|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:11:50 GMT -5
Một lục địa mất phương hướngBài Viết Của Bạn Đọc -- 16 tháng 03, 2009 -- Bản để in (Bản gốc của Paul Krugman đăng trên New York Times, bản dịch của bạn đọc Dr. Trần) www.nytimes.com/2009/03/16/opinion/16krugman.html?scp=3&sq=krugman&st=cseTôi lo ngại cho Âu Châu. Thật ra, tôi lo ngại cho toàn thế giới - không có nơi trú ẩn an toàn nào cho cơn bão kinh tế toàn cầu. Nhưng tình hình tại Âu Châu làm tôi e ngại còn hơn tình hình tại Hoa kỳ. Nói rõ ra, tôi sẽ không lập lại các lời than phiền cố hữu nào mà Hoa kỳ thường ca thán về thuế ở Âu Châu quá cao hoặc các phúc lợi xã hội quá hào phóng. Các quốc gia có phúc lợi xã hội cao không phải là nguyên do của cuộc khủng hoảng tại Âu Châu hiện nay. Thật ra, như tôi giải thích dưới đây, các quốc gia này thật ra là các yếu tố giảm nhẹ cuộc khủng hoảng. Điều nguy hiểm rõ ràng và hiện nay tại Âu Châu đến từ một phương hướng khác — lục địa đã thất bại trong việc đáp lại cuộc khủng hoảng tài chánh một cách có hiệu quả. Âu Châu đã thiếu hiệu quả trong cả hai chính sách tài khóa và tiền tệ: lục địa đang phải đối mặt với một sự sụt giảm ít nhất cũng tệ hại như tại Hoa kỳ, nhưng lại thực hiện quá ít để chống lại sự sụt giảm này. Về tài khóa, quả là một sự tương phản rõ rệt. Nhiều kinh tế gia, trong đó có tôi, từng lý luận rằng kế hoạch kích thích kinh tế của chính quyền Obama là quá thấp so với chiều sâu cuộc khủng hoảng. Nhưng lại quá lớn so với bất cứ điều gì người Âu Châu đang thực hiện. Sự khác biệt về chính sách tiền tệ cũng không kém nổi bật. Ngân hàng Trung ương Âu Châu (the European Central Bank, ECB) kém phản vệ hẳn so với Quỹ Dự trữ Liên bang Hoa kỳ (the Federal Reserve, FED), đã quá chậm trong việc giảm lãi suất (thật ra đã tăng lãi suất vào tháng 7 năm ngoái), và đã lập rào cản chống lại bất cứ biện pháp mạnh nào nhằm giải ngân các thị trường tín dụng. Điều duy nhất có hiệu quả tại Âu Châu lại chính là điều lục địa này bị chỉ trích nhiều nhất - đó là quy mô và sự hào phóng của các quốc gia tràn đầy trợ cấp xã hội, vì đã làm nhẹ đi các tác động của sự sụt giảm. Vấn đề này không tầm thường chút nào. Bảo hiểm sức khỏe toàn quốc và trợ cấp thất nghiệp rộng rãi đã bảo đảm rằng, ít ra cho đến hiện nay, dân Âu Châu chịu đau khổ ít hơn dân Hoa kỳ. Và các chương trình này sẽ giúp cho việc tiếp tục có sự tiêu xài trong nền kinh tế đang bị sụt giảm. Nhưng các sự “ổn định tự động” như vậy không thể thay thế cho các hành động tích cực. Tại sao Âu Châu lại thua kém trong việc phản vệ lần này? Lãnh đạo kém cõi là một phần trong câu chuyện. Các viên chức ngân hàng Âu Châu, số người đã tính sai bề sâu của cuộc khủng hoảng, vẫn còn tự mãn một cách lạ lùng. Và ai muốn nghe bất cứ điều gì tại Hoa kỳ tương tự như các lời chỉ trích kịch liệt thiếu hiểu biết của vị Bộ trưởng Tài chính Đức quốc thì quý vị phải nghe từ… các nhân vật thuộc Đảng Cộng hòa. Nhưng có một vấn đề sâu xa hơn. Sự hòa nhập kinh tế và tiền tệ tại Âu Châu đã đi quá xa so với các thể chế chính trị. Kinh tế của nhiều quốc gia Âu Châu đã được liên kết chặt chẽ gần như kinh tế của nhiều tiểu bang Hoa kỳ - và phần lớn Âu Châu cùng chia sẻ một đơn vị tiền tệ chung. Nhưng khác với Hoa kỳ, Âu Châu không có một hình thức thể chế toàn lục địa cần thiết để đối phó với một cuộc khủng hoảng toàn lục địa. Đây là một lý do quan trọng trong việc thiếu sót một tác động tài chính: không có một chính phủ nào ở vào địa vị phải chịu trách nhiệm cho toàn nền kinh tế Âu Châu. Điều Âu Châu có được, thay vào đó, là các chính phủ quốc gia, trong số đó mọi chính phủ đều ngần ngại mượn về số nợ lớn lao để chi trả cho một kế hoạch kích thích kinh tế mà phần nhiều, nếu không muốn nói là phần lớn, sẽ cung cấp lợi ích cho các cử tri thuộc các quốc gia khác. Có thể quý vị hy vọng rằng các chính sách tiền tệ sẽ mạnh mẻ hơn. Dù sao đi nữa, cho dù không có một chính phủ toàn Âu Châu, nhưng có một Ngân hàng Trung ương Âu Châu (ECB). Nhưng ECB không phải như FED. FED có thể mạo hiểm vì được một chính phủ quốc gia thống nhất ủng hộ - một chính phủ đã hành động để chia sẻ các nguy cơ từ các hành động táo bạo của FED, và chắc chắn sẽ chi trả cho các sự thua lỗ của FED nếu các cố gắng của FED nhằm giải ngân các thị trường tài chánh bị thất bại. ECB do phải trả lời cho 16 quốc gia thường cãi nhau nên không thể trông đợi vào một mức độ ủng hộ tương đương. Nói theo cách khác, Âu Châu hóa ra có cấu trúc rất yếu trong một thời kỳ khủng hoảng. Câu hỏi lớn nhất là điều gì sẽ xảy ra cho các nền kinh tế Âu Châu đã từng phát triển mạnh mẻ trong thời kỳ tiền tệ còn dồi dào vài năm trước, như Tây Ban Nha? Trong phần lớn thập niên vừa qua, Tây Ban Nha là một Florida của Âu Châu, nền kinh tế quốc gia này được nâng bổng bởi một cuộc tăng trưởng đầu cơ khổng lồ trong bất động sản. Cũng như tại Florida, bong bóng bay nay đã trở thành bong bóng bể. Hiện nay, Tây Ban Nha cần phải tìm các nguồn thu nhập và việc làm khác để thay thế các việc làm bị mất trong công nghiệp xây dựng. Trong quá khứ, Tây Ban Nha đã có thể cải thiện tính cạnh tranh bằng cách hạ giá đơn vị tiền tệ. Nhưng nay quốc gia này đang sử dụng Euro - và đường lối mở ra phía trước chỉ có thể là một quy trình khó khăn của việc giảm lương bổng. Quá trình này đã rất khó khăn trong thời kỳ kinh tế còn tốt đẹp nhất, và sẽ khó khăn không thể tưởng tượng nổi nếu, như hiện nay gần như quá chắc chắn, nền kinh tế toàn Âu Châu sẽ suy giảm và theo chiều hướng thiểu phát trong nhiều năm tới. Có phải điều này có nghĩa rằng Âu Châu đã sai lầm trong việc tự cho phép liên kết quá sâu đậm? Có phải điều này có nghĩa, cá biệt trong trường hợp này, việc khai sinh đồng Euro là một sai lầm? Có thể như vậy. Nhưng Âu Châu vẫn có thể chứng minh rằng các người quan ngại đã bị sai lầm, nếu các chính trị gia tại lục địa này bắt đầu chứng tỏ tài năng lãnh đạo của họ. Nhưng họ có sẽ làm như vậy hay không?
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:23:52 GMT -5
Sự trả thù của thặng dư tiết kiệmBài Viết Của Bạn Đọc -- 21 tháng 03, 2009 -- Bản để in (bài của Paul Krugman, đăng ngày 3/1/2009 trên New York Times — bạn đọc Dr. Trần dịch) www.nytimes.com/2009/03/02/opinion/02krugman.htmlNhớ lại những ngày xưa tươi đẹp, hồi chúng ta thường hay nói về “khủng hoảng nợ thiểu tín dụng” - và có người thậm chí còn nghĩ rằng cuộc khủng hoảng này có thể được “hạn chế”? Ôi, ngày xưa nay còn đâu! Ngày nay chúng ta biết rằng việc cho vay thiểu tín dụng chỉ là một phần nhỏ của vấn đề. Ngay cả các món nợ xấu trong bất động sản nói chung chỉ là một phần của những sai lầm đã xảy ra. Chúng ta đang sống trong một thế giới của những người đi vay bất hảo, trải rộng từ các nhà phát triển khu mua sắm cho đến các nền kinh tế “thần kỳ” bên Âu châu. Và các loại nợ xấu tiếp tục trồi lên không ngừng. Bằng cách nào mà cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu đã xảy ra? Tại sao việc này lại quá dàn trải như vậy? Câu trả lời, tôi xin đề nghị, có thể được tìm thấy trong một bài diễn thuyết của ông Ben Bernanke, hiện là Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên Bang, đọc cách đây bốn năm. Lúc đó, ông Bernanke đang cố gắng xoa dịu. Nhưng điều ông ta nói, cho dù vậy, đã cảnh báo trước cuộc đổ bể tin dụng xảy ra sau đó. Bài diễn thuyết, có tựa đề “Cuộc Thặng dư Tiết kiệm Toàn cầu và Sự Thâm hụt Tài khoản Vãng lai của Hoa kỳ”, đã cống hiến một lối giải thích đột phá vì sao thâm hụt mậu dịch của Hoa kỳ lại tăng cao nhanh như vậy trong các năm khởi đầu thế kỷ 21. Nguyên nhân gây ra, theo ông Bernanke, không phải tự nơi Hoa kỳ mà tại Á Châu. Trong các năm giữa thập niên 1990, ông Bernanke dẫn chứng, các nền kinh tế đang phát triển tại Á Châu đã là các quốc gia nhập khẩu vốn liếng quan trọng, vay mượn từ nước ngoài để chi trả cho việc phát triển. Nhưng sau cuộc khủng hoảng tài chánh Á châu vào năm 1997-1998 (từng có vẻ lớn lao vào lúc đó nhưng quá vặt vãnh nếu so sánh với các việc đang xảy ra ngày nay), các quốc gia này bắt đầu tự bảo vệ bằng cách thu tóm những món tài sản khổng lồ tại nước ngoài, trong thực tế đã xuất khẩu vốn liếng ra phần còn lại của thế giới. Kết quả là một thế giới tràn ngập tiền trị giá rẻ mạt, tìm nơi nào đó để rơi vào. Phần lớn số tiền này đổ vào Hoa kỳ - từ đó gây ra thâm hụt mậu dịch khổng lồ của chúng ta, vì thâm hụt mậu dịch là mặt trái của dòng tiền đổ vào. Nhưng như ông Bernanke dẫn chứng rất đúng, tiền tệ cũng tràn vào các quốc gia khác. Cụ thể, một số nền kinh tế nhỏ bên Âu châu từng trải qua kinh nghiệm dòng tiền đổ vào, cho dù số tiền này nhỏ hơn nhiều trên giá trị đồng đô la so với số tiền đổ vào Hoa kỳ, đã lớn hơn nhiều so với quy mô nền kinh tế của các quốc gia này. Cho dù vậy, rất nhiều trong số thặng dư toàn thế giới đã đổ vào Hoa kỳ. Vì sao? Ông Bernanke chỉ ra “sự thâm sâu, phức tạp, và tinh vi của các thị trường tài chánh (điều này, cùng nhiều điều khác, đã cho phép các hộ gia đình dễ dàng mua bất động sản khi đó đang rất nhiều)”. Thâm sâu, đúng, nhưng phức tạp và tinh vi? Này nhé, bạn có thể nói rằng các nhân vật chóp bu trong lãnh vực ngân hàng, được cho thêm nhiều quyền hành sau một phần tư thế kỷ bớt bị luật lệ kiểm soát, đã dẫn đầu thế giới trong việc tìm ra các phương cách phức tạp, tinh vi, để làm giàu cho chính họ bằng cách giấu nguy cơ và gạt gẫm các nhà đầu tư. Và các hệ thống tài chánh mở rộng, luật lệ kiểm soát lỏng lẻo, đặc trưng cho các quốc gia khác cũng nhận các số tiền lớn đổ vào. Điều này có thể giải thích sự liên hệ lạ lùng giữa các lời ca tụng hai, ba năm trước và thảm họa kinh tế ngày nay. “Các cải tổ đã làm Iceland trở thành một con cọp Bắc Âu”, một bài nghiên cứu tại Học viện Cato tuyên bố. “Phương Cách Ireland Trở Thành Một Con Cọp Vùng Celtic” là tựa đề một bài do Heritage Foundation xuất bản. “Sự Thần Kỳ của Nền Kinh Tế Estonia” là tựa đề của một bài khác. Ngày nay, tất cả ba quốc gia này đều gặp khủng hoảng sâu đậm. Trong một khoảng thời gian, dòng tiền đua nhau đổ vào đã tạo ra một ảo tưởng giàu có tại các quốc gia này, cũng như đã từng như vậy cho chủ các căn nhà tại Hoa kỳ; giá trị tài sản gia tăng, giá trị tiền tệ cường mạnh, và mọi việc có vẻ tốt đẹp. Nhưng bong bóng được bơm cứng luôn luôn sớm muộn sẽ bể, các nền kinh tế thần kỳ hôm qua thì hôm nay đã trở thành các bệnh nhân bị cụt tứ chi, thành các quốc gia trong đó tài sản đã bốc hơi trong khi tiền nợ vẫn còn nhan nhản tại chỗ. Và các món nợ là các gánh nặng đặc biệt lớn lao cũng vì hầu hết được tính trên đơn vị tiền tệ của các quốc gia khác. Sự thiệt hại không bị hạn chế chỉ cho các người vay mượn ban đầu. Tại Hoa kỳ, bong bóng bất động sản chủ yếu xảy ra vùng ven biển, nhưng khi bong bóng này bị bể, nhu cầu cho các sản phẩm do chế tạo, đặc biệt là xe hơi, bị sụp đổ - và điều này đã và đang đem lại thiệt hại kinh khủng cho các vùng sản xuất công nghiệp nằm trong nội địa. Tương tự, các bong bóng kinh tế tại Âu Châu phần lớn nằm vòng quanh lục địa, thế nhưng sản xuất công nghiệp tại Đức - là nơi chưa từng có bong bóng tài chánh nhưng là trung điểm sản xuất của Âu Châu - bị sụt giảm mau chóng, do xuất khẩu bị sụp đổ. Nếu quý vị muốn biết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đâu mà ra, hãy nghĩ thế này: chúng ta đang nhìn vào sự trả thù của thặng dư tiết kiệm. Và sự thặng dư tiết kiệm vẫn còn đó. Thật ra, còn lớn hơn bao giờ hết, vì ngày nay bổng nhiên các người tiêu thụ bị nghèo đi đã khám phá lại lần nữa các đức hạnh của sự tiết kiệm, và rằng cái bong bóng bất động sản được bơm cứng toàn cầu, điều đã cống hiến một lối thoát cho tất cả các sự tiết kiệm quá nhiều, đã trở thành các bong bóng bể. Một cách để nhìn vào tình hình thế giới hiện nay là chúng ta đang chịu đau khổ bởi một nghịch lý toàn cầu về tiết kiệm: vòng quanh thế giới, sự tiết kiệm theo như ước vọng đang vượt quá tổng số tiền các doanh nghiệp muốn đầu tư. Và kết quả là một cuộc suy sụp toàn cầu làm mọi người bị nghèo đi. Chúng ta bị rơi vào thảm trạng hiện nay như thế đấy. Và chúng ta hiện vẫn đang tìm kiếm một lối thoát.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:24:25 GMT -5
Hệ thống ngân hàng trên bờ vực thẳmBài Viết Của Bạn Đọc -- 21 tháng 03, 2009 -- Bản để in (của Paul Krugman, đăng trên New York Times ngày 22 tháng 2, 2009 — bạn đọc Dr. Trần dịch) (bài dịch này có một vài chữ không theo nguyên bản, để bạn đọc dễ hiểu) www.nytimes.com/2009/02/23/opinion/23krugman.htmlĐồng chí Greenspan muốn chính phủ nắm giữ thượng tầng quản trị nền kinh tế. Thật ra không chính xác như vậy. Ông Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang - và là một nhà bảo vệ trung thành các thị trường tự do - thật ra đã nói, “Có thể tạm thời cần thiết phải quốc hữu hóa vài ngân hàng để tạo điều kiện tốt đẹp, mau chóng, và trật tự để tái cấu trúc”. Tôi đồng ý. Việc quốc hữu hóa hệ thống ngân hàng căn cứ vào ba điều quan sát được. Thứ Nhất, vài ngân hàng lớn hiện đang quá gần bờ vực thẳm - thật ra, các ngân hàng này lẽ ra đã sụp đổ rồi nếu các nhà đầu tư không trông đợi chính phủ cứu vớt khi cần thiết. Thứ Hai, các ngân hàng phải được cứu vãn. Sự sụp đổ của Lehman Brothers đã gần như tiêu diệt nền tài chánh quốc tế, và chúng ta không thể chấp nhận nguy cơ của việc để yên cho các định chế lớn hơn như Citigroup hay Bank of America sụp đổ từ bên trong. Thứ Ba, trong khi các ngân hàng phải được cứu giúp, chính phủ Hoa kỳ không đủ khả năng cung cấp, cả về tài chánh và chinh trị, các món quà khổng lồ cho các cổ đông ngân hàng. Hãy tính toán các con số rõ ràng tại đây. Có một cơ hội khá lớn - tuy không chắc chắn - rằng Citi và BofA tổng cộng sẽ lỗ hàng trăm tỉ đô la trong vòng vài năm tới. Và vốn liếng của họ, số thặng dư của tài sản trừ đi số nợ, không đủ đâu vào đâu để trả các số lỗ lã tiềm ẩn. Có thể cho rằng, lý do duy nhất hai ngân hàng này đến nay chưa sụp đổ chỉ là vì chính phủ đang chống lưng cho họ, ngầm bảo đảm các nghĩa vụ trả nợ của họ. Nhưng đây là các ngân hàng ma cà rồng, không thể cung cấp tín dụng nền kinh tế cần thiết. Để chấm dứt tình trạng chết-chưa-chôn của chính họ, các ngân hàng này cần thêm vốn. Nhưng họ không thể đào đâu ra thêm vốn từ các nhà đầu tư cá nhân. Do đó chính phủ phải cung cấp các số tiền cần thiết. Nhưng đây là vấn đề: các số tiền cần thiết để đem các ngân hàng này sống trở lại sẽ cao hơn rất nhiều so với giá trị hiện nay của họ. Citi và BofA cộng chung lại có giá trị trên thị trường không tới 30 tỉ đô la, và ngay cả như vậy giá trị này phần lớn, nếu không là tất cả, đều phụ thuộc vào hy vọng rằng các cổ đông sẽ nhận được một phần từ tiền tài trợ do chính phủ cung cấp. Và nếu căn bản phải cung cấp tất cả các thứ tiền như vậy, chính phủ nên nhận quyền sở hữu bù lại. Cho dù vậy, không phải việc quốc hữu hóa có nghĩa là chống lại các giá trị căn bản của Hoa kỳ hay sao? Không, việc quốc hữu hóa cũng “Hoa kỳ” không kém bánh táo nướng có bỏ đường. Gần đây, Cơ quan Bảo hiểm Tiết kiệm Liên bang (FDIC) đã và đang thu tóm các ngân hàng bị cho là mất khả năng chi trả theo tỉ lệ vào khoảng hai ngân hàng một tuần. Khi FDIC thu tóm một ngân hàng, họ thu nhận các tài sản xấu, trả một phần các món nợ, và bán lại ngân hàng đã được làm “sạch” này cho các nhà đầu tư cá nhân. Và đó chính xác là điều các người đề xướng việc quốc hữu hóa tạm thời muốn thấy được thực hiện, không chỉ các ngân hàng nhỏ mà FDIC đã và đang thu tóm, nhưng bao gồm luôn các ngân hàng khổng lồ đang bị mất khả năng chi trả tương tự như vậy. Câu hỏi thực sự là, tại sao chính quyền Obama cứ tiếp tục đưa ra các lời đề nghị khác, thay cho việc quốc hữu hóa, nhưng thật ra chỉ là cung cấp các số tiền khổng lồ cho các cổ đông ngân hàng. Thí dụ, chính phủ ban đầu đưa ra ý kiến rằng nên bảo đảm các món nợ khó đòi, để các ngân hàng khỏi bị lỗ. Điều này chỉ đem lại một áp-phe quá tốt cho các cổ đông ngân hàng, nhưng không cho số người còn lại trong dân chúng: mặt ngửa đồng tiền thì các cổ đông thắng mặt sấp các người trả thuế bị thua. Giờ đây chính phủ đang nói về một “đối tác công - tư” nhằm thu mua các món nợ khó đòi của các ngân hàng, theo đó chính phủ sẽ cho các nhà đầu tư cá nhân mượn tiền cho việc này. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư cá nhân được đánh cá một chiều: nếu giá trị các tài sản tăng cao, các nhà đầu tư thắng; nếu giá trị xuống thấp đáng kể, các nhà đầu tư sẽ rút đi và chính phủ lãnh đủ. Lại một lần nữa, mặt ngửa đồng tiền thì các cổ đông thắng mặt sấp các người trả thuế bị thua. Tại sao lại không tiến tới việc quốc hữu hóa các ngân hàng? Nên nhớ là, chúng ta càng sống lâu với các ngân hàng chết-chưa-chôn, càng khó để chúng ta chấm dứt cuộc khủng hoảng kinh tế. Quốc hữu hóa ngân hàng cách thế nào đây? Tất cả mọi điều chính phủ phải làm chỉ là tự thực hiện nghiêm túc các bài “kiểm tra sự chịu đựng” dự định đưa ra cho các ngân hàng khổng lồ, và không che dấu kết quả khi một ngân hàng khổng lồ nào đó rớt cuộc kiểm tra, để tạo điều kiện cho một cuộc thu mua cần thiết. Đúng vậy, mọi việc sẽ như một đoạn phim do Claude Rains* đóng, khi một chính phủ từng cứu vớt nhiều ngân hàng trong nhiều tháng nay tự tuyên bố bị sốc, sốc vì tình trạng thê thảm của các bản cáo cáo tài sản của các ngân hàng khổng lồ. Nhưng như vậy không sao hết. Và một lần nữa, quyền công hữu trường kỳ không phải là mục đích: cũng như các ngân hàng nhỏ bị FDIC thu tóm hàng tuần, các ngân hàng khổng lồ sẽ được đưa trở lại cho tư nhân kiểm soát càng sớm càng tốt. Blog tài chánh có tên “Calculated Risk” đề nghị thay vì gọi đây là một quá trình quốc hữu hóa, chúng ta nên gọi là “tiền tư hữu hóa”. Chính phủ Obama, theo lời Phát Ngôn viên Nhà trắng Robert Gibbs, tin rằng “một hệ thống ngân hàng do tư nhân sở hữu là một đường lối đúng đắn để theo đuổi”. Tất cả chúng ta cũng tin như vậy. Nhưng điều chúng ta có hiện nay không còn là hệ thống kinh doanh tư nhân. Đó là một loại chủ nghĩa xã hội chanh chua: ngân hàng chiếm thượng phong trong khi người dân đóng thuế gánh nặng các nguy cơ. Và điều này vĩnh viễn hóa các ngân hàng chết-chưa-chôn, ngăn chặn sự hồi phục kinh tế. Điều chúng ta muốn là một hệ thống trong đó ngân hàng sở hữu cả hạ lưu lẫn thượng phong. Và con đường đi đến hệ thống đó phải đi xuyên qua việc tạm thời quốc hữu hóa - còn gọi là “tiền tư hữu hóa” - các ngân hàng. ————— * tài tử người Anh chuyên đóng vai chính trong loại phim rùng rợn.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:25:16 GMT -5
Sự tuyệt vọng trong các chính sách tài chínhBài Viết Của Bạn Đọc -- 23 tháng 03, 2009 -- Bản để in (bài của GS Paul Krugman đăng trên New York Times ngày 23/3/2009 — do bạn đọc Dr. Trần dịch) (có thêm bớt vài chữ cho rõ nghĩa) www.nytimes.com/2009/03/23/opinion/23krugman.htmlCuối tuần vừa qua New York Times và nhiều tờ báo khác đăng các chi tiết được tiết lộ về kế hoạch cứu vớt ngân hàng của chính quyền Obama, sẽ được công bố chính thức tuần này. Nếu các tin tức đó đúng thì Tim Geithner, Bộ trưởng Ngân khố, đã thuyết phục Tổng thống Obama sử dụng lại chính sách của chính quyền Bush - cụ thể, kế hoạch “tiền cho rác” được đề nghị, rồi bỏ đi, sáu tháng trước đây bởi Bộ trưởng Ngân khố khi đó là Henry Paulson. Điều này còn hơn là thất vọng. Thật ra, đang làm tôi cảm thấy tràn đầy tuyệt vọng. Xét cho cùng, chúng ta vừa trả qua bão lửa với việc tiền thưởng của tập đoàn AIG, trong đó quan chức chính phủ cho rằng họ không biết gì cả, không thể làm gì, và dù sao đi nữa đó là lỗi lầm của người khác. Trong khi đó, chính quyền đã thất bại trong việc dập tắt các sự nghi vấn của công chúng về việc các ngân hàng đang làm gì với tiền do dân đóng thuế. Và bây giờ ông Obama rõ ràng đã định vị trên một kế hoạch tài chánh, về thực chất, cho rằng các ngân hàng về căn bản là mạnh mẻ và các nhà tài phiệt ngân hàng biết họ đang làm gì. Dường như Tổng thống đã xác nhận sự nhận thức ngày càng lan rộng rằng ông ta và nhóm cố vấn kinh tế không thực tế, rằng tầm nhìn kinh tế của họ bị bao che bởi các mối liên hệ quá gần gủi với Wall Street. Và trước khi ông Obama nhận ra một thực tế rằng ông cần thay đổi đường hướng, số vốn liếng chính trị của ông ta có thể đã không còn gì. Chúng ta hãy bàn luận một chút về các khía cạnh kinh tế của tình hình hiện tại. Ngay bây giờ, nền kinh tế chúng ta bị kéo sụp bởi hệ thống tài chánh bất khả dụng, bị què quặt bởi các món lỗ khổng lồ trong các chứng khoán dựa vào thế chấp bất động sản và các tài sản khác. Các sử gia kinh tế sẽ nói với các bạn, đây là một câu chuyện cũ rích, không mấy gì khác so với hàng chục cuộc khủng hoảng tương tự trong các thế kỷ qua. Và có một quy trình đã được chứng thực qua thời gian để giải quyết hậu quả của sự thất bại tài chánh lan rộng. Việc này xảy ra như sau: chính phủ đem lại tự tin trong hệ thống bằng việc bảo đảm nhiều (mặc dù không cần phải tất cả) mọi loại nợ ngân hàng. Cùng thời gian đó, chính phủ tạm thời kiểm soát các ngân hàng thực sự mất khả năng chi trả, ngõ hầu để làm “sạch” sổ sách các ngân hàng này. Đó là điều Thụy điển đã thực hiện hồi đầu thập niên 1990. Đó cũng là điều chính chúng ta thực hiện sau cuộc thất bại của hệ thống “tiết kiệm và cho vay” trong các năm thời Tổng thống Reagan. Và không có lý do gì hiện nay chúng ta không thể làm tương tự. Nhưng chính quyền Obama, cũng như chính quyền Bush, rõ ràng chỉ muốn một lối thoát dễ dàng. Các kế hoạch của hai ông Paulson và Geithner giống nhau ở chỗ đều khăng khăng cho rằng các tài sản khó tiêu thụ trong sổ sách của các ngân hàng đều thật ra có giá trị cao hơn nhiều so với giá bất cứ ai muốn trả hiện nay. Thật ra, giá trị thật sự còn cao đến mức nếu các tài sản này được định giá đúng mức thì các ngân hàng đã không bị lâm vào cảnh khốn cùng. Và như vậy, kế hoạch là dùng các quỹ tiền dân đóng thuế đẩy đưa giá cả các tài sản khó tiêu thụ lên mức “công bằng”. Ông Paulson đề nghị rằng chính phủ trực tiếp mua các tài sản đó. Ông Geithner, thay vào đó, đề nghị một đồ hoạch phức tạp trong đó chinh phủ cho các nhà đầu tư tư nhân vay mượn tiền, để họ dùng tiền đó mua các tài sản khó tiêu thụ. Ý định là, theo vị cố vấn kinh tế cao cấp nhất của Tổng thống Obama, dùng “sự chuyên nghiệp của thị trường” xác lập giá trị các tài sản khó tiêu thụ. Nhưng đồ hoạch Geithner sẽ cung cấp việc cá cược một chiều: nếu giá trị tài sản tăng, các nhà đầu tư sẽ có lợi, nhưng nếu bị xuống, các nhà đầu tư có thể rời bỏ số nợ. Do đó dây không phải thật sự để cho thị trường tự hoạt động. Đây chỉ là một phương cách trá hình gián tiếp để trợ cấp cho việc mua lại các tài sản khó tiêu thụ. Bỏ qua các phí tổn khả dĩ tổn hại cho người nộp thuế, có gì đó lạ lùng trong các việc này. Tôi đếm đây là lần thứ ba quan chức trong chính quyền Obama thả nổi một đồ hoạch theo thực chất là tái lập kế hoạch của ông Paulson, mỗi lần thêm một bộ cánh bên ngoài màu mè mới lạ và rồi hô hoán lên rằng họ thực hiện điều gì đó hoàn toàn khác. Điều này đang bắt đầu vượt quá hạn định thông thường. Nhưng vấn đề thật sự của kế hoạch này là tính cách bất khả dụng. Đúng vậy, các tài sản khó tiêu thụ có thể bị định giá thấp theo mức nào đó. Nhưng sự thật là các nhân viên tài chánh chóp bu đã thật sự đánh cá cả các ngân hàng của họ trên sự tin tưởng rằng bong bóng bất động sản không bị bơm cứng, và trên sự tin tưởng liên hệ rằng các mức độ nợ bất động sản cao chưa từng thấy của các hộ gia đình đều không phải là điều khó giải quyết. Họ đã thua cuộc đánh cá đó. Và không có một lượng phù phép tài chánh nào - mà kế hoạch Geithner chung quy là như vậy - sẽ thay đổi sự thật này. Bạn có thể nói, tại sao không thử qua kế hoạch này để xem điều gì xảy ra? Một câu trả lời là thời gian đang bị lãng phí: mỗi tháng chúng ta thất bại trọng việc kiểm soát cuộc khủng hoảng kinh tế là thêm 600 ngàn việc làm bị mất trắng. Quan trọng hơn nữa, dù vậy, là phương cách ông Obama đang hoang phí sự tín nhiệm của dân chúng dành cho ông ta. Nếu kế hoạch này thất bại - và hầu như chắc chắn như vậy - sẽ rất khó để ông ta có thể thuyết phục Quốc hội đưa ra thêm ngân quỹ để thực hiện điều ông ta lẽ ra đã nên thực hiện từ lúc ban đầu. Tất cả đều chưa bị mất hẳn: công chúng muốn ông Obama thành công, có nghĩa là ông ta vẫn còn có thể cứu vãn kế hoạch cứu vãn ngân hàng của ông ta. Nhưng thời gian đang cạn dần.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:26:03 GMT -5
Sự thần bí của thị trườngBài Viết Của Bạn Đọc -- 27 tháng 03, 2009 -- Bản để in (bài của GS Paul Krugman đăng trên New York Times ngày 27/3/2009 — bạn đọc Dr. Trần dịch) www.nytimes.com/2009/03/27/opinion/27krugman.html?_r=1Hôm thứ Hai, ông Lawrence Summers, Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia, trả lời các chỉ trích về kế hoạch của chính quyền Obama nhằm tài trợ cho tư nhân để họ mua lại các tài sản khó tiêu thụ, “Tôi không biết bất cứ kinh tế gia nào,” ông tuyên bố, “lại không tin rằng các thị trường vốn liếng hoạt động tốt hơn, trong đó tài sản có thể được trao đổi mậu dịch, là một ý kiến hay”. Để qua một bên trong khoảnh khắc câu hỏi đúng hay sai, về một thị trường trong đó số người mua phải được hối lộ để họ tham gia có thể thật sự được mô tả như “hoạt động tốt hơn”. Ngay cả nếu đó là đúng, ông Summers cần ra ngoài nhiều hơn. Nhiều kinh tế gia đã tái xác định ý kiến trước đây từng hữu hảo của họ về các thị trường vốn liếng và buôn bán tài sản, dưới sự soi sáng của cuộc khủng hoảng hiện tại. Nhưng điều ngày càng rõ ràng sau vài ngày vừa qua là các viên chức cao cấp nhất trong chính quyền Obama vẫn còn bị siết chặt bởi sự thần bí của thị trường. Họ vẫn còn tin tưởng vào sự kỳ ảo của thị thành tài chánh và vào sự tinh thông của các nhà phù thủy thực hiện các ma thuật này. Trong quá khứ, sự thần bi của thị trường không luôn luôn chỉ huy các chính sách tài chánh. Hoa kỳ vượt qua cuộc Đại Khủng hoảng với một hệ thống ngân hàng được điều hành chặt chẽ, điều đó làm tài chánh là một ngành kinh doanh ù lì, thậm chí tẻ nhạt. Các ngân hàng thu hút người gởi tiền bằng cách cung cấp các địa điểm chi nhánh thuận tiện và có khi một hai cái bánh nướng miễn phí; họ cho vay trên số tiền thu hút được, và chỉ đơn giản như vậy. Và hệ thống tài chánh không chỉ buồn chán, mà còn, theo tiêu chuẩn hiện nay, nhỏ. Ngay cả trong thời kỳ “các năm sôi động”, thị trường mạnh như bò mộng của thập niên 1960, tài chánh và bảo hiểm cộng lại vẫn ít hơn 4% Tổng Sản lượng Nội địa. Sự bất trọng yếu tương đối của ngành tài chánh còn được phản ảnh trong danh sách các cổ phiếu tạo thành Dow Jones Industrial Average, trong đó cho đến năm 1982 không bao gồm đến một công ty tài chánh. Điều đó nghe quá cổ lỗ sĩ so với các tiêu chuẩn hiện nay. Tuy vậy chính cái hệ thống tài chánh chán chường, thô xưa đó đã phục vụ cho một nền kinh tế làm tăng trưởng gấp đôi các tiêu chuẩn sinh sống trong vòng một thế hệ. Sau năm 1980, đương nhiên, một hệ thống tài chánh rất khác biệt trồi lên. Trong thời đại giải tỏa điều hành của Tổng thống Reagan, hệ thống ngân hàng theo thể thức xưa cũ được ngày càng thay đổi, thêm vào các phương cách giải quyết nhanh nhạy trên một tầm vĩ đại hơn. Hệ thống mới vĩ đại hơn nhiều so với thể chế trước đó. Ngay trước cuộc khủng hoảng hiện nay, tài chánh và bảo hiểm chiếm 8% Tổng Sản lượng Nội địa, hơn gấp đôi so với thị phần của hai ngành này trong thập niên 1960. Trước đầu năm vừa qua, chỉ số Dow bao gồm năm công ty tài chánh - trong đó có các công ty khổng lồ như AIG, Citigroup, và Bank of America. Và tài chánh không còn chán chường nữa. Ngành này thu hút nhiều bộ óc thông minh đỉnh đạc nhất của chúng ta và làm một số chọn lọc nào đó trở nên giàu có vô cùng. Nằm dưới kết cấu một tân thế giới hùng vĩ của ngành tài chánh là một quy trình chứng khoán hóa. Các món nợ không còn chỉ trong vòng tay người cho mượn. Thay vào đó, các món nợ được bán cho người khác, người này xẻ nhỏ, dồn cục, nhào nặn các món nợ riêng lẻ để tạo thành các tài sản mới. Nợ bất động sản thiểu tín dụng, nợ thẻ tín dụng, nợ xe hơi - tất cả bị bỏ vào cái cối xay nhuyễn của hệ thống tài chánh. Đầu ra phía bên kia, theo dự định, là các mối đầu tư tối hảo AAA. Và các phù thủy tài chánh được phong thưởng sung túc cho việc họ giám sát quá trình này. Nhưng các nhà phù thủy đều gian dối, cho dù họ có hiểu biết hay không, và ma thuật của họ hóa ra chẳng có gì hơn là một bộ sưu tập các thủ thuật rẻ tiền trên sàn diễn. Hơn hết, điều hứa hẹn chính của chứng khoán hóa - rằng việc này sẽ làm hệ thống tài chánh trở nên hùng mạnh hơn nhờ vào việc trải rộng hơn các hiểm nguy - hóa ra là một điêu dối trá. Các ngân hàng sử dụng chứng khoán hóa để tăng nguy cơ, chứ không giảm đi, và trong quá trình đó họ làm nền kinh tế dễ, chứ không khó, bị tổn thương hơn do gãy vỡ tài chánh. Sớm muộn gì thì tất cả mọi việc chắc chắn trở nên tồi tệ, và cuối cùng đã xảy ra. Bear Stearns thảm bại, Lehman thảm bại, nhưng hơn hết là, chứng khoán hóa cũng thảm bại. Các điều này đem chúng ta trở lại phương pháp tiếp cận cuộc khủng hoảng tài chánh của chính quyền Obama. Phần lớn cuộc bàn thảo về kế hoạch [giải tỏa] tài sản khó tiêu thụ chỉ tập trung vào chi tiết và các con tính đại số, và rất nên như vậy. Ngoài ra, tuy nhiên, điều nổi bật là tầm nhìn được biểu hiện cả trong nội dung kế hoạch tài chánh và trong các lời phát biểu của viên chức chính phủ. Thực chất, chính phủ dường như tin rằng một khi các nhà đầu tư bình tĩnh trở lại, thì việc chứng khoán hóa - và ngành kinh doanh tài chánh - sẽ tái lập vào ngay chỗ đã rời khỏi vào một hai năm trước đây. Công bằng mà nói thì các viên chức đang kêu gọi có thêm điều hành. Thật vậy, hôm thứ Năm, ông Tim Geithner, Bộ trưởng Ngân khố, đưa ra nhiều kế hoạch tăng cường điều hành mà nếu đưa ra không lâu trước đây đã bị cho là cực đoan, quá đáng. Nhưng tầm nhìn căn bản vẫn còn nguyên, đó là một nền tài chánh dù ít dù nhiều vẫn giống như cách đây hai năm, cho dù bị chế ngự bởi các luật lệ mới. Như các bạn có thể suy đoán, tôi không chia sẻ tầm nhìn đó. Tôi không nghĩ rằng đây chỉ là một hoảng loạn tài chánh, tôi tin rằng cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay đại diện cho sự thất bại của toàn bộ mô hình ngân hàng, của một ngành tài chánh tăng trưởng quá đáng đã gây thiệt hại nhiều hơn các điều lợi. Tôi không tin chính quyền Obama có thể hồi sinh chứng khoán hóa, và tôi không tin chinh quyền này nên cố gắng làm như vậy.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:26:51 GMT -5
Ô Uế Hoa kỳBài Viết Của Bạn Đọc -- 30 tháng 03, 2009 -- Bản để in (bài của GS Paul Krugman đăng trên New York Times ngày 30/3/2009 — do bạn đọc Dr. Trần dịch) www.nytimes.com/2009/03/30/opinion/30krugman.html?_r=1Mười năm trước trang bìa báo Time đăng hình ông Robert Rubin, khi đó là Bộ trưởng Ngân khố, Alan Greenspan, khi đó là Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang, và Lawrence Summers, khi đó là Phó Bộ trưởng Ngân khố. Báo Time đặt tên cho bộ ba này là “ủy ban cứu rỗi thế giới”, ghi công trạng họ về việc đã dẫn đầu hệ thống tài chánh thế giới vượt qua cuộc khủng hoảng có dáng dấp quá đáng sợ vào thời điểm đó, cho dù đó chỉ là một hạt cát phù du so với những điều chúng ta đang trải qua hiện nay. Tất cả các đấng nam nhi trên trang bìa đó đều là người Hoa kỳ, nhưng chẳng ai xem đó là điều kỳ dị. Dù sao đi nữa, vào năm 1999 Hoa kỳ là một lãnh tụ không ai dám chất vấn về việc đối phó với cuộc khủng hoảng toàn cầu vào lúc đó. Vai trò lãnh đạo đó chỉ đặt nền tảng một phần vào sự giàu có của Hoa kỳ; nhưng ở mức độ quan trọng hơn còn phản ảnh tầm vóc của Hoa kỳ như là một khuôn mẫu tiêu biểu. Hiệp Chủng Quốc Hoa kỳ, mọi người thầm nghĩ, là một quốc gia luôn biết cách phải làm gì trong ngành tài chánh. Mũi tên thời gian nay đã làm vật đổi sao dời. Khỏi cần quan tâm sự thật rằng hai thành viên trong ủy ban nay đã chịu đầu hàng dưới lời nguyền của tạp chí [Time], sự tuột dốc uy tín thông thường hay theo sau việc được nâng lên hàng cao trọng trong giới truyền thông (ông Summers, hiện là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc gia, vẫn còn nhiều sức mạnh). Quan trọng hơn nhiều là quy mô chúng ta tự khen tụng sự bền vững của ngành tài chánh - các sự khen tụng thường được chúng ta nêu lên khi chúng ta giảng dạy cho các quốc gia khác về việc cần thiết phải thay đổi phương cách làm việc - đã chứng tỏ chỉ là các điều sáo rỗng. Thật vậy, ngày nay Hoa kỳ trông giống như một Bernie Madoff của các nền kinh tế, trong nhiều năm Hoa kỳ được ngưỡng mộ, ngay cả kinh sợ, nhưng hóa ra đó chỉ là một sự lừa dối từ lâu nay. Thật đau đớn nếu đọc lại một bài ông Summers giảng dạy vào đầu năm 2000, khi cuộc khủng hỏng kinh tế của thập niên 1990 đang dịu xuống. Bàn luận về các nguyên nhân gây nên cuộc khủng hoảng đó, ông Summers chỉ ra các điều mà nhiều quốc gia gặp khủng hoảng bị thiếu sót - và qua đó ngụ ý rằng Hoa kỳ có đầy đủ. Các điều đó bao gồm “các ngân hàng đầy tràn tiền vốn và được giám sát” và một nền kế toán thương nghiệp đáng tin cậy, minh bạch. Hết biết. Một trong các nhà phân tích ông Summers dẩn chú trong bài giảng đó là kinh tế gia Simon Johnson. Trong một bài đăng trên báo Atlantic số hiện hành, ông Johnson, từng giữ chức Kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và hiện đang là giáo sư tại MIT, tuyên bố rằng các khó khăn hiện nay của Hoa kỳ “gợi nhớ sửng sờ” các cuộc khủng hoảng tại các nơi như Nga và Argentina - bao gồm vai trò có tính quyết định của các nhà tư bản bè phái. Tại Hoa kỳ cũng như tại thế giới thứ ba, ông viết, “các nhóm có quyền lợi thương mại hàng đầu - các nhà tài phiệt, trong trường hợp Hoa kỳ - đã giữ vai trò trung tâm trong việc tạo ra cuộc khủng hoảng, họ đặt cược ngày một lớn, với sự ngầm ủng hộ của chính phủ, cho đến khi xảy ra một sự sụp đổ không thể tránh khỏi. Đáng báo động hơn nữa, họ đang sử dụng ảnh hưởng của họ để ngăn chặn một cách thật chinh xác các loại hình cải cách cần thiết và mau lẹ để lôi kéo nên kinh tế khỏi bị rớt chúi mũi xuống đất”. Không ngạc nhiên, khi đọc rằng một bài trên báo New York Times hôm qua, về sự đáp lại Tổng thống Obama sẽ nhận được tại Âu Châu, có tựa đề “Chủ nghĩa Tư bản nói tiếng Anh đang bị truy tố”. Hiện nay, để cho công bằng thì chúng ta phải nói rằng Hoa kỳ chẳng phải là quốc gia duy nhất trong đó các ngân hàng đang bị điên cuồng. Nhiều lãnh đạo Âu Châu vẫn đang phủ nhận các khó khăn kinh tế và tài chánh toàn lục địa, trong khi các khó khăn, sa sút đó cũng sâu xa như của chính chúng ta - mặc dù các quốc gia của họ với mạng lưới an sinh xã hội mạnh mẻ có nghĩa rằng người dân chúng ta rất có thể sẽ phải trải qua các sự khốn khó cao hơn nhiều. Dù vậy, sự thật là cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại về tính đáng tin cậy của Hoa kỳ, và theo đó là khả năng lãnh đạo. Và đó là điều hết sức xấu xa. Cũng như nhiều kinh tế gia khác, tôi đã tái thẩm định cuộc Đại Khủng hoảng, tìm kiếm các bài học khả dĩ có thể giúp chúng ta tránh được việc đó xảy ra lần nữa. Và một điều nổi bật từ lịch sử các năm đầu thập niên 1930 là quy mô trong đó thế giới phản ứng lại cuộc khủng hoảng đã bị làm què quặt vi các nền kinh tế lớn trên thế giới đã không thể hợp tác. Chi tiết cuộc khủng hoảng hiện nay của chúng ta rất khác, nhưng sự cần thiết hợp tác vẫn không giảm đi chút nào. Tổng thống Obama đã rất đúng, chính xác, hồi tuần rồi khi ông tuyên bố: “Tất cả mọi người trong chúng ta đều sẽ phải thẳng bước ngõ hầu để vực dậy nền kinh tế. Chúng ta không muốn một tình trạng trong đó vài quốc gia đang cố gắng phi thường và các quốc gia khác không làm như vậy”. Vậy mà đó chính xác là tình trạng chúng ta đang gặp phải. Tôi không tin rằng ngay cả các cố gắng kinh tế của Hoa kỳ là đầy đủ, nhưng các nổ lực này đi xa hơn hầu hết các quốc gia giàu có đã và đang có ý muốn thực hiện. Và cuộc họp thượng đỉnh G-20 tuần này sẽ phải là một dịp cho ông Obama càu nhàu và rượt theo các lãnh đạo Âu Châu, để họ chịu hợp tác. Nhưng vào các ngày này, các lãnh đạo nước ngoài không còn lòng dạ nào nghe lời giảng dạy của giới chức Hoa kỳ, ngay cả khi - như trong trường hợp này - Hoa kỳ đã đúng. Cuộc khủng hoảng gây nhiều phí tổn. Và một trong các phí tổn đó là thiệt hại cho uy tín Hoa kỳ, một tài sản mà chúng ta vừa bị mất ngay khi mà chúng ta, và cả thế giới, đang cần đến nhất.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:27:32 GMT -5
Bẫy tiền tệ của Trung QuốcBài Viết Của Bạn Đọc -- 04 tháng 04, 2009 -- Bản để in (bài của GS Krugman đăng trên NY Times ngày 3/4/2009 — bạn đọc Dr. Trần dịch) (xin nhắc lại đây chỉ là một bài dịch theo ý, không theo nghĩa từng chữ) www.nytimes.com/2009/04/03/op…03krugman.htmlTrong các giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chánh, nhiều nhân vật hài hước từng nói đùa rằng thương mại giữa chúng ta và Trung quốc sau cùng đã trở nên công bằng và cân đối: họ bán cho chúng ta các món đồ chơi nhiễm độc và hải sản ô uế, chúng ta bán cho họ chứng khoán gian lận. Nhưng trong hiện tại, cả hai phía của cuộc giao dịch đó đã đổ vỡ. Một mặt, sự ham chuộng của thế giới đối với hàng hóa Trung quốc đã sụt giảm nặng nề. Xuất khẩu của TQ đã bị rơi rụng trong vài tháng gần đây và hiện đang 26% thấp hơn so với cách đây một năm. Mặt khác, người Trung quốc rõ ràng đang trở nên hồi hộp lo ngại về các chứng khoán gian lận họ mua của chúng ta. Nhưng cho dù vậy Trung quốc dường như vẫn còn nhiều trông đợi không thực tế. Và đó là một vấn đề nan giải cho tất cả chúng ta. Một tin chấn động hồi tuần rồi là một bài diễn văn của Zhou Xiaochuan, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Trung quốc, trong đó ông kêu gọi thành lập một “đơn vị dự trữ tiền tệ chung toàn thế giới”. Nhóm lo sợ hoang tưởng của Đảng Cộng hòa lập tức cảnh báo một âm mưu đen tối nhằm làm Hoa kỳ buông rơi vị thế đồng đô la. Nhưng bài diễn văn của ông Zhou thật ra đã thú nhận vị thế yếu kém của Trung quốc. Trên thực tế, ông ta nói rằng Trung quốc đã tự đưa họ vào một cái bẫy đô la, và không thể tự giải thoát mà cũng không thể thay đổi các chính sách đã đưa họ vào cái bẫy đó từ lúc ban đầu. Vài điều về quá trình sự việc. Trong những năm đầu tiên của thập niên hiện nay, Trung quốc bắt đầu tạo ra những món thặng dư mậu dịch lớn lao và cũng bắt đầu thu hút những món đầu tư vốn liếng đáng kể từ nước ngoài. Nếu Trung quốc đã cho phép thả nổi tỉ giá hối đoái - cũng như, Canada - thì việc này đã dẫn đến việc vinh thăng giá trị tiền tệ của họ, và từ đó đã làm chậm lại việc tăng trưởng xuất khẩu của Trung quốc. Nhưng thay vào đó Trung quốc giữ giá trị đồng yuan ít nhiều bị gắn chặt với đồng đô la. Để làm như vậy, họ phải mua đô la khi đồng tiền này đổ vào như cơn thác lũ. Sau nhiều năm, các thặng dư mậu dịch này tiếp tục tăng cao - và cùng với đó là số lượng tài sản ngoại quốc Trung quốc thu gom được. Còn câu chuyện hài hước về chứng khoán gian lận thật ra không công bằng. Ngoài việc không suy nghĩ chín chắn khi mua vào số lượng lớn tài sản địa ốc vào lúc giá đang cao chót vót, người Trung quốc mua dự trữ phần lớn chỉ là các tài sản rất an toàn, đó là các công khố phiếu Hoa kỳ - gọi tắt là T-bills - tạo nên phần lớn tổng số tài sản. Nhưng trong khi T-bills an toàn và không bị vỡ nợ, lại cho tiền lời rất thấp. Có chăng một chiến lược sâu xa đằng sau việc dự trữ hàng đống tài sản thiểu lợi nhuận như vậy? Có lẽ không đâu. Trung quốc thu mua hai ngàn tỉ đô la T-bills, làm Cộng hòa Nhân dân trở thành Cộng hòa T-bills - cũng theo cách Anh quốc lập nên đế chế của họ: trong một lúc đãng trí, thiếu suy xét. Và chỉ mới vài ngày nay, dường như lãnh đạo Trung quốc mới tỉnh thức và nhận ra rằng họ có một vấn đề nan giải. Tiền lời thấp dường như không quấy rầy họ cho lắm, ngay cả hiện nay. Nhưng họ rõ ràng lo ngại sự thật là 70% các tài sản đó đều trên đơn vị đô la, do đó bất cứ sự sụt giảm giá trị đồng đô la nào trong tương lai cũng đều đồng nghĩa với một sự lỗ lã vốn liếng to lớn cho Trung quốc. Từ đó ông Zhou đề nghị rằng nên tạo dựng một đơn vị tiền tệ mới theo kiểu cách S.D.R, tức là quyền lợi rút tiền đặc biệt, trong đó Quỹ Tiền tệ Quốc tế giữ các tài khoản của họ. Nhưng cần chú ý nhiều vấn đề lớn nhỏ khác tại đây: S.D.R’s không phải là tiền thật sự. Đây chỉ là các đơn vị kế toán trong đó giá trị được đặt theo một rổ tiền tệ từ đô la, Euros, Yên Nhật, và Pounds Anh quốc. Và không có điều gì ngăn cản Trung quốc trong việc đa dạng hóa dự trữ ngoại tệ của họ và tránh xa đồng đô la. Thật ra từ việc giữ một rổ dự trữ thích ứng theo các thành phần của S.D.R’s cũng sẽ không có gì khác ngoài sự thật là Trung quốc nay có quá nhiều đô la đến mức không thể bán ra mà không làm giảm giá trị đồng đô la và châm ngòi cho việc lỗ vốn liếng mà lãnh đạo Trung quốc đang sợ hãi. Vì vậy, thật ra lời đề nghị của ông Zhou chỉ là một lời thỉnh cầu rằng ai đó làm ơn cứu Trung quốc khỏi các hậu quả của các sai lầm trong việc đầu tư. Điều này sẽ không xảy ra. Và việc kêu gọi một phương pháp giải quyết thần kỳ nào đó cho vấn đề Trung quốc quá thặng dư đồng đô la chứng tỏ: các lãnh đạo Trung quốc không thể nắm được sự thật rằng luật lệ cuộc chơi đã thay đổi từ căn bản. Cách đây hai năm, chúng ta sống trong một thế giới trong đó Trung quốc có thể để dành nhiều hơn họ đầu tư, và có thể tiêu thụ số thặng dư tiết kiệm đó tại Hoa kỳ. Thế giới đó nay đã không còn nữa. Đã vậy, ngay hôm sau ngày đọc diễn văn về đơn vị tiền tệ dự trữ mới, ông Zhou đọc một bài diễn văn khác trong đó ông ta dường như xác quyết rằng tỉ lệ tiết kiệm cực cao của Trung quốc sẽ không thay đổi, vì đó là kết quả của Khổng tử Luận, đặt nặng giá trị “chống hoang phí”. Trong khi đó, “đây không phải lúc” Hoa kỳ tiết kiệm hơn. Nói cách khác, chúng ta hãy tiếp tục theo đuổi đường lối hiện tại. Các điều này cũng sẽ không xảy ra. Để kết luận, Trung quốc đã không thể đối mặt với các sự thay đổi khó khăn chúng ta cần đối phó trong cuộc khủng hoảng toàn cầu. Điều tương tự như vậy cũng xảy ra với người Nhật bản, Âu châu - và chính chúng ta. Và sự thất bại trong việc đối mặt với các hiện thực mới là lý do chính mà, cho dù ló dạng vài tin tốt - cuộc hội nghị thượng đỉnh G-20 đã đem lại kết quả nhiều hơn tôi từng nghĩ sẽ đạt được - cuộc khủng hoảng lần này có thể sẽ còn kéo dài thêm nhiều năm.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:28:11 GMT -5
HÃY LÀM NGÂN HÀNG TẺ NHẠTBài Viết Của Bạn Đọc -- 10 tháng 04, 2009 -- Bản để in (bài của GS Krugman đăng trên NY Times ngày 3/4/2009 — bạn đọc Dr. Trần dịch) (xin nhắc lại đây chỉ là một bài dịch theo ý, không theo nghĩa từng chữ) ( www.nytimes.com/2009/04/10/opinion/10krugman.html?_r=1 ) Hơn ba mươi năm trước đây khi tôi còn là sinh viên cao đẳng môn kinh tế, chỉ những ai kém tham vọng nhất trong số các bạn đồng học mới theo đuổi nghề nghiệp trong ngành tài chánh. Ngay cả vào lúc đó, các ngân hàng đầu tư trả tiền lương cao hơn các công việc giảng dạy hoặc lương công chức - nhưng không cao hơn bao nhiêu và dù sao đi nữa mọi người biết rằng ngành ngân hàng quá xá tẻ nhạt. Trong các năm sau đó, đương nhiên, ngành ngân hàng trở nên hết chán chường. Mua bán tấp nập, mau lẹ như gió, và tiền lương trong ngành tài chánh nhảy vọt, thu hút những bộ óc trẻ tuổi, tốt, và thông minh nhất quốc gia (OK, tôi không mấy gì chắc về phần “tốt” trên đây). Và chúng ta được bảo đảm rằng ngành tài chánh to đùng của chúng ta là chìa khóa cho sự thịnh vượng. Thay vào đó, tuy nhiên, ngành tài chánh hóa thân thành con quái vật nuốt chửng kinh tế thế giới. Gần đây, kinh tế gia Thomas Philippon và Ariell Reshef cho lưu hành một bài nghiên cứu đã có thể có tựa đề “Sự Tăng trưởng và Sụp đổ của Ngành Ngân hàng Tẻ nhạt” (tựa đề thật ra là “Lương bổng và Nguồn vốn Nhân lực trong Ngành Tài chánh Hoa kỳ, 1909-2006″). Họ chỉ ra rằng ngành ngân hàng tại Hoa kỳ đã trải qua ba thời kỳ trong thế kỷ qua. Trước 1930, ngân hàng là một ngành có nhiều nhân vật nổi bật, họ tạo dựng nên các đế chế tài chánh khổng lồ (một số trong đó sau này hóa ra có căn bản lừa lọc). Ngành tài chánh bay bổng này quản trị một thời kỳ tăng nhanh nợ nần: nợ trong các hộ gia đình tăng gần gấp đôi, theo tỉ lệ GDP, trong thời gian từ Thế chiến I đến 1929. Trong thời kỳ đầu tiên của ngành tài chánh cao kỳ này, tính trung bình các nhà tài phiệt ngân hàng được trả cao hơn các nhà tài phiệt trong các ngành kỹ nghệ khác. Nhưng ngành tài chánh mất đi sự quyến rũ khi hệ thống ngân hàng sụp đổ trong thời kỳ Đại Khủng hoảng. Ngành ngân hàng trồi lên từ cuộc sụp đổ đó bị điều hành chặc chẽ, bớt đi vẻ thu hút màu mè như thời kỳ trước cuộc Đại Khủng hoảng, và sinh lợi ít đi cho những người trong ngành này. Ngành ngân hàng trở nên chán ngấy một phần bởi vì các nhà tài phiệt ngân hàng quá bảo thủ trong việc cho mượn tiền. Nợ các hộ gia đình, đã sụt giảm nghiêm trọng theo tỉ lệ GDP từ cuộc Đại Khủng hoảng cho đến Thế chiến II, tiếp tục thấp đi so với thời kỳ trước thập niên 1930. Lạ lùng thật, thời kỳ ngành ngân hàng bị chán ngấy này lại cũng là thời kỳ kinh tế phát triển cực thịnh cho đa số dân Hoa kỳ. Sau 1980, tuy vậy, trong khi các ngọn gió chính trị đổi chiều, nhiều quy định điều phối ngành ngân hàng được rút bỏ - và thế là ngành ngân hàng lại trở nên sôi động. Nợ nần bắt đầu tăng nhanh, cuối cùng đạt mức tương đương theo tỉ lệ GDP với thời kỳ 1929. Và thế là ngành tài chánh bùng nổ về quy mô. Trước giữa thập niên này, đầu tư tài chánh chiếm một phần ba lợi nhuận trong các công ty, tập đoàn. Trong khi các sự thay đổi này xảy ra, ngành tài chánh lại một lần nữa trở nên một nghề nghiệp lương cao bổng hậu - càng cao cực độ cho những ai xây dựng các đế chế tài chánh mới mẻ. Thật vậy, thu nhập cao vọt trong ngành tài chánh đã đóng một vai trò rộng lớn trong việc tạo dựng Thời đại Phồn vinh lần hai cho Hoa kỳ. Khỏi cần nói, các siêu sao mới nổi đều tin rằng họ xứng đáng với sự giàu có của họ, “Tôi nghĩ rằng kết quả công ty tôi đạt được, từ đó mà ra đa số tài sản giàu có của tôi, đã biện minh cho những gì tôi có được”, ông Sanford Weill nói năm 2007, một năm sau khi ông nghĩ hưu không còn làm tại Citigroup. Và nhiều kinh tế gia đồng ý. Chỉ vài người cảnh báo rằng hệ thống tài chánh quá nóng hổi này có thể có kết thúc tệ hại. Có lẽ người làm tiên tri Cassandra* nổi tiếng nhất là ông Raghuram Rajan từ Đại học Chicago, cũng là nhà cựu kinh tế trưởng của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, từng tranh luận tại một cuộc hội thảo hồi năm 2005 rằng sự phát triển nhanh chóng của ngành tài chánh đã làm tăng cường nguy cơ xảy ra một “thảm họa tan rã toàn diện”. Nhưng những người tham gia cuội hội thảo đó, kể cả ông Lawrence Summers, hiện là Chủ tịch Hội đồng Kinh tế, chế giễu các sự lo ngại của ông Rajan. Và sự tan rã đã thành sự thật. Đa số các sự thành công bề ngoài của ngành ngân hàng hiện giờ đã bị vạch trần, hóa ra đó chỉ là những ảo tưởng. (Cổ phiếu Citigroup đã mất giá trên 90% kể từ khi ông Weill ca tụng bản thân). Tệ hại hon nữa, sự sụp đổ của các lá bài tài chánh đã phá hủy phần còn lại của nền kinh tế, với mậu dịch thế giới và sản lượng công nghiệp rơi rụng còn mau hơn thời kỳ Đại Khủng hoảng. Và thảm họa đã dẫn đến các lời kêu gọi phải có thêm nhiều luật lệ điều hành ngành tài chánh. Nhưng tôi có cảm giác rằng các nhà hoạch định chính sách vẫn đang chú tâm hơn vào việc sắp xếp lại các vị trí trong biểu đồ tổ chức quản trị ngân hàng. Họ không sẵn sàng chút nào để thực hiện điều cần được thực hiện - đó là làm hệ thống ngân hàng trở nên tẻ nhạt trở lại. Một phần của vấn đề khó giải quyết là vì làm hệ thống ngân hàng bị tẻ nhạt đồng nghĩa với việc làm cho các nhà tài phiệt ngân hàng trở nên nghèo đi, và ngành tài chính vẫn còn nhiều bạn hữu trong các chức vị cao cấp. Nhưng đây cũng là một vấn đề tư tưởng: mặc kệ tất cả những gì đã xảy ra, phần đông những người trong địa vị có quyền hành vẫn còn cho rằng ngành tài chánh cầu kỳ có liên hệ đến tăng trưởng kinh tế. Họ có thể nào được thuyết phục cách khác đi hay không? Chúng ta có sẽ tìm được đủ ý chí theo đuổi một cuộc cải cách nghiêm túc ngành tài chánh? Nếu không, cuộc khủng hoảng hiện nay sẽ không chỉ xảy ra một lần, mà sẽ tạo hình cho các việc [tương tự] xảy ra sau này. —————————————— * Theo truyền thuyết Hy lạp, là con gái đẹp nhất của Priam và Hecuba, vua và hoàng hậu thành Troy. Cô được thần Apollo ban cho khả năng tiên tri vì thần nay muốn theo đuổi cô. Cô nhận món quà tặng nhưng không chấp thuận việc trai gái, thần Apollo giận dữ rút lại quyền thuyết phục trong khả năng tiên tri, cô chỉ có thể nói đúng nhưng sẽ không có ai nghe. Cuối trận đại chiến thành Troy, Cassandra thấy trước việc nguy hiểm của các con ngựa gỗ khổng lồ bề ngoài trông rất đẹp do quân Hy lạp tặng (sự tích các con ngựa thành Troy), dân thành Troy không nghe lời cô, cho các con ngựa đó vào, và quân Hy lạp trốn trong con các con ngựa đó nhảy ra mở cửa cho quân họ tràn vào chiếm thành. Trong cuộc hổn loạn, cô bị Locrian Ajax hãm hiếp và tặng vua Agamemnon làm chiến lợi phẩm. Cô trở về Hy lạp với vua Agamemnon và cảnh báo về việc vợ vua, bà Clytemnestra, đã thông đồng với gian phu Aegisthus hại nhà vua. Lời cảnh báo không được nghe theo và quả thật vua Agamemnon bị hoàng hậu Clytemnestra và gian phu Aegisthus giết chết.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:28:53 GMT -5
Các Chồi Non và Các Tia Hy vọng Yếu ỚtBài Viết Của Bạn Đọc -- 17 tháng 04, 2009 -- Bản để in (bài của GS Krugman đăng trên New York Times ngày 17/4/2009 — Do Dr. Trần dịch) (xin nhắc lại, đây chỉ dịch ý, không theo từng chữ, cụm từ) www.nytimes.com/2009/04/17/opinion/17krugman.html?_r=1Ông Ben Bernanke, Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang, nhìn thấy “các chồi non xanh tươi”. Tổng thống Obama thấy “các tia hy vọng yếu ớt”. Và thị trường chứng khoán đang tăng trưởng vô lý. Như vậy có phải đã đến lúc cho rằng mọi việc đã được giải quyết? Sau đây là bốn lý do vì sao phải nên thận trọng về triển vọng kinh tế: 1. Mọi việc đều vẫn đang trở nên tệ hại. Sản xuất công nghiệp vừa sụt đến mức thấp nhất trong 10 năm qua. Các dự án bắt đầu xây nhà vẫn còn được triển khai chậm chạp đến mức khó tin nổi. Số bất động sản bị thu hồi nay lại tăng cao, sau khi các công ty cho mượn tiền mua nhà tạm dừng việc này để chờ đợi chi tiết từ các kế hoạch cứu bất động sản của chính quyền Obama. Điều tốt nhất quý vị có thể nói, đó là có một vài dấu hiệu lẻ tẻ cho thấy mọi việc đang trở nên xấu đi một cách chậm chạp hơn - nền kinh tế không rơi rụng nhanh như trong thời gian vừa qua. Và tôi muốn nói “lẻ tẻ”: ấn phẩm Beige Book gần đây nhất, do Quỹ Dự Trữ Liên Bang [FED] xuất bản và công bố kết quả cuộc thăm dò dư luận thường kỳ về các tình trạng kinh doanh, tường trình rằng “5 trong số 12 Vùng [Thương mại toàn quốc] nhận thấy mức độ sụt giảm đã dịu lại một chút”. Ôi chao! 2. Vài tin tốt không thuyết phục cho lắm. Tin tốt nhất trong vài ngày gần đây đến từ các ngân hàng, công bố rằng họ có lợi nhuận tốt đẹp đáng ngạc nhiên. Nhưng một số trong các bản tường trình lợi nhuận đó có chút gì khá … buồn cười. Thí dụ như Wells Fargo công bố một quý có lợi nhuận cao chưa từng có của họ. Nhưng lợi nhuận được báo cáo của một ngân hàng thì không phải là một con số cứng nhắc, như về doanh số chẳng hạn, còn tùy thuộc rất nhiều vào số tiền ngân hàng để qua một bên để chi trả cho các sự lỗ lã được dự tính có thể xảy ra trong tương lai cho các món nợ cho vay này. Và một số nhà phân tích cho biết họ nghi ngờ rất nhiều về các dự tính về thất thoát, lỗ lã, cũng như lợi nhuận trong tương lai do Wells Fargo đưa ra, cũng như nhiều vấn đề hạch toán của ngân hàng này. Trong khi đó, Goldman Sachs công bố lợi nhuận nhảy vọt từ Quý 4, 2008, đến Quý 1, 2009. Nhưng như các nhà phân tích lập tức nhận ra, Goldman thay đổi định nghĩa của họ về “Quý” (vì một sự thay đổi trong tình trạng hợp pháp của họ), ngõ hầu để - tôi không nói giỡn chơi - tháng 12, cũng là tháng tệ hại cho ngân hàng này - biến mất trong sự so sánh này. Tôi không muốn đi quá đà tại đây. Có thể các ngân hàng thật sự đã đánh đu từ lỗ nặng sang lợi nhuận to lớn trong một thời gian kỷ lục. Nhưng các điều nghi ngại là tự nhiên trong thời đại Madoff hiện nay. Ồ, và đối với số người trong đợi các “bài thi chịu lực” của Bộ Ngân khố sẽ làm mọi việc rõ ràng hơn: Phát ngôn Viên Nhà Trắng, ông Robert Gibbs, nói rằng “các bạn sẽ thấy, trong một phương cách có hệ thống và phối hợp chặt chẽ, việc đánh giá và trình bày một số kết quả các “bài thi chịu lực” [mà các ngân hàng phải trải qua] sẽ được minh bạch hóa và công bố cho tất cả những ai có liên quan”. Không, tôi không hiểu đó là nghĩa gì nữa. 3. Có thể còn các đôi giày khác chưa rơi rụng. Ngay cả trong cuộc Đại Khủng hoảng, mọi việc không diễn ra thẳng thừng. Khi đó, có một khoảng thời gian ngưng sụt giảm khoảng một năm rưỡi sau khi bắt đầu cuộc khủng hoảng - khoảng chừng thời gian hiện nay của chúng ta. Nhưng tiếp theo sau đó là một dãy ngân hàng sụp đổ trên cả hai bờ Đại Tây dương, cộng vào một số chính sách vô cùng tệ hại đang khi các quốc gia cố gắng bảo vệ bản vị vàng đang giẫy chết, và kinh tế toàn cầu té xuống một vực thẳm khác. Điều này có thể xảy ra lần nữa hay không? Bất động sản trong các thương nghiệp đang vỡ vụn tại các vết nối [hợp tác kinh doanh], thua lổ trong các thẻ tín dụng đang tăng cao và cho đến lúc này không ai biết mọi việc sẽ trở nên tệ hại thế nào tại Nhật bản và Đông Âu. Chúng ta có thể sẽ không gặp thảm họa như năm 1931, nhưng còn quá xa đễ nói chắc chắn rằng thời kỳ tệ hại nhất đã qua đi. 4. Ngay cả khi mọi việc qua đi, chúng vẫn không kết thúc. Cuộc suy thoái năm 2001 chinh thức kéo dài chỉ 8 tháng, chấm dứt vao tháng 11 năm đó. Nhưng nạn thất nghiệp vẫn tăng cao một năm rưỡi sau đó. Các việc này cũng xảy ra sau kỳ suy thoái năm 1990-1991. Và có mọi lý do để tin rằng lần này cũng vậy. Đừng ai ngạc nhiên nếu nạn thất nghiệp vẫn tiếp tục tăng trong trọn năm 2010. Tại sao? Việc hồi phục “hình chữ V”, trong đó việc làm trở lại mạnh mẻ, chỉ xảy ra khi có sức cầu gia tăng mạnh mẻ. Thí dụ, năm 1982, kinh doanh nhà đất bị thiệt hại do lãi suất cao, vì vậy khi FED hạ lãi suất, số nhà bán gia tăng. Việc này sẽ không xảy ra lần này, ngày nay, nền kinh tế bị suy thoái, nói cách khác, bởi vì chúng ta có quá nhiều nợ và xây dựng quá nhiều thương xá, và không ai còn tinh thần nào để xài tiền ra thêm nữa. Các công ăn việc làm cuối cùng sẽ trở lại, luôn luôn như vậy, chỉ là sẽ không xảy ra mau chóng. Và như trên đây, tôi đã làm mọi người bị trầm cảm, vậy thì đâu là câu trả lời? Phải kiên định. LỊch sử cho thấy rằng một trong các nguy hiểm lớn về chính sách, khi phải đối mặt với nền kinh tế sa sút nặng nề, là việc lạc quan quá sớm. F.D.R. [Tổng thống Franklin D. Roosevelt] đối phó với các dấu hiệu phục hồi bằng việc cắt Works Progress Administration* xuống còn phân nửa và tăng thuế; cuộc Đại Khủng hoảng lập tức trở lại với sức mạnh toàn diện. Nhật bản chậm chạp trong mọi cố gắng vào khoảng giữa “thập niên lãng phí” của họ, tạo thêm 5 năm trì trệ. Các kinh tế gia trong chính quyền Obama hiểu rõ các điều này. Họ nói toàn các điều rất đúng về việc phải theo đuổi các việc đang thực hiện [để cứu nguy kinh tế]. Nhưng có một nguy cơ rõ ràng rằng các tuyên bố về chồi non xanh tươi và tia hy vọng sẽ tạo ra tính tự mãn nguy hiểm. Và như vậy, điều tôi muốn dặn dò đến công chúng và các nhà lập pháp: Đừng ghi nhận các sự hồi phục trước khi chúng được hình thành. GS Paul Krugman —————————— * Một chương trình quy mô nhằm tạo việc làm vào thời đó.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:29:32 GMT -5
Erin Bị Phá SảnBài Viết Của Bạn Đọc -- 28 tháng 04, 2009 -- Bản để in (bài của GS Krugman đăng trên New York Times ngày 20/4/2009 - Bạn đọc Dr. Trần Dịch) (xin nhắc lại đây chỉ dịch theo ý, không theo từng chữ hoặc cụm từ) www.nytimes.com/2009/04/20/op…gman.html?_r=1“Viễn cảnh tồi tệ nhất”, một người đối thoại hỏi tôi [trên NPR - đài phát thanh công cộng toàn quốc], “của nền kinh tế toàn thế giới là như thế nào”? Cho đến ngày hôm sau tôi mới có thể có câu trả lời đúng: Hoa kỳ có thể trở thành Ái Nhĩ Lan. Điều đó có gì là tệ hại đâu? Để xem, chính phủ Ái Nhĩ Lan nay dự đoán rằng Tổng Sản lượng Quốc gia năm nay sẽ sụt hơn 10% so với thời điểm cao nhất, qua khỏi mức độ đôi khi được dùng để phân biệt suy giảm [recession] kinh tế và suy thoái [depression]. Nhưng còn tệ hại hơn nữa: để thoả mãn các chủ nợ đang lo ngại, Ái Nhĩ Lan đang bị cưỡng ép phải tăng thuế và cắt giảm mạnh mẻ các chi tiêu chính phủ để đối mặt với một nền kinh tế tiêu điều - các chính sách lại càng làm lún sâu nền kinh tế vốn đã suy sụp. Và chính sự khép kín các chọn lựa trong chính sách như vậy mà tôi lo sợ có thể xảy ra cho phần còn lại của thế giới. Câu khẩu hiệu “Erin go bragh” [một câu nói dân gian của Ái Nhĩ Lan] thông thường có nghĩa “Ái Nhĩ Lan muôn năm”, theo truyền thống được dùng để nói lên quốc thể Ái Nhĩ Lan. Nhưng câu này cũng có thể, tôi lo ngại, được nói lên để dự đoán nền kinh tế thế giới. Làm thế nào mà Ái Nhĩ Lan bị rơi vào tình trạng bị trói chặt hiện nay? Bởi vì họ đã [điều hành nền kinh tế] giống chúng ta, chỉ là hơn như vậy. Gần giống như tục danh của họ, Ái Nhĩ Lan nhảy cẫng bằng cả hai chân vào thế giới mới, mạnh bạo, của các thị trường [tài chánh] thế giới không được quản lý. Năm ngoái, quỹ Heritage Foundation tuyên bố rằng Ái Nhĩ Lan là nền kinh tế vào hàng thứ ba tự do nhất trên thế giới, chỉ sau Hồng kông và Singapore. Chỉ một phần tự do nhất của nền kinh tế Ái Nhĩ Lan thuộc ngành ngân hàng, và ngành này dùng sự phóng khoáng [không được chính phủ quản lý chặt chẽ] họ có được để tài trợ cho một bong bóng bất động sản khổng lồ. Ái Nhĩ Lan, kết quả, đã trở nên một hình thái tương tự như vùng biển Florida nhưng có khí hậu lạnh giá và không có rắn [Florida của Hoa kỳ có rắn và khí hậu nóng]. Và rồi bong bóng bị bể tan. Sự sụp đổ trong ngành xây dựng làm nền kinh tế đi vào vòng xoáy không thể bứt phá ra được, trong khi giá nhà đất sụp đổ làm nhiều người nợ [bất động sản] nhiều hơn giá trị các bất động sản họ có trong tay. Kết quả, cũng như tại Hoa kỳ, là một làn sóng dâng trào các việc quỵt nợ, lỗ lã nặng nề cho các ngân hàng. Và như vậy, các vấn đề khó giải quyết của các ngân hàng phải chịu phần lớn trách nhiệm trong việc đặt chính phủ Ái Nhĩ Lan vào các chính sách khó xoay sở hiện nay. Vừa ngay trước cuộc khủng hoảng, Ái Nhĩ Lan dường như có hình trạng rất tốt, về tài chánh mà nói, với, một ngân sách cân bằng và một mức độ nợ thấp trong công chúng. Nhưng thu nhập chính phủ - từng tùy thuộc mạnh mẻ vào giá trị bất động sản bị thổi phồng - đã sụp đổ theo bong bóng. Quan trọng hơn nữa, chính phủ Ái Nhĩ Lan nhận ra họ còn buộc phải chịu trách nhiệm cho các sai lầm của các nhà tài phiệt ngân hàng. Tháng 9 vừa qua, Ái Nhĩ Lan làm gia tăng lòng tin cậy vào các ngân hàng của họ bằng cách bảo đảm cho các món nợ ngân hàng họ đang vay mượn - từ đó đặt người nộp thuế vào lưỡi câu cho sự lỗ lã tiềm tàng hơn gấp đôi Tổng Sản lượng Quốc gia, tương đương 30 ngàn tỉ USD tại Hoa kỳ. Tổng hợp các thâm hụt ngân sách và rủi ro tổn thất cho các món nợ ngân hàng làm người ta nghi ngờ khả năng chi trả của Ái Nhĩ Lan, được phản ảnh qua việc gia tăng chỉ số rủi ro trên các món nợ, và gia tăng các lời cảnh báo có thể bị đánh sụt điểm tín dụng từ các cơ quan cho điểm tín dụng. Từ đó mà ra các chính sách khắc nghiệt. Đầu tháng này, chính phủ Ái Nhĩ Lan đồng lúc công bố một kế hoạch mua lại các tài sản xấu từ các ngân hàng - đặt các người nộp thuế càng sâu hơn vào lưỡi câu cá - trong khi tăng thuế và giảm chi tiêu, để xoa dịu các chủ nợ. Có phải chính phủ Ái Nhĩ Lan đang đi đúng hướng? Trong khi tôi đọc cuộc tranh luận của các chuyên gia Ái Nhĩ Lan, có một sự chỉ trích lan rộng về kế hoạch [giải cứu] ngân hàng, với nhiều kinh tế gia hàng đầu của quốc gia này kêu gọi thay vào đó nên là việc quốc hữu hóa tạm thời. (Ái Nhĩ Lan đã quốc hữu hóa một ngân hàng lớn). Các cuộc tranh luận của các kinh tế gia Ái Nhĩ Lan rất giống như của một số kinh tế gia Hoa kỳ, trong đó có tôi, về việc phải làm cách nào để đối phó với các đống rác ngân hàng của chính chúng ta. Nhưng không có nhiều ý kiến bất đồng về việc cần phải có chính sách khắc nghiệt. Để chống lại tình trạng suy giảm, Ái Nhĩ Lan dường như thật ra không có sự chọn lựa, ngoài việc hy vọng hồi phục qua tăng trưởng xuất khẩu nếu và khi [nền kinh tế] phần còn lại của thế giới tăng trưởng trở lại. Như vậy, các việc này nói lên điều gì với số chúng ta không phải người Ái Nhĩ Lan? Vào lúc này, Hoa kỳ không bị trói buộc bởi các chính sách khó xoay sở như Ái Nhĩ Lan đang gặp phải, các thị trường tài chánh vẫn cho rằng nợ của chính phủ Hoa kỳ an toàn hơn bất cứ điều gì khác. Nhưng chúng ta không thể cho rằng điều này sẽ luôn luôn đúng. Kém may mắn thay, chúng ta không để dành cho một ngày khó khăn có thể xảy ra: vì giảm thuế và chiến tranh Iraq, Hoa kỳ ra khỏi thời đại “tăng trưởng kiểu Bush” với tỉ lệ nợ quốc gia trên Tổng Sản lượng Quốc gia cao hơn là khi bắt đầu thời đại này. Và nếu chúng ta đẩy tỉ lệ này lên cao thêm 30-40% - không phải là không có thể nếu chính sách kinh tế bị đưa ra sai lầm trong vài năm tới - chúng ta có thể bắt đầu phải đối mặt với các vấn đề khó giải quyết trong thị trường công khố phiếu. Không phải vạch lá tìm sâu, nhưng đây là lý do vi sao tôi lại rất quan ngại về kế hoạch [cứu trợ] ngân hàng của chính quyền Obama. Nếu, như một số chúng ta lo sợ, quỹ thuế được dùng để cung cấp lợi nhuận nhất thời cho các nhà quản lý tài chánh thay vì dùng để chỉnh sửa các điều nên được chỉnh sửa, chúng ta có thể không có tiền để quay trở lại và làm điều đúng hơn. Và bài học từ Ái Nhĩ Lan là bạn thật sự, thật sự không muốn phải đặt chính bạn vào một tình trạng nơi đó bạn buộc phải trừng phạt nền kinh tế ngõ hầu để cứu trợ các ngân hàng. GS Paul Krugman.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:30:23 GMT -5
Phục hồi Quốc hồn Quốc túy cho Hoa kỳBài Viết Của Bạn Đọc -- 28 tháng 04, 2009 -- Bản để in (bài của GS Krugman đăng trên New York Times ngày 24/4/2009 — Do bạn đọc Dr. Trần dịch) (xin nhắc lại, chỉ dịch theo ý chứ không theo từng chữ, từng cụm từ) www.nytimes.com/2009/04/24/opinion/24krugman.html?_r=1“Không lợi ích gì qua việc hao tốn thời gian và năng lượng của chúng ta để chỉ trích quá khứ”. Tổng thống Obama tuyên bố như vậy, sau quyết định đáng khen ngợi của ông nhằm giải mật các ghi chú về pháp luật mà người tiền nhiệm của ông đã dùng để biện minh cho tra tấn. Một số người quan trọng trong giới chính trị và truyền thông đã lập lại quan điểm này. Chúng ta cần nên nhìn về phía trước, không phải về phía sau, họ nói như vậy. Không truy tố, xin làm ơn, không điều tra, vì chúng ta quá bận rộn. Và thật vậy đang có những thử thách lớn lao: khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng về y tế công cộng, khủng hoảng về môi trường. Phải chăng nếu xét lại các sự lạm quyền trong tám năm qua, cho dù có tồi tệ thế nào đi nữa, là một việc làm xa xỉ chúng ta không thể kham nổi? Không, không phải vậy, bởi vì Hoa kỳ không chỉ bao gồm một tập hợp các chính sách. Chúng ta là, hoặc ít ra chúng ta từng là, một quốc gia với nhiều lý tưởng đạo đức. Trong quá khứ, chính phủ chúng ta đã thỉnh thoảng thực hiện một vài công việc không hoàn hảo để nêu cao các lý tưởng đó. Nhưng chưa bao giờ các lãnh đạo của chúng ta lại phản bội một cách vô cùng tuyệt đối mọi điều mà quốc gia chúng ta ủng hộ. “Chính phủ này không tra tấn ai hết”, cựu Tổng thống Bush tuyên bố, nhưng họ lại làm như vậy, và cả thế giới biết điều đó. Và điều duy nhất chúng ta có thể tìm lại địa bàn đạo đức của chúng ta, không chỉ vì địa vị chúng ta trên thế giới, nhưng vì lương tâm quốc gia của chính chúng ta, là phải điều tra xem việc gì đã xảy ra, và, nếu cần thiết, truy tố những ai chịu trách nhiệm. Nhưng còn các lý luận rằng điều tra các lạm quyền của chinh quyền Bush sẽ gây trở ngại cho các cố gắng giải quyết các khủng hoảng ngày nay? Cho dù đó là đúng sự thật - cho dù sự thật và công lý đến với giá cao - cũng có thể lý luận rằng đó là giá chúng ta phải trả: luật pháp không chỉ có thể có hiệu lực khi thuận tiện. Nhưng có lý do thực sự nào để tin rằng quốc gia sẽ phải trả một giá đắt cho việc giải trình trách nhiệm? Thí dụ, điều tra các tội ác thời Tổng thống Bush sẽ thật sự làm giảm thời gian và năng lượng cần thiết tại các nơi khác? Hãy nói rõ một chút: chúng ta đang nói về thời gian và năng lượng của ai đây? Tim Geithner, vị Bộ trưởng Ngân khố, sẽ không bị rút ra khỏi cố gắng của ông ta nhằm cứu vớt nền kinh tế. Peter Orszag, vị Chủ tịch Ngân sách, sẽ không bị rút ra khỏi cố gắng của ông ta nhằm cải cách y tế công cộng. Steven Chu, vị Bộ trưởng Năng lượng, sẽ không bị rút ra khỏi cố gắng của ông ta nhằm hạn chế thay đổi khí hậu. Ngay cả vị Tổng thống cũng không cần, và thật ra không nên, phải liên can đến. Tất cả điều ông ta sẽ phải làm chỉ là để cho Bộ Tư pháp làm việc của họ - là việc ông ta được trông đợi phải làm trong mọi trường hợp - và không cản đường mọi cuộc điều tra tại Quốc hội. Tôi không hiểu quý vị nghĩ sao, nhưng tôi tin rằng Hoa kỳ đủ khả năng khám phá sự thật và thi hành luật pháp ngay cả khi quốc gia này phải làm nhiều việc khác cùng lúc. Tuy vậy, quý vị có thể lý luận - và nhiều người làm như vậy - rằng xét lại các sự lạm quyền trong các năm dưới thời Tổng thống Bush sẽ bào mòn sự đồng thuận chính trị mà Tổng thống cần để theo đuổi chương trình nghị sự của ông. Nhưng câu trả lời cho lý luận đó là, đồng thuận chính trị nào đây? Vẫn còn nhiều, trời ơi, một số đáng kể những người trong đời sống chính trị của chúng ta đang đứng cùng hàng ngũ với những người tra tấn. Nhưng đây chính là những người đã không ngừng nghỉ trong nổ lực của họ nhằm ngăn chận sự cố gắng của Tổng thống Obama đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế và cũng sẽ không ngừng nghỉ trong sự chống đối của họ khi ông cố gắng đối phó với các vấn đề y tế công cộng và thay đổi khí hậu. Vị Tổng thống không thể mất thiện chí của họ, vì họ không bao giờ đưa ra một chút nào cả. Đã nói như vậy, cũng có nhiều người tại Washington không cùng phe với các người tra tấn nhưng dù vậy cũng không muốn xét lại điều gì đã xảy ra trong các năm dưới thời Tổng thống Bush. Vài người trong số họ có thể chỉ vì không muốn nhìn thấy một quang cảnh xấu xa, tôi đoán rằng vị Tổng thống, người rõ ràng thích viễn cảnh tăng tiến hơn là đối đầu, thuộc nhóm này. Nhưng các điều xấu xa đó đang hiện diện tại đây, và giả vờ như chúng không tồn tại sẽ không làm chúng thật sự tan biến đi. Nhiều người khác, tôi nghi vấn, không muốn xét lại các năm đó vì họ không muốn bị nhắc nhở về các tội của chính họ đã bỏ sót các việc này. Bởi vì sự thật là quan chức trong chính quyền Bush đã đặt để tra tấn như một chính sách, dẫn quốc gia lạc hướng vào một cuộc chiến tranh họ muốn đánh và, có thể, đã tra tấn người ta trong cố gắng thu lượm “lời thú tội” ngõ hầu để biện minh cho cuộc chiến. Và trong khi đi diễn hành đến cuộc chiến, phần đông các nhân vật quan trọng lâu năm trong chinh trị và truyền thông đã ngó đi chỗ khác. Đó là một điều khó khăn, do vậy, không chỉ trích mạnh mẻ khi thấy một số người lẽ ra đã nên lên tiếng chống lại các điều đã xảy ra, nhưng không làm như vậy, nay lại tuyên bố chúng ta nên quên lãng toàn bộ thời kỳ đó - vì quyền lợi quốc gia. Xin lỗi, nhưng điều chúng ta nên làm vì quyền lợi quốc gia là có các cuộc điều tra về cả hai mặt, tra tấn và các việc dẫn đến chiến tranh. Các cuộc điều tra đó nên, khi thích hợp, được theo sau bởi các sự truy tố - không phải vì tính không lượng thứ, nhưng vì đây là một quốc gia có luật pháp. Chúng ta cần làm việc này vì tương lai chúng ta. Do đó đây không phải nhìn về quá khứ, nhưng về tương lai phía trước - đó là để phục hồi quốc hồn quốc túy của Hoa kỳ. GS Paul Krugman
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:31:19 GMT -5
Hội Chứng Sụt LươngBài Viết Của Bạn Đọc -- 04 tháng 05, 2009 -- Bản để in (bài của GS Paul Krugman đăng trên New York Times ngày 4/5/2009, do bạn đọc Dr. Trần dịch) www.nytimes.com/2009/05/04/op…gman.html?_r=1Lương bổng đang sụt giảm trên toàn Hoa kỳ. Vài việc sụt giảm tiền lương, như tiền cung ứng cho công nhân Chrysler, là cái giá của trợ giúp liên bang. Nhiều việc khác, như sự đồng ý tạm thời về giảm lương ngay tại tòa báo New York Times, là kết quả của những thảo luận giữa ban lãnh đạo và các nhân viên trong công đoàn. Còn các việc giảm lương khác phản ảnh một sự thật trần trụi của một thị trường lao động yếu ớt: các nhân viên không dám chống đối việc giảm lương, vì họ không nghĩ rằng có thể tìm được các việc làm khác. Cho dù các chi tiết ra sao đi nữa, tuy nhiên, các sự sụt giảm lương bổng là một triệu chứng của một nền kinh tế bệnh hoạn. Và chúng là một triệu chứng làm cho nền kinh tế thêm bệnh nặng hơn nữa. Trước tiên, điều quan trọng nhất: các tin lẻ tẻ về sụt giảm lương bổng đang rao truyền đầy dẫy, nhưng hiện tượng này trải rộng đến mức nào? Câu trả lời: rất rộng. Đúng là nhiều công nhân đang vẫn được tăng lương. Nhưng có đủ sụt giảm lương bổng trong nền kinh tế đến nổi mà, theo Văn phòng Thống kê Lao động, giá trung bình thuê mướn nhân viên trong lĩnh vực tư nhân chỉ tăng 0,2% trong quý 1 năm nay - tăng thấp nhất trong kỷ lục. Bởi vì thị trường việc làm vẫn đang tệ hại đi, điều sẽ không gây ngạc nhiên chút nào sẽ là nếu lương bổng nói chung bắt đầu sụt giảm vào cuối năm nay. Nhưng tại sao đây lại là một việc tệ hại? Dù gì đi nữa, nhiều nhân viên đang chấp nhập sụt giảm lương bổng để giữ việc làm. Có gì sai quấy đâu? Câu trả lời nằm tại một trong các nghịch lý đang gây tai họa cho nền kinh tế chúng ta hiện nay. Chúng ta đang chịu đau khổ bởi nghịch lý tiêu dùng tiện tặn: để dành tiền là một đức tính tốt, nhưng khi mọi người cố gắng tăng tiền để dành trong cùng một lúc, hậu quả sẽ là một nền kinh tế đình trệ. Chúng ta đang chịu đau khổ bởi nghịch lý trả nợ cùng lúc: giảm nợ và trong sạch hóa bản tổng kê tài sản là các điều tốt, nhưng khi mọi người cùng lúc cố gắng bán tài sản và trả các món nợ, thì hậu quả là một cuộc khủng hoảng tài chánh. Và sắp tới đây chúng ta sẽ phải đối mặt với nghịch lý lương bổng: nhân viên tại một công ty nào đó có thể giúp giữ việc làm của họ bằng cách chấp nhận tiền lương thấp đi, nhưng khi các chủ nhân của toàn nền kinh tế cắt giảm lương bổng cùng lúc thì hậu quả sẽ là tăng nạn thất nghiệp. Đây là phương cách nghịch lý này hoạt động: giả dụ rằng nhân viên tại tập đoàn XYZ chấp nhận giảm lương. Điều đó tạo điều kiện cho ban lãnh đạo XYZ giảm giá thành và làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn. Hàng bán được nhiều, và nhiều nhân viên có thể giữ việc làm của họ. Và bạn có thể nghĩ rằng giảm lương bổng làm tăng số việc làm - là điều đúng tại mức độ một công ty riêng lẻ nào đó. Nhưng nếu mọi người đều chấp nhận giảm lương, thì không ai có được một lợi thế cạnh tranh nào. Vì vậy không có một lợi ích nào cho nền kinh tế từ việc giảm lương. Trong khi đó, sự sụt giảm lương bổng càng làm các vấn nạn trong nền kinh tế trở nên xấu đi trong các mặt khác. Cụ thể, sụt giảm lương bổng, từ đó sụt giảm thu nhập, làm tệ hại đi vấn nạn nợ quá cao: tiền trả nợ bất động sản hàng tháng của bạn không giảm đi cùng lúc với lương bạn thụ hưởng. Hoa kỳ đi vào cuộc khủng hoảng lần này cũng vì tỉ lệ phần trăm số nợ của các hộ dân trên tổng số thu nhập ở vào mức độ cao nhất kể từ thập niên 1930. Các gia đình đang cố gắng giảm số nợ đó bằng việc để dành nhiều hơn họ đã từng làm trong một thập niên - nhưng khi lương bổng sụt giảm, họ sẽ phải theo đuổi một mục tiêu luôn di động. Và gánh nặng nợ nần tăng cao sẽ tạo ra áp lực đè nặng lên việc chi dụng của người tiêu thụ, làm nền kinh tế bị trì trệ, đình đốn. Mọi việc càng trở nên tồi tệ nếu doanh nghiệp và người tiêu dùng trông đợi lương bổng càng sụt giảm thêm nữa trong tương lai. John Maynard Keynes nói một cách rõ ràng, hơn 70 năm trước: “Hậu quả của việc trông đợi lương bổng bị sụt giảm bởi, thí dụ, như 2% trong năm tới sẽ tương tự như hậu quả của 2% tăng cao trong số lãi suất phải trả trong cùng thời gian”. Và một sự tăng cao trong lãi suất thực là điều nền kinh tế hiện nay không muốn chút nào. Việc lo ngại về sụt giảm lương bổng không chỉ là vấn đề lý thuyết. Nhật bản - nơi lương bổng trong lĩnh vực tư nhân sụt giảm trung bình 1% hàng năm trong các năm 1997-2003 - là một bài học thực tế cho việc bằng cách nào mà sụt giảm lương bổng góp phần tạo một nền kinh tế trì trệ. Do đó, việc gì chúng ta có thể kết luận từ bằng chứng ngày một nhiều trong việc sụt giảm lương bổng tại Hoa kỳ? Chủ yếu, chỉ ổn định nền kinh tế sẽ không đủ: chúng ta cần một sự hồi phục thực sự. Đã và đang có nhiều lời nói về việc mầm non đang chổi dậy và các điều cùng ý nghĩa, và thật ra đã có các chỉ số cho thấy rằng sự sụp đổ kinh tế bắt đầu từ mùa Thu năm ngoái nay đang diễn tiến theo chiều ngang. Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia còn có thể tuyên bố rằng suy giảm kinh tế có thể chấm dứt vào cuối năm nay. Nhưng tỉ lệ thất nghiệp hầu như chắc chắn sẽ còn tăng cao. Và mọi dấu hiệu đều cho thấy một thị trường lao động vô cùng ảm đạm trong nhiều tháng nếu không là nhiều năm sau - và đây là bảng chỉ dẫn cho việc tiếp tục giảm lương, từ đó trì trệ nền kinh tế vốn đang yếu kém. Để xóa bỏ vòng xoáy hiểm ác đó, về căn bản chúng ta cần tăng thêm: tăng việc kích thích kinh tế, tăng hành động dứt khoát vào các ngân hàng, tăng tạo dựng việc làm. Ai có công phải được nêu công trạng: Tổng thống Obama và các cố vấn kinh tế của ông ta dường như đã dẫn đưa nền kinh tế ra khỏi vũng lầy sâu thẳm. Nhưng nguy cơ Hoa kỳ theo bước chân dĩ vãng của Nhật bản - rằng chúng ta sẽ đối mặt với nhiều năm thiểu phát và đình trệ - dường như đang ngày càng tăng cao.
|
|
|
Post by vietnam on May 12, 2009 1:31:23 GMT -5
Bí kíp kinh doanh Trồng bởi Khoa Trần, cắt tỉa bởi Dự Trần Giới thiệu Sinh là một người thường ôm trong lòng chí lớn, muốn một ngày lột xác thoát cảnh hàn vi, trở thành đại gia. Sinh mơ tới lúc lượn lờ dưới phố thì đi xe Ferrari, khi tung bay trên trời thì đi BD-700 Global Express Jets, lúc nghỉ ngơi thì có mỹ nhân kề cận, khi làm việc thì quyết định vận mệnh cả vạn người. Ấy thế, là người hàn vi, Sinh không biết làm thế nào để đại nguyện tựu thành. Giấc mơ vẫn chỉ là giấc mơ cho tới khi sinh có trong tay kỳ thư về làm giàu trong thiên hạ. Sinh mua được kỳ thư từ Amazon.Com, đem về đọc ngấu nghiến, những tưởng đâu sáng mai thức dậy thì thần tài sẽ gõ cửa. Nào ngờ tiền mất tật mang, lại bị đứa trẻ hàng xóm chê cười là vừa tham, vừa ngu, chẳng khác chi bọn trẻ nhóc mất tiền mua bí kíp võ lâm về đọc nhằm trở thành cao thủ giang hồ như trong phim kiếm hiệp. Chủ đề về các bí quyết kinh doanh không có gì mới nhưng luôn nhận được sự quan tâm của rất nhiều bạn trên thế giới. Điều này dễ hiểu vì hạng người như nhân vật Sinh trong phần giới thiệu không hiếm. Có khoảng hàng vạn sách về thể loại này, từ thượng vàng đến hạ cám. Trong bài viết này, tôi chủ yếu nói về loại hàng khủng (business bestsellers [1]). Hiển nhiên, đa số dân kinh doanh đã từng đọc sẽ cho rằng những quyển này là kim chỉ nan (bible). Đến cả Steve Ballmer, CEO của đại gia Microsoft, cũng thừa nhận tranh thủ đọc quyển Good to Great, viết bởi Jim Collins [2], trong giờ nghỉ giải lao khi họp bàn về vấn nạn Google. Vậy loại kỳ thư thuộc hàng khủng này có thực sự hữu ích hay không mà khiến ngay cả bọn nhà giàu như Steve Ballmer cũng ngấu nghiến đọc lấy được? Đã có hàng loạt các bài viết và sách khác được chấp bút để ném đá các sách bí kíp hàng khủng này. Dưới đây tôi sẽ nêu một số thí dụ, tập trung chính vào quyển The Halo Effect của Phil Rosenzweig [3]. Cách đây không lâu, Steven Levitt (tác giả chính của Freakonomics) có viết một bài From Good to Great… to Below Average châm biếm nhẹ nhàn Good to Great. Cụ thể, trong 11 công ty được Jim tặng huân chương trong quyển này vì có tốc độ tăng trưởng chóng mặt trong vòng 15 năm liên tiếp thì đa số làm ăn loàng xoàng kể từ khi quyển sách ra đời vào năm 2001. Cụ thể hơn, nếu năm 2001 bạn đầu tư vào một trong hai hoặc cả hai trong số những công ty trên là Fannie Mae và Circuit City thì bây giờ bạn đã lỗ hơn 80%. Có lẽ Jim Collins đã sai lầm khi viết rằng các công ty good-to-great được dẫn dắt bởi level-5 leaders, những người không chỉ lãnh đạo giỏi mà còn có thể xây dựng một công ty trường tồn (built to last) ngay cả sau khi ra đi. Bây giờ nhìn lại thì bọn lãnh đạo của Fannie Mae được nhiều báo chí nói đến như một lũ sâu mọt. Như Steven Levitt nói, bạn cuối cùng vẫn chỉ có thể nhìn lại quá khứ và nói nhăng cuội về các công ty đã thành công. Nhưng đấy lại không phải là lý do mà nhiều bạn mua sách của Jim Collins hoặc các sách dạy làm giàu khác. Có một câu ngạn ngữ khá phổ biến: mọi sự dự đoán đều rất khó, nhất là khi dự đoán về tương lai. Chính vì lẽ này mà các kinh tế gia thỉnh thoảng bị chỉ trích chẳng làm gì được cho đời vì họ hầu hết chẳng dám dự đoán về cái quái gì cả. Fannie Mae với Circuit City không phải là lý do tốt để nhận xét về Good to Great, vì nếu thế thì Steven Levitt cũng chỉ là Jim Collins 2.0 beta. Đã có nhiều học giả ném đá Jim Collins ở tầm rộng và sâu hơn, trong đó có Phil Rosenzweig. Do đó tôi xin giới thiệu và bình luận quyển The Halo Effect and Eight Other Delusions that Deceive Managers của ông này. Như một luật bất thành văn, đến một lúc nào đó cũng sẽ có một số công ty nào đó làm phật lòng một tác giả nào đó và rồi sẽ lại có một tác phẩm kinh điển khác ra đời, sành điệu hơn và đọc cũng có lý hơn. The Halo Effect (THE) giúp đọc giả suy nghĩ thấu đáo hơn về 9 ảo tưởng (delusions) thường thấy trong những quyển sách như vậy. Như Freakonomics, Fooled by Randomness, hay Black Swan [4], THE cũng là một bestseller và tác giả cũng rất thích trò ném đá. The Halo Effect phê phán các lỗi ngụy biện (logical fallacies) và ảo tưởng (delusions) mà những nhà quản lý cũng như nhiều tác giả nổi tiếng thường mắc phải. Phil cho rằng các sách kinh điển gần đây tuy phô trương về mức độ nghiên cứu để gây ấn tượng với đọc giả nhưng thực ra chỉ là giả khoa học (pseudoscience) và vẫn chỉ dừng ở mức giỏi kể chuyện (story telling). Không có gì ngạc nhiên khi Nassim Taleb, tác giả của cả 2 quyển Fooled by Randomness và Black Swan, dành những lời có cánh cho The Halo Effect! Ảo tưởng nổi cộm nhất, được trình bày xuyên suốt quyển sách, là hiệu ứng hào quang (halo effect). Một ví dụ điển hình của hiệu ứng hào quang được nói đến là các sách dạy làm giàu thường cho rằng khả năng lãnh đạo của tổng giám đốc, định hướng thị trường (market orientation), sự hài lòng của nhân viên (employee satisfaction),… là những yếu tố mấu chốt dẫn đến sự thành công (performance) của một công ty. Nghe cũng hợp lý thật. Tuy nhiên, làm thế nào để đánh giá (measure) khả năng lãnh đạo của một giám đốc hay định hướng của một công ty có tốt hay không? Hầu hết, kể các nhân viên trong công ty được hỏi, sẽ đánh giá các chỉ số này dựa trên chính performance của công ty này. Đấy gọi là hiệu ứng halo - hào quang của công ty khiến người ta nhìn vào và tán thán hệ thống quản lý của công ty đó. Do đó, theo ngôn ngữ của Phil, thành công của một công ty chỉ giúp định nghĩa khái niệm lãnh đạo giỏi chứ không hẳn là hệ quả của yếu tố này. Tuy nhiên, Phil cho rằng đây là một lỗi rất thường gặp trong các sách kinh doanh. Các sách này thường viết về các tố chất làm nên một công ty vĩ đại; và cách họ nghiên cứu là hỏi hàng loạt công ty những câu kiểu như “anh cho giám giám bao nhiêu điểm về sự thân thiện đối với nhân viên?”, “nếu được chọn lại, chị sẽ chú trọng vào mặt hàng gì?” Những nghiên cứu như thế này, cho dù quy mô đến cỡ nào (phỏng vấn 1 triệu doanh nghiệp, đọc 1 tỷ báo cáo, 30 người làm việc ngày đêm trong 5 năm) theo Phil đều vô dụng vì chất lượng dữ liệu thấp (low-quality data), cụ thể dữ liệu bị lỗi halo. Một lỗi thường gặp khác là sự nhầm nhọt giữa mối quan hệ tương quan (correlation) và mối quan hệ nhân quả (causality). Một ví dụ thú vị trong kinh doanh là hiện tượng rất nhiều đại gia làm trong ngành công nghệ cao thất học: Bill Gates (Microsoft), Steve Jobs (Apple), Michael Dell (Dell), Larry Ellison (Oracle) đều chưa tốt nghiệp đại học còn 2 ông chủ của Google thì cũng bỏ học tiến sĩ. Đây thực chất là mối quan hệ tương quan, chứ không phải quan hệ nhân quả - tức là không phải thất học sẽ đem lại thành công. Vì thế nếu bạn có ý định bỏ học vì sẽ dễ trở thành đại gia công nghệ cao thì hãy dè chừng. Trong các sách phổ biến mà Phil bêu đầu, các tác giả đều mắc phải lỗi này khi so sánh các công ty với nhau, tìm các đặc điểm giống và khác nhau rồi đưa ra kết luận về các yếu tố tạo nên thành công (chẳng hạn dám bỏ học). Quay lại trường hợp Good to Great, nếu Apple tiếp tục đà tăng trưởng như hiện nay thì vài năm nữa Jim Collins chắc phải thay đổi khái niệm “level-5 leadership” vì Steve Jobs là một kẻ độc đoán chứ không hề có phong cách lãnh đạo giống như 11 giám đốc được khen thưởng trong Good to Great. Phil còn đề cập đến 7 ảo tưởng khác mà các bạn có thể tìm hiểu thêm qua quyển The Halo Effect. Như tôi đã nói, một lý do chính khiến sách của Phil nổi tiếng là vì Phil ném đá các bạn viết khác rất kinh, không chỉ ném đá về cách lý luận, nghiên cứu mà còn ném đá cả về giá trị (added value) các quyển sách của họ mang lại. Theo Phil, chúng thường được viết rất hay nhưng thực ra không có gì đột phá và ai cũng biết [5]. Phil viết “Most popular books return again and again to the same fundamentals. From Tom Peters through Jim Collins, the same themes are sounded: companies do well when managers live by deeply held values, pursue a clear vision, care about their employees, focus on their customers, and strive for excellence.” Ấy là theo Phil, còn theo tôi thì nhắc đi nhắc lại những nguyên tắc cơ bản không phải ai cũng thực hiện được bằng lối kể chuyện hấp dẫn thì cũng có giá trị nhất định nào đó. Chí ít nó cũng tạo thêm được một chút hưng phấn cho bạn đọc trong chốc lát. Một điểm tai hại nữa của các quyển sách dạy kinh doanh nổi tiếng là các tác giả cho rằng nếu bạn tuân thủ các nguyên tắc vàng nêu trên thì bạn nhất định sẽ là người lãnh đạo/quản lý giỏi và theo ngôn ngữ trong quyển The Halo Effect, nghĩa là công ty của bạn sẽ thành công về mặt tài chính. Phil nghiên cứu và đưa ra ví dụ về KMart những năm 1990s. Các nhà quản lý KMart cũng có các phẩm chất tốt và thực tế doanh thu của KMart có tăng mạnh những năm này. Tuy nhiên, doanh thu và lợi nhuận của một đối thủ khác là Walmart lại tăng gấp 10 lần như vậy và cuối cùng KMart cũng phải chết yểu. Tương tự, sẽ rất tai hại nếu suy nghĩ rằng nếu một công ty chưa bao giờ trở nên vĩ đại thì các nhà quản lý của họ còn kém và đáng được thay thế. Nói đến đây, tôi lại liên hệ đến một lỗi logic mà chúng ta hay gặp, đó là hiệu ứng “thấy chưa” (confirmation bias). Confirmation bias có thể hiểu sơ sài qua ví dụ sau: ông Dự đặt cược 2 tạ thóc rằng Barack Obama sẽ thắng cử tổng thống Mỹ và nếu tay này thắng thật, hắn sẽ la lên “thấy chưa” như thể hắn có khả năng dự đoán (trong trường hợp ngược lại Paris Hilton thắng, ông Khoa sẽ là người la lên “thấy chưa”). Bác Hưng đã viết khá chi tiết về Confirmation Bias trong bài Black Swan nên tôi sẽ không nói thêm về lỗi này. [6] Nhìn chung, cách trình bày của Phil tương đối rối rắm nhưng The Halo Effect có nhiều luận điểm thú vị. Tôi không cho rằng THE là sách phải đọc của các bạn mong muốn làm nhà quản lý trong tương lai. Tuy nhiên, nếu bạn nào đã từng gối đầu giường một sách dạy các bí quyết kinh doanh hoặc quản lý nào đó thì cũng nên đọc thêm THE… để tham khảo. Chú thích [1] Bạn có thể tham khảo thêm danh sách 25 sách kinh doanh kinh điển nhất qua mọi thời đại được soạn bởi Business Putdit cách đây không lâu. [2] Jim Collins cũng là đồng tác giả của một quyển *kinh điển* trước đó là Built to Last. [3] Chú ý: nếu bạn là dân nghiện game, sách này không phải viết về game Halo bạn vẫn hay chơi trên XBox! [4] Bác Ngô Quang Hưng đã có bài review thú vị về quyển Black Swan. [5] Tôi có một niềm tin thế này: khi đọc sách, nếu bạn gật gù với các ý tưởng trình bày trong quyển sách đó thì bạn chỉ đọc lại hoặc cần thêm niềm tin cho những gì bạn biết; còn khi bạn thốt lên “aha” thì lúc đấy bạn mới thật sự học được một cái mới và cũng đồng thời thú vị. [6] Có một ảo tưởng cũng phổ biến trong giới đầu tư mà The Halo Effect không đề cập đến là hiệu ứng chuyên gia (Self-Fulfilling Prophecy) mà tôi đã từng viết sơ qua trong bài “Tại sao các chuyên gia được gọi là chuyên gia“. Tôi chợt nhớ đến Self-fulfilling Prophecy bởi vì mới cách đây vài ngày, tôi có nói chuyện với một anh bạn khá nổi tiếng và có tài nhưng lúc nào cũng lo lắng về vấn đề kiếm bạn gái và lấy vợ . Có lẽ các bạn gái quen với anh ta cũng thấy được sự bồn chồn này. Anh ta tâm sự với tôi rằng “thầy bói bảo rằng số anh ế vợ nên anh lo lắm”. Anh bạn này rất thích nghiên cứu Tử Vi vì “anh thấy Tử Vi nói rất đúng”. Còn tôi thì cũng đã hiểu tại sao Tử Vi lại đúng.
|
|
|
Post by vietnam on May 12, 2009 1:39:52 GMT -5
Bóc lột Giang Lê -- 27 tháng 12, 2008
Cách đây hơn mười năm, một thầy giáo của tôi nói rằng chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến một mức rất tinh vi. Nếu trước kia các chủ đồn điền phải dùng gậy ba-tong để bóc lột công nhân bản xứ, bây giờ việc bóc lột diễn ra ở tầm mức quốc gia. Ông lấy ví dụ thời những năm 70-80 Nhật đã mua rất nhiều tài sản ở Mỹ, kể cả trái phiếu chính phủ vì Nhật có thặng dư mậu dịch lớn với Mỹ giống như Trung Quốc bây giờ. Thế rồi năm 1985 Mỹ đã buộc Nhật phải ký vào Plaza Accord để đồng Yen lên giá hơn 50% so với đồng USD trong hai năm sau đó. Điều này tương đương với tất cả các khoản đầu tư trước đây của Nhật vào Mỹ bị mất giá hơn một nửa, cũng có nghĩa là Mỹ đã “bóc lột” Nhật một cách trắng trợn bằng cách “quịt” 50% số nợ với Nhật.
Hơn 20 năm sau, Trung Quốc đã thế chân Nhật trở thành “chủ nợ” lớn nhất của Mỹ. Có điều những nỗ lực của Mỹ trong suốt giai đoạn 2000-2006 không làm Trung Quốc nhượng bộ và đồng yuan chỉ được thả lỏng một phần và cho lên giá từ từ so với USD trong 2 năm gần đây. Điều đáng nói là dù đồng yuan đã bắt đầu lên giá, thặng dư mậu dịch của Trung Quốc với Mỹ vẫn tiếp tục gia tăng và những số liệu gần đây cho thấy gần như toàn bộ thâm hụt ngân sách của Mỹ đều được tài trợ từ nguồn này. Hiện tại dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã gần đạt 2 ngàn tỷ USD. Thử tưởng tượng nếu Mỹ thành công trong việc làm USD mất giá khoảng 50% so với đồng yuan như đã làm với Nhật năm 1985, số tiền Trung Quốc bị “quịt” sẽ tương đương với 10 năm GDP hiện tại của Việt nam.
Vậy tại sao Trung Quốc không chuyển dự trữ ngoại tệ của mình sang các đồng tiền khác hay vàng? Hay đơn giản hơn là ngừng không tăng dự trữ ngoại tệ nữa vì đã quá đủ để đảm bảo an toàn cho cán cân thanh toán? Vấn đề là bản thân Trung Quốc muốn giữ tỷ giá của đồng yuan với đồng USD cố định vì Mỹ là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất. Theo cách nói của một số nhà kinh tế thì Trung Quốc đã “hối lộ” cho dân Mỹ thông qua chính sách tỷ giá để họ tiếp tục mua hàng của Trung Quốc. Cái lợi mà Trung Quốc được trong ván bài kinh tế này không phải là 2 ngàn tỷ USD dự trữ ngoại tệ mà Trung Quốc biết sẽ mất một phần trong tương lai. Mục tiêu của Trung Quốc chính là tăng trưởng kinh tế thông qua con đường xuất khẩu, đây là điều cần thiết để Trung Quốc giữ xã hội ổn định và là phương tiện để đạt được các mục tiêu chính trị khác. Có nghĩa là Trung Quốc chấp nhận sẽ bị quịt nợ trong tương lai, hay nói cách khác sẵn sàng để Mỹ “bóc lột”.
Không chỉ bị “bóc lột” vì khoản cho vay của mình sẽ mất giá khi đồng yuan lên giá, người dân Trung Quốc hiện tại đang bị bóc lột trên một khía cạnh khác. Họ buộc phải giảm tiêu dùng và tăng tiết kiệm cá nhân vì chính sách quản lý vĩ mô méo mó của chính phủ Trung Quốc. Mỗi đô la thêm vào dự trữ ngoại tệ quốc gia đều có đóng góp của những công nhân Trung Quốc làm việc trong các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Đây có thể coi là một loại thuế trá hình đánh lên thu nhập của những người công nhân này và lên cả lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó, mọi người dân Trung Quốc đều phải giảm tiêu dùng các loại hàng hóa nhập khẩu vì chính sách tỷ giá thấp của chính phủ. Họ đang bị “bóc lột” gián tiếp thông qua dự trữ ngoại tệ mà có lẽ nhiều người không biết và không đồng ý.
Năm 1985, Reagan và Volcker đã ép buộc thành công Nhật chấp nhận đồng Yen lên giá để giải quyết vấn đề thâm hụt mậu dịch của Mỹ và nguy cơ khủng hoảng tài chính. Bush và Greenspan đã không làm được như vậy với Trung Quốc, để rồi cuộc khủng hoảng hiện tại nổ ra. Tất nhiên người Mỹ phải chịu hậu quả đầu tiên, nhưng không ai tiên liệu được cuộc khủng hoảng này sẽ dừng lại ở đâu. Nếu khoảng tháng 9-10/2008 “mắt bão” cuộc khủng hoảng nằm ở Mỹ thì hiện tại có vẻ nó đã chuyển sang các nước Đông Âu, và nhiều người dự báo nó sẽ đi dần sang phía Đông. Có thể Trung Quốc sẽ trắng tay trong ván bài kinh tế-chính trị vẫn “chơi” lâu nay. Ngược lại nếu Trung Quốc khéo léo và may mắn, họ sẽ xoay chuyển được global geopolitical landscape theo một hướng mới có lợi hơn cho mình. Đó có lẽ là bản chất dân tộc Trung Quốc, sẵn sằng nhin ăn nhịn mặc, bị bóc lột và khinh rẻ trong thời gian dài để vùng lên đúng lúc. Có điều chiến lược này rất rủi ro và người lãnh đạo phải sẵn sàng hi sinh lợi ích của cả dân tộc trong một (vài) thế hệ để có được cơ hội “thắng làm vua”.
Đáng tiếc là, dù bất cứ trường hợp nào xảy ra với Trung Quốc, kinh tế Việt nam cũng sẽ gặp nhiều sóng gió trong năm 2009.
Giang Lê
|
|
|
Post by vietnam on May 13, 2009 9:26:28 GMT -5
Thị trường chứng khoán và bàn tay hữu hình Nguyễn An Nguyên -- 06 tháng 03, 2008 --Thất bại của “giải pháp cung cầu” VNindex từ đỉnh cao 1100 điểm đổ sụp xuống chỉ còn xung quanh 600 điểm sau bốn tháng ngắn ngủi kể từ 11/2007. Trong bốn tháng ấy, đã có sức ép ghê gớm từ nhiều bên có lợi ích liên quan đòi hỏi chính phủ phải can thiệp “cứu” TTCK, bằng cách “giảm cung” (thông qua việc hoãn tiến độ IPO các doanh nghiệp nhà nước), và mới đây là “tăng cầu” (thông qua việc cho Tổng công ty Quản lí vốn Nhà nước SCIC mua lại cổ phiếu trên thị trường). Những sức ép này đang thắng thế (IPO của nhiều doanh nghiệp lớn đã bị trì hoãn), và mới đây Thủ tướng đã ra Quyết định 319/TTg mở đường cho SCIC mua cổ phiếu để “kích cầu”. Cái gọi là “giải pháp hạn chế cung” dù đã áp dụng vẫn không ngăn được VNindex sụp đổ, đơn giản là vì quy luật cung cầu không tồn tại trong TTCK (xem bài “Cung cầu chứng khoán: một quan niệm sai lầm”). TTCK chỉ có một quy luật vận hành là cân bằng “lợi nhuận kì vọng”: Khi lợi nhuận kì vọng của cổ phiếu giảm so với trước hoặc so với các hình thức đầu tư khác (mua vàng, đầu cơ bất động sản, gửi tiết kiệm) thì giá của từng cổ phiếu giảm và ngược lại. Giá của mỗi cổ phiếu chỉ được quy định bởi chênh lệch giữa mức sinh lợi của doanh nghiệp đó với mức sinh lợi của hình thức đầu tư khác có mức sinh lợi cao nhất. Vì thế, nếu không bị hạn chế về thanh khoản, thì việc hoãn lên sàn các doanh nghiệp mới như đề nghị của trường phái “cung cầu chứng khoán” không thể tác động đến giá cổ phiếu của các doanh nghiệp hiện tại. Sụp đổ hợp lý Gần đây, một số nhà đầu tư (chẳng hạn, ngân hàng HSBC) cho rằng giá cổ phiếu đã ở mức hợp lý so với các nước cùng trình độ (P/E trên toàn thị trường là 13). Nhưng việc so sánh P/E của VN với các nước chỉ có ý nghĩa khi lãi suất ổn định ở mức thấp và không có khủng hoảng. Đồ thị dưới cho thấy tỉ lệ P/E trên thị trường Mỹ giảm rất mạnh trong các cuộc khủng hoảng. Hiện tại, có nhiều yếu tố khiến nhà đầu tư tin rằng lợi nhuận kì vọng của chứng khoán sẽ giảm xuống trong 2008. Đầu tiên, lãi suất ngân hàng vừa qua tăng rất nhanh làm cho hình thức đầu tư cổ phiếu giảm nhanh sự hấp dẫn tương đối so với gửi tiền tiết kiệm. Hai là, lạm phát dự kiến tăng cao và có khả năng đẩy nền kinh tế vào tình trạng suy thoái sẽ ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp trên sàn (giá vốn tăng do lãi suất tăng, giá đầu vào tăng do giá nguyên/nhiên liệu tăng, giá trị thực của lợi nhuận giảm vì lạm phát, sức mua của người tiêu dùng giảm do thu nhập giảm v.v.). Ba là, nhiều doanh nghiệp trên sàn sau khi thu hút được số vốn khổng lồ từ TTCK đã đầu tư tràn lan vào bất động sản. Một khi thị trường nhà đất đóng băng (hệ quả của thu hẹp tín dụng) thì giá trị của các doanh nghiệp đó cũng tụt giảm. Nếu Vnindex sụt giảm vì ba nguyên nhân trên, thì đó là cân bằng tất yếu của thị trường để phản ánh giá trị thực của các doanh nghiệp trên sàn, và việc cưỡng lại sự xuống dốc sẽ vô cùng tốn kém và không hiệu quả. Thanh khoản và TTCK Người viết bài này cho rằng, hiện tại, nếu VNindex xuống thấp hơn giá trị thực, thì chỉ có một nguyên nhân là: sự thiếu hụt thanh khoản cho các nhà đầu tư đã ngăn cản TTCK điều chỉnh về mức cân bằng. Từ cuối 2007, chủ trương của NHNN siết tỉ lệ cho vay chứng khoán đã chặn đứng, thậm chí đảo chiều, dòng vốn đang đổ vào TTCK, (vì đa số các ngân hàng thương mại đã cho vay quá tỉ lệ). Tình trạng thiếu tiền mặt)của nhiều ngân hàng đầu năm 2008 đã khiến việc cho vay mới bị chững lại và lãi suất tăng vọt. Cộng thêm việc tỉ giá bị neo chặt, các ngân hàng không thể đổi USD cho các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là đa số các nhà đầu tư đều thiếu thanh khoản, người đang nắm thì muốn bán để có tiền mặt, người mua thì lại không có tiền mặt để mua, khiến giá chứng khoán giảm mạnh. Điều này tương tự như kết luận của nhà kinh tế trọng tiền Milton Friedman rút ra từ cuộc Đại khủng hoảng 29-33 ở Mỹ: việc thắt chặt tiền tệ quá nhanh sẽ làm sụp đổ TTCK và gây ra khủng hoảng kinh tế. Bàn tay hữu hình SCIC có lợi và hại gì? Trong các nền kinh tế phát triển, rất ít khi chính quyền can thiệp trực tiếp vào TTCK bằng cách mua cổ phiếu của doanh nghiệp trên sàn, trừ trường hợp nó có khả năng gây ra sụp đổ hệ thống tài chính-ngân hàng (như trường hợp Anh quốc hữu hoá ngân hàng Northern Rock). Việc SCIC mua cổ phiếu trên TTCK có thể giải quyết vấn đề tâm lý ngắn hạn cho một số nhà đầu tư. Nhưng nó sẽ không thể có ảnh hưởng tích cực lâu dài hay căn bản lên TTCK: Nó không hề tác động đến cái động cơ vận hành của TTCK là lợi nhuận kì vọng, bởi vì nó không làm thay đổi kì vọng về các kênh đầu tư khác như gửi tiết kiệm, mua vàng (là kết quả của chính sách tiền tệ). Nó cũng không hề thay đổi nguồn vốn hay khả năng sinh lợi của các doanh nghiệp trên sàn (vì chỉ tác động đến thị trường thứ cấp). Cuối cùng, nó cũng không giải quyết được vấn đề thanh khoản của nhà đầu tư. Lợi ích thì không rõ ràng, nhưng những hệ luỵ của việc Chính phủ can thiệp trực tiếp vào TTCK là nghiêm trọng và lâu dài: Một là, việc nhà nước can thiệp vào TTCK sẽ bóp méo tín hiệu của thị trường vốn. SCIC sẽ dùng tiêu chí nào để xác định là chứng khoán đang ở dưới giá trị thực, trong khi giá thị trường chính là cái đáng lẽ phải phản ánh giá trị thực của chứng khoán? Làm sao một doanh nghiệp không có động cơ tối đa hoá lợi nhuận (thua về cả khả năng tính toán so với hàng triệu nhà đầu tư cả tổ chức và cá nhân, lẫn tính năng động tìm kiếm cơ hội) có thể thông minh hơn thị trường về giá trị thực của nó? Với sự tham gia của các quan chức cao cấp của Chính phủ (gồm cả bộ trưởng Bộ Tài chính, thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư và thứ trưởng Bộ Công thương) vào Hội đồng Quản trị của SCIC, trong trường hợp doanh nghiệp quốc doanh này gặp bê bối về mua bán cổ phiếu, uy tín của chính phủ sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hai là, nếu diễn biến xấu trên TTCK kéo dài, việc mua cổ phiếu của SCIC có thể dẫn đến bội chi ngân sách và trầm trọng thêm vấn đề lạm phát. Lí do là để “cứu” khẩn cấp TTCK, thì SCIC phải bơm vào một lượng tiền rất lớn trong thời gian rất ngắn. Tổng giá trị thị trường (market capitalization) vào cuối 2007 đã lên tới khoảng 500 nghìn tỉ đồng (tuy đã mất đi khoảng một phần ba trong hai tháng qua). Tuy phản ứng ban đầu của TTCK trước cam kết “bảo kê” của SCIC là khá tích cực, kì vọng này sẽ còn thay đổi. Liệu SCIC có đủ tiền và có nên bỏ ra hàng chục nghìn tỉ đồng trong vài ngày hay vài tuần để “cứu” thị trường trong lúc chính Bộ Tài chính cũng đang thiếu tiền mặt để chi tiêu? SCIC hay Bộ Tài chính sẽ lấy tiền mặt với số lượng như thế ở đâu mà không làm khủng hoảng thanh khoản thêm trầm trọng, hay in thêm tiền để làm tăng lạm phát? Ba là, dù có bịt được việc “xả hàng” của một số tổ chức đầu tư, thì việc SCIC giành lại quyền sở hữu một khối lượng lớn cổ phiếu sẽ đảo ngược quá trình cổ phần hoá (giao vốn vào khu vực tư năng động hơn). Việc này đồng thời làm chậm lại quá trình IPO vốn đã nhỏ giọt: SCIC sở hữu càng nhiều thì nó càng muốn tiến trình cổ phần hoá chậm lại để không làm “lụt” thị trường (đúng hơn là cạn kiệt thanh khoản). Việc SCIC có quyền quá rộng trong việc mua cổ phiếu cũng tạo ra một khoảng trống cho sự thiên vị của SCIC với một số công ty nhất định. Nguy cơ này càng lớn khi SCIC được phép giữ bí mật về danh mục các cổ phiếu được mua, số lượng tiền bỏ ra để mua, thời gian mua v.v. Từ đây, giá cổ phiếu thay vì phản ánh khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, lại phản ánh doanh nghiệp nào được chính quyền “ưu ái” bảo kê (bail out) mỗi khi gặp khó khăn. (Điều này đã từng xảy ra với các doanh nghiệp cánh hẩu của nhà độc tài Suharto trên thị trường chứng khoán của Indonesia). Các doanh nghiệp được “bảo kê” sẽ càng tự do hơn trong các khoản đầu tư của mình, vì biết “tội vạ đâu đã có SCIC gánh đỡ”. Năm là, việc can thiệp vào TTCK sẽ khiến các nhà đầu tư trong và ngoài nước về quan niệm thị trường của Chính phủ. Nếu như TTCK, nơi thông tin đầy đủ nhất, người mua bán hiểu biết và linh hoạt nhất mà còn cần điều khiển, thì tất cả các thị trường khác đều cần có sự can thiệp vào giá của nhà nước! Hành động mà các nước phát triển coi như một cấm kị này có thể được diễn giải là một bằng chứng rằng Việt Nam chưa phải là một nền kinh tế thị trường. Và điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng bất lợi cho Việt Nam trong các vụ kiện bán phá giá, vốn đang là rào chắn ghê gớm cho việc thâm nhập các thị trường phát triển. Cuối cùng, việc SCIC -được Chính phủ tài trợ vốn- mua cổ phiếu để “cứu” thị trường, thực chất là dùng tiền đóng thuế của dân để “bảo hiểm rủi ro” cho một nhóm nhỏ nhà đầu tư giàu có, chủ yếu là các quỹ đầu tư nước ngoài và các “đại gia” trong nước. Điều này nếu kéo dài có thể gây nên mối bất bình về tính chất bình đẳng trong chính sách kinh tế của Chính phủ. Kết luận: VNindex tụt xuống mức 600 điểm là một cuộc sụp đổ (crash) của TTCK, nhưng mức sụt giảm là tự nhiên và đúng quy luật, trong tình trạng lạm phát tăng và lãi suất tăng. Muốn VNindex tăng, thì cách lâu dài và căn bản nhất là ngăn chặn lạm phát, xì hơi bong bóng nhà đất và hạ nhiệt nền kinh tế từ từ. Việc SCIC can thiệp vào TTCK ít khả thi, có thể phải trả giá đắt về chính sách vĩ mô, trong khi lợi ích của nó nếu có chỉ là ngắn hạn. Nếu có lí do để tin rằng VNindex thấp hơn giá trị thực, thì việc nhà nước nên làm trong ngắn hạn chỉ là giải quyết bài toán thanh khoản. Phụ lục: Cung-cầu chứng khoán: một quan niệm sai lầm Dường như có một sai lầm cơ bản nhưng phổ biến của nhiều nhà đầu tư VN và cả của nhà quản lý (cụ thể là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước) là áp dụng “quy luật” cung cầu cho TTCK. Khái niệm “cầu” của hàng hoá thông thường được xây dựng dựa trên ích lợi mà chúng mang lại cho người tiêu dùng: Đứng trước một chiếc xe máy, mỗi người sẽ tính xem mình đỡ được bao nhiêu thời gian và sức lực dành cho việc đi lại. Nhu cầu tiêu dùng xe máy của mỗi người là tự thân và ổn định, mặc dù ích lợi thu được với từng người là khác nhau. Mỗi người sẽ chỉ mua xe máy nếu phần tiết kiệm thời gian và sức lực lớn hơn số tiền mà anh ta phải bỏ ra. Với mỗi mức giá, sẽ có một số người thấy đáng mua và một số người không. Giá càng rẻ thì càng nhiều người thấy đáng mua. Khi xe máy đi nhanh hơn, tiện lợi hơn thì nhiều người muốn mua hơn (cầu tăng). Ngược lại, người mua và bán chứng khoán không có ích lợi tự thân nào từ “tiêu dùng” cổ phiếu (vì thế, “cầu” cổ phiếu theo đúng nghĩa là bằng không). Lý thuyết cung cầu không áp dụng được cho chứng khoán. Thay vì cung cầu, lợi nhuận kì vọng chính là quy luật vận hành của TTCK. Nhà đầu tư cổ phiếu chỉ có một quan tâm duy nhất, là làm sao số tiền thu về từ cổ phiếu (cổ tức và giá bán lại) lớn hơn số tiền mua. Mỗi người chỉ mua cổ phiếu khi tin rằng giá hiện tại của nó nhỏ hơn thu nhập kì vọng (giá cổ phiếu cộng với cổ tức) (tức là giá cổ phiếu đang “rẻ”), và bán ra trong trường hợp ngược lại. Vì kì vọng của mỗi người lại khác nhau, nên họ mua bán với nhau trên TTCK. Khi số người tin rằng cổ phiếu đang “đắt” nhiều hơn số người cho rằng cổ phiếu đang “rẻ” thì giá cổ phiếu đi xuống, và ngược lại. Nếu không bị giới hạn về thanh khoản, việc có thêm nhiều cổ phiếu của các doanh nghiệp mới trên TTCK sẽ không thể ảnh hưởng đến giá trị của các cổ phiếu của các doanh nghiệp khác, bởi vì mỗi loại cổ phiếu đều có thu nhập kì vọng riêng của nó, không liên quan nhiều đến các cổ phiếu của doanh nghiệp khác.
|
|