|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:01:11 GMT -5
Khủng hoảng tài chánh: lý thuyết và thực tế Nguyễn Trường 18/01/2009 TẦM CỠ SUY THOÁITheo dự báo của Ngân Hàng Thế Giới (WB), công bố ngày 09-12-2008, kinh tế toàn cầu đang trên bờ một suy thoái hiếm hoi, với mậu dịch quốc tế, lần đầu tiên kể từ 1982, sẽ sụt giảm, và dòng chảy tư bản vào các xứ đang phát triển cũng mất khoảng 50% trong năm 2009. Những dự phóng nầy là một trong nhiều tiên đoán ảm đạm về kinh tế thế giới, và các quan chức WB còn cảnh báo cơn suy thoái sẽ xô đẩy các xứ đang phát triển vào nạn khủng hoảng và hàng triệu người vào cảnh đói nghèo. Điều đáng lo hơn là người ta không tìm thấy một xứ nào có thể làm đầu tàu lôi kéo kinh tế thế giới trở lại hồi phục. Ngay cả sau khi ra khỏi khủng hoảng hiện nay, giới tiêu thụ Hoa Kỳ cũng khó lòng trở lại thói quen tiêu xài lúc trước. Với sự sụt giảm sâu xa trong tiến độ tăng trưởng, giới tiêu thụ Trung Quốc (TQ) sẽ không thể bù vào lỗ hổng do người Mỹ để lại. Giá dầu sụt giảm - hậu quả phụ của suy thoái - cũng chẳng làm gia tăng số chi tiêu của giới tiêu thụ trong các xứ xuất khẩu dầu. Tóm tắt các dự báo nói trên, Justin Lin, kinh tế trưởng WB, đã tuyên bố: "Chúng ta biết, cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay có chiều hướng trở nên tồi tệ nhất kể từ thập kỷ 1930s" . WB dự báo kinh tế toàn cầu sẽ chỉ gia tăng 0,9% vào năm 2009, so với 2,5% năm 2008 và 4% năm 2006. Đây là tỉ suất tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1982 khi kinh tế toàn cầu chỉ tăng trưởng 0,3%. Các nước đang phát triển sẽ tăng trưởng khoảng 4,5% năm 2009 - một tỉ suất gây nên suy thoái - vì các xứ nầy cần phải tăng trưởng nhanh để tạo thêm công ăn việc làm cho dân số gia tăng. Theo Hans Timmer, người phụ trách phân tích và dự báo kinh tế của WB, chúng ta không cần một tỉ suất tăng trưởng âm trong các xứ đang phát triển để lâm vào tình trạng suy thoái. Timmer tiên đoán, thất nghiệp sẽ gia tăng và nhiều công xưởng sẽ đóng cửa trong hầu hết các xứ nầy. Dung lượng thương mãi quốc tế, gia tăng 9,8% năm 2006 và ước tính khoảng 6,2% năm 2008, sẽ sụt giảm còn khoảng 2,1% năm 2009, theo bản phúc trình. Sự sụt giảm, như vậy, sẽ sâu xa không mấy kém nhịp suy thoái lần chót: 1,9% vào năm 1975. Đầu tư tư nhân vào các xứ đang phát triển được dự phóng sụt giảm còn 530 tỉ USD vào năm 2009, so với 1.000 tỉ trong năm 2007. Số tư bản mất mát nầy sẽ làm sụt giảm đáng kể số đầu tư trong các nền kinh tế thị trường đang lên, với nhịp gia tăng đầu tư hàng năm tụt xuống mức 3,5% trong năm 2009 so với 13,2% năm 2007. Một số quốc gia đang bị thương tổn vì giá dầu và hàng hóa sụt giảm - một hiện tượng WB xem như đánh dấu một giai đoạn năm năm tăng giá đã chấm dứt - mặc dù sự sụt giá nhiên liệu và thực phẩm đã có lợi cho dân chúng trong một vài xứ. Sự sụt giảm bất thần trong dòng chảy tư bản đặc biệt gây khó khăn cho các xứ xuất khẩu dầu vì vài xứ trong nhóm đã vay nợ chồng chất. Những xứ nầy, theo Simon Johnson, nguyên kinh tế trưởng Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), cần phải tái tục số nợ một cách nào đó. Điều nầy đã xô đẩy các xứ liên hệ vào một tình thế ngặt nghèo. Cũng theo Johnson, sự bình lặng khác thường trên các thị trường quốc ngoại chỉ phản ảnh tình hình đang trầm trọng. Chừng mức phổ biến của các gói credit default swaps - một mực thước chung để xét đoán hiểm họa phá sản của chính quyền một xứ - đang tiếp tục phơi bày bằng chứng những khó khăn tiềm tàng của các xứ Ireland, Italy và Greece. Nhà cầm quyền Greece, vào đầu tháng 12-2008, đã phải đối đầu với các cuộc biểu tình, bạo động, phản đối, trên các đường phố ở Athens và các vùng ngoại ô, một phần cũng do kinh tế ngày một suy thoái. Phản ảnh kinh nghiệm trước đây, WB đã khuyến cáo các quốc gia thành viên phải có chương trình kích thích kinh tế tài chánh rộng lớn để giảm thiểu tác động suy thoái. Chính WB cũng đã cam kết 100 tỉ trong chương trình hỗ trợ các xứ đang phát triển trong vòng ba năm. Điều an ủi trong toàn cảnh suy thoái là giá nhiên liệu và thực phẩm xuống thấp đã làm nhẹ bớt gánh nặng cho các xứ nghèo. Trong khi giá hầu hết sản phẩm các loại đã sụt giảm nhanh chóng từ tháng 7-2008, mức giá vẫn còn cao hơn trong thập kỷ 1990s, nhờ đó, có thể tránh được nạn khan hiếm trong số cung tương lai. Các chuyên viên WB nhận thấy cuộc suy thoái lần nầy có nhiều nét tương đồng với cuộc đại khủng hoảng trong thập kỷ 1930s hơn là những lần thoái trào nghiêm trọng trong hai thập kỷ 1970s và 1980s. Như Timmer đã nhận xét, đây không phải chỉ là một cú sốc trong số cung hay một sự giảm cầu, đây chính là sự thiếu vắng thanh khoản . Trong một dự báo vào đầu tháng 12-2008, ngân hàng Deutsche Bank còn bi quan hơn. Theo ngân hàng Đức nầy, nhịp tăng trưởng toàn cầu sẽ sụt giảm còn 0,2% vào năm 2009, với Hoa Kỳ, Âu châu, và Nhật đều suy thoái nghiêm trọng như nhau. TQ tăng trưởng 11,9% năm 2007, sẽ chậm lại ở mức 7% năm 2009, và 6,6% năm 2010 trong khi phần lớn thế giới còn lại sẽ từ từ phục hồi một cách chậm chạp. Theo Thomas Mayer, kinh tế trưởng Âu châu của Deutsche Bank, sẽ không có một mồi lửa nhen nhúm tái khởi động số cầu toàn cầu; chúng ta đang ở trong một lỗ hổng không khí và không có lấy một xứ làm đầu tàu dẫn đầu quá trình tăng trưởng kinh tế . NGUYÊN NHÂN SUY THOÁITháng 3-2005, Ben S. Bernanke, giáo sư kinh tế Đại Học Princeton, người giữ chức vụ chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang kể từ năm 2006, đã đưa ra một lý thuyết mới giải thích khuynh hướng vay mượn nước ngoài, đặc biệt là từ TQ, ngày một gia tăng của người Mỹ, để tài trợ chi tiêu. Theo ông, vấn đề không phải người Mỹ chi tiêu quá nhiều, mà người nước ngoài tiết kiệm quá nhiều. Người TQ đã tích lũy tiết kiệm thặng dư nhiều đến nỗi họ cho Hoa Kỳ vay với lãi suất thấp, và tài trợ chi tiêu phung phí ở Hoa Kỳ. Theo Bernanke, chu kỳ tín dụng khổng lồ nầy không thể kéo dài vô tận. Nhưng trong kinh tế toàn cầu, hiện tượng di chuyển tiền tiết kiệm từ TQ qua Hoa Kỳ là một hiện tượng thị trường trải dài trong nhiều năm, đôi khi cả một thập kỷ, mới hoàn tất. Trong hiện tình, có thể người Mỹ không còn lựa chọn nào khác hơn là phải kiên nhẫn. Ngày nay, sự lệ thuộc của Hoa Kỳ vào tín dụng TQ không còn có vẻ vô hại như trước. Và chính Bernanke, trong tư cách chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, đang phải đối mặt với những hậu quả, sau khi nguồn tín dụng nầy chồng chất lên một mức quá cao. Trong vòng 10 năm qua, TQ đã đầu tư tới 1,000 tỉ USD, phần lớn từ xuất khẩu sản phẩm chế biến, vào các trái phiếu của chính quyền Hoa Kỳ và các chứng khoán với thế chấp bất động sản được nhà nước bảo đảm. Số tiền nầy đã giúp hạ thấp lãi suất, và tài trợ lối chi tiêu xài phí mang tính lịch sử, cũng như bong bóng bất động sản, ở Hoa Kỳ. Như một số kinh tế gia thường nói, TQ đã quyến rũ giới tiêu thụ và lãnh đạo Mỹ đi vào con đường tiêu pha hoang phí. Kenneth S. Rogoff, giáo sư kinh tế Harvard, nhận định "đây là lúc đèn đỏ nhấp nháy. Lẽ ra chúng ta đã phải có phản ứng ". Bây giờ nhìn lại, nhiều kinh tế gia quả quyết, Hoa Kỳ lẽ ra đã phải nhận chân được biện pháp vay mượn nước ngoài để tiêu pha và cân bằng ngân sách liên tục khiếm hụt không phải là phương thức đi đến thành công kinh tế. Tuy nhiên, ngay cả khi nhược điểm nầy ngày một được nhiều người nhìn nhận, Hoa Kỳ vẫn có khuynh hướng ngày một trông cậy vào các trái chủ nước ngoài để tài trợ chi tiêu công kỷ lục nhằm phục hồi nền kinh tế đổ vỡ. Đã hẳn, phương cách cứu chữa có sẵn cũng rất hiếm hoi. Một số người đưa ra luận cứ, Hoa Kỳ lẽ ra đã có thể gây sức ép mạnh mẽ hơn, buộc Bắc Kinh phải từ bỏ chính sách giữ giá trị đồng nhân dân tệ quá thấp - một chính sách giữ giá hàng xuất khẩu thấp và giúp TQ trở thành cường quốc kỹ nghệ chế biến hàng đầu thế giới. Nếu trong thập niên vừa qua, TQ chịu chấp nhận thả nổi đơn vị tiền tệ của mình theo luật cung cầu của thị trường, số xuất khẩu chắc đã tăng trưởng với một tỉ suất vừa phải. Và có lẽ TQ đã không thể tích lũy một số mỹ kim khổng lồ để đầu tư ở nước ngoài như hiện nay. Một số khác lại cho rằng Cục Dự Trữ Liên Bang và Bộ Ngân Khố lẽ ra đã phải hết sức trân quí việc trái chủ TQ đã đem lại một kích thích khổng lồ cho nền kinh tế Mỹ, không như biện pháp cắt giảm lãi suất của Cục Dự Trữ Liên Bang. Họ chỉ trích Cục Dự Trữ, dưới sự lãnh đạo của Alan Greenspan, đã tạo ra bong bóng bất động sản qua hành động duy trì lãi suất quá thấp trong một thời gian quá dài, ngay cả khi đầu tư TQ đã khơi dậy một nền kinh tế tràn ngập thanh khoản rẻ tiền (an easy-money economy). Greenspan đáng lẽ đã phải cắt lãi suất ít hơn vào giữa thập kỷ và bắt đầu tăng lãi suất sớm hơn để giảm thiểu nạn đầu cơ vào bất động sản. Ngày nay, trong bối cảnh tan vỡ, chủ tịch Bernanke tỏ ý tiếc rẻ đã không quy hoạch chặt chẽ và giám sát khắt khe hơn các định chế tài chánh và các nhà cung cấp tín dụng bất động sản, và như thế, đã có thể ngăn ngừa làn sóng đầu tư, kể cả đầu tư từ TQ , khỏi bị lạm dụng như đã xẩy ra trong thực tế. Tuy nhiên, Bernanke cũng nói thêm, vai trò của Cục Dự Trữ cũng chỉ giới hạn trong khu vực ngân hàng, và một sự quy hoạch, giám sát chặt chẽ, của riêng khu vực ngân hàng, cũng chưa chắc đã đủ để đem lại kết quả mong muốn. Trong một cuộc phỏng vấn, Bernanke chỉ chịu công nhận: "Thành đạt một sự quân bình các nguồn vốn đầu tư quốc tế sớm sủa hơn có lẽ đã có thể giảm bớt đáng kể những bất trắc đối với hệ thống tài chánh" . "Tuy nhiên", ông nói tiếp, "điều nầy chỉ có thể thực hiện qua sự hợp tác quốc tế, chứ không thể chỉ do một mình Hoa Kỳ. Vấn đề đã được nhận diện, nhưng chưa có một sự hợp tác quốc tế đầy đủ" . Sự bất động, vì vậy, là do nhiều nguyên nhân chính trị cũng như kinh tế. Từ nhiều góc cạnh - thịnh vượng và tăng trưởng - quan hệ giữa TQ và Hoa Kỳ cũng có vẽ có lợi cho cả đôi bên. Cả hai đều không có đủ lý do hay động lực đủ mạnh để bẻ gãy vòng lẩn quẩn nghiện ngập. Đối với TQ, đó là tăng trưởng và ổn định tài chánh; đối với Mỹ, đó chính là nhập khẩu với giá rẻ và vay mượn nước ngoài với lãi suất thấp. Ở Hoa Thịnh Đốn, vài người xem TQ như một đe dọa, nhất là vì TQ đã thu hút công ăn việc làm trong kỹ nghệ chế biến. Một số khác đưa ra luận cứ, sự kiện TQ cho Hoa Kỳ vay mượn quá nhiều là nguy hiểm, bởi lẽ các lãnh đạo TQ có thể bất thần quyết định rút tiền, như vậy, sẽ tạo hoảng loạn đưa đến sự sụp đổ của đồng Mỹ kim. Bernanke nhìn những luồng đầu tư quốc tế qua một lăng kính khác. Ông lập luận, TQ đem tiền tiết kiệm đầu tư ở nước ngoài vì lẽ giới tiêu thụ ở TQ không đủ lòng tin ở tương lai để chi tiêu. Thay đổi tình trạng đó phải mất nhiều năm, và cũng không phải là một vấn đề cấp thiết đối với người Mỹ. Theo Edwin M. Truman, một viên chức Cục Dự Trữ Liên Bang trước đây,"câu chuyện tiết kiệm toàn cầu thừa thãi đã tác động không tốt đối với cộng đồng chúng ta. Nó đã tạo ra ý tưởng sai lầm thế giới đã đối xử với chúng ta như vậy và để đáp lại, chúng ta chẳng thể làm được gì " . Lý thuyết của Bernanke phản ảnh trung thành ý thức hệ thị trường tự do - chính quyền không nên can thiệp, một chính quyền thu gọn - đang ngự trị trong những năm gần đây. Alan Greenspan và chính quyền Bush luôn xem khuy khiếm kỷ lục trong cân thương mãi và vay mượn quá nhiều từ nước ngoài chỉ là một mối đe dọa trừu tượng, không phải là một vấn đề cấp thiết. Bernanke, sau khi nắm quyền lãnh đạo Cục Dự Trữ Liên Bang, đã cảnh báo tình trạng mất quân bình giữa các quốc gia ngày một trở nên trầm trọng. Nhưng lúc đó, mọi chuyện đều đã quá trễ để hành động. Và Tòa Bạch Ốc vẫn xem đó là một đề tài chuyên môn mang tính hàn lâm, tốt hơn nên để cho các kinh tế gia lo liệu. Tự nó, nguồn vốn ngoại nhập từ TQ không phải là một điều xấu. Như các viên chức trong chính quyền Mỹ thường thích cường điệu, điều đó chỉ nói lên sự thật Hoa Kỳ luôn là điểm đến đầy hấp dẫn đối với giới đầu tư ngoại quốc. Trong thế kỷ 19, Hoa Kỳ đã xây dựng hệ thống đường sắt với tiền vay của người Anh... Trong thập kỷ vừa qua, TQ đã giúp đem lại thịnh vượng cho Hoa Kỳ. Hàng hóa rẻ tiền từ TQ đã giúp kìm hãm lạm phát trong khi nguồn tư bản đầu tư dồi dào từ TQ đã giúp tài trợ tín dụng bất động sản và công trái lên đến gần 11.000 tỉ của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ đã không sử dụng tiền nhẹ lãi do đầu tư TQ cung cấp để xây dựng một hệ thống đường sắt với kỹ thuật của thế kỷ 21. Thay vào đó, chính quyền Hoa Kỳ đã phát động cuộc chiến xâm lăng tốn kém chiếm đóng Iraq, và giới tiêu thụ Mỹ dùng nguồn tín dụng dễ dãi vào việc tạo mãi xe thể thao SUV và nhà cao cửa rộng. Giới ngân hàng và đầu tư, tham lam kiếm lời cao và nhanh chóng trong môi trường làm tiền dễ dàng, đã sáng tạo nhiều thủ thuật tài chánh đầy rủi ro bất trắc như các loại chứng khoán có thế chấp. Không một ai thực sự muốn dứt bỏ hai loại thuốc ghiền: sản phẩm rẻ tiền và tín dụng lãi thấp của TQ. Cung và Cầu Thuốc Ghiền - Chuyện Tình Hoa Kỳ-Trung Quốc Trước đây, Hoa Kỳ đã từng ở trong tình cảnh tương tự. Trong thập kỷ 1980s, nước Mỹ đã vay nợ của Nhật khá nhiều dưới hình thức trái phiếu ngân khố, vì cân thương mãi mất quân bình do xuất khẩu không đủ bù đắp nhập khẩu. Hồi đó, sự khuy khiếm trong cân thương mãi hữu hình đã được xem như một đe dọa đối với thế lực kinh tế của Mỹ. Biện pháp cứu chữa được lựa chọn là Thỏa Ước Plaza 1985 (lấy tên khách sạn Plaza Hotel ở New York, nơi ký kết). Hoa Kỳ đã "thuyết phục" các cường quốc kinh tế (Nhật) can thiệp vào thị trường tiền tệ nhằm hạ giá đồng Mỹ Kim và tăng giá đồng Yen Nhật Bản, kết quả đã đưa kinh tế Nhật vào suy thoái trong suốt thập kỷ sau đó. Biện pháp nầy đã giúp đà khuy khiếm thương mãi ở Mỹ chậm lại trong một thời gian. Ngược lại, sự tái định giá đồng Yen ở một mức cao đã chận đứng đà tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở Nhật. Bài học Thỏa Ước Plaza luôn ám ảnh TQ, lúc đó đang trỗi dậy như một cường quốc xuất khẩu. TQ ngày nay liên kết với Hoa Kỳ còn chặt chẽ hơn cả Nhật trước đây. Năm 1995, TQ phá giá đồng nhân dân tệ và chọn một hối suất 8,3 nhân dân tệ một USD, một hối suất cố định trong một thập kỷ. Trong cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu 1997-98, TQ vẫn không thay đổi chính sách tiền tệ, và đã được chính quyền Clinton ca tụng là đã giúp chận đứng làn sóng thi đua phá giá ở Á châu. Với phí lao động thấp, TQ đã thu hút hàng trăm tỉ USD đầu tư ngoại quốc. Vào đầu thập kỷ 2000s, Hoa Kỳ đã nhập khẩu ồ ạt hàng TQ, như đồ chơi, giày dép, truyền hình màn ảnh phẳng, phụ tùng xe hơi.., trong khi đổi lại chẳng xuất khẩu được nhiều đến TQ. Đối với giới tiêu thụ, đây là một điều lợi do hàng hóa dồi dào và giá rẻ, và TQ rõ rệt đã giúp kiềm hảm áp lực lạm phát ở Mỹ. Nhưng theo lý thuyết kinh tế cổ điển, khuy khiếm lâu dài trong cân thương mãi sẽ đưa kinh tế Hoa Kỳ đến chỗ phá sản, trừ phi TQ tiếp tục bơm "ngạch số xuất siêu" trở lại Mỹ. Điều nầy đồng thời cũng giúp bảo vệ quyền lợi của chính TQ. Chính quyền TQ kiểm soát chặt chẽ khu vực ngân hàng và khối tiền tệ lưu hành, nhằm bảo đảm sự ổn định tài chánh. Các ngân hàng cũng như các tư nhân bắt buộc phải ký thác phần lớn số ngoại tệ, chính yếu là Mỹ kim, do xuất siêu và đầu tư ngoại quốc, vào hệ thống ngân hàng nhà nước. Cùng với phát triển ngoại thương, số ngoại tệ tích lũy ngày một gia tăng nhanh chóng, từ dưới 200 tỉ vào năm 2000 đã vượt quá 2,000 tỉ USD vào giữa năm 2008. TQ đã lựa chọn đầu tư phần lớn con số nầy vào trái phiếu ngân khố và tín dụng dành cho Fannie Mae và Freddie Mac, với sự bảo đảm mặc nhiên của chính phủ Hoa Kỳ. Điều nầy không những cho phép Hiệp Chủng Quốc tiếp tục tài trợ số khiếm hụt trong cân thương mãi hữu hình, và qua số cầu trái phiếu ngân khố gia tăng, còn giúp giữ lãi suất ở một mức thấp hơn lãi suất lẽ ra rất cao nếu không có số đầu tư khổng lồ của TQ. Trong nhiều năm, chính quyền TQ đã luôn phấn khởi mua các trái phiếu của chính phủ Hoa Kỳ với một lãi suất quá thấp, so với khu vực tư. Mối quan hệ tài chánh, thương mãi giữa hai quốc gia khắng khít đến nỗi Niall Ferguson, một sử gia tài chánh, đã đặt cho cặp nhân tình Mỹ-TQ cái tên "Chimerica". Tuy nhiên, quan hệ nầy trong thực tế không hề dễ chịu với cả hai bên, mặc dù vì những lý do khác nhau. Về phía Hoa Kỳ, nhiều người lo ngại về hàng hóa rẻ tiền của TQ hơn là tín dụng với lãi suất thấp. Năm 2003, số thặng dư của TQ đối với Mỹ tăng vọt, và các nhà lập pháp lưỡng viện rất âu lo. Thượng nghị sĩ Graham và TNS dân chủ New York Charles E. Schumer đã đệ trình quốc hội một dự luật đe dọa áp đặt một mức thuế quan 27% lên hàng hóa TQ. Về phía TQ, Ngân Hàng Nhân Dân Trung Quốc (ngân hàng trung ương) cũng đã có sự đồng thuận vào cuối năm 2004: TQ nên tách đồng nhân dân tệ khỏi đồng Mỹ kim. Hành động nầy có thể làm tăng giá hàng xuất khẩu. Yu Yongding, một cố vấn kinh tế cao cấp, thúc đẩy đi theo hướng nầy. Ông cảnh cáo, sự khuy khiếm trong cân thương mãi và ngân sách của Mỹ không thể tiếp diễn, và giữ giá đồng nhân dân tệ ở một mức thấp giả tạo và quá lệ thuộc vào chính sách xuất khẩu hàng với giá rẻ, là việc làm sai lầm. Họ đưa ra luận cứ, chính sách hối đoái của TQ đã không cho phép giới tiêu thụ trong nước hưởng những thành quả của thịnh vượng. Bắc kinh đang đầu tư tiền tiết kiệm của mình vào các loại chứng khoán công với lợi nhuận thấp. Và với đơn vị tiền tệ yếu, người TQ không đủ sức mua sắm hàng ngoại. Zhou Xiaochuan, thống đốc ngân hàng trung ương, là một trong số những người ủng hộ biện pháp tái định giá đồng nhân dân tệ lên một bậc cao đáng kể. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh, dưới áp lực nặng nề của Quốc Hội Mỹ và Tòa Bạch Ốc, quyết định điều chỉnh chính sách hối đoái vào năm 2005, nhà cầm quyền TQ đã hành động một cách quá cẩn trọng. Đồng nhân dân tệ chỉ được phép tăng 2%. Đảng Cộng Sản chỉ chấp thuận điều chỉnh từng bước nhỏ mô hình kinh tế sau một thập kỷ tăng trưởng nhanh chóng. Rút cuộc, có rất ít đổi thay: xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng nhanh, và tư bản vẫn được đổ vào các nhà máy sắt thép và các công xưởng may mặc. Tuy nhiên, vào thời điểm đó các quan chức Mỹ lại bớt gây áp lực. Họ quyết định thúc đẩy giới tiêu thụ TQ gia tăng chi tiêu số tiết kiệm kếch sù, với hy vọng lâm thời vãn hồi phần nào quân bình giữa hai nền kinh tế. Trong một chuyến công du ở TQ, John W. Snow, bộ trưởng Ngân Khố đương nhiệm, còn thúc đẩy người TQ nên khởi sự dùng cả thẻ tín dụng. TQ, tự họ, cũng đã khởi sự vận động và khuyến khích gia tăng chi tiêu quốc nội. Tuy nhiên, dân TQ vẫn nhiệt tình tiết kiệm, không mấy khác người Mỹ đã rất nhiệt tình chi tiêu, mãi cho đến khi cuộc khủng hoảng hiện nay bắt đầu. Mạng lưới an sinh xã hội của nhà nước Cộng Sản cũ nay không còn nữa, người dân TQ phải tự lo dành giụm để lâm thời trả bệnh viện phí, tiền nhà, hay hưu trí. Đó chính là số tiết kiệm dồi dào Ben Benanke đã khám phá. Trong những cuộc gặp gỡ riêng, các viên chức TQ đã thú nhận với các đối tác Mỹ là nỗ lực của họ đã chỉ gặt hái được rất ít kết quả. Thứ trưởng ngoại giao Robert B. Zoellick, người đã thương thuyết với TQ, đã phát biểu: "Đôi khi thật khó lòng thay đổi những mô hình thành công. Và mô hình nầy khá thành công, nhưng bây giờ quý vị phải thay đổi nó" . Ở Hoa Thịnh Đốn, nhiều người phàn nàn chẳng làm được gì đáng kể. Một viên chức Bộ Ngân Khố trước đây, Timothy D. Adams, đã từng thúc dục IMF hành động như một cơ quan giám sát chặt chẽ các động thái nhào nặn chính sách tiền tệ cuả TQ, một việc làm có lẽ đã có thể gây sức ép toàn cầu hữu hiệu hơn đối với TQ. Năm 2006, sau khi lên thay thế John W. Snow trong chức vụ bộ trưởng Ngân Khố, Henry M. Paulson đã gạt IMF ra ngoài và tự mình trực tiếp điều khiển chính sách đối với TQ. Trong tư cách ngân hàng gia đầu tư của Goldman Sachs, Paulson trước đó đã qua thăm TQ 70 lần. Ngay trong văn phòng của Paulson, người ta thấy hiện diện một bức tranh thủy mạc mô tả thành phố quê hương của nguyên thủ tướng đầy quyền uy Dương Diên Nghị (Zhu Rongji). Trong một cuộc phỏng vấn, Paulson nói: "Tôi đã nhấn mạnh vấn đề nhân dân tệ vì tôi tin điều quan trọng là TQ cần để thị trường quyết định hối suất đơn vị tiền tệ của mình" . Nhưng Paulson cũng thú nhận, ông đã không đạt được điều mong muốn. Vào cuối năm 2006, Paulson đã mời Bernanke tháp tùng trong một chuyến công du Bắc Kinh. Nhân dịp nầy, Bernanke đã đọc một bài diễn văn trực ngôn trước Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội, khuyến cáo TQ nên tái định hướng kinh tế và tái định hối suất đồng nhân dân tệ. Tuy nhiên, vào phút chót, Bernanke đã xóa bỏ đoạn đề cập đến hối suất như một biện pháp trợ giá hàng xuất khẩu, tránh tạo bằng cớ cho sự khả dĩ khiếu kiện thương mãi chống lại TQ. Cũng trong chiều hướng nầy, nhiều người đã khám phá trong hai phúc trình thường niên về các đối tác thương mãi trước Quốc Hội, Bộ Ngân Khố không bao giờ trực tiếp chỉ trích TQ đã dùng hối suất như một biện pháp trợ giá hàng xuất khẩu. Theo lời Thea M. Lee, giám đốc đặc trách chính sách công của Liên Đoàn AFL-CIO, "chúng ta luôn nhón gót đi quanh, tìm cách tránh né để khỏi làm phật lòng hay gây khó chịu cho người TQ. Nhưng muốn đạt kết quả cụ thể, bạn phải trực diện đối đầu" . Đối với TQ cũng thế. Với cuộc khủng hoảng hiện nay, nhiều người cảm thấy đã đến lúc phải tính sổ. Người Mỹ hiện mua ít máy chơi DVD và lò vi ba của TQ. Mậu dịch sụp đổ, và hàng nghìn công nhân mất việc. Cấp lãnh đạo TQ rất âu lo khủng hoảng kinh tế có thể đưa đến xáo trộn xã hội. Sau khi cho phép đồng nhân dân tệ tăng giá chút đỉnh sau năm 2005, giờ đây, chính quyền TQ đang chịu áp lực quốc nội mạnh mẽ đòi hỏi phải đảo ngược chính sách và phá giá tiền tệ. Số phận của TQ đang bị buộc chặt vào số phận của Hoa Kỳ và ngược lại. Trong một căn phòng tại trụ sở ở Hoa Thịnh Đốn, Bộ Ngân Khố đang tổ chức bán đấu giá hầu như hàng ngày hàng tỉ trái phiếu quốc gia. Trong năm năm qua, TQ luôn là một trong những khách hàng tham gia đấu giá sộp nhất. TQ đang nắm trong tay 652 tỉ trái phiếu ngân khố so với 459 tỉ trước đây một năm. Nếu kể cả số trái phiếu Fannie Mae và Freddie Mac, TQ hiện đang nắm giữ khoảng 10% tổng số công trái của Hoa Kỳ. Bộ Ngân Khố hiện vẫn tiếp tục bán đấu giá trái phiếu Ngân Khố để tài trợ chương trình 700 tỉ cứu nguy hệ thống ngân hàng; và còn tiếp tục bán đấu giá nhiều hơn nữa để kiếm đủ tiền cho chương trình kích thích kinh tế của chính quyền Obama sắp nhận chức. Hoa Kỳ còn phải lệ thuộc vào người TQ tiếp tục mua trái phiếu, kéo dài thói quen sống trên khả năng tài chánh của người Mỹ. Người ta đang chứng kiến một điều trớ trêu và nghịch lý: thông thường chỉ nước giàu mới cho nước nghèo vay; giờ đây ngược lại: nước nghèo lại trở thành trái chủ của nước giàu. Ngay trong bối cảnh đó, Paulson vẫn luôn xem cuộc tranh luận về tình trạng mất thăng bằng toàn cầu như những sinh hoạt mang tính hàn lâm vô vọng. Paulson tin, Bernanke hay bất cứ người nào khác cũng chẳng thể giải quyết vấn đề khi nó đang manh nha diễn tiến. Paulson nói: "Một bài học tôi rõ ràng đã học được là không một ai có thể thành đạt một đổi thay, hay cải cách, hay hành động quan trọng, trừ phi đang phải đối mặt với khủng hoảng" .
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:05:54 GMT -5
Giải Pháp Đang Tranh Cãi Nền kinh tế đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua. Giải pháp thông thường cho suy thoái kinh tế - cắt giảm lãi suất - đã tỏ ra vô hiệu. Sự trợ giúp sâu rộng của chính quyền hình như là phương cách duy nhất để chận đứng khủng hoảng. Nhưng trước hết, một trở lực cần được san bằng: các chính trị gia phe bảo thủ, vẫn còn bám víu một ý thức hệ lỗi thời, đang tìm mọi cách cản trở hành động. Vào thượng tuần tháng 12-2008, nghị sĩ bang Tennessee - nơi có tổng hành dinh công ty Nissan - cùng các nghị sĩ phe Cộng Hòa, đã chận đứng kế hoạch mua thêm thời gian cho kỹ nghệ xe hơi. Một điện thư luân lưu trong nội bộ nhóm nghị sĩ Cộng Hòa nói rõ, đây là cơ hội để tuyên chiến với các nghiệp đoàn lao động. Ở Đức, thủ tướng Angela Merkel và các cố vấn kinh tế cũng là lực lượng đối kháng lớn nhất đối với kế hoạch thiết yếu cứu cấp Âu châu. Trong thực tế, Liên Hiệp Âu châu - EU cũng là một siêu cường kinh tế với một GDP tương đương với Hoa Kỳ - cũng đang lâm vào tình trạng suy thoái không mấy khác Hoa Kỳ. Đã hẳn, những vấn đề cấp thiết hình như chỉ đang xẩy ra ở ngoại vi Âu châu khi các nền kinh tế nhỏ đang trải nghiệm khủng hoảng tương tự các cuộc khủng hoảng trước đây ở châu Mỹ La Tinh và Á châu: Latvia là một Argentina mới; Ukraine là một Indonesia mới. Nhưng các nền kinh tế lớn ở Tây Âu cũng đang bị ảnh hưởng rõ rệt: Anh, Pháp, Ý, và ngay cả nền kinh tế lớn nhất Âu châu - Đức. Cũng như ở Mỹ, chính sách tiền tệ - cắt giảm lãi suất để kích cầu - đã tỏ ra không mấy hiệu quả. Do đó, con đường duy nhất còn lại để ngăn ngừa nạn suy thoái trầm trọng nhất kể từ cuộc đại khủng hoảng 1929-1933, là một giải pháp tài chánh thuế khóa táo bạo: gia tăng công chi hay giảm thuế để kích cầu. Hiện nay, mọi người - trừ Đức- đều nhất trí cần có một chương trình tài chánh thuế khóa rộng lớn nhằm kích thích kinh tế liên-Âu châu. Thật vậy, Thủ Tướng Merkel đã cho biết nếu có một chương trình cứu nguy kinh tế Âu châu, bà không muốn dự phần. Bà đã tuyên bố trong một cuộc meeting "chúng ta sẽ không tham dự trong cuộc chạy đua bạc tỉ vô nghĩa nầy" . Trước đó, Peer Steinbruck, bộ trưởng tài chánh trong chính phủ Merkel,còn đi xa hơn. Không chỉ bằng lòng với việc từ chối một kế hoạch kích thích kinh tế đứng đắn cho Đức, Steinbruck còn tố cáo các kế hoạch cứu nguy của các xứ Âu châu khác. Ông còn đặc biệt lên án Anh quốc đã theo đuổi lý thuyết ngây ngô của Keynes (crass Keynesianism). Các nhà lãnh đạo Đức hình như tin tưởng kinh tế Đức không bị ảnh hưởng suy thoái và không cần đến cứu trợ. Tuy nhiên, điều tai hại không phải ở chỗ phán đoán sai lầm tình hình kinh tế Đức, mà ở chỗ sự chống đối của Đức đã gây trở ngại cho một kế hoạch chung của Âu châu để đối phó với khủng hoảng kinh tế. Nếu một xứ thành viên EU hành động đơn phương qua các biện pháp cắt giảm thuế hay đầu tư vào các sản phẩm công, trong khi không có một kế hoạch kích thích kinh tế chung của EU, phần lớn chương trình kích thích kinh tế sẽ rò rỉ sang các nước thành viên láng giềng, và rút cuộc, thành viên liên hệ sẽ chỉ gánh thêm nợ mà chẳng tạo được mấy công ăn việc làm cho chính dân mình. Đối với nền kinh tế của EU nói chung, điều nầy có nghĩa: một nỗ lực kích thích kinh tế phối hợp của EU, trong đó mỗi xứ thành viên có thể chờ đợi những thành viên khác đóng góp phần mình, sẽ có tác động lớn lao đối với đồng Euro hơn là những nỗ lực riêng thiếu phối hợp của từng xứ. Cố nhiên, EU không thể có một kế hoạch kích cầu phối hợp nếu nền kinh tế lớn nhất Âu châu không những từ chối không tham gia mà còn xem nhẹ những nỗ lực chế ngự khủng hoảng của các xứ láng giềng. Ifo, một viện nghiên cứu rất uy tín, trong tháng 12-2008, đã cảnh báo: Đức quốc chẳng bao lâu nữa sẽ phải đối diện với một cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất kể từ thập kỷ 1940s. Nếu và khi điều nầy xẩy ra, thủ tướng Merkel và nội các của bà chắc chắn sẽ phải xét lại lập trường của Đức. Nhưng ở Âu châu cũng như ở Hoa kỳ, yếu tố quan trọng là thời gian. Khắp thế giới, kinh tế các nước đang suy thoái nhanh chóng trong khi mọi người đang chờ đợi một ai đó sẽ đưa ra một chính sách đối phó hiệu quả. Nhiều người tự hỏi thế giới còn phải chịu bao nhiêu khó khăn tai hại trước khi tìm được lối thoát khỏi khủng hoảng. Thay Lời Kết Luận: Lý Thuyết Keynes Và Khủng Hoảng Kinh Tế Tổng Thống đắc cử Barack Obama và Quốc Hội với phe Dân Chủ chiếm đa số đang trong quá trình soạn thảo một chương trình cứu nguy hệ thống kinh tế tài chánh. Phe Cộng Hòa bảo thủ cũng đang chuẩn bị kế hoạch chống đối. Họ chủ trương một nhà nước thu hẹp với quyền hành hạn chế (chống đối các biện pháp giải nguy, các cơ chế giám sát, vạn bất đắc dĩ, chỉ chấp nhận giảm thuế tổng quát). Họ chống đối một nhà nước mở rộng và nhiều uy quyền (chống đối các chương trình kích thích kinh tế và các đại công tác, một khu vực công lớn mạnh, kẹt lắm, cũng chỉ chấp nhận gia tăng chi tiêu để tăng cường an ninh quốc gia và quốc phòng). Trong mọi trường hợp, chính quyền Obama sẽ phải đối diện với một tình trạng không mấy khác thời New Deal trong thập kỷ 1930s. Cũng như thời New Deal, chính quyền mới sẽ phải bành trướng vai trò của nhà nước để đối phó với tình trạng kinh tế suy thoái. Và cũng như thời New Deal, Obama sẽ đối mặt với những lực lượng chính trị đối lập luôn sẵn sàng lợi dụng những dấu hiệu tham nhũng hay lạm quyền - ngay cả ngụy tạo những dấu hiệu nầy - nhằm xuyên tạc và làm mất lòng tin vào các chương trình của chính phủ. Bài học lịch sử của thời New Deal là chính quyền cần được tăng cường nhưng đồng thời cũng phải hết sức trong sạch. Trước hết , việc quản trị kế hoạch phục hồi kinh tế phải tránh mọi hình thức nhũng lạm. Thực thi kế hoạch mang tính quyết định. Đội ngũ thanh tra phải độc lập và được trao đầy đủ quyền hành. Những người đứng ra tố cáo nhũng lạm phải được tưởng thưởng thay vì trừng phạt như dưới thời Bush. Thứ đến, kế hoạch phải tránh những đặc lợi dành cho cử tri trong phạm vi quản hạt của các dân biểu, nghị sĩ ngành lập pháp (pork-barrel projects). Sau cùng, chính quyền Obama và Đảng Dân Chủ cũng cần ra sức vun quén quan hệ vốn sẵn tốt đẹp với cử tri. Mặc dù kết quả thăm dò dư luận cho thấy Obama đang được tín nhiệm cao, vì quần chúng hy vọng Obama sẽ thành công, một hậu thuẫn vững chắc vẫn luôn cần thiết, nhất là vào những lúc tình hình thực tế không thuận buồm xuôi gió. Nói một cách khác, phục hồi kinh tế sẽ đòi hỏi nhiều thời gian. Đội ngũ Obama, ngay từ bây giờ, khi uy tín và hy vọng đang cao, cần suy nghĩ tìm cách củng cố, tích lũy và bảo toàn vốn liếng chính trị (political capital), thiết yếu cho quá trình hoàn thành nghị trình trong những năm tháng trước mắt. Trong mọi trường hợp, việc cần làm phải làm. Cách đây mấy tháng, Alan Greenspan đã thú nhận chính sách gỡ bỏ giám sát (deregulation), do ông khởi xướng trong tư cách chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, đã đặt cơ sở trên một căn bản sai lầm. Đó là một trong số những tuyên bố gây ngạc nhiên nhiều nhất của các nhà làm chính sách trong những năm gần đây. Greenspan đã quá tin tưởng ở khả năng tự điều chỉnh của cơ chế thị trường tự do và không nhìn thấy sức mạnh tự hủy của sóng thần tín dụng thiếu giám sát. Và nay Greenspan đã phải tự thú, "toàn bộ kiến trúc tinh thần đã sụp đổ vào mùa hè năm trước" . Kiến trúc tinh thần ấy là gì? Chắc hẳn Greenspan đã quá tin vào giả thuyết bàn tay vô hình vô cùng mầu nhiệm của thị trường tài chánh tự do luôn đánh giá đúng đắn các tích sản. Các thị trường nầy, vì vậy, chỉ cần một sự giám sát rất nhẹ nhàng. Các viên chức chính quyền có trách nhiệm kiểm soát khối tiền tệ lưu hành chỉ cần làm một việc duy nhất - duy trì sự ổn định giá cả. Không lẽ Greenspan đã cả tin đến thế, vì kinh nghiệm qua các cuộc khủng hoảng tài chánh trước đây luôn chứng tỏ ngược lại. Trong mọi trường hợp, đây cũng chỉ là một mô hình. Tuy nhiên, Greenspan chắc đã phải có một niềm tin tương tự mới có thể ủng hộ chính sách gỡ bỏ cơ chế giám sát tài chánh và giữ lãi suất ở một mức thấp trong suốt quá trình bong bóng bất động sản đang diễn tiến. Đây chính là kiến trúc tinh thần - lý thuyết và chính sách - vừa bị đổ vỡ thảm hại. Đúng như George Soros đã nhận định, "điều nổi bật trong cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay là cuộc khủng hoảng đã không xẩy ra do một cú sốc từ bên ngoài, như OPEC nâng cao giá dầu... Cuộc khủng hoảng đã phát sinh ngay từ bên trong chính hệ thống tài chánh" . Sự kiện nầy đã khiến nhiều người nghĩ tới nhà kinh tế học lừng danh John Maynard Keynes (1883-1946). Và tên tuổi của Keynes đã thực sự hiện diện trong các cuộc tranh luận một giải pháp cho cuộc khủng hoảng. Chính kiến trúc tinh thần, Greenspan nay thú nhận đã sụp đổ, là cơ sở của các chính sách tự do (laissez-faire policies) Keynes đã chống đối khi sinh thời. Thời đó cũng như bây giờ, các kinh tế gia luôn tin tưởng mọi bất trắc đều có thể rút gọn thành những rủi ro có thể đo lường được. Do đó, giá cả tích sản luôn phản ảnh đúng giá trị căn bản của nó, và thị trường tự do (không bị kiểm giám), nói chung, thường rất ổn định. Ngược lại, Keynes đã đưa ra lý thuyết kinh tế với khởi điểm: không phải tất cả các biến cố tương lai đều có thể rút gọn thành những bất trắc có thể đo lường được. Trong thực tế, người ta luôn thấy sự hiện diện của một phần bất trắc đơn thuần tồn đọng (a residue of genuine uncertainty), và đây chính là điều khiến tai họa luôn rình rập, chứ không phải chỉ là cú sốc đời một lần. Đầu tư là một hành động mang tính "đức tin" hơn là một tính toán xác suất khoa học. Và chính sự kiện thực tế nầy thường ẩn dấu những khả dĩ lầm lẫn hay tai họa mang tính hệ thống. Câu hỏi căn bản Keynes tự đặt cho mình: những người duy lý ứng xử như thế nào trong những tình cảnh bất trắc? Câu trả lời của Keynes rất sâu sắc và vượt quá phạm vi kinh tế học: người ta thường trông cậy vào "ước lệ" (conventions), đem lại cho họ niềm tin là mình đang ứng xử đúng. Định đề căn bản là ý niệm tương lai- sẽ -giống- như -quá-khứ (chẳng hạn tất cả các mô hình tài chánh đều dựa trên ý niệm giá nhà thường không sụt giảm) và giá cả hiện hành tổng hợp đúng đắn các "viễn ảnh tương lai". Nói một cách ngắn gọn, chúng ta luôn chạy theo đám đông. Vốn súc tích và sáng sủa, Keynes đã viết: "Một ngân hàng gia sáng suốt là một người khi thất bại, sẽ chịu phá sản một cách trang nghiêm và chính thống" . Nhưng một ý niệm về tương lai cơ sở trên một nền tảng chênh vênh thường vấp phải những đổi thay bất thần và cường bạo khi tin tức thay đổi. Các nhà đầu tư thường không phân tích các thông tin mới một cách hữu hiệu vì họ không biết thông tin nào là thích ứng. Cách ứng xử ước lệ thường dễ trở thành lối ứng xử của đám đông. Thị trường tài chánh thường được đánh dấu qua thời gian bằng những chuõi xen kẻ hân hoan và hoảng sợ. Nguyên tắc chỉ đạo trong lý thuyết Keynes là quan niệm của tác giả về tiền tệ. Hầu hết các kinh tế gia thường chỉ xem tiền tệ như một lợi khí trao đổi, một cải tiến lớn so với đổi hàng lấy hàng. Keynes lại nhấn mạnh vai trò tiền tệ như một lợi khí bảo tồn giá trị. Keynes đặt câu hỏi, tại sao lại có người khờ dại muốn giữ tiền. Ông tự trả lời, giữ tiền là phương cách trì hoãn mua sắm, giao dịch. Ý muốn giữ tiền như một phương tiện bảo tồn giá trị là một phong vũ biểu phản ảnh sự thiếu tin tưởng hay nghi ngờ chính sự tính toán của mình và các ước lệ liên quan đến tương lai. Nắm tiền trong tay ngưới ta cảm thấy yên tâm; và tiền lãi - cái giá chúng ta đòi hỏi để chịu tách rời tiền sở hữu - là mực thước đo lường trình độ âu lo của chính chúng ta. Một lối ứng xử ước lệ tương tự hướng dẫn các nhà đầu tư bỏ tiền ra làm ăn vào một thời điểm nào đó nhưng lại cẩn trọng dè dặt vào một lúc khác. Ngay cả đồng USD tương đối suy yếu, trong những lúc đầy bất trắc, hình như cũng được xem an toàn hơn bất cứ tích sản nào khác, như chúng ta đang chứng kiến hiện nay. Chính thái độ ẩn náu trong tiền mặt đã khiến chính sách lãi suất trở thành một phương tiện hồi phục kinh tế ít hiệu quả. Nếu các nhà quản trị ngân hàng và công ty có thái độ bi quan về tương lai, họ sẽ nâng cao lãi suất - giá sử dụng thanh khoản - mặc dù ngân hàng trung ương sẵn sàng tung tiền vào nền kinh tế. Vì vậy, Keynes đã không tin việc cắt giảm lãi suất của ngân hàng trung ương nhất thiết có thể chóng vánh hạ thấp lãi suất đối với các loại tín dụng hay vay mượn khác nhau. Đó là luận cứ chính của Keynes khi chủ trương chính quyền phải giữ vai trò chủ động kích thích kinh tế chống suy thoái. Chỉ có một cách chắc chắn duy nhất để gia tăng chi tiêu trong khi khu vực tư đang cực kỳ e ngại chi tiêu và đầu tư, đó là chính chính quyền phải tự mình đứng ra chi tiêu. Chi tiêu vào các sản phẩm công, như xây đường sá cầu cống, bệnh viện, trường học, năng lượng thay thế, hạ tầng cơ sở.... Tóm lại, chi tiêu là việc chính quyền phải làm. Đó là cốt lỏi của lý thuyết Keynes. Mục tiêu của Keynes không phải để đạp đổ chủ nghĩa tư bản, mà để cứu chủ nghĩa tư bản từ chính nó. Keynes nghĩ, công việc cứu cấp phải bắt đầu với chính lý thuyết kinh tế. Greenspan đã tự thú: Kiến trúc tinh thần của ông nay đã sụp đổ. Thời cơ nay thực sự đã đến để xây dựng một công trình mới dựa trên nền tảng do chính Keynes sáng tạo trước đây. GS Nguyễn Trường Irvine, California 07-01-2009
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:10:02 GMT -5
Paul Krugman và khủng hoảng 2008 Nguyễn Trường 25/04/2009 Trong cuốn Principles of Political Economy, John Stuart Mill viết, chúng ta thường nghe nói chính quyền cần phải tự giới hạn vào việc bảo vệ người dân chống lại bạo lực và lừa đảo; ngoài ra người dân phải được hoàn toàn tự do để có thể tự mình lo toan cho chính mình. Nhưng tác giả lại tự hỏi, trước các tai ương của kinh tế thị trường, tại sao người dân lại không được chính quyền bảo vệ sâu rộng hơn nữa - có nghĩa là bởi sức mạnh tập thể của chính họ? Cũng như Mill, Paul Krugman, người được giải Nobel kinh tế năm 2008, rất tán thưởng các canh tân, nhưng không thích những cuộc khủng hoảng, do chủ nghĩa tư bản đem lại. Krugman nghĩ, chính quyền phải có trách nhiệm tạo điều kiện dễ dàng cho canh tân và bảo vệ người dân chống lại khủng hoảng. Krugman không tin người dân có thể được giới tài phiệt, ngay cả phần đông các kinh tế gia, che chở và bảo vệ, trừ phi chúng ta phải tìm hiểu thấu đáo những trò chơi tinh vi, xảo quyệt để giúp các nhà lập pháp đạt được đồng thuận về phương cách quy định, giám sát. Mill nghĩ chúng ta phải thấu triệt tính động của kinh tế chính trị chứ không chỉ tính tỉnh của môn học nầy. Chính vì vậy, trong hai mươi năm qua, Krugman đã miệt mài theo dõi các mô hình, phân tích các con số, và đưa ra nhiều cảnh báo, như trong tác phẩm bị đánh giá một cách hết sức sai lầm - The Return of Depression Economics (1999), một tác phẩm hàng đầu về sự sụp đổ tài chánh của Nhật, các con rồng Á châu, và châu Mỹ La Tinh, rõ ràng với mục đích cảnh báo người Mỹ về những nguy cơ cho chính họ. Tác phẩm đã ra đời vào một thời điểm cực kỳ bất lợi, vào đúng cuối thiên niên kỷ thứ hai. Cuộc cách mạng kỹ thuật đang nở rộ, Google vừa tròn một năm tuổi, và Enron được liên tiếp bầu chọn là công ty đáng khen ngợi trong bốn năm liền. Cùng lúc, ngân sách thặng dư, Tòa Bạch Ốc, Clinton, Cục Dự Trữ Liên Bang và Quốc Hội, đều nhất trí: quy định và giám sát credit default swaps là một sỉ nhục đối với tính chuyên nghiệp của giới ngân hàng đầu tư. Còn đối với các vấn đề gần đây đã gây khó khăn cho các nền kinh tế trên thế giới thì sao? Phải chăng Wall Street đang ôn tập cuộc thoái trào của Nhật? Các định chế tài chánh mang nặng tính chính trị của Mexico? Quản trị viên nào của một công ty bảo hiểm Hoa Kỳ, luôn đầy đủ thông tin,và luôn trung thành với giá trị của cổ đông, đã cho phép ban quản lý nhận bảo kê cho các vụ cá cược , hay các giao dịch đầy rủi ro bất trắc, chẳng chút dè dặt? Và các vị tổng thống liên tiếp của Hoa Kỳ cũng làm ngơ! Người ta bảo Krugman chẳng hiểu gì hết. Trong thực tế, tác phẩm The Return là cuốn sách cuối cùng Krugman xuất bản trước khi viết bài cho trang biên tập của báo The New York Times, trong đó tác giả kiên trì kêu gọi phải minh bạch, giản dị, và bảo đảm an toàn cho giới làm công. Krugman vận động tích cực thiết lập một chương trình bảo hiểm y tế quốc gia cho toàn dân; đả kích biện pháp giảm thuế của Dick Armey và những vận động thầm lén của Karl Rove. Sau cuộc tuyển cử 2004, Krugman đã đơn thương độc mã gây áp lực buộc các dân biểu, nghị sĩ Cộng Hòa đang do dự, phải từ bỏ đề nghị của Bush cho phép Aunt Sheila tự mình đầu tư một phần tiền an sinh xã hội của bà vào thị trường chứng khoán. Từ năm 2006, Krugman đã là người khởi xướng phục hồi lý thuyết Keynes; và từ hơn một năm nay, đã sớm cảnh báo một cuộc khủng hoảng kiểu Argentina đang rình rập, vì lẽ các nhà đầu tư toàn cầu không sớm thì muộn sẽ hiểu: ngay cả người Mỹ cũng không thể thu hút hết số tiết kiệm thặng dư trên thế giới; và các thủ thuật, tinh vi thì ít mà ngụy xảo thì nhiều1, trên các các thị trường tài chánh Hoa Kỳ. Trong cuốn The Return, được cập nhật, Krugman muốn lặp lại những luận cứ đưa ra từ lâu: một định chế tài chánh chúng ta không dám để cho phá sản hay thất bại, chúng ta cũng không thể để tự tung tự tác, thiếu quy định và giám sát; một cộng đồng xã hội phải sử dụng quyền chi tiêu và đầu tư và nhất là để hỗ trợ phát triển khi các thị trường ít nhiều tự do cũng ít nhiều khó tránh làm chúng ta thất vọng.2 Cuốn The Return chỉ dày 191 trang nhưng tác giả lại rất tham vọng, một lúc bàn đến ba vấn đề đang được tranh cãi. Đề tài thứ nhất phác họa phương cách các thị trường tài chánh Á châu và châu Mỹ La Tinh đã gây ra những cuộc thoái trào bất thần, hay những vòng xoáy lạm phát, hay những nạn phá giá tiền tệ, hay cùng lúc tất cả những tai họa đó. Nhiều chính quyền, ngay cả những chính quyền cố gắng theo đuổi những quy luật thuế khóa tài chánh bảo thủ, phải đối đầu với những lựa chọn gay cấn: hoặc từ chối in thêm tiền, ráng chịu đựng thoái trào và để người dân gặp nhiều khó khăn tức khắc; hoặc in thêm tiền, làm nản lòng giới đầu tư, và để người dân phải chịu hậu quả trong tương lai. Loại bút chiến thứ hai vạch rõ những đường song song giữa những gì đã xảy ra và có thể xảy ra --trong thực tế , những gì đang xảy ra -- ở Mỹ, ở Âu châu và những xứ phát triển trên thế giới, cho thấy những xáo trộn sắp xảy ra và những giải pháp cần theo đuổi. Krugman chán ngán khi nghĩ đến các kinh tế gia, nhất là Ben Bernanke, một đồng nghiệp ở Đại Học Princeton, người luôn tin tưởng các quan chức thuộc Bộ Ngân Khố và Cục Dự Trữ Liên Bang đã thành công trong việc khai triển các phương sách giảm thiểu bất quân bình kinh tế đến mức các qui định và giám sát không còn cần thiết, và từ chu kỳ kinh tế đã trở thành lỗi thời. Vấn đề gây tranh cãi thứ ba là những luận cứ rải rác trong toàn bộ tác phẩm liên quan đến phương cách các thay đổi trong nền kinh tế đích thực - những doanh nghiệp sản xuất , vận chuyển, thiết kế mọi thứ hàng hóa - đã định hình hay được định hình bởi các thị trường tài chánh như thế nào. Nhất là bằng cách nào các thay đổi mang tính cách mạng trong kỹ thuật tin học - đầu mối những thay đổi trong cấu trúc các công ty và các điều kiện cạnh tranh - đã đem lại một mô hình tài chánh thay đổi? Hoặc bằng cách nào những thay đổi vừa nói có thể đưa đến một lề lối điều hướng mới (revised superintending) các chu kỳ kinh tế? Chẳng hạn Krugman cho rằng sự kiện toàn cầu hóa các thị trường kỹ nghệ và năng suất cao hơn của các thị trường nầy - cả hai là kết quả của một kế hoạch thiết bị tin học sâu rộng mới mẻ (a new and pervasive information platform) - đã có thể biện minh cho sự đề kháng của Greenspan không chịu tăng lãi suất sau những tăng gia chi phí đầu tư quá đáng và bất hợp lý đưa đến bong bóng dot-com, mặc dù cả hai hiểu rất rõ lãi suất thấp chắc chắn sẽ duy trì giá trị bất động sản ở một mức cao giả tạo- do đó, sẽ khiến bong bóng trở nên trầm trọng hơn. Krugman viết, vào thập kỷ 1990s, kỹ nghệ tin học rõ ràng đã làm thay đổi hẳn toàn bộ nền kinh tế Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Krugman cũng chẳng mất nhiều thì giờ xét xem kỹ thuật mới đã vận hành hay lan tỏa như thế nào, đẩy nhanh các doanh nghiệp lớn hay hạ thấp rào cản đối với các xí nghiệp nhỏ ra sao. Theo ông, điều quan trọng là vẻ hào nhoáng của kỹ thuật đầy ấn tượng, tính lãng mạn của kỹ nghệ mới của Hoa Kỳ - sự kiện các doanh nghiệp mới với công nghệ cao đem lại ấn tượng tốt, đáng ngợi khen cho giới doanh nhân, một ấn tượng chưa từng có trong hơn một thế kỷ vừa qua. Bức tường Bá Linh đã sụp đổ, các tạp chí doanh thương được nhiều người thích đọc; ngay cả những lý thuyết gia kinh tế cực đoan cũng bị thu hút bởi trào lưu lạc quan mới đối với chủ nghĩa tư bản. Ở đây, luận cứ của Krugman chỉ liên quan đến nhận thức và tâm lý. Điều Krugman quan tâm chính là những dấu vết để lại bởi các nhà đầu tư hành động căn cứ trên những thay đổi họ tin đã xảy ra trong môi trường thương mãi. Điều ông chú ý nhiều nhất là chính quyền có thể đối phó như thế nào với các thái quá tiếp theo. Sự sắc bén của Krugman khi giải thích những bất cập của chủ nghĩa tư bản - sự sụp đổ của đồng baht ở Thái Lan, tình trạng tham nhũng của PRI ở Mexico - đã là lý do đủ để đọc tác phẩm; những chương đó sẽ gây bối rối cho các người hậu thuẫn chính sách laissez-faire, các biện pháp khắc khổ của IMF, và các đường biểu diễn của Laffer. Tuy nhiên, chưa hẳn Krugman và các nhà kinh tế học vĩ mô đã đánh giá đúng đắn ảnh hưởng của cuộc cách mạng kỹ thuật đối với nền kinh tế đích thực trong những năm gần đây. Cách đây vài chục năm, Arie Lewin thuộc Đại Học Duke, đã khám phá: phải mất 13 năm 1/3 số doanh nghiệp Fortune 500 mới bị thanh lọc khỏi nhóm - thất bại hoặc bị sáp nhập bởi các công ty khác. Trước cuộc khủng hoảng hiện nay, việc nầy chỉ cần 4 năm. Hai thế hệ trước đây, mỗi năm khoảng 60.000 doanh nghiệp được sáng lập ở Hoa Kỳ; trước cuộc khủng hoảng hiện nay, con số lên gần một triệu. Năm 1999, 70% giá thị trường của các doanh nghiệp kỹ thuật được xếp vào loại tích sản vô hình - uy tín, khả năng canh tân...- và hơn 50% lợi nhuận bắt nguồn từ kỹ thuật mới du nhập trong năm trước. Những đổi thay này không những là nguyên do thay đổi nền kinh tế mà cũng là nguyên nhân đưa đến những biến động tài chánh toàn cầu cũng như phương cách đáp ứng hiệu quả của chính quyền, và những gì khiến suy thoái trở thành khủng hoảng hay đại khủng hoảng. Theo Krugman, những gì những biến động tài chánh như vậy cần đến là một sự điều hướng hay những nhân viên kiểm tra của chính quyền để tạo những đối trọng bù trừ: một ngân hàng trung ương để điều chỉnh lãi suất, hoặc nâng cao hoặc hạ thấp, thực tế là ấn định khối tiền tệ lưu hành, hoặc một bộ tài chánh để ấn định một hối suất cố định hay thả nổi đơn vị tiền tệ theo luật cung cầu. Điều gây ra tranh cãi là sự nghi ngờ căn bản của Krugman về chính sách tiền tệ bảo thủ của IMF trong những trường hợp như thế, một thái độ được nhiều độc giả công bằng chia sẻ. Hầu hết phần còn lại của tác phẩm The Return là một loạt các câu chuyện về những nổ lực can thiệp của chính quyền. Krugman đơn cử những xứ bị xáo trộn bởi các cuộc khủng hoảng trong hai thập kỷ 1980s và 90s - Mexico, Argentina, Nhật, Thái Lan và Indonesia. Trong mỗi trường hợp, người ta nhận thấy một diễn tiến vòng tròn đáng ngại - các vấn đề tài chánh khó khăn của các công ty, ngân hàng và mọi gia đình; đưa đến một sự mất lòng tin rộng khắp trong giới đầu tư, thường là giới đầu tư ngoại quốc; đến sự sụp đổ tiền tệ, lãi suất lên cao, kinh tế đình trệ, những khó khăn tài chính của các công ty, các ngân hàng và cứ thế tiếp tục. Cuộc khủng hoảng đáng lưu ý nhất là cuộc khủng hoảng Thái Lan. Chúng ta có thể rút được nhiều bài học, nhất là về điều các kinh tế gia tạm gọi là moral hazard - bất trắc đạo đức. Thái Lan, một xứ đến trễ trong phép lạ Á châu (Asian miracle), trong thập kỷ 1980s, đã trỗi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp phần lớn do giới doanh thương Nhật đến xây dựng các xưởng máy. Dân quê đua nhau ra thành phố kiếm việc, giới ngân hàng và doanh thương bắt đầu đầu tư vào ngành xây cất, và kinh tế Thái Lan khởi sự tăng trưởng nhanh - 8%/năm. Thị trường tư bản toàn cầu đáp ứng: xét cho cùng, chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại, lãi suất ở Nhật và Âu châu quá thấp. Tính đến năm 1997, khoảng 256 tỉ mỹ kim đã được rót vào các thị trường đang lên, đặc biệt là Đông Nam Á. Vậy bằng cách nào tiền đã được rót từ Tokyo đến Bangkok? Đây chính là yếu tố then chốt của nội vụ. Ngân hàng Nhật có thể cho một công ty tài chánh Thái vay. Công ty Thái cải hoán đồng yen ra đồng baht và cho các các công ty xây cất bất động sản vay lại, để trả tiền mua vật liệu, lương nhân công bằng tiền Thái. Số cầu đồng baht, do đó, gia tăng, và đồng baht cũng tăng giá trị - giả thiết tiền Thái được thả nổi. Để thu hút đầu tư vào Thái , một xứ từ lâu bị thế giới bỏ quên, chính phủ Thái đã quyết định giữ hối suất giữa đồng baht và đồng mỹ kim ổn định. Vì vậy, Ngân Hàng Nhà Nước Thái Lan đã phải gia tăng số cung đồng baht hay khối tiền tệ lưu hành và đồng thời mua vào ngoại tệ để tăng cường số dự trữ. Hậu quả tất nhiên là lượng tín dụng quốc nội gia tăng vì các ngân hàng nhận được nhiều tiền ký thác phải tìm cơ hội cho vay kiếm lợi nhuận. Tất cả những điều đó có nghĩa là nguồn tài trợ mới cho các dự án xây cất, đưa đến vay mượn thêm từ nước ngoài và cứ thế tiếp tục. Kết quả tất yếu chung cuộc là bong bóng bất động sản. Ngân Hàng Nhà Nước Thái Lan đã cố gắng làm nguội bớt nền kinh tế bằng cách vay lại đồng baht từ các ngân hàng ngoại quốc. Nhưng biện pháp tạm bợ nầy chỉ làm tăng lãi suất quốc nội, khuyến khích vay mượn từ nước ngoài (có lợi vì lãi suất thấp) và đem về nhiều tiền yen hơn. Ngân hàng trung ương rất có thể chỉ để giá trị đồng baht gia tăng, như nhiều kinh tế gia Mỹ hiện nay tìm cách thuyết phục TQ nâng giá đồng nhân dân tệ. Nhưng điều nầy chỉ có nghĩa hàng xuất khẩu của Thái (những thứ do các công ty Nhật sản xuất) đắt hơn trên các thị trường nước ngoài - do đó, vô hình chung giết luôn con gà đẻ trứng vàng. Số trứng vàng tích lũy nhiều cũng đem lại một thứ bi kịch khác. Đầu tư gia tăng (nhập cảng trang thiết bị cho kỹ nghệ xây cất) và chi tiêu mang tính tiêu thụ (nhập cảng TV, xe hơi cho giới nhà giàu Thái mới lên) làm chậm đà tăng trưởng xuất khẩu tương đối với nhập khẩu. Do đó, cân chi phó khuy khiếm trầm trọng. Người Thái bắt đầu phải dùng số ngoại tệ vay mượn để trang trải tiêu thụ phẩm nhập khẩu trong khi ngân hàng trung ương phải dùng ngoại tệ dự trữ sở hữu để bảo vệ đồng baht. Tháng 7 năm 1997, sự tăng trưởng kinh tế Thái Lan đạt mức đỉnh điểm; nền kinh tế bắt đầu bùng nổ. Ngân hàng trung ương với số ngoại tệ dự trữ tan biến, không đủ sức bảo vệ đồng baht: giá trị đồng baht tuột dốc khoảng 50% chỉ trong vòng vài tháng. Tai họa xẩy đến, gây suy thoái không những cho Thái mà cả Nam Hàn và Mã Lai Á khi các nhà đầu tư ngoại quốc hoảng sợ hối hả tháo chạy. Vùng Đông Á bắt đầu trải nghiệm nỗi đau của Argentina và Do Thái trong thập kỷ 1980s. Câu hỏi được đặt ra là câu chuyện của Thái Lan ăn nhằm gì đến khủng hoảng 2008? - Có, và có khá nhiều. Đã hẳn kinh tế Thái Lan khác xa kinh tế Mỹ: nếu người Mỹ, giống như giới trung lưu mới lên của Thái, chi tiêu phung phí trên khả năng của chính mình (và bù vào số khuy khiếm bằng những món nợ từ thế giới bên ngoài ngày một gia tăng), họ đã không nhập khẩu những thứ hàng giống như người Thái. Chẳng hạn, phần lớn giao thương của Mỹ với Trung Quốc chỉ là những giao dịch nội bộ của các đại công ty đa quốc gia Hoa Kỳ làm ăn trên khắp thế giới. Các công ty nầy nắm trong tay giá trị thiết kế và mãi dịch sản phẩm, và chỉ đến TQ mua các vật liệu thông thường và lắp ráp. Ngoài ra, kinh tế Hoa Kỳ có sức chịu đựng dẻo dai hơn hẳn kinh tế Thái, với đặc tính chuyễn dịch dễ dàng của yếu tố lao động theo chiều ngang cũng như chiều dọc khó ai có thể sánh kịp. Và chính quyền Mỹ cũng chẳng phải bảo vệ đơn vị tiền tệ của mình như Thái Lan. Đồng mỹ kim đã là tiền dự trữ của thế giới kể từ sau đệ nhị thế chiến. Sự mất giá của đồng mỹ kim có nghĩa khuynh hướng tiêu xài hoang phí của người Mỹ đã làm giảm thiểu tài sản của giới trung lưu toàn cầu một cách thầm lặng, tương tự số lượng carbon các xe SUVs ở Mỹ đã thải ra âm thầm làm ô nhiễm không khí khắp hành tinh. Người Mỹ cũng còn có thể trông cậy ở giới trung lưu TQ đầu tư trở lại trong các thị trường tài chánh Mỹ phần lớn trong số 2.000 tỉ mỹ kim tích lũy từ xuất khẩu hàng hóa qua Hoa Kỳ. Trong mọi trường hợp, điều may mắn của Hoa Kỳ là toàn bộ số nợ nước ngoài đều được tính theo đồng mỹ kim. Tuy nhiên, giữa hai cuộc khủng hoảng người ta vẫn nhận diện được một sự đối xứng trong cách ứng xử của các tay chơi tài chánh giữa hai phía. Cuộc khủng hoảng ở Thái Lan đã được nhen nhúm bởi các tay chơi trung gian có nhiều quyền lợi để rao giảng ảo tưởng là đầu tư vào ngành xây dựng và buôn đi bán lại không thể thất bại. Đó là những người hưởng lợi từ các giao dịch nhưng không nhất thiết từ tính lành mạnh của dự án. Trở lại các công ty tài chánh Thái đứng làm trung gian trong các khoản cho vay của các nhà đầu tư nước ngoài. Các người điều hành các công ty nầy phần lớn là thân nhân họ hàng của các vị bộ trưởng hoặc các viên chức cao cấp trong chính quyền. Họ không phải là những bộ óc tài chánh xuất sắc, nhưng họ có lý do để tin chính quyền Thái sẵn sàng buộc người chịu thuế phải cứu trợ công ty họ khi lâm nguy. Đồng thời, những quan hệ chính trị của họ sẽ là lợi thế đối với các nhà đầu tư. Nói chung, họ hưởng lợi khi thuận buồm xuôi gió, làm giàu là động lực thúc đẩy họ tiếp tục cho vay trong khi được che chở khi gặp khó khăn bão tố - cho đến khi toàn bộ mạng lưới sụp đổ, lúc đó họ cũng đã kiếm được một tài sản kếch sù. Họ cũng không phải mang tai tiếng (moral hazard). Họ lấy tiền của người khác nhưng chẳng chịu rủi ro bất trắc nếu quyết định của họ sai lầm, thiếu cẩn trọng hay khờ dại. Sự nhẹ dạ của giới đầu tư qua các móc nối với các yếu nhân Thái có thể không mấy giống sự nhẹ dạ của họ đối với sự đánh giá lạc quan AAA của Moody's đối với các khách hàng được nuông chiều. Nhưng nếu những lợi nhuận của các công ty tài chánh nhắc nhở chúng ta về sự thủ lợi của các công ty cho vay đầu cơ bất động sản mà chẳng điều tra nghiêm túc các đơn vay nợ, hay các ngân hàng đầu tư bán các trái phiếu hay chứng khoán với thế chấp bất khả tín, chúng ta có thể được tha thứ. Theo Krugman, Wall Street đã trở nên quá hăng hái đầu tư vào Ponzi pyramid không chút âu lo tai tiếng hay moral hazard. Điều đó đưa chúng ta tới một tay chơi bá đạo khác - một tay chơi luôn sẵn sàng tấn công các nền kinh tế Tây phương cũng như những nền kinh tế đang lên - có thể làm cho cuộc khủng hoảng trầm trọng hơn nhiều. Chúng tôi muốn nói đến các hedge funds, các quỹ đầu cơ. Các quỹ nầy đã lớn mạnh và trở thành một bộ phận lớn, vô cùng nguy hiểm, của hệ thống ngân-hàng-không-phải-ngân-hàng, hầu như không phải tuân theo một quy luật và cũng chẳng chịu một sự giám sát nào: những định chế nhận tiền của bất cứ ai với lời hứa sẽ trả lợi nhuận kếch sù nhưng chẳng phải tuân theo một điều lệ quy luật nào. Paul Krugman đã nhắc nhở chúng ta sự lớn mạnh đáng ngạc nhiên của các hedge funds nầy, bắt đầu với cuộc tấn công thần kỳ (legendary) Bộ Ngân Khố Anh (British Exchequer) bởi Quantum Fund - Quỹ Lượng Tử - của George Soros trong năm 1992; vụ đầu cơ nầy đã làm đồng bảng (pound) suy yếu đến mức khiến Thủ Tướng John Major cuối cùng đã phải rút lui khỏi cuộc thương nghị gia nhập khu vực đồng Euro, và chính phủ ông đã phải sụp đổ. Trước cuộc khủng hoảng 2008, các ngân hàng thông thường quản lý khoảng 6.000 tỉ mỹ kim; các ngân hàng phi ngân hàng - hedge funds và ngân hàng đầu tư - khoảng 4.000 tỉ, 1.800 tỉ trong số nầy nằm trong tay các quỹ đầu cơ. Theo Krugman, sự sụp đổ của những định chế nầy có thể xô đẩy các nhóm đầu tư lớn, kể cả các quỹ hưu bổng, các quỹ endowments của các đại học, vào tai họa đầu cơ. Tất cả các quản lý viên các quỹ vừa nói , các CEO, được tưởng thưởng khi đem lại lợi nhuận trên trung bình. Nhưng làm thế nào tất cả các lợi nhuận đều trên trung bình. Krugman đã đúng khi nhấn mạnh tài sản thực sự có thể bị tiêu tan vì sự sụp đổ không thể tránh của các quỹ đầu tư. Khi kinh tế đang trên đà tăng trưởng mạnh, các sự lỗ lã trên giấy tờ có thể lấy lại trong vài tuần lễ. Nhưng khi sự lỗ lã quá lớn, mọi người đều hoảng sợ, sản xuất tất sẽ suy sụp, thất nghiệp sẽ tràn lan, suy thoái, và có thể cả khủng hoảng và đại khủng hoảng, rất dễ xảy ra trong toàn bộ quốc gia, thậm chí cả toàn cầu. Làm thế nào để ra khỏi khủng hoảng? Theo Krugman, chính quyền đang đứng trước những lựa chọn nghịch lý. Trong cương vị tác nhân duy nhất điều hướng chi tiêu còn đứng vững, chính quyền trở thành nhà đầu tư tối thiết. Tiến trình hồi phục còn dài lâu. Krugman nhấn mạnh tầm quan trọng của những số đầu tư lớn lao: vào hạ tầng cơ sở, bảo hiểm y tế, chất lượng giáo dục, ngay cả sản xuất xe hơi... Số đầu tư, mang tính hệ thống và tâm lý, phải đủ lớn để đè bẹp khủng hoảng; lỗi lầm tệ hại nhất là biện pháp nửa vời, chỉ muốn nhảy năm thước khi phải vượt qua một hố thẳm rộng bảy thước, vì e ngại hành động cứu nguy hệ thống tài chánh có thể bị xem như mang tính xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, chúng ta không thể hiểu những gì nhà nước cần phải làm trừ khi hiểu được bằng cách nào những lực bên ngoài hệ thống tài chánh đang chi phối nền kinh tế đích thực ngày nay. Nhà nước cần đầu tư vào những gì ngoài tái gầy vốn , tái quy định và tái tư nhân hóa các ngân hàng? Ở đây chúng ta nên lưu ý đến hai điểm quan trọng. Trước hết, những xứ đang phát triển cũng tương tự như Hoa Kỳ trong cách lưu thông của tư bản tài chánh , nhưng lại rất khác trong sự lưu thông một thứ tư bản quý giá hơn nhiều - vốn tri thức (intellectual capital). Để phục hồi, các xứ nầy thường quan tâm đến các hệ thống tài chánh, vì lẽ họ mong muốn không những thu hút tiền nước ngoài vào thị trường tư bản, mà cả tri thức kỹ thuật (know-how) vào các thành phố lớn. Điều then chốt là chuyển biến đầu tư ngoại quốc vào các nhà máy công nghệ cao, hay các công ty phần mềm, hay các đội ngũ quản lý, thành những đầu máy của xã hội dân sự, khả dĩ đào tạo một đội ngũ doanh nhân mới có khả năng cạnh tranh toàn cầu. Chứng cớ: tác động của Intel trên Kiryat Gat ở Israel, của Motorola ở Tianjin, Trung Quốc, của MIT trên Cambridge. Như Mill từng viết: "Một điều chưa được hiểu thấu đáo và công nhận là giá trị kinh tế của sự phổ cập rộng rãi tri thức trong quảng đại quần chúng".3 Ngoài ra, còn có một điểm khác cũng cần được lưu tâm. Những gì đã cho phép các thị trường đang lên như Thái Lan và TQ phát triển thật nhanh chóng, và do đó, đã gia tốc những mất thăng bằng tài chánh quan trọng, cũng chính là cùng một chương trình thông tin chắc chắn sẽ định hình và quyết định tiến độ phục hồi của Mỹ. Nhưng tại sao cùng một chương trình thông tin đã đem lại cho các doanh nhân khả năng nắm bắt thông tin cần thiết, rà soát lại kế hoạch doanh thương, thuê mướn nhân viên mới có đủ tài năng...lại không thể sử dụng để giúp chúng ta ra khỏi suy thoái, dù trầm trọng, một cách chóng vánh? Tại sao sự hỗ trợ của nhà nước đối với các dịch vụ tài chánh và đầu tư vào nền kinh tế đích thực lại không thể giúp gia tốc kiến tạo doanh thương? Krugman biết rất rõ bất cứ điều gì chính quyền làm - trong bảo hiểm y tế và giáo dục - chính quyền cũng phải lưu ý sự kiện hàng trăm, hàng nghìn những công ty nhạy bén, thông minh, ngày một phát triển, sẽ có vai trò then chốt trong quá trình phục hồi kinh tế, chứ không phải một vài đại công ty khổng lồ đang được tân trang. Xét cho cùng, cái gì khiến cuộc đại khủng hoảng ngày một trầm trọng chính là yếu tố thời gian cần thiêt để tái khởi động các đại doanh nghiệp sinh động trở lại. Chúng ta không còn làm ăn với các giao dịch quý kim, với độc quyền thương hiệu, và các vi ba: lớn không có nghĩa đáng tin, hay có khả năng kiểm soát, hay sáng suốt. Có nhiều điều phải học trong hiện tình. Và chúng ta hy vọng Paul Krugman, hơn ai hết, sẽ soi sáng thêm về những điểm nầy. GS Nguyễn Trường ngày 20-3-2009
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:13:03 GMT -5
Trên đà phá sản Nguyễn Trường (dịch) Chalmers Johnson (tác giả) 04/01/2009
Tai Sao Khủng Hoảng Quốc Trái Hiện Là Nguy Cơ Lớn Nhất Đối Với Hoa Kỳ ?
Các nhà phiêu lưu quân sự trong chính quyền George W. Bush có nhiều điểm tương đồng với những người cầm đầu công ty Enron trước đây. Họ tự nhận là những người "thông minh tài giỏi bậc nhất trong giới lãnh đạo" (the smartest guys in the room), tiêu đề bộ phim được giải thưởng do Alex Gibney đạo diễn về những sai lầm đưa Enron đến phá sản. Phái Tân Bảo Thủ trong tòa Bạch Ốc và Ngủ Giác Đài đã vượt quá tài trí của chính mình. Họ đã thất bại ngay cả trong việc giải quyết vấn đề tài trợ các cuộc chiến mang tính đế quốc và mưu đồ thống trị toàn cầu.
Bước qua năm 2008, Hoa kỳ chợt nhận ra mình đang lâm vào cảnh ngộ bất thường vì không đủ khả năng theo đuổi mức sinh hoạt quá tốn kém hay guồng máy quân sự quá lớn lao, phung phí. Chính quyền cũng không còn tìm cách tiết giảm các chi phí khổng lồ nhằm duy trì những đạo quân hiện hữu, thay thế số quân trang, quân dụng bị hủy hoại hoặc hư hao sau nhiều năm chinh chiến, hoặc chuẩn bị cho cuộc chiến thượng từng không gian chống lại những kẻ thù chưa xuất hiện. Thay vào đó, chính quyền Bush chuyển việc thanh toán những phí tổn nầy lại cho các thế hệ tương lai - hoặc tảng lờ phủ định. Thái độ vô trách nhiệm về thuế vụ đó đã được ngụy trang qua các thủ thuật tài chánh ( như buộc các xứ nghèo hơn cho chúng ta vay những khoản tiền lớn vô tiền khoáng hậu ) ; nhưng tình trạng nầy không thể tiếp diễn.
Cuộc khủng hoảng công trái phải được phân tích từ ba góc cạnh khác nhau :
(1) Trong tài khóa 2008, chúng ta đã dự chi cho các mục "quốc phòng" những ngân khoản điên rồ không dính dáng gì đến an ninh quốc gia Hoa kỳ. Đồng thời, gánh nặng thuế khóa dành cho những tầng lớp giàu có lại ở mức quá thấp.
(2) Chúng ta vẫn luôn tin tưởng có thể bù đắp vào đà xói mòn ngày một tăng tốc trong cơ sở kỹ nghệ chế biến và số công ăn việc làm thất thoát ra các nước ngoài, bằng các chi phí quốc phòng khổng lồ -- thường được gọi "chính sách Keynesianism về quân sự" (military Keynesianism), như chúng tôi đã phân tích trong cuốn "Nemesis" : The Last Days of the American Republic" (Nữ Thần Báo Oán : Những Ngày Cuối của Cộng Hòa Mỹ). Qua cụm từ military Keynesianism, chúng tôi muốn nói đến niềm tin sai lầm là những chính sách công --tập trung vào các cuộc chiến liên tục, vào những chi tiêu về vũ khí, quân trang, quân dụng, vào những đạo quân lớn lao -- có thể giúp duy trì một nền kinh tế tư bản mãi mãi thịnh vượng. Thực tế luôn trái ngược.
(3) Khi dồn hết tài nguyên luôn mang tính hữu hạn vào các chính sách quân sự, chúng ta đã bỏ quên đầu tư vào hạ tầng cơ sở xã hội và các chi tiêu cần thiết cho sự lành mạnh của xứ sở. Đó chính là điều các kinh tế gia gọi là "phí tổn cơ hội" (opportunity costs) -- hay những gì không làm được vì chúng ta đã dành tiền chi tiêu vào những thứ khác. Hệ thống giáo dục công lập của chúng ta đã xuống cấp một cách đáng lo ngại. Chúng ta đã không cung cấp dịch vụ bảo hiểm y tế cho mọi công dân và đã lơ là trong trách nhiệm một nước gây ô nhiểm số một trên thế giới. Nhưng quan trọng hơn hết là chúng ta đã đánh mất khả năng cạnh tranh trong địa hạt sản xuất hàng tiêu dùng dân sự -- một phương cách sử dụng tài nguyên khan hiếm vô cùng hữu hiệu so với sản xuất vũ khí.
Sau đây chúng tôi xin lần lượt thảo luận vấn đề theo từng góc cạnh vừa nói.
I : CHÍNH SÁCH THUẾ HIỆN HÀNH --MỘT TAI HỌA :
Người ta khó thể nói quá (virtually impossible to overstate) về sự lãng phí trong chi tiêu quân sự của chính phủ. Ngân sách của bộ Quốc Phòng trong tài khóa 2008 lớn hơn tổng số ngân sách quân sự của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Riêng ngân sách phụ trội nhằm tài trợ hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq, nằm ngoài ngân sách quốc phòng chính thức, tự nó cũng đã lớn hơn tổng số ngân sách quân sự của Liên Bang Nga và Trung Quốc gộp lại. Lần đầu tiên trong lịch sử, chi tiêu liên hệ đến quốc phòng trong tài khóa 2008 đã vượt quá mức một nghìn tỉ USD. Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia bán vũ khí lớn nhất cho toàn thế giới. Không tính các chí phí liên quan đến hai cuộc chiến đang tiếp diễn của TT Bush, chi tiêu quốc phòng đã tăng gấp đôi kể từ giữa thập kỷ 1990s. Ngân sách quốc phòng trong tài khóa 2008 đã lên mức cao nhất kể từ đệ nhị thế chiến.
Trước khi đi sâu vào chi tiết và phân tích con số khổng lồ nầy, một điều quan trọng cần được nhấn mạnh. Các con số về chi tiêu quốc phòng rõ ràng là không đáng tin cậy. Các con số chính thức công bố bởi hai cơ quan -- Sở Truy Cứu Quốc Hội (Congressional Reference Service) và Sở Ngân Sách Quốc Hội (Congressional Budget Office) -- không ăn khớp với nhau. Robert Higgs, chuyên viên nghiên cứu kinh tế chính trị cao cấp, khuyên : "Một nguyên tắc chung được chấp nhận là lấy tổng số ngân sách căn bản của Ngũ Giác Đài (thường được quảng bá rộng rãi) và nhân đôi lên ".(A well-founded rule of thumb is to take the Pentagon's [always well publicized] basic budget total and double it). Chỉ cần lướt qua những bài viết về bộ quốc phòng trong báo hàng ngày, người ta cũng thấy nhiều sai biệt trong thống kê về các các chi phí của bộ sở quan. Khoảng 30-40% ngân sách quốc phòng là kinh phí "đen" (black), nghĩa là liên quan đến những "chi phí được dấu kín thuộc những dự án mật" (hidden expenditures for classified projects). Chẳng có cách nào để biết những đề mục đó gồm những gì và ngân khoản liên hệ có xác tính hay không.
Có nhiều lý do để giải thích những thủ thuật che đậy nầy -- kể cả sở thích bí mật của Tổng Thống, bộ trưởng quốc phòng, và tập đoàn quân sự-kỹ nghệ (the military-industrial complex) ; nhưng lý do chính là các dân biểu, nghị sĩ -- những người hưởng lợi qua những công ăn việc làm bắt nguồn từ những chi tiêu quốc phòng, những dự án kếch sù hữu ích cho cử tri trong địa hạt của mình (pork-barrel projects)-- vì quyền lợi chính trị riêng, đều ủng hộ bộ quốc phòng. Năm 1996, trong một cố gắng điều chỉnh các chuẩn mực kế toán trong ngành hành pháp theo mẩu mực khu vực kinh tế dân sự, quốc hội đã biểu quyết chấp thuận Đạo luật Cải tiến Quản lý Tài chánh Liên bang (Federal Financial Management Improvement Act). Luật mới đòi hỏi tất cả các cơ sở liên bang phải mướn các kiểm toán viên bên ngoài kiểm tra sổ sách kế toán và công bố kết quả rộng rãi trong công chúng. Nhưng cả Bộ Quốc phòng lẫn Bộ An Ninh Quốc Nội chưa bao giờ chấp hành. Quốc hội có phàn nàn, nhưng cũng chẳng hề có biện pháp chế tài. Kết quả là tất cả các con số do bộ quốc phòng công bố đều không đáng tin cậy.
Khi thảo luận ngân sách tài khóa 2008, như đã được công bố cho báo chí ngày 7-02-2007, chúng tôi đã theo sự hướng dẫn của hai nhà phân tích kinh nghiệm và đáng tin cậy : William D. Hartung làm việc cho chương trình "Sáng Kiến Vũ Khí và An Ninh thuộc Quỹ New America Foundation (New America Foundation's Arms and Security Initiative) và Fred Kaplan, phóng viên quốc phòng của tổ chức Slate.org. Họ đồng ý là Bộ Quốc Phòng đã trình Quốc Hội một ngân khoản 481,4 tỉ USD cho lương bổng, điều hành (không kể Iraq và Afghanistan) và trang bị. Họ cũng đồng ý với con số 141,7 tỉ USD ngân sách phụ trội (supplemental budget) cho cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu -- là hai cuộc chiến đang tiếp diễn mà dân Mỹ những tưởng đã dự liệu sẵn trong ngân sách căn bản của Bộ Quốc Phòng. Bộ Quốc Phòng cũng dự chi một ngân khoản khác 93,4 tỉ USD để trang trải những chi phí chiến tranh chưa hề được nhắc đến cho thời gian còn lại của năm 2007, và sáng tạo hơn nữa, một khoản phụ cấp (additional allowance - một từ mới được dùng trong các tài liệu ngân sách quốc phòng) 50 tỉ USD sẽ được tính vào tài khóa 2009. Tóm lại, Bộ Quốc Phòng đã dự chi một tổng số 766,5 tỉ USD cho tài khóa 2008.
Nhưng vẫn chưa hết. Nhằm ngụy trang tầm vóc thực sự của chính sách đế quốc quân sự Hoa Kỳ, chính quyền từ lâu đã che dấu những chi phí quân sự lớn lao trong nhiều bộ ngoài Bộ Quốc Phòng. Chẳng hạn, 23,4 tỉ USD cho Bộ Năng Lượng, để khai triển và bảo quản các đầu đạn nguyên tử ; và 25,3 tỉ USD trong ngân sách Bộ Ngoại Giao cho viện trợ quân sự (phần lớn dành cho Do Thái, Saudi Arabia, Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, United Arab Republic, Egypt, và Pakistan). Một ngân khoản 1,03 tỉ USD khác ngoài ngân sách chính thức của Bộ Quốc Phòng để trả tiền thưởng đầu quân và tái đăng cho quân lực Hoa Kỳ hiện giàn trải quá mỏng, so với con số nhỏ nhoi 174 triệu USD trong năm 2003, năm cuộc chiến Iraq bắt đầu. Bộ Cựu Chiến Binh hiện được dành ít nhất cũng 75,7 tỉ USD ; 50% con số nầy dành để trang trải chi phí săn sóc y tế dài hạn cho quân nhân bị trọng thương trong số ít ra là 28.870 thương binh ở chiến trường Iraq, và 1708 thương binh ở Afghanistan. Ngân khoản nầy được công nhận là không thích đáng hay quá khiêm tốn. Một ngân khoản 46,4 tỉ USD được dành cho Bộ An Ninh Quốc Nội (Department of Homeland Security).
Đó là chưa kể con số 1,9 tỉ USD dành cho Bộ Tư Pháp để trang trải các chi phí liên quan đến các hoạt động bán quân sự của FBI ; 38,5 tỉ USD dành cho Quỹ Hưu Bổng Quân Sự thuộc Bộ Ngân Khố ; 7,6 tỉ USD cho các hoạt động mang tính quân sự của NASA ; và trên 200 tỉ USD để trả tiền lãi nợ quốc phòng.
Tính chung, một cách bảo thủ, Hoa Kỳ phải chi cho bộ máy quân sự ít nhất cũng trên 1.100 tỉ USD trong tài khóa 2008.
II : KEYNESIANISM QUÂN SỰ -- MILITARY KEYNESIANISM :
Các chi tiêu trên đây là ghê tởm trên bình diện đạo đức và quá sức gánh chịu lâu dài trên bình diện thuế vụ. Nhiều thành viên phái Tân bảo thủ và nhiều người Mỹ yêu nước thiếu hiểu biết tin rằng mặc dù ngân sách quốc phòng thật sự lớn lao, nhưng chúng ta vẫn đủ sức gồng gánh vì Hoa Kỳ là quốc gia giàu nhất hành tinh. Chẳng may niềm tin đó không còn đúng nữa. Liên Hiệp Âu Châu (EU), theo tài liệu "World Factbook" của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA), mới là cộng đồng chính trị giàu nhất thế giới. Năm 2006, GDP (hàng hóa và dịch vụ sản xuất quốc nội) của EU được ước tính cao hơn GDP của Hoa Kỳ. Cũng vào năm 2006, GDP của Trung Quốc cũng chỉ kém thua Hoa Kỳ chút đỉnh, và Nhật Bản là xứ giàu thứ tư trên thế giới.
Một sự so sánh khác, nhiều ý nghĩa hơn -- so sánh cân thương mãi hữu hình (current accounts) giữa các quốc gia -- cho thấy tình trạng của Hoa Kỳ tồi tệ hơn nhiều. Cân thương mãi đo lường số thặng dư hoặc khuy khiếm thuần trong mậu dịch quốc tế (net trade surplus or deficit) của một xứ, cộng thêm số tiền lãi, tiền royalties, cổ tức, tăng giá của tích sản tư bản (capital gains), ngoại viện, và các lợi tức khác. Chẳng hạn, để sản xuất một thứ hàng gì, nước Nhật cần phải nhập khẩu các vật tư (raw materials) cần thiết. Ngay cả sau khi trang trải mọi chi phí, Nhật Bản vẫn còn có một số thặng dư mậu dịch với Hoa Kỳ lên tới 88 tỉ USD/năm và ghi nhận một cân thương mãi thặng dư (xuất siêu) lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Ngược lại, Hoa Kỳ đang đứng thứ 163, còn tệ hơn cả Úc và Vương Quốc Anh là những xứ có cân thương mãi khuy khiếm hay nhập siêu lớn. Năm 2006, con số nhập siêu của Hoa Kỳ lên đến 811,5 tỉ USD ; và Tây Ban Nha (Spain) là nước nhập siêu lớn thứ hai với 106,4 tỉ USD. Về lâu về dài, Hoa Kỳ khó thể gồng gánh một cân thương mãi khuy khiếm lớn lao như vậy.
Không những chúng ta đang ngụp lặn trong hàng ngoại, kể cả dầu khí nhập khẩu, mà chúng ta không đủ khả năng trang trải, chúng ta còn phải tài trợ những món hàng nhập khẩu nầy bằng những con số vay mượn khổng lồ. Ngày 07- 11 - 2007, Bộ Ngân Khố công bố số nợ của quốc gia (national debt -- quốc trái) lần đầu tiên đã vượt mức 9.000 tỉ USD. Lời loan báo nầy đã được đưa ra năm tuần lễ sau ngày Quốc Hội biểu quyết nâng trần quốc trái lên mức 9.815 tỉ.
Kể từ năm 1789, năm Hiến Pháp Hiệp Chủng Quốc ra đời, cho đến năm 1981, số nợ do chính quyền liên bang tích lũy vẫn chưa vượt ngưỡng 1.000 tỉ USD. Khi George W. Bush lên làm Tổng Thống vào tháng 01-2001, con số đó còn ở khoảng 5.700 tỉ USD. Từ đó, số quốc trái đã gia tăng khoảng 45%. Số nợ khủng khiếp nầy một phần lớn có thể giải thích bởi số chi phí quốc phòng của Hoa Kỳ so với phần còn lại của thế giới.
Sau đây là 10 nước chi tiêu về quốc phòng nhiều nhất và ngân sách quốc phòng liên hệ (năm) :
1. Hoa Kỳ (ngân sách quốc phòng tài khóa 08), 623 tỉ USD
2. Trung Quốc (2004), 65 tỉ
3. Liên Bang Nga, 50 tỉ
4. Pháp (2005),45 tỉ
5.Anh Quốc, 42,8 tỉ
6. Nhật (2007), 41,75 tỉ
7. Đức (2003), 35,1 tỉ
8. Ý (2003), 28,2 tỉ
9. Nam Hàn (2003), 21,1 tỉ
10. Ấn Độ (2005 ước tính), 19 tỉ
Toàn thế giới (2004 u.t.), 1.100 tỉ
Thế giới ngoài Hoa Kỳ, 500 tỉ
Số chi phí quân sự quá đáng của Hoa Kỳ không chỉ diễn ra trong vòng một ít năm ngắn ngủi hoặc chỉ vì chính sách đặc thù của chính quyền Bush. Tình trạng nầy đã tiếp diễn từ rất lâu -- hậu quả của một hệ ý thức nông nổi đã bám trụ trong hệ thống chính trị dân chủ của chúng ta, một hệ thống nó đang bắt đầu hủy hoại. Hệ ý thức nầy chúng tôi gọi là "chính sách Keynesianism về quân sự" (military Keynesianism) -- chúng tôi muốn ám chỉ ý chí duy trì một nền kinh tế chiến tranh thường trực và xem hậu quả hay "đầu ra" quân sự (military output) như một sản phẩm kinh tế bình thường, mặc dù nó chẳng đóng góp gì vào sản xuất hoặc tiêu thụ.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:14:45 GMT -5
Hệ ý thức nầy ra đời từ những năm đầu của chiến tranh lạnh. Trong những năm cuối thập kỷ 1940s, Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi những âu lo về kinh tế. Cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế vào thập kỷ 1930s chỉ được khống chế nhờ ở sự bùng phát sản xuất cho đệ nhị thế chiến. Với hòa bình và giải ngũ của quân đội, mọi người âu lo khủng hoảng sẽ trở lại. Trong suốt năm 1949, hoảng sợ trước sự thử nghiệm bom nguyên tử thành công của Liên Bang Xô Viết, viễn tượng chiến thắng của phe cộng sản trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc, kinh tế quốc nội thoái trào, và bức màn sắt đang phủ xuống các quốc gia vệ tinh Đông Âu của Liên Bang Xô Viết, Hoa Kỳ cố soạn thảo một chiến lược căn bản cho thời kỳ chiến tranh lạnh đang hình thành. Kết quả là sự ra đời của Phúc trình Hội Đồng An Ninh Quốc Gia 68 (National Security Council Report 68 -- NSC-68) mang tính hiếu chiến, được soạn thảo dưới sự giám sát của Paul Nitze, chỉ huy Nhóm Hoạch định Chính Sách Bộ Ngoại Giao (Policy Planning Staff). Phúc trình đề ngày 14-4-1950, và được TT Harry S. Truman ký duyệt ngày 30-9-1950, đã ghi rõ các chính sách kinh tế công căn bản mà Hoa Kỳ luôn theo đuổi cho đến ngày nay.
Trong phần kết luận, NSC-68 xác quyết : "Một trong những bài học có ý nghĩa nhất qua kinh nghiệm đệ nhị thế chiến của chúng ta là nền kinh tế Hoa Kỳ, một khi hoạt động gần mức hiệu quả nhất, có thể cung cấp nhiều tài nguyên khổng lồ cho các mục tiêu khác hơn là tiêu thụ dân sự trong khi cùng lúc đem lại một mực sống cao" (One of the most significant lessons of our World War II experience was that the American economy, when it operates at a level approaching full efficiency, can provide enormous resources for purposes other than civilian consumption while simultaneously providing a high standard of living).
Trong bối cảnh đó, các chiến lược gia Hoa Kỳ bắt đầu xây dựng một ngành kỹ nghệ vũ khí rộng lớn, vừa để đối phó với sức mạnh quân sự của Liên Bang Xô Viết ( mà họ luôn đánh giá quá cao), và cũng để duy trì mức toàn dụng và ngăn ngừa sự khả di trở lại của nạn khủng hoảng kinh tế. Rút cuộc, dưới sự lãnh đạo của Ngũ Giác Đai, hàng loạt kỹ nghệ mới đã được xây dựng để sản xuất phi cơ cở lớn, các tàu ngầm nguyên tử, các đầu đạn nguyên tử, hỏa tiển liên lục địa, và các vệ tinh giám sát và truyền thông. Trước các diễn biến vừa nói, TT Eisenhower, trong bài diễn văn chia tay cuối nhiệm kỳ Tổng Thống đọc ngày 6-02-1961, đã lên tiếng cảnh báo : "Sự kết hợp giữa guồng máy quân sự khổng lồ và ngành kỹ nghệ vũ khí rộng lớn là một sự kiện mới mẻ trong kinh nghiệm Hoa Kỳ"(The conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience)--đó chính là tập đoàn quân sự-kỹ nghệ.
Tính đến năm 1990, giá trị của toàn bộ vũ khí, trang bị, và công xưởng thuộc Bộ Quốc Phòng chiếm tới 83% giá trị của tất cả các nhà máy và trang bị của toàn thể ngành kỹ nghệ chế biến của Hoa Kỳ. Từ năm 1947 đến năm 1990, tất cả các ngân sách quân sự của Hoa Kỳ gộp lại đã lên tới 8.700 tỉ USD. Mặc dù Liên Bang Xô Viết đã tan rã từ lâu, sự lệ thuộc của Hoa Kỳ vào chính sách Keynesianism về quân sự vẫn tiếp tục leo thang, chính là vì các quyền lợi thủ đắc chồng chéo (vested interests) đã lâu ngày bám trụ chung quanh guồng máy quân sự (military establishment). Về lâu về dài, việc cùng lúc theo đuổi cả súng đạn lẫn bơ mì là một tập hợp đầy bất ổn. Kỹ nghệ quân sự sẽ giành hết tài nguyên quốc gia, đẩy dần nền kinh tế dân sự đến bờ băng hoại. Trong thực tế, theo đuổi chính sách Keynesianism về quân sự là một hình thức tự sát kinh tế dần mòn.
Ngày 01-5-2007, Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách và Kinh Tế ở Washington, D.C., (Center for Economic and Policy Research of Washington, D.C.), cho công bố kết quả một nghiên cứu soạn thảo bởi công ty chẩn đoán toàn cầu Global Insight về ảnh hưởng trong trường kỳ của chi phí quân sự gia tăng. Dưới sự hướng dẫn của kinh tế gia Dean Baker, công trình nghiên cứu đã cho thấy sau ảnh hưởng kích cầu ban đầu, vào khoảng năm thứ sáu, tác dụng của chi tiêu quân sự gia tăng sẽ trở nên tiêu cực. Không cần phải nói, kinh tế Hoa Kỳ đã phải đối đầu với chi phí quốc phòng gia tăng hơn sáu mươi năm qua. Baker đã khám phá, sau 10 năm chi tiêu quốc phòng ngày một gia tăng, thị trường lao động đã thất thoát 464.000 việc làm so với cùng trạng huống khi chi tiêu quốc phòng ở mức thấp.
Baker kết luận:
"Người ta thường tin, chiến tranh và gia tăng chi tiêu quân sự có ảnh hưởng tốt đối với kinh tế. Trong thực tế, hầu hết các mô hình kinh tế chứng tỏ chi tiêu quân sự thường chuyển hướng tài nguyên khỏi những phương cách sử dụng mang tính sản xuất, như tiêu thụ và đầu tư, và chung cuộc làm chậm tiến độ tăng trưởng kinh tế và suy giảm mức nhân dụng". (It is often believed that wars and military spending increases are good for the economy. In fact, most economic models show that military spending diverts resources from productive uses, such as consumption and investment, and ultimately slows economic growth and reduces employment).
III. KINH TẾ HOA KỲ - NGUY CƠ PHÁ SẢN :
Nhiều người tin tưởng Hoa Kỳ có đủ khả năng đồng thời duy trì một lực lượng quân sự hùng hậu và một mực sống cao, và cần cả hai để bảo đảm tình trạng toàn dụng. Thực tế đã không được như vậy. Ngay từ thập kỷ 1960s, người ta đã thấy rõ chuyển hướng những xí nghiệp lớn của quốc gia qua Bộ Quốc Phòng và sản xuất những tài hóa không có giá trị đầu tư và tiêu thụ đã bắt đầu bóp ngạt các hoạt động kinh tế dân sự. Sử gia Thomas E. Woods, Jr., nhận xét, trong suốt hai thập kỷ 1950s và 1960s, có khoảng từ 1/3 đến 2/3 các tài năng nghiên cứu của Hoa Kỳ đã chuyển qua khu vực quân sự. Đã hẵn, rất khó biết được sự chuyển dịch tài nguyên và chất xám qua phục vụ các ngành quân sự đã đem lại những khám phá, canh tân nào, nhưng trong thực tế, trong thập kỷ 1960s, người ta ghi nhận Nhật Bản đã qua mặt chúng ta trong việc thiết kế và chất lượng của hàng loạt sản phẩm tiêu dùng, kể cả xe hơi và các hàng điện tử gia dụng.
Vũ khí nguyên tử cũng là một ví dụ điển hình của những trường hợp bất thường như thế. Từ 1940 đến 1996, Hoa Kỳ đã chi ra trên 5.800 tỉ USD cho các chương trình khai triển, thí nghiệm, và sản xuất bom nguyên tử. Đến năm 1967, thời điểm kho tàng vũ khí nguyên tử đã lên đỉnh điểm, Hoa Kỳ đã tích lũy khoảng 32.500 bom hydrogen và nguyên tử, cũng may là chưa bao giờ sử dụng quả nào. Điều nầy đã chứng minh rõ nguyên tắc Keynesian là chính quyền có thể tạo ra công ăn việc làm cho nhân công. Vũ khí nguyên tử không phải chỉ là vũ khí bí mật mà đồng thời cũng là vũ khí kinh tế bí mật của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2006, chúng ta còn giữ lại 9.960 trong số nầy. Ngày nay, vũ khí hạt nhân chẳng còn hữu ích cho bất cứ ai ngoại trừ những kẻ điên rồ, trong khi đó hàng nghìn tỉ mỹ kim sản xuất ra chúng, lẽ ra, đã có thể được dùng để giải quyết nhiều vấn đề xã hội và y tế, chất lượng giáo dục và đại học cho đại chúng, đó là chưa nói đến tạo việc làm cần kỹ năng cao bên trong nền kinh tế Mỹ.
Seymour Melman (1917-2004), giáo sư Đại Học Columbia, chuyên nghiên cứu về kỹ năng và kinh tế kỹ nghệ, là người tiên phong phân tích những mất mát vì chính sách Keynesianism về quân sự. Trong tác phẩm Chủ Nghia Tư Bản Ngũ Giác Đai : Kinh Tế Chính Trị về Chiến Tranh (Pentagon Capitalism : The Political Economy of War), xuất bản năm 1970, ông đã phân tích tiền nghiệm những hậu quả bất ngờ do khuynh hướng đề cao thái quá vai trò của quân lực và vũ khí của Hoa Kỳ từ ngày đầu của chiến tranh lạnh. Melman viết (tr. 2-3) :
"Từ 1946 đến 1969, các chính phủ liên tiếp của Hoa Kỳ đã chi hơn 1.000 tỉ mỹ kim về quân sự, hơn nửa con số nầy dưới thời hai Tổng Thống Kennedy và Johnson -- thời kỳ trong đó sự điều hành nhà nước [với Ngũ Giác Đài giữ vai trò áp đảo] đã được thiết kế như một định chế chính thức. Con số choáng ngợp nầy (thử tưởng tượng một tỉ thứ gì đó) vẫn chưa phản ảnh toàn bộ phí tổn của guồng máy quân sự đối với quốc gia nói chung. Phí tổn thực sự phải gồm cả những gì đã bị hy sinh, những suy thoái về nhiều mặt của đời sống vì không còn khả năng cải thiện tình trạng cơ cực dài lâu của người dân".
Trong một cố gắng diễn giải tính chính xác và thời sự trong phân tích của Melman đối với hiện tình kinh tế Hoa Kỳ, Thomas Woods đã viết :
"Theo Bộ Quốc Phòng, trong bốn thập kỷ từ 1947 đến 1987, Bộ đã chi 7.620 tỉ mỹ kim (tính theo giá trị đồng mỹ kim năm 1982) số tài nguyên tư bản. Trong năm 1985, Bộ Thương Mãi ước tính giá trị toàn bộ các nhà máy, trang bị, và cơ sở hạ tầng của cả nước là khoảng trên 7.290 tỉ mỹ kim. Nói một cách khác, con số chi tiêu trên đây đã có thể giúp tăng gấp đôi toàn bộ khối tư bản của Hoa Kỳ hoặc hiện đại hóa và thay thế toàn bộ khối tư bản hiện hữu".
Việc không canh tân hoặc thay thế khối tư bản tích sản là một trong những nguyên nhân vì sao khi bước vào thế kỷ 21, cơ sở kỹ nghệ chế biến của chúng ta đã tan biến. Máy dụng cụ (machine tools) -- ngành kỹ nghệ Melman tường tận nhất-- là một triệu chứng cực kỳ quan trọng. Tháng 8-1968, một cuộc kiểm kê kéo dài 5 năm (tr.186) tiết lộ : "64% các máy dụng cụ trong ngành luyện kim của Hoa Kỳ đã hơn 10 năm tuổi. Tuổi tác các trang thiết bị kỹ nghệ (máy khoan, máy tiện, v.v...) cho thấy máy dụng cụ của Hoa Kỳ là già cổi nhất trong các xứ kỹ nghệ tiền tiến và đánh dấu quá trình thoái hóa liên tục kể từ sau đệ nhị thế chiến. Sự thoái hóa trong cơ sở hệ thống kỹ nghệ chứng tỏ hậu quả hao mòn, suy yếu của việc chuyển dịch tư bản và chất xám qua phục vụ khu vực quân sự của Hoa Kỳ".
Từ năm 1968 cho đến nay, chúng ta chưa thấy một nổ lực nào nhằm đảo ngược xu hướng trên đây. Tình trạng nầy đã được phản ảnh trong việc nhập khẩu ồ ạt các sản phẩm trang bị, từ máy móc dùng trong y tế như máy tăng tốc proton (proton accelerators) dùng trong xạ trị (radiological therapy) --phần lớn từ Bỉ, Đức, và Nhật --, cho đến xe du lịch, xe vận tải.
Kỷ nguyên siêu cường duy nhất quá ngắn ngủi đã đến hồi kết thúc. Như giáo sư Benjamin Friedman đã viết :
"Đã nhiều lần, Hoa Kỳ luôn là quốc gia lãnh đạo và trái chủ, một quốc gia hàng đầu về ảnh hưởng chính trị, ngoại giao, và văn hóa. Đó là điều đương nhiên khi chúng ta thay thế vai trò Anh quốc, đồng thời...vai trò một quốc gia lãnh đạo trái chủ của toàn thế giới. Ngày nay, chúng ta không còn là quốc gia lãnh đạo và trái chủ của thế giới.Trong thực tế, chúng ta đang là quốc gia con nợ lớn nhất thế giới, và chúng ta đang tiếp tục nắm giữ ảnh hưởng chỉ dựa trên căn bản sức mạnh quân sự ".
Vài tổn hại đã gánh chịu có thể không bao giờ cứu chữa được. Tuy nhiên, vẫn còn vài việc quốc gia nầy cần phải cấp tốc thực hiện. Chúng ta cần phải đảo ngược các biện pháp giảm thuế cho người giàu trong hai năm 2001 và 2003 của Bush, phải khởi sự thanh toán hệ thống đế quốc với hơn 800 căn cứ quân sự trên toàn cầu, phải cắt giảm khỏi ngân sách quốc phòng tất cả các dự án không liên quan gì đến an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, và phải chấm dứt việc dùng ngân sách quốc phòng như một chương trình tạo việc làm theo kiểu Keynesianism. Nếu chúng ta làm được những điều đó, chúng ta sẽ có cơ may thoát nạn. Ngược lại, chúng ta có lẽ phải đối đầu với nguy cơ một quốc gia phá sản và một cuộc khủng hoảng dài lâu.
Nguyễn Trường
Irvine, California
04- 02-2008
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:16:40 GMT -5
Chủ nghĩa tư bản và khủng hoảng tài chánh toàn cầu Nguyễn Trường 12/12/2008
Năm 1989, bức tường Bá Linh sụp đổ. Năm 1991, Liên Bang Xô Viết tan rã. Trong tác phẩm The End of History and the Last Man, xuất bản năm 1992, tác giả Francis Fukuyama chính thức tuyên bố Điểm Chung Cuộc của Lịch Sử. Văn hóa Tây phương toàn thắng ; trật tự thế giới mới sẽ dần dà được định hình theo mô hình Dân Chủ Tự Do. Và Chủ nghĩa Tự do về Chính trị và Kinh tế từ nay sẽ là mô hình duy nhất và tốt nhất cho nhân loại.
Trong mô hình nầy, mục tiêu tối hậu của các công ty là tối đa hóa doanh lợi cho giới đầu tư hay cổ đông. Lợi nhuận càng cao, giới lãnh đạo quản trị càng được tưởng thưởng hậu hỷ dưới hình thức thù đáp cao, nhất là với các chứng khoán hoặc cổ phiếu đặc biệt. Nhiệm vụ của chính quyền là giảm thiểu các biện pháp can thiệp và kiểm soát, đẩy mạnh tư hữu hóa. Tất cả những việc khác sẽ được giải quyết tốt đẹp bởi bàn tay vô hình của thị trường tự do. Nói một cách ngắn gọn, thị trường cạnh tranh tự do là guồng máy phân bổ tài nguyên ưu việt, và là cơ chế phát triển kinh tế hữu hiệu nhất.
Theo nhóm Washington Consensus, giới lãnh đạo trong Bộ Ngân Khố, Cục Dự Trữ Liên Bang, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Ngân Hàng Thế giới, và một số trường đại học nổi tiếng Hoa Kỳ, sau chiến tranh lạnh, chủ nghiã tư bản tự do là hệ thống duy nhất đã vượt qua thử thách và thích hợp với thế giới ngày mai. Theo họ, toàn cầu hóa - tiến trình hội nhập các nền kinh tế và các đại công ty đa quốc gia qua mậu dịch và đầu tư quốc tế - là nguyên tắc chỉ đạo, là phương châm hành động. Họ chủ trương: quân bình ngân sách, giảm thuế, thị trường tự do, tư hữu hóa, bảo vệ quyền tư hữu, giảm thiểu vai trò của chính quyền... Tóm lại, mô hình nầy sẽ mang lại thịnh vượng, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đưa đến dân chủ, hòa bình và ổn định.
Trong thực tế, với tình trạng chiến tranh khắp nơi, với hiện tượng hâm nóng toàn cầu, ô nhiễm môi trường, tình trạng nghèo đói dai dẳng trong nhiều vùng trên thế giới, và nhất là với chính sách đối ngoại của chính siêu cường Hoa kỳ, trật tự thế giới mới không còn đứng vững. Nếu toàn cầu hóa kinh tế là trào lưu bất khả kháng, nó cũng che dấu nhiều đợt sóng ngầm dẫn tới các cuộc khủng hoảng tài chánh trầm trọng như cuộc khủng hoảng năm 1997 ở Á châu, và cuộc khủng hoảng toàn cầu hiện nay.
Cứu Nguy và Xã Hội Hóa Chủ Nghĩa Tư Bản Trong một bài bình luận ngày 25-10-2008, báo The New York Times viết, "gạt bỏ một lời khoa trương đùa cợt của Tổng Thống Pháp Nicolas Sarkozy - chủ nghĩa tư bản kiểu Mỹ đã chấm dứt - là một việc làm dễ dàng, chỉ cần xếp nó chung với các lời phê bình của Pháp về thức ăn liền và văn hóa bình dân Mỹ"[1].
Thực vậy, chính quyền Mỹ hiện nay đang nắm nhiều chứng khoán và cổ phần trong những ngân hàng lớn, kiểm soát một trong những công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới - AIG (American International Group), nhận bảo đảm hơn nửa số nợ có bất động sản thế chấp trong cả nước. Nói một cách khác, chính quyền đã nắm giữ và kiểm soát hệ thống tài chánh - mạch sống của chủ nghĩa tư bản.
Alan Greenspan, người luôn rao giảng chủ nghĩa tư bản kinh điển và nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, tuần rồi, cũng đã phải thú nhận nhược điểm trong niềm tin sắt đá của mình trong hơn 40 năm qua: thị trường luôn tự động điều chỉnh. Ông nói:"Tôi đã sai lầm". Bối rối, ông ra trước Quốc Hội than phiền quan điểm kiên cường của ông về thế giới trước đây nay đã rạn vở và ông vẫn chưa hiểu bằng cách nào cuộc khủng hoảng đã xẩy ra. Đây chính là lúc giới trí thức phải lo lắng.
Vấn đề là chủ nghĩa tư bản phải chuyển hướng như thế nào. Trong một thế giới với những liên kết toàn cầu, Hoa Kỳ không thể đơn thuần trở lại với chủ nghĩa tư bản của các thập kỷ 1950s và 1960s khi luật lệ giám sát rất khắt khe và các công ty độc quyền được o bế đang khống chế thế giới các công ty. Tuy nhiên, Tổng Thống và Quốc Hội mới sắp tới sẽ có nhiều cơ may không thể bỏ qua để tái thẩm định những nguyên tắc và luật lệ chi phối một hình thức kinh tế thị trường vốn được buông lỏng và tự do thái quá từ thời Tổng Thống Ronald Reagan.
Sự gỡ bỏ giám sát tài chánh đã đem lại sinh động cho sinh hoạt kinh tế, khi thịnh vượng lúc thoái trào - gỡ bỏ rào cản đối với chuyển dịch tư bản, cho phép tự do giao dịch các sản phẩm tài chánh mờ ám, và thả lỏng các định chế tài chánh tự do vay nợ ngày một nhiều hơn.
Tiền vay nhẹ lãi từ Trung Quốc và Cục Dự Trữ Liên Bang đã thêm dầu vào lửa. Và các định chế tài chánh được buông lỏng tự do của Hoa Kỳ - các định chế trung gian môi giới, các qũy đầu cơ, và các ngân hàng phi- ngân- hàng (nonbank banks) - giữ một vai trò quan trọng trong những diễn biến đưa tới thảm họa.
Giải pháp cho cuộc khủng hoảng đòi hỏi phải rà soát, tư duy lại các quy luật giám sát tài chánh. Tỉ suất vốn dự trử của các ngân hàng phải được tăng cao; các định chế tài chánh phải được tái giám sát. Và nhiều hình thức kiểm soát, khác hơn là buộc dây cương lên các ngân hàng Mỹ, cũng rất cần thiết.
Chính quyền mới sắp đến phải tái lập ý niệm cơ hội đồng đều, cần đầu tư vào y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở. Một khế ước xã hội và vai trò của chính quyền trong khế ước đó cần được xét duyệt. Vượt qua những thách thức đó là một trách nhiệm khó khăn. Cứu cấp hệ thống tài chánh cũng chỉ mới là bước đầu.
Khủng Hoảng Nhiều Mặt Càng hiểu rõ cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay, người ta càng thấy nhiều vấn đề đáng lo ngại.
Hai ứng viên Tổng Thống trong quá trình vận động tuyển cử chỉ quan tâm đến những khó khăn của giai cấp trung lưu - các gia đình âu lo về công ăn việc làm, đến tiền nhà hàng tháng, tiền tiết kiệm hưu trí và học phí đại học cho con em.
Mỗi lần chỉ số Dow Jones sụt giảm, mối âu lo càng gia tăng. Mỗi công ty đóng cửa và mỗi phúc trình của chính quyền về số người thất nghiệp gia tăng làm họ thêm sợ hãi.
Chẳng ai biết phải làm gì để ổn định tình hình. Và cũng chẳng ai nói gì về người nghèo khó.
Nhưng nếu chúng ta đã thực sự rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng nhất kể từ cuộc kinh tế đại khủng hoảng 1929-33, những người chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là những người nghèo khổ và trung lưu hạng thấp (lower middle class). Có hàng triệu người như vậy, nhưng phần lớn chẳng ai biết đến. Đối với họ, một bước sụt thang là thêm một bước chìm sâu vào cảnh khốn cùng hơn nữa.
Trước hết, ít ra trong đoản kỳ, nhiều gia đình sẽ mất căn hộ đang ở, sẽ khó tìm được việc làm. Khi mất việc, nhiều gia đình sẽ mất bảo hiểm y tế... Tình trạng nầy sẽ là một gánh nặng vượt khỏi khả năng chịu đựng của các bệnh viện cung cấp các dịch vụ y tế căn bản, vốn đang đối mặt với bất trắc khả dĩ vở nợ.
Nạn kinh tế thoái trào cùng với dự phóng gia tăng trong số bệnh nhân không có bảo hiểm y tế sẽ làm cuộc khủng hoảng hiện nay thêm phần trầm trọng.
Hệ thống tài chánh Hoa Kỳ đã bị chìm đắm trong cuộc khủng hoảng tín dụng bất động sản vì từ lâu các nhà lãnh đạo đã không nghiêm chỉnh chú tâm đến các triệu chứng rõ ràng của căn bệnh đã di căn.
Hiện nay, nhiều triệu chứng đáng lo ngại cũng đã xuất hiện trong một số địa hạt quan trọng khác: hạ tầng cơ sở quốc gia xuống cấp, hệ thống giáo dục công lập bất cập, các chính sách năng lượng và y tế vô hiệu. Và không một cấp lãnh đạo nào đưa ra một phương án thích ứng.
Tóm lại, dấu hiệu suy thoái, mục rữa, đầy dẫy ở khắp nơi. Kể từ đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ chưa bao giờ phải cần đến một chính quyền cùng lúc có viễn kiến toàn cảnh và khả năng lãnh đạo trên nhiều mặt trận như lúc nầy.
Ngay từ đầu, khi cần chuyên viên giúp lèo lái Wall Street ra khỏi trì trệ, Henry Paulson, Bộ trưởng Ngân Khố, đã quay về Goldman Sachs tuyển chọn một số cộng tác viên cũ giàu kinh nghiệm về ngân hàng và tái cấu trúc các công ty.
Tháng 9-2008, sau khi chính quyền Bush quyết định cứu cấp tập đoàn bảo hiểm AIG với ngân khoản 85 tỉ USD (nay tăng lên khoảng 122 tỉ), Paulson cũng đã giúp chọn một giám đốc trong hội đồng quản trị Goldman Sachs vào chức vụ lãnh đạo AIG.
Vào đầu tháng 10-2008, khi cần người cầm đầu quỹ cứu trợ 700 tỉ, Paulson lại tuyển chọn Neel T. Kashkari, 35 tuổi, một tay em - cũng thuộc nhóm Goldman Sachs - chỉ có kinh nghiệm trong ngành ngân hàng đầu tư.
Chính vì hầu hết các viên chức lèo lái các chương trình cứu trợ và giải quyết cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay đều xuất thân từ lò luyện Goldman Sachs, các ngân hàng và công ty tài chánh cạnh tranh đã đặt cho Goldman cái tên lóng: Government Sachs (Chính quyền Sachs).
Chính tầm cỡ cuộc khủng hoảng tài chánh và các phương cách can thiệp mang tính lịch sử của chính quyền đã đưa đến nhiều nghi vấn về vai trò của Goldman Sachs.
Các nhà phân tích tự hỏi tại sao Paulson lại không tuyển chọn một số trợ tá từ các ngân hàng cạnh tranh khác để giảm thiểu hình ảnh của Bộ Ngân Khố, trong thực tế, đã trở thành một bộ phận của Goldman. Một số khác đặt câu hỏi: Paulson và nhóm của ông đang lo cho quyền lợi của ai? Của những vị đang giám sát các xí nghiệp dịch vụ trên đường phá sản, hay của các sở hữu chủ những căn hộ trung bình đang bị đe dọa bởi cuộc khủng hoảng?
Và câu trả lời có thể là những hành động của Paulson và câu lạc bộ các cựu nhân viên Goldman Sachs sẽ được mổ xẻ phân tích bởi Quốc hội mới vào mùa xuân sắp tới khi thảo luận vấn đề luật pháp, trình độ giám sát và chế tài các hình thức hoạt động dịch vụ tài chánh thiếu cẩn trọng, nghiêm túc.
Những Cam Go Trước Mắt Trong nhiều tuần lễ vừa qua, sự chao đảo trên các thị trường chứng khoán toàn cầu đã chiếm vị trí những tin hàng đầu của báo chí. Nhưng quan trọng và đáng lo hơn cả vẫn là những tin tức về thực trạng kinh tế toàn cầu. Trong thực tế, hiện nay, các biện pháp cứu nguy khu vực ngân hàng rõ ràng chỉ mới là bước đầu. Các khu vực kinh tế ngoài tài chánh còn cần cứu trợ cấp thiết hơn nữa.
Do đó, trái với các chính sách Tân Bảo Thủ, sự can thiệp của chính quyền vào sinh hoạt kinh tế thật sự rất cần thiết qua gia tăng công chi dù phải tạm thời quên đi mục tiêu thăng bằng ngân sách.
Vào đầu tháng 10-2008, chỉ số tiêu thụ sụt giảm mạnh song song với chỉ số sản xuất kỹ nghệ. Tỉ lệ thất nghiệp vọt cao. Chỉ số kỹ nghệ chế biến của Ngân Hàng Dự Trử Liên Bang Philadelphia sụt giảm nhanh nhất trong vòng 20 năm qua. Tất cả mọi dấu hiệu đều cho thấy nạn thoái trào kinh tế sẽ rất sâu đậm, tàn nhẫn,và lâu dài.
Tỉ suất thất nghiệp đã vượt quá 6%; tỉ suất khiếm dụng trên 10%. Đến nay, hầu như chắc chắn tỉ suất thất nghiệp sẽ lên quá 7%, và rất có thể trên 8%, cho thấy đây là cuộc thoái trào nghiêm trọng nhất trong vòng một phần tư thế kỷ.
Đợt thoái trào lần nầy cũng có thể dài lâu. Nhiều người còn nhớ những gì đã xẩy ra trong cuộc thoái trào lần cuối, tiếp theo sau sự kiện bong bóng kỹ thuật bùng nổ trong thập kỷ 1990s. Trên bề mặt, người ta những tưởng các biện pháp đối phó lần đó khá thành công. Lúc đó mặc dù nhiều người lo sợ Hoa kỳ có thể đánh mất một thập kỷ tương tự như người Nhật, nhưng điều đó đã không xẩy ra. Cục Dự Trữ Liên Bang đã thành công đem lại sự phục hồi qua các biện pháp cắt giảm lãi suất.
Trong thực tế, Hoa Kỳ trong thập kỷ 1990s cũng chẳng mấy khác Nhật Bản. Cục Dự Trữ Liên Bang cũng đã gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù sau nhiều lần cắt giảm lãi suất cho đến khi lãi suất quỹ liên bang xuống còn 1%, tỉ suất khiếm dụng vẫn tiếp tục gia tăng. Phải mất tới hơn hai năm trước khi thị trường công ăn việc làm mới bắt đầu được cải thiện. Và khi thực sự đạt được phục hồi, điều đó cũng chỉ nhờ ở việc Alan Greenspan đã phải chấp nhận thay thế bong bóng kỷ thuật bằng bong bóng bất động sản.
Hiện nay, bong bóng bất động sản cũng đã nổ tung, để lại đàng sau một thị trường tài chánh tơi tả. Ngay trong giã thuyết những nổ lực giải nguy hệ thống ngân hàng và tái khởi động các thị trường tín dụng thành công - và hiện quá sớm để quyết đoán, và các kết quả ban đầu cũng chẳng mấy khả quan - điều đó cũng không thể đem lại nhiều hy vọng thị trường bất động sản có thể hồi phục sớm sủa. Do đó, Cục Dự Trữ Liên Bang lần nầy còn gặp nhiều thử thách hơn và cũng không mấy lạc quan.
Nói một cách khác, cũng không còn gì nhiều để Ben Bernanke có thể làm cho nền kinh tế. Ông ta có thể và cần cắt giảm lãi suất nhiều hơn nữa - nhưng không ai chờ đợi hành động đó có thể giúp được gì nhiều ngoài việc đem lại cho nền kinh tế một sự kích thích nào đó.
Đã hẳn, chính quyền liên bang còn có thể làm nhiều việc để giúp nền kinh tế, chẳng hạn kéo dài thời gian phụ cấp cho người thất nghiệp để giúp gia đình họ và cùng lúc đem tiền đến tận tay những người sẵn sàng đem ra chi tiêu, hay như ngôn từ của giới kinh tế gia, những người có khuynh hướng tiêu thụ biên tế cao. Chính quyền cũng có thể viện trợ khẩn cấp cho nhà cầm quyền các tiểu bang và các địa phương giúp họ tránh việc cắt giảm quá đáng chi tiêu công gây thất nghiệp và phương hại các dịch vụ công cộng. Chính quyền liên bang cũng có thể mua lại số tín dụng bất động sản, tái cơ cấu các điều kiện trả nợ hàng tháng giúp các gia đình nghèo giữ lại căn hộ đang ở đồng thời tránh nạn xuống cấp trong các khu gia cư lân cận.
Hơn nữa, nay cũng là lúc chính quyền cần phát động các chương trình nâng cấp các hạ tầng cơ sở cần thiết - lưu thông vận tải, giáo dục, y tế - nhất là khi viễn ảnh chấm dứt khủng hoảng chóng vánh hầu như quá mong manh.
Chính quyền mới sắp tới cũng phải mạnh dạn thay đổi chính sách, dành ưu tiên cho các công trình tái phục hồi kinh tế, dù phải tăng công chi và, như vậy, ngân sách càng khiếm hụt nhiều hơn.
Barack H. Obama vừa đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ, vị Tổng Thống thứ 44 và cũng là vị Tổng Thống hai dòng máu, người Mỹ gốc Phi châu đầu tiên, với thông điệp "Đổi Thay và Hy Vọng". Trong tình trạng phức tạp và rối reng của hiện tình thế giới, mọi người không phân biệt mầu da, tìn ngưỡng, sang hèn, Đông Tây Nam Bắc, đang khát khao "Hy Vọng" những "Đổi Thay" tích cực vì ổn định, hòa bình, thịnh vượng cho toàn cầu. Xin hãy cùng chung lời cầu nguyện!
(Có bổ sung đoạn cuối)
--------------------------------------------------------------------------------
[1] It would be fairly easy to dismiss the gleeful boast by President Nicolas Sarkozy of France that American-style capitalism is over, to file it with French critiques of fast food and American pop culture.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:19:27 GMT -5
Khủng hoảng tài chánh 2008 và các biện pháp giải nguy Nguyễn Trường 06/12/2008 Thảo luận chương trình cứu nguy Wall Street hết sức táo bạo với ngân khoản 700 tỉ USD của chính quyền George W. Bush, nghị sĩ Cộng Hòa từ bang Kentucky, Jim Bunning, đã phải thốt lên: "Trên mọi phương diện, thị trường tự do ở Hoa Kỳ đã dãy chết"[1]. Chúng ta chỉ có thể nói thêm: "Sự thức tỉnh đã đến khá muộn màng".
Kế hoạch cứu trợ của phe Bush nhằm mua lại các chứng khoán mất hết giá trị của Wall Street chưa hẵn đã khai tử thị trường tự do, thực ra đó chẳng qua cũng chỉ là một tiểu xảo mới, cấp thiết và thuận tiện. Trong khi phe bảo thủ đã luôn rao giảng chủ nghĩa thị trường tự do kinh điển trong suốt 35 năm qua, trong thực tế họ luôn dựa vào nhà nước để giành lấy các biện pháp cứu nguy, các hợp đồng béo bở, các đặc lợi...Với họ, nhà nước giữ vai trò cảnh sát thì ít, mà chính là vai trò giúp họ thủ lợi, cướp dật. Nhưng ít ra, đến nay, guồng máy bất lương đã bị lộ tẩy và phơi bày lộ liễu. Với những người chủ trương thị trường tự do cuồng nhiệt như Henry Paulson, bộ trưởng ngân khố, nguyên tổng quản trị Goldman Sachs, đã công khai đầu hàng, chúng ta có quyền hy vọng cuộc khủng hoảng lần nầy cuối cùng rồi sẽ chấm dứt kỷ nguyên tân bảo thủ.
Những liên minh xuyên ý thức hệ, bất ngờ và bất khả dự liệu thành hình trước khi chương trình cứu nguy được quốc hội thông qua, chứng tỏ cuộc tranh luận triết lý căn bản đã chuyển đổi bản chất: kích cỡ chính quyền không còn thiết yếu, bởi lẽ vai trò của chính quyền trong những năm sắp tới sẽ ngày một quan trọng. Vấn đề còn lại chỉ là phạm vi can thiệp, và quan trọng hơn cả, là ai sẽ hưởng lợi từ sự can thiệp đó? Liệu khuôn khổ của chương trình cứu trợ lần nầy có đem lại một "chủ nghĩa xã hội Goldman Sachs" hay một guồng máy quản trị tài chánh dân chủ hơn?
Khủng Hoảng Tài Chánh Cái gì phải đến đã đến.
Trong ba thập kỷ qua, nhiều nhà quan sát đã chứng kiến hệ thống tài chánh không còn bị gò bó giám sát ngày một trở nên phóng túng phiêu lưu, hố cách biệt giàu nghèo ngày một sâu rộng. Họ tin:"một ngày nào đó, chúng ta sẽ phải trả một giá đắt". Tuy nhiên, cho đến nay, mặc dù thỉnh thoảng hệ thống tài chánh gặp một vài khó khăn đáng kể - như nạn sụt giá chứng khoán năm 1987, khủng hoảng tiết kiệm tín dụng vào cuối thập kỷ 1980s, các cuộc khủng hoảng tài chánh ở Mexico và Á châu giữa thập kỷ 1990s, cuộc khủng hoảng dot-com vào đầu thập kỷ 2000s - nhưng kinh tế rồi cũng lấy lại được thăng bằng. Phải chăng lần nầy chúng ta đã không còn may mắn như trước?
Mới nhìn người ta những tưởng không mấy hợp lý khi liên kết cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay với hiện tượng lợi tức phân cực trong trường kỳ, nhưng trong thực tế, hai sự kiện liên hệ mật thiết với nhau. Trong thời gian có hiện tượng bong bóng bất động sản, nhiều người đã vay mượn nặng nề không những để mua nhà ( giá cả thường vượt quá khả năng tài chánh của chính họ) mà còn để bổ túc cho việc làm yếu kém và gia tăng lợi tức trong thời gian kinh tế tăng trưởng kể từ sau đệ nhị thế chiến. Trong khoảng thời gian 2001 và 2007, các sở hữu chủ bất động sản đã rút ra một tổng số 5.000 tỉ USD, hoặc bằng cách thế chấp nhà cửa để vay mượn hoặc bán bất động sản lấy tiền mặt; số tiền nầy chiếm khoảng 30% số tiêu thụ gia tăng trong cùng thời gian. Con số nầy đã giúp ngụy trang sự yếu kém của thị trường lao động; thiếu số tiêu thụ gia tăng nầy, tình trạng thoái trào năm 2001 chắc đã không thể chấm dứt.
Nhưng đợt vay nợ nầy cũng chỉ tiếp nối đợt vay nợ đã bắt đầu từ đầu thập kỷ 1980s. Khởi đầu với vay mượn qua thẻ tín dụng, sau đó khi thị trường bất động sản bùng phát và nở rộ, tín dụng với thế chấp bất động sản giữ vai trò đầu tàu. Đến nay, giới tiêu thụ nợ nần quá mức chịu đựng, các thị trường tín dụng lâm vào tình trạng vỡ nợ và phá sản.
Vay nợ cũng chỉ là một khía cạnh của vấn đề. Khi lợi tức phân cực - hố cách biệt giàu nghèo sâu đậm hơn - giới giàu có và các định chế tài chánh phục vụ giới nầy đầy ắp tiền mặt cần tìm cơ hội đầu tư kiếm lợi nhuận, và một trong những cơ hội tìm được là những người ở những nấc thang lợi tức thấp hơn phía dưới họ. (Đây cũng là một trong những nguồn vốn tài trợ cho thẻ tín dụng và tín dụng bất động sản). Họ cũng đổ vốn vào các quỹ đầu cơ (hedge funds), quỹ giá trị tích lũy trong bất động sản tư nhân (private equity funds), và các cổ phiếu và chứng khoán thông thường (just plain stocks and bonds). Hai mươi lăm năm ngập lụt tiền mặt đã đưa đến sự bành trướng khổng lồ trong các thị trường tài chánh. Tổng tích sản tài chánh các loại (cổ phiếu, trái phiếu...) đã đạt mức 440% GDP của Hoa Kỳ từ hồi đầu thập kỷ 1950s cho đến cuối thập kỷ 1970s; và tiếp tục gia tăng đều đặn vượt quá 600% năm 1990, và 1.000% năm 2007. Ngoại trừ một vài lần gián đoạn khó khăn, hình như Wall Street đã đi vào chốn đào nguyên hoang tưởng: một thị trường triền miên nở rộ (an eternal bull market). Các viên chức giám sát (regulators) ngưng dò xét kiểm tra, và các kiểm toán viên làm ngơ trước các thủ thuật, tiểu xảo tài chánh ngày một táo bạo thiếu cẩn mật. Không ai hiện thân sự chểnh mảng đó hơn là Alan Greenspan, viên chức, trong tư cách Chủ Tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, mất hẵn khuynh hướng dè dặt cẩn trọng đặc trưng trong nghề ngân hàng trung ương, thay vào đó, luôn hăng hái khuyến khích. Như ông ta đã nhiều lần phát biểu trong suốt hai thập kỷ 1990s và đầu thập kỷ 2000s, ông chỉ là một người bình thường, làm sao dám xét đoán túi khôn tập thể của các thị trường. Ông ta quên rằng thị trường không hề hiện thân của túi khôn tập thể và thường chỉ phản ảnh mưu toan kỹ lưỡng của một tập đoàn tham lam thiếu lương tâm.
Như các luật gia thường nói, trong khi lý do gần gũi của cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay là hiện tượng bong bóng bất động sản nổ tung và sự biến đổi bất thuận lợi của khối lượng nợ có bất động sản thế chấp bảo đảm để tài trợ , đó cũng chỉ là một phần của tình trạng khó khăn lớn lao hơn nhiều. Và trong khi chính quyền chắc chắn phải chi hàng trăm tỉ để hàn gắn các tai hại trong vòng vài năm tới, trong trường kỳ cũng còn rất nhiều việc cần phải làm.
Vào thời điểm nầy, tái lập các luật lệ kiểm soát tài chánh là điều rất hấp dẫn. Và đó cũng là điều vô cùng cần thiết. Chúng ta cũng cần nhớ rõ vì sao hệ thống tài chánh, cũng như nhiều địa hạt khác trong đời sống kinh tế, đã được thoát vòng giám hộ bắt đầu từ thập kỷ 1970s. Theo quan điểm của giới thượng lưu, lợi nhuận của các doanh nghiệp ở mức quá thấp, nhân công quá đòi hỏi, và sự kiểm soát của chính quyền quá nặng tay. gỡ bỏ các luật lệ kiềm chế là một phần trong trào lưu tấn công rộng lớn nhằm giúp kinh tế mềm dẻo hơn, đưa đến mức công xá hay lương bổng ngày một sụt giảm và công ăn việc làm ngày một mất ổn định đối với dân Mỹ. Và phương thuốc nầy khá hữu hiệu dưới mắt giới thượng lưu. Doanh lợi gia tăng vượt bực kể từ đầu thập kỷ 1980s cho đến 2007. Sự phân cực trong mức lợi tức không phải là một phản ứng phụ ngoài ý muốn mà chính là một phần của phương thuốc cứu chữa.
Mặc dù ngày nay chúng ta thường nghe nói kỷ nguyên Reagan đã qua và kỷ nguyên chính quyền uy lực đã trở lại, một chính quyền mở rộng khó làm được gì khác hơn ngoài việc cứu nguy một hệ thống tài chánh thất bại. Không có gì hợp nhân tính sẽ được thực thi nếu quần chúng không được tiếp sức và động viên nhiều hơn. Sau cuộc khủng hoảng tài chánh và chương trình giải nguy lần nầy, hình như chúng ta không còn có thể trở lại trạng huống trước kia, nhưng cũng chưa mấy sẵn sàng tiến tới một cái gì mới hấp dẫn hơn.
Chủ Nghĩa Xã Hội "Goldman Sachs" Wall Street đã đưa ra tối hậu thư cho các chính trị gia Hoa Thịnh Đốn: phải tức khắc chấp thuận chương trình giải nguy, nếu không, quý vị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những gì sẽ xẩy ra. Tính táo bạo trong đề xuất nguyên thủy của Bộ Trưởng Ngân Khố Henry Paulson đã được phản ảnh qua những gì không nói rõ: không giải thích kế hoạch giải nguy sẽ diễn ra như thế nào, cũng không đòi hỏi gì từ các ngân hàng để đổi lấy tiền của giới chịu thuế. Bản tóm tắt của Bộ Ngân Khố chứa đựng một tuyên bố nghe đến rợn người:" Khoản 8. Duyệt xét. Các quyết định của Bộ Trưởng như dự liệu trong Luật nầy đều bất khả xét duyệt, và được đưa ra theo quyền chuyên quyết của Bộ, và không chịu sự xét duyệt của bất cứ tòa án nào hay bất cứ cơ quan hành chánh nào"[2]. Nói một cách khác, người chịu thuế hay nhà đầu tư không được khiếu kiện. Các chính tri gia bỏ phiếu cho kế hoạch về sau cũng chẳng có quyền phàn nàn. Chỉ có thể hoặc chấp thuận, hoặc bác bỏ.
Cả hai đảng chính trị đều đã phải chiều theo sự bắt chẹt của Wall Street vì làm vậy ít rủi ro bất trắc hơn là tự gánh lấy trách nhiệm. Bộ trưởng Ngân Khố Henry Paulson và Chủ Tịch Cục Dự Trữ Liên Bang Ben Bernanke đã cùng gây áp lực và hù dọa bởi lẽ những nổ lực vản hồi lòng tin giới đầu tư trước đó đều thất bại trong khi sự can thiệp nửa vời của cả hai đã gây nhiều hoang mang hổn loạn. Cục Dự Trữ Liên Bang đã cạn tiền. Gần 3/5 trong số 800 tỉ vốn của Cục nầy, giờ đây, chỉ là những chứng từ mất hết giá trị, những chứng khoán với thế chấp bất động sản mất giá, và những tích sản hữu danh vô thực mua từ các đối chiếu biểu (balance sheets) của Wall Street.
Mặc dù kích cở lớn, quỹ giải nguy 700 tỉ cũng chỉ nhằm cứu trợ và làm nhẹ gánh các ngân hàng, các quỹ đầu tư, với hy vọng vãn hồi trật tự trong sinh hoạt kinh tế. Còn có rất nhiều lý do có thể khiến kế hoạch giải nguy thất bại. Tiền ứng cứu của Hoa Thịnh Đốn rất có thể giúp lôi kéo các định chế tài chánh lùi khỏi bờ vực thẳm, nhưng không bảo đảm được các ngân hàng sẽ bắt đầu cho vay bình thường trở lại, chưa nói gì đến đầu tư gây vốn. Các nhà đầu tư quốc tế đã bị phỏng lửa và có thể từ chối bơm vốn liếng vào định chế tài chánh èo uột của Hoa Kỳ.
Bí mật, kín đáo và mù mờ là thiết yếu để thành đạt những mục tiêu của Wall Street và có thể cho phép Paulson trả quá đáng cho các bằng hữu cũ để đổi lấy những tích sản vô giá trị, như vậy, cho phép những vị nầy gầy lại vốn liếng tích sản của các ngân hàng bị thương tổn, đồng thời tuyên bố với quần chúng và các chính trị gia là đã cứu nguy được hệ thống tài chánh. Để đạt mục đích nầy, Wall Street cần kiểm soát cho bằng được trọn vẹn quá trình diễn tiến, bất cứ ứng viên nào đắc cử vào chức vụ Tổng Thống vào tháng 11 tới.
Đã hẵn, không phải mọi người đều sẽ được ứng cứu, nhưng ưu tiên vẫn là Goldman Sachs, doanh nghiệp cũ của Paulson và Morgan Stanley. Hai qũy đầu tư hàng đầu nầy bị ngắc ngoải sau những biến động gần đây, do đó, Cục Dự Trữ Liên Bang đã vội vàng chấp thuận cho cải biến thành ngân hàng. Rồi Warren Buffett bỏ ra 5 tỉ yểm trợ Goldman Sachs nhưng khôn khéo sắp xếp tự bảo vệ khỏi mọi thua thiệt. Các chính trị gia cần phải cho Wall Street biết "chúng tôi cũng muốn được đãi ngộ và bảo vệ như Buffett". Nhiều người đang nghĩ đây chính là "chủ nghĩa xã hội kiểu Golden Sachs".
Nếu canh bạc Paulson thất bại, cuối cùng chính quyền có lẽ phải can thiệp một cách mạnh mẽ hơn, thay vì phục tùng, ân cần săn sóc Wall Street. Hoa Thịnh Đốn phải giám sát chặt chẻ khu vực ngân hàng và tài chánh, và sử dụng quyền hạn khẩn cấp để lèo lái các xí nghiệp tư doanh nầy và phải cương quyết cắt bỏ mọi trợ cấp công đối với các ngân hàng không muốn hợp tác. Kế đó, chính quyền có thể hành xử quyền giám sát tạm thời buộc các ngân hàng phải hợp tác để phục hồi sinh hoạt kinh tế qua các nghiệp vụ cho vay và đầu tư bền vững vào đời sống kinh tế đích thực, ra lệnh chấm dứt mọi xảo thuật tài chánh và kế toán thổi phồng các hoạt động tín dụng và ngụy tạo giá trị các tích sản, tháo gỡ các bom mìn nổ chậm được biết dưới tên gọi "các xảo thuật tín dụng"(credit derivatives), và cấm đoán lề lối làm ăn nầy. Cùng lúc, thay vì xua đuổi các chủ hộ và con nợ ra khỏi nhà hay vào chỗ phá sản, chính quyền phải tạm thời bảo vệ họ và giúp họ tìm các phương cách phải chăng để phục hồi. Sau hết, chính quyền cần tiếp sức cho sinh hoạt kinh tế đích thực qua các khoản công chi vào các công trình công cộng và gầy vốn. Đã hẵn, thực hiện những đề xuất nầy đòi hỏi những khoản công chi lớn lao. Nhưng giải nguy nước Mỹ ít ra cũng đáng giá như cứu nguy các ngân hàng đang thương tổn vì quá tham lam.
Kiềm Chế Các Tay Chơi Tham Lam Và Liều Lỉnh Chế độ thù đáp ở Wall Street là một huyền thoại. Không một nhà quản lý nào trên thế giới được đải ngộ hậu hĩ như thế. Một thiểu số giàu có và quyền lực đã xuất thân từ cái nôi Goldman Sachs. Chính họ là những kẻ phải gánh chịu trách nhiệm. Đứng đầu bảng là Paulson, đương kim Bộ Trưởng Ngân Khố và nguyên Tổng Quản Trị Goldman Sachs. Paulson lấn át cả Cục Dự Trữ Liên Bang, trở thành nhà trọng tài nắm trong tay quyền sinh sát ở Wall Street. Vào thời điểm nầy, hai trong số những công ty cạnh tranh quan trọng với Goldman Sachs - Bear Stearns và Lehman Brothers - đã mai một. Công ty cạnh tranh thứ ba, Merrill Lynch, đã lọt vào tay ngân hàng thương mãi khổng lồ Bank of America. Trong khi đó, Paulson đã thành công chuyển dịch các rủi ro, bất trắc của Wall Street qua Hoa Thịnh Đốn, với cái giá 1.400 tỉ USD hay hơn nữa.
Một gương mặt khác là John Thain, đồng chủ tịch Goldman Sachs dưới thời Paulson. Thain rời Goldman để điều khiển Thị Trường Chứng Khoán New York trước khi cầm đầu Merrill Lynch vào tháng 12-2008 với gói thù đáp hậu hỉ kể cả 15 triệu tiền mặt. Tại Merrill Lynch, Thain tuyển một cựu viên chức Goldman,Thomas Montag, với một gói thù đáp 90 triệu (gồm 39,4 triệu tiền thưởng gia nhập[sign-on bonus]). Một trong những cây đại thụ Wall Street, đương kim Tổng Quản Trị Goldman (CEO), Lloyd Blankfein, được thù đáp 53,4 triệu năm 2006, một trong những nhà quản lý ở Wall Street được trả lương cao nhất. Năm 2007, ông ta được trả tới 67,9 triệu, kể cả 26,8 triệu tiền mặt.
Một điệp khúc ở Wall Street là phải trả lương cao mới thu hút và giữ lại được những tài ba hàng đầu. Các tổng quản (CEO) than phiền nếu số chứng khoán của họ mất giá, tài sản thuần của họ cũng sụt giảm theo, nhưng những gì còn sót lại luôn giúp giảm bớt sự mất mát. Sau khi Bear Stearns sụp đổ, nguyên chủ tịch Jimmy Cayne vẫn còn nhận được 61,3 triệu từ số chứng khoán sở hữu.
Phe Dân chủ trong quốc hội tìm cách liên kết kế hoạch ứng cứu của Paulson với những giới hạn trong số thù đáp quá đáng các viên chức quản lý ở Wall Street. Thực vậy, kiềm chế các gói thù đáp quá trớn là một ưu tiên hàng đầu, nhất là trong giai đoạn quyết định ứng cứu Wall Street chớp nhoáng hiện nay bởi những thất bát do chính họ gây ra. Một giải pháp hiệu quả hơn những mức trần thù đáp trực tiếp có lẽ là liên kết thù đáp với mức độ bất trắc hiểm tai. Một mức trần thù đáp dựa trên mức độ hiểm tai có thể liên kết số thù đáp bằng tiền mặt tối đa hàng năm với mức độ hiểm tai công ty chấp nhận, tương đối với số vốn dự trử để đối phó với mức hiểm tai công ty chọn lựa. Đây là phương cách áp đặt một giới hạn cho mức thù đáp của Wall Street nhằm giúp ổn định mức hiểm tai không được quy định, thẩm thấu trong khắp hệ thống tài chánh thiếu giám sát hiện nay.
Vấn đề thù đáp hiển nhiên đã kích thích lòng tham của Wall Street, nhưng không chỉ sự đầu cơ cá nhân cấp cao cần được kiểm soát, mà cả sự đầu cơ trong toàn hệ thống. Thay vì cho phép tạo lập những chủ thể rộng lớn và nhiều bất trắc hơn, như tập đoàn Bank of America-Merrill Lynch hay tập đoàn ngân hàng mới Goldman Sachs và Morgan Stanley, chúng ta cần tái phân loại Wall Street đúng theo Luật Glass-Steagall Act trước đây. Thay vì cho phép những quái vật khổng lồ mới ra đời, chúng ta nên cổ súy thành lập những chủ thể, những định chế nhỏ hơn và được giám sát chặt chẻ ít gây bất trắc hiểm tai không những cho giới đầu tư mà cả cho các công dân chịu thuế.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:21:07 GMT -5
Cơ Hội Lớn Đang Chờ Đợi Barack Obama Trong nhiều năm qua, dân Mỹ sống trong một "nền kinh tế sòng bài", một lối sống bám trụ trong tâm khảm quốc gia. Tuy vậy, trước một viễn ảnh đen tối lâu dài vì khủng hoảng tài chánh toàn cầu, người Mỹ giật mình kinh hải và căm giận. Quốc hội hiểu rõ sẽ phải đối diện với cử tri đang thấy từ chân trời cái gì đang đến với họ khi Bộ Ngân Khố giải nguy cho Wall Street. Những quyền lợi y tế ít ỏi đang có sẽ teo tóp dần. Chương mục tiết kiệm hưu trí 401(k) cũng sắp tiêu tan. Chẳng bao lâu nữa, họ sẽ được thông báo thuế sẽ tăng cao, quỹ an sinh xã hội sẽ trở thành mục tiêu bị tấn công trở lại.
Phe Hữu bắt đầu chạy tội. Lời nhạo báng của Rush Limbaugh, đã được báo Wall Street Journal đăng tải trên trang biên tập bình luận ngày 22-9-2008, tội phạm chính trong cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay là người da đen. Luật Tái Đầu Tư Cộng Đồng (Community Reinvestment Act) - ra đời dưới thời Carter, nhằm khuyến khích quyền sở hữu nhà ở của dân thiểu số - đã được Clinton đẩy mạnh đưa đến việc cho vay với lãi suất cực thấp (subprime loans). Dân da đen hưởng ứng nhập cuộc rồi không trả được nợ, xô đẩy Wall Street vào đường tai họa.
Nhiều cử tri phe Tả hy vọng: Vì Obama đang gọt dũa phương cách vận động tuyển cử nên người ta không được nghe nhiều bài ca hy vọng. Điều đó chỉ đúng một phần. Nhưng khi tình hình biến chuyển thuận lợi, ít ra cho đến gần đây, Obama tỏ ra dè dặt hơn trước.
Ngoài lý do thận trọng, làm sao Obama có thể thêm dầu vào lửa lo sợ, căm giận của quần chúng, khi đứng bên cạnh Obama, Robert Rubin và Lawrence Summers luôn sẵn sàng dập tắt mọi than phiền giận dữ. Về phía Cộng Hòa, đứng bên cạnh John McCain còn có Phil Gramm, cặp bài trùng đáng ghê tởm. Gramm giữ vai trò nòng cốt trong phe Cộng Hòa, thúc đẩy Quốc Hội thông qua Luật Gramm-Leach-Bliley Act năm 1999. Luật mới hủy bỏ và thay thế luật cũ - Glass-Steagall Act có nhiều kẻ hở - do Quốc Hội biểu quyết chấp thuận trong thời kinh tế đại khủng hoảng 1929-33, cấm các ngân hàng thương mãi hoạt động trong địa hạt đầu tư và bảo hiểm. T T Clinton hoan hỉ ký ban hành luật mới.
Một năm sau, trong tư cách Chủ tịch Ủy Ban Ngân Hàng Thượng Viện, Gramm ghép một tu chính án dài 262 trang vào luật ngân sách ngay trước ngày Quốc Hội nghỉ xã hơi.Tu chính án, vì vậy, không được rà soát kỹ lưỡng và đã trở thành Luật Canh Tân các Giao Dịch Hàng Hóa Tương Lai (Commodity Futures Modernization Act), xóa bỏ mọi quy luật hạn chế (deregulation) các ngân hàng đầu tư, buông lỏng mọi giao dịch tài chánh, tín dụng, vay mượn tương lai (over-the-counter derivatives, credit derivatives,credit default swaps..., những xảo thuật tài chánh tín dụng đầy bất trắc hiểm tai) không qua sự giám sát của các cơ quan hữu trách.
Tuy nhiên, vai trò của đảng Dân Chủ cũng không kém phần quan trọng trong việc tháo gỡ mọi luật lệ giám sát ngay từ thời Clinton. Phúc trình Kinh Tế của Tổng Thống năm 2001, phúc trình cuối sau hai nhiệm kỳ của Clinton, cho thấy, Hội Đồng Lãnh Đạo Đảng Dân Chủ, kể cả Clinton và Gore, đều đồng tình thay thế Luật Glass-Steagall, và đề cao những lợi điểm của việc tháo gỡ mọi luật lệ giám sát khu vực tài chánh tín dụng đúng như nghị trình của ngành kỹ nghệ ngân hàng: "Những quy luật đó ngày nay không còn cần thiết... Đó là những bước tiến cho phép củng cố khu vực tài chánh, hiệu quả hơn và cung cấp nhiều dịch vụ mới cho giới tiêu thụ"[3].
Nếu muốn nhận diện một gương mặt tượng trưng cho sự tham nhũng của Wall Street, người đó không ai khác hơn là chính Rubin, nguyên thành viên của nhóm Goldman Sachs. Rubin là người nòng cốt đứng sau việc hủy bỏ Luật Glass-Steagall và thụ hưởng nhiều đặc lợi sau đó, kể từ khi ông từ bỏ Bộ Ngân Khố để sang lãnh đạo tập đoàn ngân hàng thương mãi-đầu tư mới Citigroup.
Thời cơ đã đến để mai táng chủ nghĩa Tân Tự Do. Chúng ta sẽ khó thể có được cơ may như hôm nay để thay đổi viễn kiến tương lai. Obama đã đốt lửa trong lòng giới trẻ với lời kêu gọi phải có hy vọng đổi thay. Nhưng khi lần đầu tiên kết quả thăm dò dư luận cho thấy Obama đã vượt ngưỡng 50% ba ngày sau khi Quốc Hội thảo luận kế hoạch giải nguy Wall Street của Paulson, Obama mới nhận chân được mối nguy tìm cách làm ngơ quần chúng cử tri. Những điều kiện cứu nguy Wall Street do Obama đề nghị đã quá mềm mỏng nhẹ tay. Obama e ngại quẹt diêm bên ngòi nổ, và tin cần cẩn trọng mời Rubin, Summers và Volcker đến đứng bên cạnh mình. Đó là bản năng tự nhiên của Obama. Điều éo le là chính hành động mị dân của McCain đòi treo cổ vị chủ tịch Ủy Hội Chứng Khoán (SEC) đã đẩy Obama về phía tả. Khi bí lối, McCain sẵn sàng nói và làm bất cứ điều gì. McCain chọn Sarah Palin vào liên danh. Rất có thể giờ đây, ông ta sẽ đề nghị một New Deal kiểu FDR; và Obama buộc lòng phải nâng cao mức cược và bắt đầu lên tiếng như vị lãnh đạo có thể nắm bắt cơ hội do cuộc khủng hoảng tài chánh đem lại - một cơ hội trời cho rất đúng lúc.
Những Tháng Năm Trước Mặt Hoa kỳ đang lâm vào một thời vận hiếm hoi và nguy hiểm. Trật tự cũ đã sụp đổ; các trung tâm quyền lực cầm quyền đã mất hết uy tín sau những biến động gần đây. Tổng Thống không còn thích ứng, "vịt què", và không còn được ai tin cậy, ngay cả bên trong đảng Cộng Hòa. Đảng Dân Chủ đa số kiểm soát cả hai viện Quốc Hội cũng chẳng làm được gì vì có nhiều bất cập. Bộ Trưởng Ngân Khố, qua phương cách đối phó trịch thượng trong vụ khủng hoảng tài chánh, không còn đáng tin cậy trong vai trò hoa tiêu quyền lợi công. Cục Dự Trữ Liên Bang và vị Chủ Tịch bảo thủ cũng không mấy khác. Quyền lực riêng tư của Wall Street cũng đã hoàn toàn thất sủng và vô vọng.
Tình trạng nguy hiểm nầy chắc chắn sẽ còn kéo dài không những đến lúc có Tổng Thống và Quốc Hội mới mà còn trong nhiều tháng năm trước mặt. Nói một cách ngắn gọn, cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay không phải chỉ mang tính thời vận (conjunctural) mà cả tính cơ cấu (structural). Trong thời gian chờ đợi, giới thượng lưu cầm quyền đang bám víu vào trật tự cũ, cố gắng cứu sống nó bằng cách tung những số tiền khổng lồ của dân chịu thuế để cứu trợ những định chế tài chánh thất bại. Người dân Hoa Kỳ đã hoàn toàn đúng khi xem giải pháp nầy như một hành động biển thủ mang tính lịch sử, lấy tiền của nạn nhân để tưởng thưởng phường biển lận. Họ tự hỏi: thay vì cứu trợ, tại sao chúng ta không kết tội?
Truy tố và kết tội có thể đợi, cùng với các cải tổ căn bản. Điều cấp bách hiện giờ là cần dập tắt hỏa hoạn đang tàn phá hệ thống tài chánh, đe dọa người dân và các tích sản mang tính sản xuất trong nền kinh tế đích thực. Thức tỉnh và căm giận, công chúng, đã đổi thay, có thể giữ vai trò quyết định trong địa hạt chính trị, như khi Hạ Viện bác bỏ trọn gói giải nguy. Cú "sốc" đối với hệ thống tài chánh là phương cách trị liệu đáng giá. Người dân có thể thúc đẩy các chính trị gia bắt đầu đối diện với thực tế và khai triển một chiến lược mạnh mẽ hơn để phục hồi quốc gia, một cách tiếp cận phụng sự toàn bộ quốc gia và một cơ may thành công tốt hơn nhiều. Các cấp lãnh đạo càng sớm nhận thức được trật tự cũ đã quá vãng, người dân Hoa kỳ càng sớm có thể bắt đầu tái xây dựng một nền kinh tế có thể thượng tồn và công bình hơn.
Sự sụp đổ tai hại của các định chế tài chánh trong những tháng qua có nhiều nét tương đồng với những biến cố tiếp theo sau sự suy sụp của thị trường chứng khoán trong năm 1929, khi ba năm liên tiếp các đợt sóng thất bại của các ngân hàng và kinh tế thoái trào đã gây ra bao nhiêu đau khổ cho người dân. Chính quyền, dưới sự dẫn dắt của Cục Dự Trữ Liên Bang, đã sao lãng nhiệm vụ một cách lố bịch trong cuộc khủng hoảng. Lần nầy, Hoa Thịnh Đốn đã phản ứng ồ ạt hơn, nhưng vẫn chưa tìm được một chiến lược để ổn định tài chánh hay đảo ngược được cơn suy thoái đang diễn tiến.
Một sự sụp đổ hoàn toàn như đầu thập kỷ 1930s vẫn còn có thể tránh được nếu cấp lãnh đạo chính trị kịp thời đổi hướng. Ngày nay, ngừơi Mỹ còn có một số yếu tố thuận lợi. Trước hết, mực sống của họ cao và phong phú hơn, mặc dù nước Mỹ nợ nần các nước ngoài nhiều hơn. Thứ đến, chương trình New Deal đã để lại những cơ chế ổn định kinh tế tự động, như chương trình bảo hiểm ký thác liên bang nhằm ngăn ngừa nạn vội vả rút tiền khỏi ngân hàng như đã xẩy ra và gây sụp đổ trên 10.000 ngân hà thời đó.
Trước sự tê liệt chính trị hiện nay, người dân phải tự tìm lấy lối thoát. Bước đầu cần thiết là phải lương thiện - phải nhận chân rõ chúng ta đang phải đối phó với tai họa gì và có thể làm được gì - sau đó, phải áp đặt những nhận thức và quan niệm của mình lên lãnh đạo lưỡng đảng. Thảm kịch chua cay của kỷ nguyên chúng ta là những bài học xương máu trong những năm khủng hoảng New Deal trước đây đã bị gạt qua một bên - hoặc hủy bỏ hoặc phá hoại một cách có hệ thống - bởi các thế hệ lãnh đạo thượng lưu hiện nay. Những đảng viên Dân Chủ tự nhận là vô can đang ngụy tạo quá khứ. Vì lẽ thế hệ Dân Chủ vừa qua đã đồng lỏa với giới bảo thủ trong quá trình hủy hoại các luật lệ và nguyên tắc New Deal. Và thành viên Dân Chủ cũng chưa có một ý niệm rõ ràng bằng cách nào để phục hồi và cập nhật những bài học đã đánh mất để giải quyết tình trạng khó khăn hiện nay.
Để hiểu rõ tình hình, chúng ta phải bắt đầu với nhận chân cuộc khủng hoảng thực sự - vết thương lớn đối với quốc gia , một vết thương Bộ Trưởng Ngân khố Paulson và tay chân đã che mờ qua những lời lẽ báo động đại ngôn, cao ngạo, thiếu trung thực. Hoa kỳ đã thực sự trải nghiệm một mất mát tài sản khổng lồ - vốn tư bản trong hệ thống tài chánh cũng như số tiết kiệm trong đời sống kinh tế thực sự của mọi gia đình và giới lao động sản xuất. Với sự sụp đổ của cung cách lượng định dối gạt của Wall Street, tư bản tài chánh đã tan biến tựa không khí thoát ra từ một quả bóng xìu xẹp. Các ngân hàng đã lâm nguy vì đã mất đi lối 1.000 tỉ hay còn hơn thế nhiều. Vì vậy, kỹ nghệ ngân hàng sẽ co rút lại rất nhiều. Ngay bây giờ chúng ta đang chứng kiến cảnh tượng đổ máu - các doanh nghiệp phá sản và một số khác bị cưởng đoạt (forced mergers), hoặc được chính quyền tăng cường hoặc lọt vào tay kiểm soát của các nhà đầu tư tư nhân như Warren Buffett.
Hệ thống ngân hàng co rút một cách nhanh chóng. Điều nầy đưa đến mất tin tưởng và hoảng sợ trong giới đầu tư, trái chủ, và cổ đông, nhưng một hệ thống tài chánh nhỏ bé hơn rất có thể là một điều tốt cho xứ sở - tập trung vào mục đích chính của ngành ngân hàng, điều hướng đầu tư tư bản vào nền kinh tế. Trong những năm gần đây, các nhà tài chánh đã thu tóm những tài sản đầu cơ kếch sù qua việc buôn bán đủ loại chứng khoán phức tạp.
Giải pháp của Paulson là làm nhẹ gánh các ngân hàng khỏi các tích sản mất hết giá trị - nhất là các chứng khoán có bất động sản bảo đảm - và đổ vốn vào thay thế số đã mất. Paulson không giải thích rõ ràng điều nầy vì hiểu rõ ngay cả con số 700 tỉ cũng chẳng đủ để cứu nguy mọi ngân hàng. Vì vậy, quyền hạn lớn lao đặc biệt của Paulson đã đặt ông ta hay người kế nhiệm vào vị trí cứu tinh hay tử thần nắm quyền quyết định ngân hàng nào được sống, ngân hàng nào phải chịu chết. Tuy nhiên, ngay cả khi ông ta lựa chọn khôn ngoan, việc đó cũng không thể giải quyết vấn đề căn bản. Đằng nào, hệ thống tài chánh cũng sẽ co rút. Với kế hoạch Paulson, dân Mỹ rốt cuộc cũng phải gồng gánh mọi lỗi lầm tốn kém của hệ thống.
Phân nửa còn lại của tổng số tài sản mất mát lớn lao của quốc gia do người dân gánh chịu - phần lớn là những người làm công bình thường, vay mượn quá nhiều để duy trì mực sống đang bị chao đảo vì lợi tức lúc một sụt giảm. Với giá nhà tăng cao như bong bóng, người ta vay mượn dễ dàng từ tiết kiệm - số tiền tích lũy trong giá trị gia tăng của bất động sản. Khi giá nhà tuột dốc, theo ước tính của kinh tế gia Dean Baker, số tài sản mất mát lên đến từ 4 đến 5.000 tỉ. Ba thập kỷ trước đây, các chủ hộ Hoa kỳ nắm 70% giá trị căn hộ; ngày nay, con số nầy tụt xuống dưới mức 50%. Nhiều gia đình đã phải chi dụng hết số tiết kiệm để hồi hưu và phải tiếp tục làm việc.
Khi hệ thống tài chánh phải co rút, hàng triệu người cũng phải trải nghiệm một sự sụt giảm đau đớn trong mức sống. Không còn lựa chọn nào khác. Nhưng nếu người dân phải chấp nhận thực tế, họ có thể bắt đầu chú tâm đến những gì có thể và gây áp lực đòi hỏi chính quyền phài có biện pháp cứu chửa để giảm thiểu nổi đau và tránh tình trạng tồi tệ hơn. Hiện nay, mọi người đều lo sợ, chờ đợi.
Chỉ có chính quyền là đũ thế lực để hành động. Không một khu vực nào khác có đủ điều kiện để gầy vốn. Chỉ chính quyền có thể huy động hay vay mượn của người dân đang âu lo không dám chi tiêu, và của các định chế giữ tiền không dám cho vay, để bơm tiền vào các hoạt động kinh tế thực sự. Chính quyền mới có thể cho vay nhẹ lãi nếu hệ thống ngân hàng không dám làm việc đó. Chính quyền có thể xóa nợ hay nới lỏng điều kiện cho vay nếu việc đó đem lại công ăn việc làm cho dân chúng và giúp họ giữ được ngôi nhà đang ở. Chính quyền có thể chuyển tiền cho các tiểu bang và chính quyền địa phương và thúc đẩy những cấp nầy chi tiêu. Đó chỉ là lý thuyết Keynes sơ đẳng, một chủ thuyết đã được mang ra thực nghiệm trong thời New Deal đầu thập kỷ 1930s. Trong tình trạng hiện nay, chính quyền không còn đủ lý do để lo ngại khiếm hụt ngân sách. Người dân cần bắt đầu tiết kiệm trở lại, và giới doanh thương và ngân hàng sẽ không bắt đầu tái đầu tư vào nền kinh tế chừng nào chưa thấy chính quyền trực tiếp đứng ra dẫn lối.
Hoa Thịnh Đốn cần phải khẳng định tất cả các quyền hạn khẩn cấp của mình và giải quyết tức khắc hai vấn đề cùng lúc: quản lý/giám sát quá trình thu hẹp hệ thống tài chánh một cách bình tỉnh và trật tự, để đồng thời hổ trợ, duy trì diễn tiến cho vay và phục hồi sản xuất và công ăn việc làm qua các hành động tiếp sức đủ loại. Đây không thể là một chương trình tự nguyện mời mọc các ngân hàng tham gia theo điều kiện riêng. Chính quyền phải áp đặt quyền kiểm soát theo qui trình khẩn cấp buộc hệ thống tài chánh phải tuân thủ các mục đích chung của quốc gia. Ngân hàng nào không đồng thuận phải bị loại , và cô lập hóa khỏi sự trợ giúp giải nguy công.
Quốc gia đang ở trong quy trình thay đổi chính trị năng động và sẽ không ngừng lại với kế hoạch giải nguy dao to búa lớn của Paulson. Mặc dù kế hoạch của Paulson đã được quốc hội thông qua, Paulson có thể chuyển tiền cho Wall Street trong những tháng tới. Các lực lượng đối trọng nhằm tìm kiếm những giải pháp được người dân hậu thuẫn cần tiếp tục gấp rút hơn. Giới trí thức và năng động chính trị, các công dân cử tri, và những đại gia tài chánh nặng ký, ngay cả một số dân biểu, nghị sĩ đã và đang tham vấn, cân nhắc các chi tiết của giải pháp. Khi tái nhóm trong một "phiên họp vịt què", những biện pháp nầy đã được mang ra thảo luận trước quốc hội và trước công luận.
Cốt lỏi của những biện pháp nầy là vay mượn những ý niệm và mô hình thời New Deal, sau khi cập nhật, để phù hợp với trạng huống hiện nay. Đây không phải thuần túy hoài cổ, mà là một sự nhận chân sáng suốt quyền lợi chung phải được bảo vệ tối đa và cuộc khủng hoảng phải thực sự được đẩy lùi.
Một giải pháp thực sự tiến bộ đòi hỏi chính quyền phải trực tiếp tái đầu tư vào các ngân hàng thất bại, đánh thuế trên các chuyển nhượng chứng khoán nói riêng và khu vực dịch vụ tài chánh nói chung để lấy lại những tổn phí, và quan trọng hơn hết, một gói các biện pháp thuế vụ mang tính kích thích kinh tế nhằm trực tiếp giới lao động: cải cách thủ tục phá sản, thay đổi tín dụng giúp các gia đình có nhà ở bị đe dọa tịch biên, gia tăng trợ cấp thực phẩm, mở rộng bảo hiểm thất nghiệp,và đầu tư qui mô nhằm xây dựng "hạ tầng cơ sở xanh" để tạo công ăn việc.
Đã hẵn, phối hợp kế hoạch và chính sách đối phó với khủng hoảng toàn cầu với các nước ngoài, nhất là nhóm G-7 và Âu châu là một điều tất yếu, vì như mọi người đã biết: "Khi Hoa Kỳ hắt hơi, thế giới rất dễ bị cảm cúm".
Riêng trong phạm vi quốc nội, những đề nghị phục hồi và tái thiết được đem ra tranh luận gần đây xoay quanh một số ý niệm chính sau đây:
(1) Chận đứng biện pháp giải nguy dễ dàng (easy-money bailout). Thay vì mua các tích sản mất hết giá trị của Wall Street một cách vô điều kiện, chính quyền phải khám xét sổ sách kế toán và quyết định ngân hàng nào có thể giải nguy và quốc hữu hóa qua việc bơm tiền đầu tư đổi lấy quyền sở hữu - theo công thức Warren Buffett khi trợ giúp Goldman Sachs (cổ phiếu ưu đải và cổ tức được bảo đảm). Những định chế thất bại cần được khai tử. Cách tiếp cận nầy cho phép chính quyền trực tiếp kiểm soát những định chế sống sót và bảo đảm quyền lợi của đại chúng. Một mô hình tương tự Công Ty Tài Chánh Tái Xây Dựng của thập kỷ 1930s có thể giúp tái gầy vốn tư bản cho ngân hàng và công ty với sự giám sát chặt chẻ.
(2) Trực tiếp giúp những nạn nhân bị thương tổn. Một công ty chuyên về quyền sở hữu nhà ở theo kiểu New Deal, được trang bị đủ vốn và quyền hạn mềm dẻo để giám sát, điều chỉnh các điều khoản vay nợ giúp hàng triệu gia đình không đủ khả năng trả hàng tháng. Đây là việc các ngân hàng thường làm với các công ty con nợ gặp khó khăn. Chính quyền có thể hành động tương tự đối với các gia đình mang nợ: chận đứng các vụ thanh lý , kéo dài thời hạn trước khi tịch thu nhà ở, và sửa đổi các điều ước khắt khe liên quan đến quá trình hoàn trái. Đây không phải là việc làm hoàn toàn từ thiện - giúp các gia đình giữ được nhà ở là một động tác kích thích nền kinh tế , và chận đứng nạn băng hoại trong các khu lao động.
(3) Biện pháp thực sự kích thích kinh tế. Chúng ta cần hàng trăm tỉ để hoàn thành nhiều mục tiêu ưu tiên bị quên lảng - sửa chửa cầu cống, trường học, cũng như để khởi động nghị trình xanh như nhiên liệu thay thế, phục hồi các hệ sinh thái và môi sinh. Chính quyền cần trợ cấp các kỹ nghệ mới đương đại, tương tự chương trình New Deal đã tài trợ phát triển các loại phi cơ hiện đại, kỹ nghệ hóa dầu, sắt thép và các kỹ nghệ then chốt khác trong thập kỷ 1930s.
(4) Tái quy định các ngành bị lạm dụng và truy tố các phạm nhân. Bắt đầu với sự phục hồi luật chống cho vay nặng lãi - những lề lối cho vay cắt cổ gây đổ vỡ cho những con nợ yếu kém không được bảo vệ. Chính quyền cần ban hành những biện pháp kiểm soát mới đối với các nhà tài chánh và các nghĩa vụ công rõ ràng áp đặt không những lên các ngân hàng mà cả các quỹ đầu cơ (hedge funds), và các xí nghiệp tiết kiệm lũy tích (private equity firms). Đây không thể là những quy luật tùy thích. Nếu không chấp nhận luật chơi, các tay chơi phải đóng cửa tiệm. Các đồng nghiệp của Paulson ở Wall Street đã huy động các tay vận động hành lang sẵn sàng lâm chiến, nhưng có thể họ sẽ vấp phải một Hoa Thịnh Đốn đã đổi thay vì thời cuộc. Sự khuất phục dễ dàng trước các đại gia, các công ty khổng lồ, hình như đã bất thần trở nên lỗi thời.
(5) Cần một đội ngũ lèo lái kinh tế mới. Cuộc khủng hoảng và quá trình lấy quyết định ngập ngừng bởi Bộ Ngân Khố và Cục Dự Trữ Liên Bang - chưa kể đến sự bí mật và mặc cả hậu trường giúp các tổ chức tài chánh - cho thấy rõ những cải cách sâu xa rất khẩn thiết. Chính quyền có lẽ cần thiết lập một cơ quan phục hồi và tái thiết đặc biệt, được quyền làm chính sách và giám sát các kiểm soát viên ngân hàng và các biện pháp kích thích kinh tế. Tính cách gọi là độc lập của Cục Dự Trữ Liên Bang là một nhượng bộ xa xưa cho các ngân hàng lớn và chẳng mấy hợp lý. Chính sách tiền tệ và chính sách thuế khóa phải luôn cân đối và phải được quyết định trong cùng một quá trình. Cách tiếp cận duy lý nầy có thể chận đứng Cục Dự Trữ Liên Bang khỏi những thiên kiến và chểnh mảng đã đưa đến cuộc khủng hoảng hiện nay.
Những ý tưởng trên đây và nhiều ý kiến khác đang trong thời kỳ thai nghén. Chúng chỉ chín mùi khi các chính trị gia và các nhà lãnh đạo nuốt đi những "cái tôi bị thương tổn" và suy nghĩ lại vị thế bất động của chính mình , tay trong tay với Wall Street. Điều nầy xem chừng khó xẩy ra trong lúc nầy. Nhưng cử tri năng động và dấn thân tích cực hơn có thể giúp họ thay đổi quan điểm. Và nếu chúng ta may mắn, những đề xuất nói trên sẽ giúp định hình viễn kiến của ứng viên Tổng Thống nào đắc cử vào tháng 11 tới.
Nguyễn Trường,
Irvine, Cafornia
15-10-2008
-------------------------------------------------------------------------------- [1] The free market for all intents and purposes is dead in America.
[2] Section 8. Review. Decisions by the Secretary pursuant to the authority of this Act are nonreviewable and committed to agency discretion, and may not be reviewed by any court of law or any administrative agency.
[3] Those rules are not needed today...These steps allow consolidation in the financial sector that will result in efficiency gains and provide new services for consumers.
-------------------------------------------------------------------------------- [1] The free market for all intents and purposes is dead in America.
[2] Section 8. Review. Decisions by the Secretary pursuant to the authority of this Act are nonreviewable and committed to agency discretion, and may not be reviewed by any court of law or any administrative agency.
[3] Those rules are not needed today...These steps allow consolidation in the financial sector that will result in efficiency gains and provide new services for consumers.
|
|