trải rộng 50 dậm phía tây, bắc và đông Sàigòn. Các cuộc đụng độ trong Quân khu 3 lẻ tẻ và, đôi khi mạnh nhưng tại đây, QLVNCH tương đối đứng vững trong ba tuần cuối tháng 3/1975. Tại Quân khu 3, vào đầu tháng 4/1975, các lực lượng QLVNCH chưa phải đối diện với một quân số địch đông đảo hơn. Mặc dù Cộng Sản đang gây áp lực mạnh tại nhiều khu vực (chẳng hạn, Tây Ninh và quanh Xuân Lộc) và rõ ràng đang toan tính những đợt tấn công mới, các lực lượng QLVNCH ghi nhận chung là đứng vững và chiến đấu cừ khôi, và đồng thời gây thiệt hại trầm trọng cho một số đơn vị Cộng Sản. Trong vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (Quân khu 4), không có mấy thay đổi trong mấy tuần cuối tháng 3/1975. Lực lượng tương quan không mấy chênh lệch. Tình hình chiến thuật có thể hao mòn nhanh chóng nếu các đơn vị Cộng Sản tăng thêm vào trong vùng hay nếu Chính Phủ VNCH điều động một trong ba sư đoàn hiện có mặt tại Quân khu 4 lên Quân khu 3. Về mặt quân sự, Chính Phủ VNCH ở trong thế thủ và bị vây hãm. Các thất bại trong tháng 3 và các hậu quả kéo theo sau- mất mát lãnh thổ, thương vong quân sự và dân sự, di chuyển to tát của hơn hai triệu dân di tản--đã ảnh hưởng tiêu cực nặng nề trên cơ cấu chính trị và xã hội của Nam Việt Nam. Sâu đậm tới mức độ nào thì không thể lường được, vì dân chúng Nam Việt Nam còn trong tâm trạng giao động mạnh và vì sự hiểu rõ điều gì đã xảy ra trong Quân khu 1 và 2 chưa được lan rộng tới, ngay cả tại Sàigòn, huống hồ là các vùng nông thôn thuộc Quân khu 3 hay Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long trù phú. *Ý định và kế hoạch của Cộng sản Bắc Việt Trong phần trình về kế hoạch của Cộng sản Bắc Việt, Đại tướng Weyand ghi nhận như sau. Khó có thể đoán được toan tính của Bắc Việt và có lẽ trung ương đảng CSVN của Hà Nội đang ráo riết thảo luận về những đường hướng hành động tới. Những bằng chứng hiện có cho thấy Hà Nội đang cân nhắc hai đường lối chính: a. Áp đặt nỗ lực tối đa để khai thác các chiến thuật mới đây và các lợi điểm hiện tại tại chiến trường của Quân đội Cộng sản Bắc Việt để phá đổ Chính Phủ VNCH và loại khử Chính Phủ này trên địa hạt một thực thể điều hành chính trị. b. Củng cố các thắng lợi mới và cố gắng tạo thêm một hay hai chiến thắng (chẳng hạn, đánh Sư Đoàn 25 QLVNCH và/hay đánh chiếm Tây Ninh)., rồi kêu gọi một thương thảo dẫn tới sự đầu hàng của Chính Phủ VNCH, đặt kế hoạch để đi tới một chiến thắng quân sự vào cuối năm 1975 hay 1976, nếu không dùng biện pháp chính trị để ép buộc Chính Phủ VNCH chịu chấp nhận một hình thức "chính phủ liên hiệp" khiến Cộng Sản thực sự kiểm soát được Nam Việt Nam trên bình diện chính trị. Từ khi ký kết Hiệp Định Ba Lê năm 1973, Hà Nội liên tục cải tiến khả năng quân sự tại Nam Việt Nam bằng cách liên tục cải tiến các hạ tầng cơ sở tiếp vận (đường xá, đường mòn, kho chứa, vân vân, tại Lào và tại Nam Việt Nam) và liên tục chuyển quân, tiếp liệu và quân cụ,tất cả vi phạm trắng trợn điều khoản 7 của Hiệp Định 1973. Hoạt động này lúc trồi lúc sụt trong suốt 26 tháng qua, nhưng không khi nào đình trệ. Trong mùa hè 1974, khi tình hình chung của vị thế Chính Phủ VNCH còn sáng sủa, sự tăng vận này của Bắc Việt có phần suy giảm. Nó bắt đầu tái phát mạnh ngay sau các biến chuyển chính trị tại Hoa Kỳ mùa hè năm ngoái và sau khi Quốc Hội cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam. Mức tiếp vận nhân sự và quân cụ từ Bắc Việt đổ xuống, và, do đó, khả năng của Cộng quân tại phần đất miền Nam, bắt đầu gia tăng vào cuối năm 1974. Nhịp độ gia tăng mạnh từ khởi đầu năm 1975 tiếp qua tháng 2 và tháng 3, và hiện thời thì đang ở mức độ tối đa. Chắc chắn Hà Nội đã có kế hoạch hành động tấn công ở một mức độ cao vào mùa xuân này. Nhìn lại, "Giai Đoạn I" của chiến dịch tháng Giêng (lấn chiếm tỉnh Phước Long), trong số các yếu tố khác, hình như là để trắc nghiệm xem Hoa Kỳ sẽ có phản ứng gì đối với hành động mà chính Hà Nội phải nhìn nhận là vi phạm trắng trợn Hiệp Định Ba Lê 1973. Xét theo hành vi tiếp sau của Cộng Sản, chẳng hạn, gia tăng quân số, du nhập các đơn vị trừ bị chiến lược của Cộng quân, tấn công Ban Mê Thuột với hai sư đoàn Cộng quân Bắc Việt (một sư đoàn thuộc đơn vị trừ bị chiến lược mới từ Hà Nội đưa xuống miền Nam) và hô hào lớn tiếng trong các nỗ lực tuyên truyền của Cộng Sản rêu rao Hoa Kỳ "bất lực"-hình như Hà Nội đã quyết định là HK quá bận tâm với các vấn đề khác để mà phản ứng mạnh đáng kể trước bất cứ điều gì Bắc Việt có thể làm tại Việt Nam. Các chỉ dụ của đảng CSVN, các chỉ thị của giới cao cấp tuyên bố trong tháng 1 và 2, và ngay qua tới tuần thứ ba của tháng 3 cho thấy ít ra mục tiêu khởi thủy của chiến dịch 1975 nhắm tới một thành quả không hẳn là toàn thắng-chẳng hạn, cải tiến vị trí lãnh thổ (có thể bao gồm chiếm đoạt thành phố Tây Ninh), đánh tỉa và đánh dằng dai các đơn vị QLVNCH, và gây áp lực toàn diện phủ đầu Chính Phủ VNCH. Mục tiêu chính của chiến dịch này hình như là đặt để Cộng Sản vào một tư thế thượng phong khiến CS có thể đòi buộc một thương thảo đưa tới một chính phủ liên hiệp, và, nếu điều này không xảy ra, khiến CS có thể phát động một cuộc tấn công "dứt điểm" vào năm 1976. Khó có thể lường được các mục tiêu của Hà Nội đã tăng vọt lên làm sao và tham vọng của họ đã gia tăng làm sao gây nên bởi các biến cố của mấy tháng qua tại Nam Việt Nam-và tại Hoa Kỳ, đặc biệt là chính Hà Nội cũng không có thì giờ để tiêu hóa những biến chuyển mới nhất đây. Tuy nhiên, mức độ đổ quân và tiếp liệu từ Bắc Việt xuống Nam Việt Nam cho thấy chắc chắn Hà Nội có ý định tiếp tục thúc đẩy lực lượng xâm lược viễn chinh tấn công.
VƯƠNG HỒNG ANH
|
|