|
Post by Admin on Apr 24, 2009 10:59:10 GMT -5
Vai Trò của Tỏi với Sức Khỏe B.S. Nguyễn Ý Ðức 21/03/2009 Tháng Chạp năm 1998, một cuộc hội thảo kéo dài hai ngày rưỡi đã được tổ chức tại New Port Beach, California, để thảo luận và trình bày kết quả nghiên cứu về công dụng củaTỏi. Hội thảo được Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ và Đại Học Pennsylvania bảo trợ, với sự tham dự của trên hai trăm khoa học gia, chuyên viên y tế, dinh dưỡng đến từ 12 quốc gia trên thế giới. Kết luận của hội thảo là các cuộc nghiên cứu trong nhiều năm qua đã xác định một số ích lợi của Tỏi đối với sức khỏe con người. Kinh nghiệm dân gian dùng Tỏi chữa bệnh. Chữ viết đầu tiên của dân Sanskrit cách đây 5000 năm đã nhắc đến TỎI nhiều lần. Trong mộ cổ Ai Cập 6000 năm về trước có những củ tỏi khô nằm ướp cùng với bộ xương. Sách Y học Ai Cập trên 3000 năm về trước có ghi hai mươi bài thuốc tỏi để trị một số bệnh như đau bụng, đau nhức khớp xương, nhiễm độc, cơ thể suy nhược. Công nhân xây đắp Kim Tự Tháp được cung cấp thực phẩm có tỏi để tăng cường sức lao động. Những giác đấu Hi Lạp, binh sĩ La Mã cũng được cho ăn tỏi để chiến đấu can trường, dũng cảm hơn. Trong các cuộc hải hành, dân Virking đều mang tỏi làm lương thực và để trị bệnh khi cần đến. Tỏi đã được các vị thầy thuốc xưa kia ca ngợi như một dược thảo có giá trị. Ông tổ nền y học tây phương Hippocrates coi tỏi là môn thuốc tốt để trị các bệnh nhiễm độc, bệnh viêm, bệnh bao tử, và loại trừ nước dư trong cơ thể. Galen, một trong những danh y khi xưa thì ca tụng tỏi như môn thuốc dân tộc trị bá bệnh.Theo Y sĩ Dioscorides thời La Mã, tỏi làm giọng nói trong trẻo, làm bớt ho, làm thông tắc nghẽn ở mạch máu, làm nhuận tiểu, bớt đau răng, chữa bệnh ngoài da, và chữa cả hói tóc nữa. Vào thế kỷ 16, Alfred Franklin nói với dân chúng thành phố Paris là nếu họ ăn tỏi tươi với bơ vào tháng Năm thì họ sẽ được khỏe mạnh trong những tháng còn lại. Trong thế chiến thứ nhất, người Nga đã dùng tỏi để trị bệnh nhiễm vi trùng. Họ gọi tỏi là “thuốc kháng sinh Nga Sô”; các bác sĩ Anh dùng tỏi để trị vết thương làm độc ở chiến trường. Khi có các dịch cúm vào đầu thế kỷ 20, nhiều quốc gia trên thế giới, kể cả Hoa Kỳ, đã dùng tỏi như một phương tiện để chống lại sự hoành hành của bệnh. Sách xưa có ghi lại câu chuyện về bốn tên trộm lừng danh ở thành phố Marseille: trong vụ dịch hạch kinh khủng ở thành phố này, có bốn tên trộm vẫn ngang nhiên vào nhà các người bị bệnh để trộm của mà không bị lây bệnh. Khi bị bắt, chính quyền hứa sẽ tha tội nếu họ nói bí quyết không lây bệnh. Bốn chú đạo trích khai là suốt thời gian dịch hạch, họ ăn rất nhiều tỏi tươi, do đó họ không bị bệnh. Vào thời Trung Cổ, khi đi vào vùng phố nhiễm độc, các thầy thuốc đều mang nhiều nhánh tỏi để phân phát cho dân chúng cũng như để ngăn chặn xú uế xâm nhập vào mũi. Triết gia cũng có nhiều nhận xét về giá trị của tỏi. Celsius khuyên dùng tỏi để trị nóng sốt và bệnh đường ruột. Virgil thấy tỏi làm tăng sức lực của nông dân. Aristophanes thì nhắc nhở lực sĩ, chiến sĩ ăn tỏi trước khi xuất trận để chiến đấu cang cường hơn. Dân Nga xưa ngâm tỏi với rượu vodka, để lâu hai tuần rồi uống, tin là sẽ sống lâu. Dân Ukraine uống nước chanh ngâm tỏi để làm tăng sức lực, làm người trẻ ra. Về niềm tin dị đoan, tỏi đã được dùng là vũ khí để trừ tà ma , quỷ quái ở Việt Nam ta. Dân Âu châu xưa rất sợ ma cà rồng hút máu và để xua đuổi, mỗi nhà đều cheo nhiều nhánh tỏi ở trước cửa. Văn tự Ấn Độ giáo từ nhiều ngàn năm trước có ví một củ tỏi như một tráng sĩ diệt trừ yêu quái. Dân nài ngựa cheo vài nhánh tỏi vào cương để ngựa phi mau hơn. Nằm mơ thấy tỏi là điềm lành. Trong các cộng đồng Hebrew xưa kia, vài nhánh tỏi được trang điểm vào áo cưới cô dâu với niềm tin là cuộc hôn nhân sẽ muôn vàn hạnh phúc. Dân Ai Cập so sánh hương vị cay hôi của tỏi với những thăng trầm của cuộc đời. Các tu sĩ nói với con chiên là khi họ cầm vài nhánh tỏi trên tay tức là đang cầm mọi phức tạp của cuộc đời. Và khi tuyên thệ, họ đặt tỏi trên bàn tay hay trên bàn thờ. Bên Việt Nam ta, các cụ cheo tỏi trước cửa buồng đàn bà mang bầu để trẻ sinh được mẹ tròn con vuông, khỏe mạnh Trẻ con Ý sống trong trại tiếp đón, được cha mẹ cho mang một túi tỏi nhỏ trên cổ để ngừa bệnh tật truyền từ người này sang người khác. Dân Da Đỏ bắt chước đoàn thám hiểm Tây Ban Nha, dùng tỏi để trị các bệnh khó tiêu, đau bụng, đau tai và họ rất ít bị bệnh yết hầu vì mùi tỏi làm cuống phổi mở rộng, hô hấp dễ dàng. Người Mỹ xưa kia chữa bệnh tim phổi bằng cách đắp tỏi giã nhỏ lên chân và họ giải thích là như vậy tỏi sẽ hút hết chất độc xuống để đưa ra ngoài. Tổng Thống Benjamin Franklin thích ăn xúp nấu với tỏi, còn binh sĩ của Tổng Thống George Washington thì được thêm tỏi trong khẩu phần. Vào đầu thế kỷ trước, bệnh lao rất phổ biến và khó trị vì chưa có thuốc kháng sinh. Các bác sĩ bèn chữa bằng tỏi và thấy là rất công hiệu để diệt vi trùng lao. Sau đó một thời gian, nước Mỹ bị dịch cúm và bệnh tinh hồng nhiệt, dân chúng bèn đốt tỏi trong nhà và hơi khói tỏi che trở nhiều người khỏi bị bệnh. Nhiều người còn nhai tỏi để ngửa bệnh cúm. Đông Y việt Nam ta ghi nhận công dụng trị bệnh của tỏi như sau: tỏi có vị cay, tính ôn, hơi độc nằm trong hai kinh can và vị. Tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát trùng, chữa bệnh lỵ ra máu, tiêu nhọt, hạch ở phổi, tiêu đàm, chữa đầy chướng bụng, đại tiểu tiện khó khăn. Người âm nhu, nội thiệt, có thai, đậu chẩn, đau mắt không nên dùng. Kết quả nghiên cứu công dụng tỏi với bệnh tật Qua nhiều nghiên cứu khoa học và qua kinh nghiệm xử dụng của dân chúng, thì tỏi không những là một thực phẩm ngon mà còn có nhiều công dụng hỗ trợ việc trị bệnh. Alliin Xin nhắc lại là vào năm 1951, hai nhà hóa học Thụy sĩ Arthur Stoll và Ewald Seebeck đã tìm ra hóa chất chính của tỏi là chất Alliin và men Allinase. Hai chất này được giữ riêng rẽ trong tế bào tỏi và đóng góp vai trò quan trọng trong các công dụng y học của tỏi. alliin Allicin ==> alliin biến ra allicin khi bị nghiền nát hay bị cắt 1-Tỏi và cholesterol. Quan sát dân chúng vùng Địa Trung Hải, các nhà nghiên cứu thấy họ rất ít bị các bệnh về tim mạch mặc dù họ ăn nhiều thịt động vật và uống nhiều rượu vang. Nhiều người cho là do ảnh hưởng của rượu vang. Nhưng các bác sĩ ở địa phương thì cho là do uống rượu và ăn nhiều tỏi. Sự kiện này thúc đẩy các chuyên viên của Đại Học Western Ontario, Canada, để tâm nghiên cứu và họ kết luận rằng một dân tộc càng ăn nhiều tỏi thì bệnh tim mạch càng ít. Bằng chứng là dân Triều Tiên ăn nhiều tỏi và họ cũng ít bị bênh tim. Nhiều khoa học gia bèn nghiên cứu tương quan giữa tỏi và bênh tim ở súc vật trong phòng thí nghiệm. Họ đều thấy là tỏi làm chậm sự biến hóa của chất béo trong gan, khiến gan tiết ra nhiều mật, đồng thời cũng lấy bớt mỡ từ thành động mạch. Các bác sĩ H.C. Bansal và Arun Bordia ở Ấn Độ nhận thấy khi ăn bơ với tỏi, cholesterol trong máu đã không lên cao mà còn giảm xuống. Năm 1990, nghiên cứu do bác sĩ F.H. Mader ở Đức cho hay, nếu mỗi ngày ăn vài nhánh tỏi thì cholesterol sẽ giảm xuống tới 15%. Một nghiên cứu tương tự ở Đại học Tulane, New Orleans do bác sĩ A. K. Jain thực hiện năm 1993 cho thấy người có cholesterol cao, khi dùng tỏi một thời gian, thì cholesterol giảm xuống được 6%. Đó là một sự giảm đáng kể. Bác sĩ Benjamin Lau, Đại Học Loma Linda, California cho biết tỏi giúp chuyển cholesterol xấu LDL thành cholesterol lành HDL. Còn bác sĩ Myung Chi của Đại Học Lincoln ở Nebraska chứng minh là tỏi làm hạ cholesterol và đường trong máu. Một câu hỏi được nêu lên là tỏi có làm giảm cholesterol ở người có mức độ trung bình không? Các nhà nghiên cứu cho là tỏi có một vài ảnh hưởng, nhưng nếu cholesterol cao thì tác dụng của tỏi tốt hơn. Có bác sĩ còn cho là tỏi công hiệu hơn một vài âu dược hiện đang được dùng để chữa cholesterol cao trong máu. Do hạ thấp cholesterol trong máu, tỏi có thể ngăn ngừa nguy cơ một số bệnh tim. Đã có nhiều bằng chứng rằng cholesterol trong máu lên cao là nguy cơ đưa tới các bệnh vữa xơ động mạch và kích tim. 2-Tỏi và sự đông máu Tỏi có tác dụng ngăn sự đóng máu cục, một nguy cơ của kích tim và tai biến động mạch não. Máu cục gây ra do sự dính chùm của tiểu cầu mỗi khi có dấu hiệu cơ thể bị thương để ngăn ngừa băng huyết Trong tỏi có chất Ajoene mà bác sĩ Eric Block, Đại học Nữu Ước, khám phá ra. Theo ông ta, chất này có công hiệu như Aspirin trong việc làm giảm sự đóng cục của máu, lại rẻ tiền mà ít tác dụng phụ không muốn. Điều này cũng phù hợp với nhận xét của bác sĩ I.S. Menon là ở miền nam nước Pháp, khi ngựa bị máu đóng cục ở chân thì nông gia đều chữa khỏi bằng cách cho ăn nhiều tỏi và hành. Bệnh viện Hải quân Hoa Kỳ trong trại Pendleton, California, cũng công bố là tỏi có chất ngừa đông máu do đó có thể làm máu lỏng và ngăn ngừa tai biến động mạch não, kích tim vì máu cục. Ngay cả ông tổ của nền y học cổ truyền Ấn Độ Charaka cũng ghi là “ tỏi giúp máu lưu thông dễ dàng, làm tim khỏe mạnh hơn và làm con người sống lâu. Chỉ vì mùi khó chịu của nó chứ không thì tỏi sẽ đắt hơn vàng”. Các nhà thảo mộc học xưa kia cũng nói là tỏi làm máu loãng hơn.Tác dụng này diễn ra rất mau, chỉ vài giờ sau khi dùng tỏi. Chưa có trường hợp nào trong đó ăn nhiều tỏi đưa đến máu loãng rồi băng huyết, vì tỏi chỉ làm máu loãng tới mức bình thường thôi. 3-Tỏi và cao huyết áp Tỏi được dùng để trị bệnh cao huyết áp ở Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước đây. Bên Nhật Bản, giới chức y tế chính thức thừa nhận tỏi là thuốc trị huyết áp cao. Năm 1948, bác sĩ F.G. Piotrowski ở Geneve làm thế giới ngạc nhiên khi ông tiết lộ kết quả tốt đẹp khi dùng tỏi để trị cao huyết áp. Theo ông ta, tỏi làm giãn mở những mạch máu bị nghẹt hay bị co hẹp, nhờ đó máu lưu thông dễ dàng và áp lực giảm. Các nghiên cứu ở Ấn Độ, Gia Nã Đại, Đức cũng đưa đến kết quả tương tự. Nhà sinh học V. Petkov thực hiện nhiều nghiên cứu ở Bulgarie cho hay tỏi có thể hạ huyết áp tâm thu từ 20-30 độ, huyết áp tâm trương từ 10 tới 20 độ. 4-Tỏi và cúm Trong các dịch cúm vào đầu thế kỷ trước, dân chúng đã dũng tỏi để ngăn ngừa sự lan tràn của bệnh này. Y học dân gian nhiều nước đã chữa cảm cúm bằng cách thoa tỏi tươi mới cắt vào bàn chân. Trong dịch cúm ở Nga Sô Viết năm 1965, dân Nga đã tiêu thụ thêm trên 500 tấn tỏi để ngừa cúm. Trước đó, vào năm 1950, một bác sĩ người Đức đã công bố là tinh dầu tỏi có khả năng tiêu diệt một số vi sinh có hại mà không làm mất những vi sinh vật lành trong cơ thể. Bác sĩ Tarig Abdullah ở trung tâm nghiên cứu tại Tampa, Florida, công bố năm 1987 là tỏi sống và tỏi chế biến đều làm tăng tính miễn dịch của cơ thể với vi trùng, ngay cả HIV và làm giảm nguy cơ vài bệnh ung thư. Cá nhân ông ta đã liên tục dùng mấy nhánh tỏi sống mỗi ngày từ năm 1973 và chưa bao giờ bị cảm cúm. Từ năm 1950, bác sĩ J. Klosa bên Đức đã dùng tỏi để chữa lành những bệnh đau cuống họng, sổ mũi, ho lạnh. Ông ta vừa cho bệnh nhân uống vừa ngửi tinh dầu tỏi. Theo ông ta, đó là nhờ chất Alliin trong tỏi. Trong bệnh cảm cúm, bệnh nhân thường sưng cuống phổi, bị ho, sổ mũi. Bác sĩ Irvin Ziment, California, nhận thấy tỏi có thể làm giảm những triệu chứng trên, làm bệnh nhân bớt ho, long đàm, thở dễ dàng và không bị nghẹt mũi. Theo vị thầy thuốc này thì vị hăng cay của tỏi kích thích bao tử tiết ra nhiều dịch vị chua; dịch vị này chuyển một tín hiệu lên phổi khiến phổi tiết ra nhiều dung dịch lỏng làm long đờm và đưa ra khỏi phổi. Các bác sĩ bên Ba Lan trước đây dùng tỏi để trị bênh suyễn và viêm phổi ở trẻ em 5-Tỏi và ung thư Hiện nay đang có nhiều nghiên cứu coi xem tỏi có công dụng trị ung thư ở người như kết quả nhận thấy ở vật trong phòng thí nghiệm. Từ năm 1952, các khoa học gia Nga Sô Viết đã thành công trong việc ngăn chặn sự phát triển của một vài tế bào ung bướu ở chuột.Thí nghiệm ở Nhật Bản cho hay tỏi có thể làm chậm sự tăng trưởng tế bào ung thư vú ở loài chuột và tỏi có chất oxy hóa rất mạnh để ngăn chặn sự phá tế bào do các gốc tự do gây ra. Tại viện Ung Thư M.D. Anderson Houston, các bác sĩ đã cứu một con chuột khỏi bị ung thư ruột già bằng cách cho uống chất Sulfur trong tỏi. Được biết viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ đang đặt trọng tâm vào việc nghiên cứu khả năng trị bệnh ung thư của hóa chất sulfur này. Nghiên cứu tại Sloan Kettering Memotial Medical Center cho hay nước triết của tỏi có thể ngăn chặn sự tăng trưởng tế bào ung thư nhiếp tuyến. Nghiên cứu tại Đại Học Pen State cho hay khi nấu tỏi bằng microwave oven thì khả năng chống ung thư giảm đi. Tác giả nghiên cứu, giáo sư Kun Song đề nghị trước khi nấu nên cắt tỏi và để ra không khí mươi phút thì giữ được khả năng này. 6-Tỏi như thuốc kháng sinh Từ lâu, dân chúng tại nhiều quốc gia trên thế giới đã dùng tỏi để chữa một số bệnh gây ra do vi khuẩn như kiết lỵ, bệnh tiêu chẩy, bệnh thương hàn, viêm cuống họng, mụn nhọt ngoài da, thối tai và tỏi được gọi là thuốc kháng sinh dân tộc. Trong hai thế chiến, tỏi được dùng để chữa vết thương cho binh sĩ tại chiến trường. Người ta cũng dùng tỏi để trị vết thương do côn trùng, rắn cắn. Nông dân, thợ săn đều mang theo tỏi phong hờ khi bị các sinh vật này cắn thì tự chữa. Năm 1858, nhà bác học Pháp Louis Pasteur đã chứng minh được công dụng diệt vi khuẩn của tỏi. Năm 1944, nhà hóa học Chester J. Cavallito, làm việc cho Winthrop Chemical Company ở Hoa Kỳ, đã phân tích được hóa chất chính trong tỏi có công dụng như thuốc kháng sinh. Đó là chất Allicin, chỉ có trong tỏi chưa nấu hay chế hóa. Kháng sinh này mạnh bằng 1/5 thuốc Penicilin và 1/10 thuốc Tetracycline, có tác dụng trên nhiều loại vi khuẩn, xua đuổi hoặc tiêu diệt nhiều sâu bọ, ký sinh trùng, nấm độc và vài loại siêu vi trùng. Theo nhiều nghiên cứu, Allicin có tác dụng ức chế sinh trưởng vi khuẩn nhiều hơn là diệt chúng. Nói một cách khác, chất này không giết vi khuẩn đã có sẵn mà ngăn chặn sự sinh sôi, tăng trưởng và như vậy có thể ngừa bệnh, nâng cao tính miễn dịch, làm bệnh mau lành. Nghiên cứu tại Brazil năm 1982 đã chứng minh là nước tinh chất của tỏi có thể chữa được nhiều bệnh nhiễm độc bao tử, do thức ăn có lẫn vi khuẩn, nhất là loại Salmonella. Các nghiên cứu tại Đại Học California ở Davis cũng đưa đến kết luận tương tự. Ngoài ra, tỏi cũng được dùng rất công hiệu để trị bệnh sán lãi, giun kim, các bệnh nấm ngoài da. Một nhà nghiên cứu đã hào hứng tuyên bố rằng “ tỏi có tác dụng rộng rãi hơn bất cứ loại kháng sinh nào hiện có. Nó có thể diệt vi trùng, nấm độc,siêu vi trùng, ký sinh trùng lại rẻ tiền hơn, an toàn hơn vì không có tác dụng phụ và không gây ra quen thuốc ở vi trùng”. Giáo sư Arthur Vitaaen, đoạt giải Nobel, cũng đồng ý như vậy. Do đó ta không lấy làm lạ là trong thế chiến thứ nhất, các bác sĩ Anh quốc đã dùng tỏi để chữa vết thương làm độc. Thực tế ra, tỏi được dùng với những nhiễm độc nhẹ, không nguy hiểm tới tính mạng. Chứ còn nhiễm trùng cấp tính mà lại trầm trọng thì kháng sinh âu dược vẫn công hiệu hơn và tác dụng mau hơn. 7-Tỏi với tuổi thọ Theo dân chúng vùng Ukraine, ngâm nửa kí tỏi cắt hay giã nhỏ bỏ vào nước vắt của 25 quả chanh, để qua đêm rồi mỗi ngày uống một thìa pha với nước lạnh, trong hai tuần sẽ thấy trẻ khỏe ra. Các nhà văn Ukraine tán là nếu uống thường trực thì con người sẽ cảm thấy trẻ trung. Nhiều vị cao niên Việt Nam ta đang có phong trào uống rượu ngâm với tỏi, tin tưởng là sẽ được cải lão hoàn đồng. Một bài thuốc Rượu Tỏi được truyền tụng là tìm thấy từ mộ cổ Ai Cập đang rất phổ biến. 40 gr Tỏi khô thái nhỏ ngâm trong 100 ml rượu lúa mới. Mười ngày sau có thể dùng được, ngày hai lần sáng và tối, mỗi lần 45 giọt. Ở vùng Balkan, số người thọ trên 100 tuổi rất cao và được giải thích là họ nhai nhiều nhánh tỏi mỗi ngày. Ngoài ra, Tỏi còn một số công dụng khác như: Nhà thiên nhiên học La Mã Pliny viết rằng tỏi mà đưa cay với rượu vang thì con người làm tình rất điệu nghệ. Do đó dân chúng La Mã ăn nhiều tỏi coi đó là thuốc kích dâm, gợi tình. Nghiên cứu mới đây ở loài chuột cho thấy tỏi có thể có tác dụng tốt trên các chức năng của não bộ, tăng trí nhớ và có thể nâng cao tuổi thọ. Theo bác sĩ Paavo Airola, một nhà chuyên môn dinh dưỡng tại Phoenix, Arizona, tỏi với các hóa chất sulfur của nó, có thể chữa được bệnh trứng cá, bệnh khí thũng phổi làm khó thở, khó tiêu bao tử, táo bón, cảm lạnh. Các nghiên cứu của bác sĩ D Sooranna và I Das bên Luân đôn cho hay dùng tỏi khi mang thai có thể làm giảm nguy cơ tiền sản giật , ( cao huyết áp và đạm chất trong nước tiểu ) và làm tăng sức nặng của trẻ chậm lớn. Và cuối cùng là một nghiên cứu ở Monnel Chemical Senses Center, Philadelphia, cho hay khi mẹ ăn tỏi, con sẽ bú sữa mẹ lâu hơn và nhiều hơn vì tỏi làm tăng khẩu vị em bé. Kết luận. Công dụng của Tỏi với sức khỏe đang là đề tài hấp dẫn của các nhà dinh đưỡng cũng như y tế. Với công chúng thì phong trào dùng tỏi để tăng cường sức khỏe cũng khá phổ biến. Tuy nhiên cho tới nay các tổ chức y tế cũng chưa chính thức ủng hộ ý kiến sử dụng tỏi trong việc trị bệnh vì các kết quả nghiên cứu không đủ sức thuyết phục. Và lại kết quả nghiên cứu hiện nay đều có tính cách cá nhân với mục đích thông tin học hỏi và đa số dựa trên quan sát dịch tễ. Cho nên ngoài tác dụng diệt vi khuẩn của chất allicin, các nhà nghiên cứu cũng chưa xác định công dụng của nhiều hóa chất khác trong Tỏi. Trên thị trường có bán sản phẩm Tỏi chế biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì chỉ là chất bổ sung dinh dưỡng nên các sản phẩm này không được coi là thuốc, không đặt dưới sự kiểm soát của cơ quan điều hành dược phẩm. Do đó món hàng không bị soi mói về thành phần cấu tạo, sự tinh khiết và có thể bầy bán tự do miễn là không quảng cáo khả năng trị bệnh. Cho nên sử dụng tỏi như một chất dinh dưỡng, một gia vị thực phẩm, hỗ trợ cho sức khỏe có lẽ là khôn ngoan hơn chứ cũng chẳng nên coi tỏi như một môn thuốc trị bệnh này bệnh kia mà bỏ qua những phương thức trị liệu đã được y khoa học công nhận. Kết quả các nghiên cứu về công dụng y học của tỏi cần được tìm hiểu thêm để đi đến một sự đồng thuận của giới y khoa học. Và đặc biệt với vị nào đang uống thuốc chống đông máu như aspirin thì nên tham khảo ý kiến bác sĩ gia đình trước khi dùng sản phẩm Tỏi vì thực vật này có tác dụng loãng máu.
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 13:10:54 GMT -5
CÀ PHÊ : NHỮNG TÁC DỤNG NÀO LÊN HỆ TIÊU HÓA ? Cà phê là một nước uống rất được đánh giá bởi nhiều người. Cà phê đã bị loại ra khỏi chế độ ăn uống của những người bị loét dạ dày. Thế thì tác dụng của nó lên hệ tiêu hóa như thế nào ? Để biết rõ hơn, chúng tôi đã gặp G.S René Fiasse (Khoa Dạ dày-ruột, Cliniques St-Luc, UCL) và B.S Rachid Benabdillah, phóng viên y tế theo dõi tài liệu y học về vấn đề này. Họ đã cùng nhau trả lời những câu hỏi của chúng tôi. Sự hiện diện của các bệnh đường tiêu hóa trong quá khứ đã buộc người bệnh phải chịu các hạn chế đối với cà phê. Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng thứ nước uống này không có liên hệ trong những rối loạn ruột, những rối loạn dạ dày và sự sinh ung thư tụy tạng. Tuy nhiên, cà phê có thể gây nên ợ nóng (pyrosis). Hỏi : Theo kiến thức của các ông, cà phê có hại cho ruột già hay không ? BS Benabdillah : Trái lại, những công trình nghiên cứu khác nhau đã chứng minh tác dụng có lợi của cà phê lên ruột già. Những kết quả của một công trình nghiên cứu, được thực hiện bởi Brown và các cộng sự viên trên 99 người, về mối tương quan giữa việc uống các loại nước uống khác nhau, nhất là cà phê, và số lần đi cầu, đã phát hiện nơi gần 1/3 những người này, một sự cải thiện của sự vận chuyển tiêu hóa. Nơi những người đáp ứng, một tác dụng có lợi của cà phê trên tính di động ruột già đã có thể được chứng tỏ bằng những đo lường động học. Rao và các cộng sự viên đã quan sát thấy rằng cà phê không có caféine (café décaféiné), cũng như cà phê bình thường, kích thích tính di động ruột già nơi những người đáp ứng, nhưng hiệu quả của cà phê bình thường rõ rệt hơn hiệu quả của cà phê không có caféine. Công trình nghiên cứu này cũng đã cho thấy rằng tác dụng dương tính của cà phê là 60% quan trọng hơn so với uống nước thường. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã thường báo cáo rằng cà phê có một tác dụng kích thích lên hoạt động của ruột già nơi một vài bệnh nhân. Trong số những công trình này, một sự duyệt xét lại vấn đề, được thực hiện bởi Dapoigny và các cộng sự viên, đã gợi ý rằng cà phê, dầu là bình thường hay không có caféine, có thể được liên kết với những trường hợp ỉa chảy, do kích thích hoạt động của ruột già và trực tràng. Theo Boekeman và các cộng sự viên, cà phê kích thích tính di động của trực tràng và kết tràng sigma trong 4 phút sau khi uống nơi vài người. (GLEM 12/2008-1/2009) B.S Nguyen Van Thinh. Y Duoc Ngay Nay
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 13:38:02 GMT -5
ĂN CÁ CẢI THIỆN THƯƠNG SỐ THÔNG MINH CỦA CÁC THIẾU NIÊN Ăn cá, đó là điều tốt, dân gian lưu truyền như vậy. Cá giàu các chất mỡ không bảo hòa hơn thịt và cá chứa các oméga 3 “sophistiqué”, như DHA (acide docosahexaénoique), mà ta tìm thấy trong cá mỡ (cá ngừ, cá hồi hoang dã, sardine, cá trích). Nhiều công trình nghiên cứu đã cho thấy rằng ăn cá trong lúc thai nghén làm dễ sự phát triển trí thông minh của thai nhi hoặc làm chậm sự suy đồi tế bào thần kinh do tuổi tác. Nhưng một chế độ ăn cá “mạnh” phải chăng cũng có thể có một tác dụng có lợi đối với người trưởng thành hay các thiếu niên? Đó là điều được gợi ý bởi một công trình nghiên cứu của bệnh viện đại học Sahlgrenska de Goteborg (Thụy Điển), được công bố vào tháng ba bởi Acta Paediatrica. Các nhà nghiên cứu đã phân tích các trị số của thương số thông minh (QI), những khả năng diễn đạt và định hướng không gian của 3.972 thiếu niên (15 tuổi) người Thụy Điển, vào năm 2.000, rồi 3 năm sau vào lúc trưng binh nhập ngũ. Những thiếu niên 15 tuổi, ăn cá ít nhất một lần mỗi tuần, trung bình có một số điểm 7% cao hơn lúc làm trắc nghiệm thương số thông minh 3 năm sau, trong khi những trẻ ăn cá hơn một lần mỗi tuần có một điểm số 12% cao hơn mức trung bình. “Có một mối tương quan rõ ràng giữa sự tiêu thụ đều đặn cá vào lúc 15 tuổi và những khả năng trí tuệ tốt hơn vào năm 18 tuổi”, giáo sư Kjell Toren, đồng tác giả công trình điều tra đã giải thích như vậy. Về mặt các khả năng diễn đạt, các thiếu niên 18 tuổi ăn cá một lần mỗi tuần vào năm 15 tuổi có các kết quả 4% tốt hơn, và 9% tốt hơn khi chúng ăn cá hơn một lần mỗi tuần.Về khả năng nhận thức không gian, các con số lần lượt là 7% và 11%. Công trình nghiên cứu cho thấy rằng hiệu quả này được quan sát , dầu cho các biến số ảnh hưởng lên các số điểm này như thế nào đi nữa, như trình độ giáo dục của bố mẹ, sự sung túc hay... thể trọng của chúng. (LE SOIR 11/3/2009)
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 3:29:54 GMT -5
Nước Ngọt Có Gas Bác sĩ Nguyễn Ý Đức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Trong các loại nước uống, nước có gas đang được dân chúng ưa thích, nhất là các bậc nhi đồng, thanh thiếu niên. Lý do là nước có vị ngòn ngọt, hơi đăng đắng có tính cách kích thích, lại óng ánh màu mè, sủi tăm vui mắt. Sau khi ăn vài miếng khoai chiên mặn muối, nửa cái ham bơ gơ ngậy mỡ, mà chiêu vào nửa cốc coca mát lạnh nước đá cục là thấy tỉnh hẳn con người. Và liên tục uống mãi dài dài…đến nỗi mà hàng năm, trên thế giới có cả nhiều trăm tỷ lít nước có gas được tiêu thụ. Sự ưa thích này một phần bắt nguồn từ tin tưởng xưa kia là tắm suối nước khoáng thiên nhiên có thể chữa được bệnh tật. Từ chuyện tắm rửa bằng nước khoáng, người ta chuyển sang việc uống nước khoáng, cho khỏe mạnh tấm thân. Rồi kỹ nghệ sản xuất nước có hơi được thành hình để đáp ứng nhu cầu dân chúng sống xa nguồn nước suối. Ban đầu, người ta chỉ mới sản xuất các loại nước không có rượu, gọi là soft drink, để đối đầu với hard liquor, rượu mạnh. Nước làm với trái cây, hoa lá ép nhỏ, thêm chút mật ong, gia vị thiên nhiên và không có gas. Phải đợi tới thập niên 1770, một khoa học gia người Anh là Joseph Priestly mới tìm cách thêm khí carbon dioxid vào nước tinh khiết, để làm cho nước uống có bọt, sủi tăm. Thế là từ đó nước có gas xuất hiện và hiện nay, trên thế giới có cả nhiều trăm loại nước có gas khác nhau để phục vụ giới tiêu thụ. Hai công ty lớn nhất hiện nay tại Hoa Kỳ là Coca-Cola và Pepsi-Cola đều do hai vị dược sĩ ở hai tiểu bang khác nhau lần lượt thành lập với bí quyết gia vị hóa học riêng. Nói chung, công thức của nước ngọt có gas gồm có: nước sạch, đường (table sugar) hoặc đường fructose lấy từ mật bắp để thay thế cho đường tinh chế; caffein; đường hóa học aspartame; khí carbonat dioxid; các acid phosphoric, citric, hương gia vị; đường caramel; vitamin C, nước triết của hạt cola và lá coca cộng thêm một gia vị bí mật của mỗi loại nước uống. Dù được phổ biến, nhưng nước uống có gas cũng có nhiều điều cần được lưu ý khi dùng. Các nhà nghiên cứu, giới tiêu thụ và chuyên viên chăm sóc sức khỏe đã nêu ra một số điểm “không ổn” do các thành phần của nước ngọt có gas có thể gây ra. 1- Đường: Từ nguyên thủy, đường sucrose được dùng như chất làm ngọt cho nước có gas. Sucrose có tự nhiên trong trái cây, mía, củ cải đỏ. Ngày nay, sucrose được thay thế bằng đường fructose từ mật ngô, ngọt hơn nên ít tốn kém. Đường hóa học aspartame ít năng lượng cũng được dùng khá nhiều trong nước uống của người tiết chế ẩm thực (diet ). Đường không có sinh tố, khoáng chất hoặc chất đạm mà chỉ cho nhiều calories. Tiêu thụ nhiều chất ngọt mà không ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, có thể là rủi ro đưa tới hư răng, suy dinh dưỡng, rối loạn chuyển hóa, bệnh tim bệnh mập phì, đặc biệt là ở trẻ em.. Trong 30 năm vừa qua, số người lớn bị mập ở Hoa Kỳ tăng gấp đôi mà trẻ em lại tăng gấp ba. Từ năm 1942, Ủy ban Dinh dưỡng của Hội Y Học Hoa Kỳ (AMA) đã đưa ra lời báo động như sau: “Về phương diện sức khỏe, nên giới hạn việc dùng các loại đường này trong nước uống và kẹo bánh vì có rất ít giá trị dinh dưỡng”. Năm 1998, Trung Tâm Khoa HọcVì Ích Lợi Chung (Center for Sciences in the Public Interest -CSPI), lên tiếng trách cứ các nhà sản xuất nước uống đã gia tăng quảng cáo có tính cách trục lợi các sản phẩm, đặc biệt nhắm vào thiếu niên, trẻ em. Trung tâm gọi soft drink của họ là Kẹo Nước Liquid Candy .CSPI là tổ chức luôn luôn vận động chính quyền giới hạn các thực phẩm có hại cho sức khỏe. Kết quả nghiên cứu của Đại học Harvard và Bệnh Viện Nhi Boston năm 2001 cho hay tiêu thụ quá nhiều nước ngọt sẽ khiến cho trẻ em không ăn bữa chính, không uống sữa và đưa tới mất cân bằng năng lượng, mập phì. Theo nghiên cứu, dùng thêm một lon nước ngọt thì rủi ro mập của trẻ em tăng 60%. Tạp san y học British Medical Journal số 31 January 2008 có công bố kết quả nghiên cứu của giáo sư Hyon K Choi, thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Viêm Xương như sau: “Tiêu thụ nhiều soft drink có chất ngọt và đường fructose tăng nguy cơ bệnh thống phong ở nam giới tại Bắc Mỹ. Hơn nữa, nhiều đường fructose trong trái cây và nước trái cây cũng tăng rủi ro này. Uống nước ngọt không có đường fructose không liên hệ gì tới rủi ro bệnh gout”. Kết quả này chưa được mọi người đồng ý và cần xác định thêm. Luật lệ hiện hành bắt buộc các nhà sản xuất phải ghi rõ nước uống có đường hoặc chất ngọt trên bao bì, để người tiêu thụ dễ dàng lựa chọn. 2-Acit phosphoric và các khoáng phosphate Acit phosphoric, acetic, fumaric, gluconic được dùng trong một số nước uống có gas vừa có tác dụng bảo quản cũng như để tạo ra cảm giác, hương vị đặc biệt khi uống. Tương tự như hương vị “umami”của bột ngọt. Acit này khá mạnh, cho nên khi uống vào sẽ gây ra cồn cào, tổn thương niêm mạc dạ dày. Ta thấy các bác thợ máy xe hơi đổ một chút nước uống coca-cola để rửa cọc bình điện thì thấy acid này mạnh như thế nào. Ngoài ra, có nghiên cứu cho hay, acit phosphoric có thể làm mòn men răng. Lý do là nước miếng có độ kiềm với pH 7.4. Khi nhâm nhi nước có gas luôn miệng, nước miếng trở thành acit. Để phục hồi độ kiềm, cơ thể sẽ rút calci từ men răng, do đó răng dễ trở nên sói mòn, hư hao. Bác sĩ Clive Mckay, Naval Research Institute, đã thử nghiệm ngâm một chiếc răng người vào nước uống cola. Hai ngày sau, răng trở nên mềm và tiêu mòn. Theo ông, đó là do tác dụng của acid phosphoric. Hai tác giả Michael Murray và Joseph Pizzorno có ghi lại trong The Encyclopedia of Natural Medicine là tăng tiêu thụ soft drink là yếu tố quan trọng đưa tới loãng xương. Họ giải thích là nước ngọt đưa tới tình trạng giảm calci và tăng phosphor trong máu, do đó calci sẽ bị rút ra từ xương để tái tạo tỷ lệ bình thường của hai khoáng này. Sau nghiên cứu, các khoa học gia G.R Fernando , R.M Martha thuộc Mexican Society Security Institute, kết luận: “Uống soft drink có acit phosphoric nên được coi như một rủi ro độc lập đưa tới thiếu calci trong máu ở phụ nữ trong thời kỳ mãn kinh”. Đi xa hơn, bác sĩ Barnet Meltzer, tác giả sách Food Swing, có ý kiến: “Vì có lượng phosphor và acit phosphoric cao, soft drink thấm vào chất lỏng cơ thể, sói mòn dạ dày, đảo ngược sự cân bằng acit/ kiềm của hai trái thận và từ từ ăn mòn lá gan của người tiêu thụ”. Ngoài ra, acit này cũng vô hiệu hóa acit hydrochloric trong dạ dày, đưa tới dầy hơi và khó tiêu hóa. 3-Caffein Hầu như soft drink nào cũng có một lượng caffein để tạo hương vị thơm thơm, kích thích và cảm giác thiếu một cái gì, nếu không dùng, vì caffein cũng hơi gây nghiền. Một lon 12-ounce coca có từ 35-38mg, lon Pepsi có 56mg caffein trong khi đó Sprite, 7-up không có. Caffein là chất có tự nhiên trong nhiều thực vật khác nhau như cà phê, lá trà, hạt cola. Caffein có tác dụng hưng phấn lên hệ thần kinh trung ương và tùy theo số lượng, có thể gây ra mất ngủ, bồn chồn, hoảng hốt, lo sợ, rối loạn nhịp tim, đi tiểu nhiều, tăng thải calcium qua nước tiểu, tăng nguy cơ loãng xương. Theo Trung Tâm Khoa Học vì Ích Lợi Chung, caffein tăng rủi ro sảy thai và ức chế sự tăng trưởng của thai nhi. Do đó phụ nữ đang mang thai hoặc dự định có con nên tránh tiêu thụ. Caffein cũng có thể tạo khó khăn hơn cho sự thụ thai. Ghiền mà thiếu caffeine sẽ bị nhức đầu, mệt mỏi, hơi buồn chán, đau nhức cơ bắp, buồn nôn, huyết áp hơi lên cao. Mỗi ngày uống một/ hai ly cà phê thì không sao, nhưng nếu uống nhiều hơn thì rủi ro loãng xương gia tăng. Nên lưu ý là trong các loại nước gọi là “tăng cường sinh lực”- energy drinks, số lượng caffein rất cao. 4-Cola Trong kỹ nghệ nước uống, cola có vai trò quan trọng. Ban đầu, cola là hỗn hợp chất chiết của lá coca và hạt cola hòa với đường. Ngày nay chỉ hạt cola còn được dùng (và vẫn là bí mật của nước Coca-Cola). Hoạt chất chính của hạt cola là caffeine và theobromine, có tác dụng kích thích sản xuất dịch vị dạ dày, giúp tiêu hóa dễ dàng. 5- Sodium benzoate Từ hơn thế kỷ nay, sodium benzoate đã được dùng như chất bảo quản, tiêu diệt vi khuẩn, mốc meo, nấm có hại trong nước uống, thịt nguội. Muối này cũng có tự nhiêu trong một số thực động vật và tương đối an toàn ngoại trừ một số người mẫn cảm có thể nổi mề đay, lên cơn hen suyễn hoặc thay đổi hành vi ở trẻ em có hội chứng quá năng động, kém chú ý. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu đã quan tâm tới sự việc là, dưới tác dụng của acit ascorbic (vitamin C) trong nước uống có gas, sodium benzoate cho benzene, một chất đã được coi như có khả năng gây ung thư máu và vài ung thư khác. May mắn là lượng benzene trong nước uống ở mức độ chấp nhận được, theo Cơ quan FDA Hoa Kỳ. Tổ chức bảo vệ người tiêu thụ Consumers Union đưa ra đề nghị là mặc dù benzene trong soft drink ở mức độ không nguy hại nhưng vẫn là chất có thể gây ung thư. Cho nên, giới tiêu thụ nên lưu ý tới nhãn hiệu trên bình nước. Nếu nhãn ghi có muối benzoate và vitamin C thì không nên mua. Nếu đã trót mua, thì nên cất ở nơi mát, không có ánh nắng mặt trởi để giảm thiểu sự thành hình của benzene. Ngoài ra, một mối ưu tư nữa của các nhà nghiên cứu về nước uống có gas là sự gia tăng rủi ro Hội Chứng Chuyển Hóa ở người tiêu thụ quá nhiều, mà thủ phạm là chất ngọt. Hội chứng này là tập hợp các nguy cơ gây ra bệnh tim mạch và tiểu đường, gồm có vòng lưng quá to, huyết áp cao, tăng triglycerides, giảm cholesterol HDL và đường huyết khi đói lên cao. Kết quả nghiên cứu tại Đại học Y Harvard phổ biến trong tạp san của Hội Tim Hoa Kỳ ngày 31 tháng 7 năm 2007 cho hay: so sánh với người uống 1 lon soft drink mỗi ngày thì người uống trên một lon sẽ: -tăng rủi ro mập phì lên 31%; -tăng rủi ro to vòng bụng tới 30%; -tăng rủi ro cao triglycerides và đường huyết khi đói tới 25% -tăng rủi ro có lượng HDL thấp tới 32% Giáo sư bác sỹ Ravi Dhingra, người đứng đầu cuộc nghiên cứu này đưa ra lời nhắn nhủ: “Điều độ, vừa phải trong mọi lãnh vực là chìa khóa của sự sống”. Trong đó có việc uống soft drink có gas, nhiều chất ngọt. Vì, theo Michael Jacobson, Giám đốc CSPI, loại nước này là một thực phẩm tạp nham toàn hảo (quintessential junk food), chỉ có calories mà không có chất dinh dưỡng. Ông ta ví nó như trái bom chậm nổ trong chế độ ăn uống. Cơ quan này đang vận động đòi các nhà sản xuất ghi lời cảnh báo “Mập Phì” trên chai nước ngọt có gas, tương tự như trên bao thuốc lá với hàng chữ rủi ro "Ung Thư Phổi" cho người ghiền hút những điếu thuốc tỏa ra “khói huyền bay lên cây (a)”, thuốc lá.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức Texas- Hoa Kỳ.
(a) thơ Hồ Dzếnh.
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 3:51:39 GMT -5
Spinach: Hoàng Tử Các Loại Rau Bác sĩ Nguyễn Ý Đức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Còn nhớ vào tháng 11 năm 2003, hơn 600 người tại thành phố Pittsburgh, tiểu bang Pennsyl- -vania bị trúng độc thực phẩm sau khi ăn uống tại nhà hàng Mễ Chi Chi với thực phẩm có những nhánh hành tươi. Họ bị nhiễm siêu vi viêm gan loại A, có lẫn trong rau. Tội nghiệp cho họ nhà Hành, khi không mà cả ngàn tấn bị loại bỏ một cách oan uổng ra khỏi thị trường... Năm nay đến lượt rau spinach gặp “tai bay vạ gió”... Từ gần hai tuần nay, giới chức y tế HoaKỳ đang bận rộn đối phó với vụ trúng độc thực phẩm khá quan trong cho dân chúng, gây ra do tiêu thụ rau spinach. Cho tới hôm nay, đã có trên 130 người trúng thực, 66 người phải nhập bệnh viện để điều trị và một trường hợp tử vong. Theo bác sĩ David Anderson thuộc Cơ quan Thực Phẩm Dược Phẩm Hoa Kỳ thì con số người mắc bệnh còn cao hơn nữa vì sự trúng độc lan tràn ra tới 21 tiểu bang tại Hoa Kỳ. Thủ phạm gây ra trúng độc là một loại vi khuẩn có tên là E. coli. Lý do đưa tới sự xuất hiện đột ngột ngộ độc này chưa được xác định. Vì từ nơi sản xuất tới tay người tiêu thụ, rau trải qua nhiều giai đoạn khác nhau: tại nông trại trồng rau có thể nhiễm vì phân bón, nước tưới rau, khi thu hoạch, rửa rồi cho vào bao bì, rồi lại do chuyên chở không đúng cách tới các siêu thị...Mỗi nơi đều có nguy cơ nhiễm vi khuẩn. Nhưng điều mà nhà chức trách hầu như xác quyết được là vi khuẩn có trong những gói spinach sản xuất ở vùng Salinas, tiểu bang California. Vùng này cung cấp rau spinach cho rất nhiều tiểu bang trên nước Mỹ. Trong khi chờ đợi kết quả các cuộc điều tra, giới chức y tế khuyên dân chúng không nên ăn sống các rau spinach vừa mới mua. Các nhà sản xuất rau spinach cũng tỏ ra rất hợp tác với giới chức y tế để bảo vệ sức khỏe dân chúng và đã thu hồi tất cả rau spinach đang bầy bán. Thủ phạm Thủ phạm gây “tai họa” cho spinach là mấy cô chú vi khuẩn Escherichia coli. Escherichia là tên của vị bác sĩ người Ðức, Theodore Escherichia (1857-1911) đã khám phá ra vi khuẩn gây bệnh này ở trẻ em vào năm 1885. Ðây là nhóm vi khuẩn rất thường thấy ở ruột các động vật và trong đa số các trường hợp, vi khuẩn này vô hại. Chúng cộng sinh, đôi khi có ích cho cơ thể. Tuy nhiên có một vài loại gây ra bệnh tiêu chẩy, đặc biệt là cho khách du lịch phương xa, khi uống nước hoặc ăn thực phẩm nhiễm vi khuẩn. Năm 1982, một giống E.coli được chú ý nhiều hơn vì độc tính của chúng, đó là vi khuẩn E. coli 0157:H7. Vi khuẩn này có trong ruột của trâu bò và dễ dàng lẫn vào thịt các gia súc trong khi làm thịt. Khi bầm thịt cho nhỏ, vi khuẩn lây lan rất mau và sống trong đó rất lâu. Khi tiêu thụ thịt bò xay nấu chưa chín, sữa chưa khử trùng, rau sống...vi khuẩn sẽ gây bệnh trầm trọng. Bệnh nhân đi tiêu chẩy, phẩn có máu, đau bụng, ói mửa, hồng cầu bị tiêu hủy, có thể đưa đến suy thận, tổn thương não bộ, tai biến não, kinh phong thậm chí tử vong, nhất là ở trẻ em và người cao tuổi. Tuy nhiên, cũng có người nhiễm bệnh mà không có triệu chứng gì và là nguồn truyền bệnh mà họ không biết... Khi có dấu hiệu trúng độc thực phẩm, nhất là khi tiêu chẩy có máu, nên đi khám bác sĩ ngay. Không nên tự chữa ở nhà với mấy loại thuốc chống tiêu chẩy thường dùng. Trong khi chờ đợi, uống nhiều nước để bổ sung mất nước trong cơ thể do “tào tháo đuổi”. Phòng bệnh tức thì bây giờ là không ăn sống và vứt bỏ mấy gói spinach mới mua gần đây, cho tới khi giới chức y tế cho biết rau spinach đã an toàn. Phòng ngừa nhiễm vi khuẩn E. coli gồm có: a- Nấu chín thịt bò tới nhiệt độ 71ºC. Riêng thịt bầm cần nấu tới khi mầu đỏ của thịt không còn nữa. b- Khi sửa soạn nấu ăn, cần rửa tay sạch sẽ với nước nóng và xà bông, nhất là sau khi làm món thịt cá tươi. c- Luôn luôn rửa dao thớt sạch sẽ trước và sau khi làm cá, làm thịt. d- Ðể thịt cá tươi riêng rẽ với rau, trái cây, bánh... đ- Chỉ nên dùng sữa, nước trái cây đã khử trùng. e- Chỉ uống nước có khử trùng bằng chlorine. g- Không uống nước máy, dùng nước đá, thực phẩm bán ngoài hè phố khi đi du lịch tới các vùng mà điều kiện vệ sinh công cộng không bảo đảm. h- Rửa tay trước khi ăn, sau khi đại tiểu tiện, sau khi thay tã cho con... i- Người đang bị nhiễm độc thực phẩm không được sửa soạn thức ăn... Rau spinach Spinach được trồng đầu tiên ở xứ Ba Tư vào khoảng hơn 2000 năm về trước và được dân Ả Rập tôn xưng là “Hoàng tử của các loài rau”. Vào khoảng năm 647 trước Công nguyên, rau du nhập Trung Hoa khi Vua xứ Nepal cống hiến Hoàng đế Tai Tsung nhà Ðường một loại rau quý giá nhất của vương quốc. Spinach tới Tây Ban Nha vào khoảng 1100, rồi từ đó rau trở nên rất phổ biến ở mọi quốc gia. Hiện nay, Trung Hoa cung cấp tới 74% số lượng spinach trên toàn thế giới, rồi đến Hoa Kỳ, 4%. Bên Mỹ, spinach được trồng quanh năm khắp nơi. Tiểu bang California cung cấp quá nửa số lượng spinach trên toàn nước Mỹ, rồi đến Texas, Colorado, Florida... Cách đây mấy chục năm, tại Hoa Kỳ, giá trị dinh dưỡng của spinach được quảng bá qua phim hoạt họa “Người Thủy Thủ Popeye”-Popeye, the Sailorman-. Bình thường, Popeye có thân hình nhỏ bé, xí trai, miệng móm, lúc nào cũng phì phèo ngậm cái ống điếu. Ấy vậy mà khi thấy có người gặp hoạn nạn cần cứu giúp, là anh ta ra tay nghĩa hiệp ngay. Anh chỉ cần mở một hộp spinach chế biến, dốc hết vào miệng, nuốt trôi là nửa phút sau thân hình đã trở nên to lớn, bắp thịt cuồn cuộn, đầy sinh lực. Anh chạy như bay tới cứu người cô đơn, yếu đuối đang bị uy hiếp... Có nhiều loại spinach khác nhau, mỗi loại được trồng vào thời gian khác nhau thích hợp với thời tiết từng mùa trong năm. Spinach có thể mọc trên mọi loại đất, nhưng tốt hơn nếu là đất cát có lẫn phân động vật, khoáng boron, chất hữu cơ nitrogen.. Spinach rất nhậy cảm với đất có nhiều acid, nên cần thử độ acid của đất trước khi trồng. Muốn rau có phẩm chất cao, cần tưới đều đặn để giữ cho đất luôn luôn ẩm. Trồng sau một tháng là rau có thể sẵn sàng ăn được, nhất là vào mùa có khí hậu mát lạnh. Giá lạnh của mùa đông không ảnh hưởng tới sự tăng trưởng của rau. Sau khi thu hoạch, rau được rửa sạch rồi vô bao bì, cất giữ trong phòng đá để gửi tới nơi phổ biến, tiêu thụ. Lá và cuống spinach đều có thể ăn được. Cuống có nhiều chất đường thực vật, rất tốt cho cơ thể. Lá rau rộng bản, nhăn nheo hoặc phẳng, có nhiều thùy ở gốc. Thành phần dinh dưỡng Spinach có rất ít chất béo, không có cholesterol, có một số lượng vừa phải chất đạm, một chút đường, tinh bột, nhiều loại sinh tố, khoáng chất. Spinach là nguồn cung cấp sinh tố C và beta carotene rất dồi dào. Mỗi 100 gr spinach tươi cung cấp tới 36mg beta carotene, trong khi đó 100gr cà rốt tươi chỉ có 14mg beta carotene. Spinach có nhiều calcium, phosphore, sắt, potassium, acid oxalic. Acid oxalic có thể kết hợp với calcium và gây trở ngại cho sự hấp thụ calcium trong cơ thể. Oxalate cũng là một thành phần của sỏi thận. Nửa chén spinach sống có 0,5g chất xơ, 1,880 IU sinh tố A, 54mcg folate, 7mg sinh tố C, 0,3g chất béo, 4,3g carbohydrate, 13 calories. Chín mươi phần trăm trọng lượng của spinach là nước, mà nước là chất dinh dưỡng rất cần thiết cho cơ thể. Cất giữ Chứa lá rau trong túi nhựa rộng và cất trong tủ lạnh. Nếu rau đã để sẵn trong túi nhựa, về nhà nên chia ra làm nhiều túi nhỏ để rau khỏi nhầu nát khi đè ép vào nhau. Rau để trong ngăn đá rất thuận tiện cho việc để dành và dễ dàng để nấu khi cần. Sửa soạn Cho nước chẩy lên rau nhiều lần để loại hết đất cát dính trên lá rau. Vứt bỏ lá vàng úa, gẫy nát. Nếu định ăn sống, nên để trong tủ lạnh mươi phút để rau dòn hơn. Spinach có thể ăn sống hoặc nấu chín. Nấu vừa chín tới với ít nước để duy trì chất dinh dưỡng có trong rau. Vài điều cần lưu ý khi nấu spinach Spinach có nhiều diệp lục tố chlorophyll. Chất này rất dễ phản ứng với acid. Khi nấu, chlorophyll trong lá tác dụng với acid trong nước, khiến cho lá rau đổi sang màu nâu Ðể giữ rau xanh, có thể nấu với nhiều nước, nhưng sinh tố C mất đi khá nhiều hoặc mở vung khi nấu để acid bay ra ngoài. Công dụng y học của spinach Theo tác giả Jean Carper, spinach đã được ghi trong sách American Medicine xuất bản năm 1927 như là có tác dụng trị liệu trong các bệnh thiếu máu, rối loạn tim, thận, tiêu hóa khó khăn, khi cơ thể suy nhược. Do đó, spinach được coi như « Vua của các loại rau ». Ngày nay, đã có nhiều nghiên cứu cho hay rau spinach có khả năng ngăn ngừa một vài loại ung thư như ung thư ruột già, phổi, cuống họng, bao tử, tuyến nhiếp...đặc biệt là ung thư phổi Ðó là nhờ chất chống oxy hóa beta carotene, có rất nhiều trong rau spinach. Kết quả nghiên cứu của bác sĩ Richard Shekelle, Ðại học Texas, cho thấy carotene có thể giảm nguy cơ ung thư phổi ở những người hút thuốc lá lâu năm. Ngoài beta carotene, diệp lục tố chlorophyll trong spinach cũng có khả năng giảm nguy cơ ung thư. Các nghiên cứu tại Ý cho thấy chlorophyll có thể loại bỏ chất gây ung thư nitrosamine Chlorophyll trong rau spinach có công thức hóa học tương tự như công thức của huyết cầu tố (hemoglobin), cho nên có ý kiến cho rằng, tiêu thụ nhiều lục tố này có thể làm tăng lượng huyết cầu tố trong máu. Trong thế chiến, binh sĩ Pháp được cho uống rượu vang có pha thêm nước chiết rau spinach để giúp tăng cường sức khỏe, suy yếu vì mất máu.. Kết quả nghiên cứu bên Nhật chứng minh rau spinach cũng có thể làm giảm cholesterol trong máu ở chuột trong phòng thí nghiệm... Spinach trong kỹ nghệ Các nhà nghiên cứu tại Viện Kỹ Thuật Massachusetts (MIT) đã thành công trong việc sử dụng chất đạm chloroplast của spinach để tạo ra một nguồn điện năng, có thể dùng như cục pin trong máy vi tính cầm tay hoặc điện thoại di động. Tại Ðại học Ohio, các khoa học gia đang nghiên cứu dùng chlorophyll của spinach để giúp kính hiển vi hữu hiệu hơn trong y khoa và các ngành kỹ thuật khác.. Kết luận Coi vậy thì bản thân rau spinach không những vô can trong « biến cố » ngộ độc thực phẩm hiện nay ở Hoa Kỳ, mà vẫn còn là món thực phẩm bổ dưỡng. Cái lỗi là ở con người đã tạo cơ hội cho sự xuất hiện ngộ độc này, qua bất cẩn khi trồng rau, khi thu hoạch, vô bao, chuyên chở rau tới người tiêu thụ ... khiến cho mấy cô chú vi khuẩn 0157 :H7 lẫn lộn vào rau và gây ra bệnh. Bây giờ thì ta hãy tạm thời ngưng ăn spinach sống một thời gian ngắn, để chờ giới chức y tế giải quyết vấn đề. Sau đó, ta lại tiếp tục dùng spinach, Hoàng Tử các Loại Rau, một cách tự nhiên như mọi người đã dùng từ trước tới nay.
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 4:03:02 GMT -5
Thuốc Ở Trong Rau Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Kinh nghiệm dân gian ta vẫn thường nói: “Đói ăn rau, đau uống thuốc”. Nhưng thực ra, rau không chỉ là món ăn nhiều chất dinh dưỡng mà còn là những liều thuốc trị bệnh quý giá. Chẳng thế mà danh y Hải Thượng Lãn Ông của ta đã có nhận xét: “Nên dùng các thứ thức ăn Thay vào thuốc bổ có phần lợi hơn” Và thánh tổ y học phương tây Hippocrates có đưa ra một đề nghị hết sức thuyết phục là “Hãy để rau là vị thuốc”. Mà những loại rau củ có vị đắng chứng tỏ các nhận xét này là rất đúng.
Trái Mướp Đắng màu xanh có bề ngoài gồ ghề ngộ nghĩnh đã được ghi trên sáu con tem biểu tượng cho sáu loại cây thuốc thiên nhiên có dược tính trị bệnh cao mà Liên Hiệp Quốc phát hành vào năm 1980. Mướp đắng chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng căn bản như nước, đạm, carbohydrat, béo, sinh tố và một số khoáng chất với tỷ lệ khác nhau. Mướp đắng có thể dùng để ăn sống, nấu canh, xào với thịt bò, muối dưa, phơi khô làm trà pha nước uống... Canh thịt heo bằm nhỏ nhồi vào mướp đắng là món ăn đặc biệt ở miền Bắc Việt Nam. Mướp đắng hấp với tôm tươi, thịt nạc, mộc nhĩ, nấm hương, hành khô, mắm muối tiêu, xào với thịt.. tạo ra vị hơi đắng hòa với hương thơm mùi tôm thịt là món ăn giải nhiệt, bổ dưỡng.. Món xà lách mướp đắng cũng rất hấp dẫn, ăn vào mát cơ thể.. Mướp đắng được coi như có khả năng làm hạ đường huyết, hạ huyết áp, chữa ho, giảm đau nhức, sát trùng ngoài da, trừ rôm sẩy ở trẻ em. Trong mướp đắng cũng có một hóa chất có khả năng ngăn ngừa sự thụ thai ở loài chuột. Trên thị trường hiện nay có bán trà khổ qua, được giới thiệu là có thể giúp ngủ ngon, đại tiện dễ dàng, mát gan, bổ mật, giải nhiệt, giải độc trong cơ thể và khi dùng thường xuyên sẽ ngừa được các biến chứng của bệnh tiểu đường, sỏi thận, mật....
Actiso Đà Lạt là loại thảo mộc nổi danh ở nước ta. Nổi danh vì khí hậu luôn luôn mát lạnh nơi cao nguyên nhiều nắng khiến cho actiso có năng suất cao. Actisô có nhiều chất dinh dưỡng như các sinh tố C, B, folacin, chất xơ và một vài khoáng chất như sắt, kali. Về phương diện ẩm thực, actisô thường được luộc, hấp cách thủy để ăn hoặc ninh với thịt gà, thịt lợn. Actisô có thể được dùng tươi, để đông lạnh hoặc đóng hộp. Nhiều nghiên cứu cho biết Actisô có tác dụng bảo vệ gan, làm hạ cholesterol trong máu và đường huyết, kích thích sản xuất mật, giảm đau khớp xương, thông tiểu tiện. Tại vài quốc gia, dung dịch chế biến từ actisô được dùng làm thuốc chích chữa các bệnh về gan. Trà Actisô là thức uống được rất nhiều người ưa dùng. Theo nhiều nhà chuyên môn, actisô không gây tác hại cho cơ thể.
Diếp cá hoặc rau Giấp là món ăn ưa thích của bà con miền Nam. Cách đây mấy chục năm, dân cư miền sông Hồng, núi Ngự vào giao lưu với Cửu Long Giang là rất lắc đầu “nhăn mặt” vì vị tanh tanh “lợm giọng” khi ăn phải cọng rau này. Vậy mà bây giờ, Nam Trung Bắc một nhà, nhiều người cũng đều ưa thích diếp cá. Nhưng cái tanh tanh, béo béo của diếp cá lại rất “hiệp nhất” với cái tanh của những miếng cá còn tươi. Phải chăng đây là duyên tiền định với tên “diếp cá”. Trung Quốc gọi diếp cá là “Ngư Tinh Thảo” và tiếng Anh gọi là Fish Mint Ở nước ta, diếp cá mọc hoang khắp vùng đất ẩm thấp và cũng được trồng làm rau ăn hoặc làm thuốc trị bệnh. Diếp cá có thể ăn sống hoặc dùng làm gia vị chung với các rau khác trong bữa ăn. Có người hầu như ghiền với diếp cá, thiếu nó như thiếu người tình hơi “bị” cho là chanh chua nhưng dễ thương. Lá diếp cá ăn vào rất mát, có thể làm trĩ hậu môn xẹp xuống. Ngoài ra, diếp cá cũng được y học dân gian tại nhiều quốc gia dùng làm lợi tiểu tiện, hạ cao huyết áp, giảm ho, tiêu diệt vi khuẩn. Nghiên cứu tại viện y dược Toyama, Nhật Bản, cho hay diếp cá có chất chống oxy hóa rất mạnh quercetin có thể ngăn chặn nhiều loại ung thư và tăng cường tính miễn dịch.. Trong Lĩnh Nam Bản Thảo, danh y Hải Thượng Lãn Ông tóm tắt: “Ngư Tinh Tảo gọi cây rau Giấp Ấm cay, hơi độc, mùi hôi tanh Ung thũng, thoát giang với đầu chốc Đau răng, lỵ ngược chữa mau lành”.
Khát khô cả họng trong nắng tháng Bảy của Sài Gòn mà gặp một xe bán Nước Rau Má xanh mát thì cơn khát không những hết đi mà tâm hồn cón thấy sảng khoái. Thực vậy, nghiên cứu tại Ấn Độ cho hay nước chiết rau má không những tăng khả năng trí tuệ của trẻ em có thương số thông minh (IQ) thấp mà còn làm người cao tuổi giảm bớt những quên này quên kia, giúp thị lực bớt nhạt nhòa. Nhiều nghiên cứu khác còn gợi ý rằng rau má trị được cả bệnh vẩy nến, vết phỏng, vết thương, viêm khí quản, chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt, lợi tiểu. Từ những năm 1960, Giáo sư Bửu Hội đã nghiên cứu tác dụng trị bệnh phong với rau má. Ngày nay, nhiều khoa học gia cho là chất Asiatioside của rau má có tác dụng tương đương với dược phẩm trị phong chính là Dapsone. Rau má có tính lạnh cho nên người tỳ vị hàn, hay đi tiêu chảy, cần cẩn thận khi dùng.
Rau Đắng đã đi vào văn hóa âm nhạc trong những bài viết nhiều tình người, tình quê hương của nhạc sĩ Bắc Sơn từ rừng cao su Dầu Tiếng. Nhăc phẩm “Còn thương rau đắng mọc sau hè” với tiếng hát Hương Lan, Như Quỳnh đã làm bao nhiêu khách ly hương khi nghe mà mắt nhòe ướt lệ. “Ai cách xa cội nguồn Ngồi một mình nhớ lũy tre xanh Dạo quanh khung trời kỷ niệm Chợt thèm rau đắng nấu canh” Vì nhớ tới những lũy tre xanh nơi có người chị đầu bạc tóc ân cần nhổ tóc sâu cho chú em từ xa về thăm quê. Có những bà mẹ hiền luôn luôn chăm sóc miếng ăn, thức uống cho chồng cho con. Rau đắng nấu canh với các loại cá, nhúng lẩu hoặc chấm mắm kho là những món ăn tuyệt hảo của bà con miệt đồng. Rau đắng còn có thể nấu với thịt heo bầm nhuyễn, với tép, với tôm… Mới ăn rau có vị khá đắng, chỉ kém có khổ qua, nhưng ăn quen lại thấy ngòn ngọt, nhớ hoài. Rau đắng cũng được dùng trong y học. Theo Giáo sư Đỗ Tất lợi, rau đắng được dùng làm thuốc lợi tiểu, bổ thận, giúp ăn ngon và giảm đau khi đắp lên nơi tê thấp, rắn cắn.
Kết luận Nhà dinh dưỡng uy tín Hoa Kỳ Jean Carpenter phát biểu rằng “Trong thực phẩm có dược phẩm. Thay đổi dinh dưỡng có thể ngăn ngừa và giảm sự trầm trọng của bệnh tật” Đây là lời khuyên khá hữu ích mà chúng ta cũng nên theo.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức, Texas- Hoa Kỳ
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 4:08:21 GMT -5
Đôi điều về cà phê, nước uống Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức (Câu Chuyện Thầy Lang)
1-Câu hỏi được nêu ra là “vì sao uống nước trà đậm thì mất ngủ”? Chúng ta biết rằng trà cũng như cà phê có chất caffeine. Caffeine là một hóa chất hữu cơ thuộc nhóm purines. Tác dụng chính của caffeine là kích thích hệ thần kinh trung ương, tăng sinh hoạt trí tuệ, làm ta tỉnh táo nhất là khi con người mỏi mệt hoặc chán nản. Với giấc ngủ thì ảnh hưởng tùy người: có người gặp khó khăn, có người không khi uống cà phê. Caffeine làm thư giãn cơ thịt trong thành động mạch, tăng sức bóp của tim, tăng máu từ tim đưa ra, tăng huyết áp. Caffeine tăng dịch vị bao tử nên nhiều người ưa uống cà phê sau khi ăn để dễ tiêu hóa thực phẩm. Caffeine làm tăng sự dẻo dai của lực sĩ thể thao, vì thế Ủy Ban Thế Vận kiểm soát coi họ có dùng quá nhiều chất kích thích này. Caffeine làm tăng sự bài tiết nước tiểu. Sau khi uống, caffeine thấm nhập rất mau vào khắp các bộ phận của cơ thể. Thời gian bán hủy là 3 giờ nên caffeine không tích tụ trong cơ thể. Đa số caffeine được thải khỏi cơ thể qua nước tiểu. Mỗi người có đáp ứng khác nhau với caffeine. Do đó có người uống ba bốn ly trà hoặc cà phê một lúc mà không cảm thấy thay đổi gì. Trong khi đó, người không quen với caffeine, chỉ uống một ly trà hoặc cà phê là đã thấy nóng nảy, hồi hộp, tim đập nhanh. Một người đã quen dùng caffeine rối mà ngưng tức thì, họ sẽ cảm thấy mệt mỏi, nhức đầu, buồn ngủ. Nếu họ ngưng từ từ thì không bị các khó khăn này. Liều lượng trung bình của caffeine là 200mg, tùy theo từng người. Khi dùng tới số lượng trên 1000 mg thì trong người thấy mất ngủ, bất an, tim đập nhanh, thở hổn hển, buồn tiểu, ù tai, xót ruột. Tử vong có thể xảy ra khi dùng tới trên 10 gram (80-100 ly) caffeine. Đã có nhiều nghiên cứu về tác dụng “tỉnh ngủ” của caffeine. Các nghiên cứu này đều tập trung vào hóa chất adenosine do não bộ sản xuất khi ta không ngủ hoặc khi làm việc. Cơ thể càng làm việc nhiều thì Adenosine sản xuất càng cao. Hóa chất này sẽ bám các thụ thể ức chế của tế bào thần kinh, làm thần kinh giảm hoạt động và ta cảm thấy buồn ngủ. Đây cũng là phản ứng tốt, vì nếu cứ kéo dài sự làm việc thì cơ thể sẽ mau suy nhược. Giấc ngủ là cơ hội để cơ thể nghỉ ngơi, bồi dưỡng sinh lực, sẵn sàng cho các hoạt động kế tiếp. Caffeine có cấu trúc tương tự như adenosine. Chúng chiếm chỗ của adenosine nơi các thụ thể thần kinh và kích thích hệ thần kinh. Hệ thần kinh hoạt động nhiều hơn và một trong những hậu quả là ta thấy tỉnh táo, nhanh nhẹn hơn. Vì thế các tài xế lái xe đường trường, những người làm việc trí óc nhiều…đều uống cà phê để trở nên sáng suốt. Caffeine cũng khiến cho cơ thể tăng sản xuất adrenaline vì tưởng như có chuyện khẩn trương xẩy ra. Con ngươi mở rộng, mạch máu giãn nở để đưa nhiều máu ra ngoại vi, tim đập nhanh, hơi thở tăng để sẵn sàng đối phó. Caffeine còn ảnh hưởng lên hóa chất Dopamine, một chất gây cảm giác sảng khoái tương tự như heroine, amphetamine. Caffeine kích thích não, sản xuất nhiều dopamine hơn. Nói chung, caffeine khiến cho cơ thể ở trong tình trạng tỉnh táo. Vậy thì tại sao nhiều người uống trà hoặc cà phê mà vẫn ngủ như thường, Điểm này chưa có giải thích rõ ràng, chính xác. Tuy nhiên, như đã trình bầy ở trên, mỗi người có mẫn cảm khác nhau với caffeine. Nhiều người uống cà phê, nước trà như uống nước lã, mà họ vẫn ngủ say như chết. Trong các trường hợp này, có thể là họ quen nhờn với tác dụng của caffeine. Ngược lại, có người chỉ thử một ly trà nhỏ đã trằn trọc suốt đêm, không ngủ được. Caffeine kích thích tim mạch, cho nên khi tiêu thụ, nhịp tim nhanh hơn, huyết áp hơi tăng, hơi thở hơi nhanh. Các thay đổi này chỉ thoảng qua, sau khi caffeine bị loại ra khỏi cơ thể trong vài ba giờ. Cũng như theophylline, caffeine là chất lợi tiểu nhẹ nhưng không ảnh hưởng nhiều lắm tới mức độ nước trong cơ thể. Vì thế, nhiều người cứ uống cà phê vô là mót tiểu tiện. Nhân đây, cũng xin nói thêm là mặc dù chất caffeine trong cà phê, nước trà đã được nghiên cứu khá nhiều, nhưng nhiều người vẫn có một vài ngộ nhận về hóa chất này. Có nghiên cứu nói là cà phê có thể gây ra ung thư, bệnh tim mạch, khuyết tật trẻ em… Nhưng điều này chưa được các khoa học gia thống nhất đồng ý. Theo Cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ cũng như Cơ quan Y tế Thế giới, nếu dùng vừa phải, caffeine không có ảnh hưởng xấu cho cơ thể. Vừa phải là khoảng 300 mg caffeine mỗi ngày, tương đương với ba ly cà phê. 2-Ít nhất Tám ly nước mỗi ngày Liên quan tới việc uống nước, một lời khuyên thường được nêu ra là: “Phải uống ít nhất 8 ly nước, mỗi ly 8 oz, mỗi ngày. Rượu bia, cà phê không được gộp vào số lượng này”. Quy luật này từ đâu mà ra. Liệu có phải uống 8x8” mỗi ngày như lời khuyên. Nếu không thì uống bao nhiêu là đúng. Thực ra, chưa có trả lời chính xác về nguồn gốc của quy luật bất thành văn 8x8” này. Năm 2002, nhà sinh học Heinz Valtin của Đại học Y khoa Darmouth, Lebanon, New Hampshire, đã cố gắng tìm kiếm xuất xứ của 8x8” và chỉ thấy câu văn sau đây do nhà dinh dưỡng có uy tín của Hoa Kỳ, bác sĩ Fredrick J. Stare viết vào năm 1974: “Bao nhiêu nước mỗi ngày? Điều này được quy định bới nhiều nguyên tắc sinh lý khác nhau, nhưng với một người trưởng thành bình thường, khoảng từ 6 tới 8 ly trong 24 giờ và số lượng này có thể từ cà phê, trà, nước có hơi, rượu bia vv. Các loại trái cây và rau cũng là nguồn cung cấp nước rất tốt”. Theo tiến sĩ Valtin, nội dung câu viết của bác sĩ Stare có ba điều cần lưu ý: -Chưa có bằng chứng khoa hoc nào hỗ trợ cho ý kiến của bác sĩ Stare -Bác sĩ Stare viết uống từ 6 tới 8 ly mỗi ngày chứ không phải là 8 ly. -Trà, cà phê và rượu được coi như bao gồm trong số lượng 6-8 ly mỗi ngày. -Số lượng nước tiêu thụ được quy định theo các hoàn cảnh sinh lý của cơ thể mỗi người. Theo các nhà dinh dưỡng, tuy không có dẫn chứng khoa học hỗ trợ, nhưng quy luật 8x8” này được coi như một hướng dẫn cho việc tiêu thụ nước và các chất lỏng khác. Và cũng nhờ sự quá phổ biến của quy luật này mà mọi người lưu tâm tới việc uống nước: đi chơi, đi làm cũng kè kè một chai chất lỏng tinh khiết. Thực ra, nhu cầu nước của cơ thể tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng cơ thể, khỏe mạnh hay yếu đuối, sinh hoạt ra sao và sống ở địa phương nào. Điều rõ ràng là nước rất cần cho cơ thể để loại bỏ chất có hại ra ngoài, để chuyên chở chất dinh dưỡng nuôi mô bào, để mang độ ẩm cho các bộ phận cơ thể. Nước chiếm 70% trọng lượng toàn thân. Số chất lỏng này không phải nằm cố định trong người mà hao hụt đi mỗi ngày qua nước tiểu 1.5 lít cộng thêm khoàng 1 lit qua phẩn, mồ hôi, hơi thở. Do đó cơ thể cần được bổ sung số lượng chất lỏng thất thoát để duy trì sự sống. Trong điều kiện sức khỏe bình thường, với môi trường khí hậu ôn hòa, vận động làm việc vừa phải, Viện Y khoa Hoa kỳ khuyên đàn ông nên tiêu thụ 3 lít chất lỏng mỗi ngày còn phụ nữ cần khoảng 2.5 lít. Chất lỏng nói chung bao gồm cả nước, nước trái cây, các loại giải khát có caffeine, nước ngọt, bia rượu và chất lỏng trong thực phẩm. Thực phẩm cung cấp tới 20% chất lỏng vì nhiều loại có rất nhiều nước như dưa hấu, cà chua… Điều cần để ý là không nên coi rượu bia, nước uống có cà phê là nguồn cung cấp chất lỏng chính yếu. Như vậy, mỗi ngày chúng ta tiêu thụ một lượng chất lỏng để khỏi cảm thấy khát nước đồng thời loại ra khoảng 1.5 lit nước tiểu trong là ta đã đáp đúng nhu cầu chất lỏng của cơ thể. Những trường hợp sau đây cần tiêu thụ thêm chất lỏng: -Vận động cơ thể, sống trong môi trường khô, nóng đều làm toát nhiều mồ hôi hơn thường lệ. Vận động nhiều giờ liên tục cần dùng thêm muối sodium vì mồ hôi toát ra làm tiêu hao muối khoáng này của cơ thể. -Bệnh hoạn với nóng sốt, ói mửa, nhiễm độc đường tiểu tiện, sỏi thận, tiểu đường -Có thai hoặc cho con bú sữa mẹ. Viện Y Khoa Hoa Kỳ khuyên bà mẹ có thai nên uống 2.3 lít và khi cho con bú cần 3.1 lít chất lỏng mỗi ngày. Ngoài vai trò căn bản của chất lỏng như đã nói, cũng có rất nhiều nghiên cứu kể ra những ích lợi khác của nước như giảm cân, giảm ung thư. Tuy nhiên, các kết quả này chưa được đa số các nhà nghiên cứu đồng ý. Nhiều loại nước trên thị trường quảng cáo có thêm sinh tố khoáng chất. Dân chúng thấy hấp dẫn, cũng mua dùng, nhưng trong lòng vẫn thắc mắc là liệu có ích lợi gì không. Theo các nhà dinh dưỡng, việc pha thêm sinh tố vào nước cũng chẳng giúp ích gì. Thực phẩm có đủ loại sinh tố khoáng chất. Nếu ta ăn uống đầy đủ thì chẳng cần dùng thêm các chất dinh dưỡng tý hon này. Ấy là chưa kể, các sinh tố hòa tan trong mỡ như A, D, E, K không hòa tan trong nước. Hoặc nếu nước uống đó lại có quá nhiều sinh tố, khoáng chất như kali, thì lại có bất lợi.
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 4:09:40 GMT -5
Lại nói về Sinh Tố, Khoáng Chất Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Trong góc tiệm phở, cụ Linh và cụ Đặng đang rù rì tâm sự: -Này cụ ạ, từ ngày tôi uống thêm sinh tố E, “thằng nhỏ” nó mạnh ra phết. -Vậy à, thế cụ uống bao nhiêu viên? -Tôi uống có một viên mỗi ngày. Nhưng hình như khi nào uống tới 2 viên thì tốt hơn. Tốt hơn cả mấy chú V, C đấy. (1) -Vậy thì tôi cũng phải thử mới được. Chứ cứ “Trên bảo, dưới không nghe”mãi, chán quá. Truyền hình, radio, báo chí thường xuyên phổ biến những quảng cáo, kết quả nghiên cứu cho hay sinh tố này làm tóc óng mượt, làm da mềm mát, khoáng chất kia giúp trẻ mãi không già, ăn ngon ngủ yên, không còn căng thẳng buồn phiền lại thêm thông minh, nhớ dai siêu việt. Các nhà kinh tế cho hay, hàng năm công chúng tiêu cả nhiều tỷ đô la để mua các sinh tố khoáng chất về dùng thêm. Cứ theo như thăm dò dư luận thì có tới 70-80% dân chúng đang dùng thêm sinh tố khoáng chất theo ý muốn của mình, do bạn bè rỉ tai, sau khi nghe “khuyến mãi” hoặc do bác sĩ chỉ định. Vậy thì sinh tố, khoáng chất là gì, công dụng ra sao mà được nhiều người tốn tiền mua về dùng thêm như vậy? Hiểu biết căn bản Tiếng Anh, Pháp gọi sinh tố là Vitamins. Vita là life, là sự sống; amin là tên một hóa chất. Vậy thì vitamins là “hóa chất amin cần thiết cho sự sống.” Từ điển y học Webster định nghĩa vitamins là “một trong những chất hữu cơ, hiện diện với số lượng rất ít trong thực phẩm thiên nhiên và rất cần thiết cho sự chuyển hóa bình thường trong cơ thể”. Theo các nhà y khoa học, số lượng sinh tố cần thiết cho cơ thể rất ít, tính theo phần ngàn của gram (milligram), đôi khi nhỏ hơn nữa, phần triệu của gram. Chẳng hạn như sinh tố C là sinh tố nên cung cấp cho cơ thể nhiều nhất, mà cũng chỉ có 60mg mỗi ngày, sinh tố B12 chỉ cần 6mcg/ ngày. 1mcg bằng 1/triệu gram. Sinh tố có tự nhiên trong thực phẩm, đôi khi do cơ thể tạo ra và có thể được tổng hợp trong phòng thí nghiệm. Có 13 loại sinh tố với tên theo mẫu tự A, B, C, D, E, K…Ngoài tên theo mẫu tự, vài sinh tố có tên riêng như B1 còn gọi là thiamine, B6 là pyridoxine. Sinh tố được chia ra làm hai nhóm: -Nhóm hòa tan trong dầu mỡ là sinh tố A, D, E, K. Vì tan trong dầu nên nếu tiêu thụ quá nhiều, sinh tố sẽ được dự trữ trong mô bào béo và đôi khi có thể gây độc cho cơ thể. -Nhóm hòa tan trong nước là các sinh tố B (B1, B2, B3, B5, B6, B12), biotin, folacin, và sinh tố C. Tiêu thụ quá nhu cầu, các sinh tố này sẽ loại theo nước tiểu ra ngoài do đó tương đối ít gây nguy hại. Mỗi loại thực phẩm có sinh tố theo tỷ lệ nhiếu ít khác nhau. Có thực phẩm hầu như không có một vài trong số 13 sinh tố cần thiết vừa kể. Mỗi sinh tố có một nhiệm vụ riêng do đó sinh tố này không thay thế hoặc làm công việc của sinh tố kia. Khoáng chất cũng có trong thực phẩm với nhiều loại và với tỷ lệ nhiều ít khác nhau. Các khoáng thường được nói tới là calci, iodine, sắt, magnesium, phosphor, selelium, kẽm. Ngoại trừ calci với nhu cầu hàng ngày từ 1-2 gram, các khoáng khác chỉ cần trên dưới 100mg mỗi ngày. Để có đủ các loại sinh tố, khoáng chất ta chỉ cần phối hợp, tiêu thụ nhiều loại thực phẩm khác nhau trong mỗi bữa ăn. Dùng thêm Nếu phần ăn đã có đủ các loại sinh tố, khoáng chất cho nhu cầu cơ thể thì có phải uống thêm không? Nếu cần thì trong những trường hợp nào? Sinh tố có gây ra tác dụng nguy hại nếu dùng quá nhiều, quá lâu không? Và liệu có nên dùng thêm để phòng tránh bệnh này, chữa trị bệnh kia. Đây là đề tài được nói tới rất nhiều của cả thường dân cũng như giới y khoa học. Điều này cũng dễ hiểu, vì chúng ta đang sống trong thời kỳ mà mọi người đều có ý thức cao về vấn đề tự bảo vệ sức khỏe và cũng vì khám chữa bệnh bây giờ quá tốn kém, nhiêu khê, mất nhiều thì giờ. Cho nên, ai ai cũng muốn tìm những phương thức sẵn có để bồi dưỡng cơ thể, tránh bệnh tật. Dùng thêm sinh tố, khoáng chất là chuyện rất phổ biến, vì sinh tố khoáng chất sẵn có trên thị trường, mua lúc nào cũng được và cũng được giới thiệu với nhiều lời “khuyến mãi” hấp dẫn. Nên để ý là các sản phẩm này được xếp vào loại dinh dưỡng phụ thêm, chứ không thay thế cho thực phẩm và cũng không là dược phẩm. Nhà sản xuất không cần xin phép chính quyền trước khi tung ra thị trường, trừ khi gây ra nguy hại cho sức khỏe công chúng. Tới khi đó thì chính quyền mới can thiệp, yêu cầu thu hồi. Một số người nghiêng về việc cần dùng thêm, vì: -Cho là thực phẩm càng ngày càng kém phẩm chất vì đất trồng trọt kém mầu mỡ, nhiều hóa chất trừ sâu, phân bón hóa học khiến cho sản phẩm nom đẹp chứ ít dinh dưỡng. -Nhiều người dường như thích ăn thực phẩm tạp nham hơn là thực phẩm nhiều dinh dưỡng, do đó họ sợ là sẽ thiếu sinh tố khoáng chất. -Mọi người làm việc cực nhọc hơn và ăn uống ít hơn vì không có thì giờ, đưa tới thiếu sinh tố khoáng chất. -Đọc nghe các lời giới thiệu nói dùng thêm sẽ tăng cường sinh lực, bồi bổ trí óc, ăn ngủ điều hòa, trẻ mãi không già… Do đó họ cảm thấy yên tâm hơn, nếu uống thêm mấy viên hỗn hợp sinh tố, khoáng chất. Điều này thực ra cũng hợp lý, nếu dùng vừa phải sau khi đã tham khảo ý kiến với bác sĩ gia đình. Giới chức dinh dưỡng, y tế thường dè dặt hơn với các ý kiến như: -Nên để ý là chưa có sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu về việc dùng thêm một số lượng lớn sinh tố khoáng chất có thể phòng tránh được bệnh và đưa tới tuyệt hảo về sức khỏe. -Khoa Trưởng Danh Dự khoa Dinh Dưỡng Stanley Gerhoff, Đại Học uy tínTufts, tâm sự như sau: “Không gì làm vui lòng chúng tôi hơn là khi có thể thông báo cho công chúng rằng dùng liều lượng lớn một hoặc nhiều chất dinh dưỡng sẽ mang đến phúc lợi cho sức khỏe. Trước khi nói được như vậy, một số tiêu chuẩn cần được xác định: sản phẩm phải hữu hiệu, an toàn với số lượng dùng rõ ràng. Các chất chống oxy hóa chưa hội đủ các tiêu chuẩn này. Kết quả nhiều nghiên cứu đã bị các khoa học gia, truyền thông và các doanh nhân sản xuất antioxidant bóp méo. Công chúng trở nên bối rối, khó mà phân biệt thực, hư. -Tại Hoa Kỳ, trên mỗi sản phẩm phụ thêm, các nhà sản xuất đều phải ghi rõ là “Các điều ghi ở đây chưa được cơ quan Thực Dược Phẩm đánh giá. Sản phẩm này không có mục đích để chẩn đoán, điều trị hoặc chữa lành bệnh”. Các quốc gia khác chắc cũng có ghi chú tương tự, để lưu ý người dân, tránh bị lừa đảo lợi dụng. -Chuyên gia dinh dưỡng Karen Miller-Kovach nhận thấy là một số không nhỏ sản phẩm có sinh tố khoáng chất nhiều gấp bội nhu cầu cơ thể và đưa tới mất cân bằng. Một số khác lại có các chất rẻ tiền như sinh tố nhóm B hoặc nhiều sinh tố C mà quần chúng ưa thích. Sản phẩm căn cứ trên thị hiếu của dân chúng nhiều hơn là nhu cầu dinh dưỡng. -Đối với cơ thể, quá nhiều một vài sinh tố khoáng chất có thể gây nguy hại cho sức khỏe. Giáo sư Đại học John Hopkins Benjamin Caballero đưa ra một thí dụ: “Nếu đã tiêu thụ thực phẩm có đầy đủ sinh tố A mà lại còn dùng thêm tới 100% nhu cầu thì cơ thể sẽ dễ dàng tích tụ quá nhiều sinh tố này và tăng rủi ro bệnh loãng xương”. -Ngày 16-4-2008 vừa qua, các khoa học gia tại bệnh viện Đại học Copenhagen, Đan mạch, đã công bố kết quả kiểm điểm hơn 70 nghiên cứu về tác dụng của các chất chống oxy hóa vitamins E, A, Beta carotene đối với tuổi thọ. Theo các bác sĩ Goran Bjelakovic và Christian Gluud của nhóm nghiên cứu, “không có bằng chứng nào hỗ trợ cho ý kiến là dùng thêm các antioxidant có thể giảm rủi ro tử vong ở người khỏe mạnh hoặc ở người đang bị nhiều bệnh”. Nhóm đề nghị nên có những điều khoản quy định về việc dùng các chất antioxidant, tương tự như quy định liều lượng tối đa đối với thuốc chống đau paracetamol (Tylenol). Đại diện Hội Dinh Dưỡng Anh quốc Catherine Collins cũng đồng quan điểm về các quy luật này. -Một số khoáng chất cũng vô hiệu hóa lẫn nhau để được hấp thụ. Chẳng hạn kẽm tranh đua với sắt mà sắt lại kèn cựa với sự hấp thụ calcium. Hội Dinh Dưỡng Hoa Kỳ và các tổ chức y khoa đáng tin cậy đều đồng ý là phương thức hữu hiệu nhất để cung cấp cho cơ thể các vitamins và khoáng chất cần thiết là qua một chế độ dinh dưỡng cân bằng, đa dạng và hợp lý. Tuy nhiên, trong mấy trường hợp đặc biệt như sau, đôi khi cũng nên dùng thêm sinh tố, khoáng chất: -Người cao tuổi thường ăn không đầy đủ các chất dinh dưỡng vì sức khỏe kém. tâm trạng buồn rầu, răng lợi lung lay, tác dụng phụ khi uống nhiều thuốc, khẩu vị giảm, ăn uống ít đi, nhất là nếu lại sống đơn côi, trong nhà dưỡng lão. Ngoài ra, cơ thể họ cũng không hấp thụ được một số chất dinh dưỡng như sinh tố D, B12…Các vị này cần phải dùng thêm các đa sinh tố khoáng chất để bổ sung cũng như để tăng cường hệ miễn nhiễm, bảo vệ cơ thể với rủi ro bệnh tật. -Với phụ nữ ở tuổi mãn kinh, giảm estrogen đưa calci vào xương, cần hỏi ý kiến bác sĩ để dùng thêm calci và sinh tố D để phòng tránh bệnh loãng xương. -Phụ nữ có thai và cho con bú, cần được bác sĩ hướng dẫn dùng thêm sắt, calci, folic acid cho nhu cầu của mẹ và con. Con cần calci để tạo xương. Sắt để mẹ có thêm hồng huyết cầu. Folic acid để con tránh được khuyết tật nứt đốt sống (spina bifida) với liệt hạ chi, chậm phát triển tâm trí. -Hóa chất trong thuốc lá giảm sự hấp thụ các sinh tố C, B6, niacin, folic acid. Quý vị thường xuyên “nhớ nhà châm điếu thuốc” cần dùng thêm các chất này. Tuy nhiên cũng xin thưa là, việc bổ sung sinh tố không tránh cho quý vị khỏi những rủi ro của thuốc lá như ung thư phổi, ho… -Uống rượu như uống nước suối, cơ thể không tiêu hóa, hấp thụ được nhiều sinh tố khoáng chất như A, D, B12, niacin, folic acid, selenium, magnesium, phosphor, kẽm. Ấy là chưa kể, nếu “lấy rượu thay cơm” thì hậu quả còn tai hại hơn nữa cho sức khỏe. -Ăn theo chế độ riêng như chỉ ăn rau trái thì cần thêm sinh tố B12 vì sinh tố này chỉ có trong thực phẩm từ động vật. -Nếu không ăn được vài thực phẩm vì bị dị ứng hoặc bất dung cũng cần dùng thêm các sinh tố khoáng chất mà thực phẩm này có nhiều. Chẳng hạn, nếu không dùng được sữa, phó mát và không tắm nắng mặt trời mươi phút mỗi ngày thì cần dùng thêm calci, sinh tố D để xương vững chắc. -Nếu đang bị bệnh gan mật, ruột, tụy tạng hoặc sau giải phẫu ống tiêu hóa, cơ thể sẽ không tiêu hóa, hấp thụ được một cách hoàn hảo và ta sẽ thiếu các chất dinh dưỡng. Trong các trường hợp này, bác sĩ sẽ giúp ta lựa chọn các sinh tố, khoáng chất mà cơ thể cần. -Một vài loại dược phẩm như thuốc lợi tiểu, thuốc chống acid bao tử, thuốc kháng sinh, thuốc nhuận tràng, thuốc viên ngừa thai cũng làm mất một số sinh tố khoáng chất trong cơ thể, và ta phải dùng thêm để bồ sung, sau khi được bác sĩ xác định nhu cầu. Lựa chọn Trước khi quyết định mua dùng thêm sinh tố khoáng chất, nên cân nhắc: -Có thực là mình cần phải dùng thêm sinh tố khoáng chất để phụ thêm cho chế độ dinh dưỡng. -Sản phẩm định mua, khi vào cơ thể, liệu có thực hiện đúng điều mà nhà sản xuất giới thiệu. -Các chất nằm trong sản phẩm có đúng là các chất mà nhà sản xuất ghi trên nhãn hiệu. -Thành phần sản phẩm có căn cứ vào kết quả các nghiên cứu mới nhất về dinh dưỡng. -Sản phẩm có được bảo đảm là hữu hiệu và không gây hại cho người tiêu thụ -Sản phẩm dùng thêm này có tác động qua lại với dược phẩm hoặc các chất phụ thêm mà ta đang dùng. -Không cần trả thêm tiền cho quảng cáo là sản phẩm hoàn toàn hữu cơ, vì bản chất của sinh tố đã là chất hữu cơ. -Dù là thiên nhiên nhưng sinh tố khoáng chất cũng có thể gây nguy hại cho cơ thể, nếu dùng thêm quá nhiều. -Không có sinh tố khoáng chất nào có thể trực tiếp tăng cường sinh lực cho một người không thiếu các chất dinh dưỡng này. -Sinh tố khoáng chất chỉ là “chất mồi”, cần thiết với số lượng rất ít cho các chức năng cơ thể. -Các sinh tố khoáng chất phối hợp với nhau để tác động lên cơ thể, vì thế không nên dùng riêng rẽ từng thứ mà tập hợp nhiều thứ để có sự cân bằng với nhau. -Nên đọc kỹ nhãn hiệu và theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất. -Dùng khi ăn, để tránh gây khó chịu cho dạ dày -Cất giữ sinh tố khoáng chất xa tầm với của con trẻ -Đừng nói với trẻ em rằng sinh tố khoáng chất là “viên kẹo”, kẻo chúng tưởng thật và lấy ăn. Kết luận Một chế độ ăn uống hợp lý với tuổi tác và hiện trạng cơ thể vẫn là điều cần thiết để có đầy đủ các chất dinh dưỡng, kể cả sinh tố khoáng chất. Bác sĩ Benjamin Caballero, Giáo sư Đại học Y tế Công Cộng John Hopkins có ý kiến: “Nhiều người có ảo tưởng là sinh tố khoáng chất có thể bù đắp cho việc ăn uống cẩu thả. Nếu ta tiêu thụ thực phẩm táp nham (junk food) mỗi ngày thì sinh tố là vấn đề vô nghĩa đối với mình. Không gì có thể thay thế được một chế độ dinh dưỡng lành mạnh. Chúng ta không biết chất nào trong chế độ này là tác giả của một điều kiện sức khỏe tốt. Nhưng điều mà ta biết rõ là những ai ăn uống hợp lý đều ít bệnh hơn”. Vì sinh tố khoáng chất dùng thêm không bao giờ có thể thay thế cho sự ăn uống đầy đủ sáu chất dinh dưỡng căn bản: chất đạm, chất béo, tinh bột, sinh tố, khoáng chất và nước.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức Texas-Hoa Kỳ (1) Viagra, Cialis là hai thuốc điều trị Rối Loạn Cương Dương
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 4:34:53 GMT -5
Probiotic & Yogurt Nguyễn thượng Chánh, DVM
Yogurt hay sữa chua lên men là một loại thực phẩm mà ai cũng đều biết hết. Đây là một thức ăn ngon miệng đồng thời cũng là một thực phẩm chức năng đầy tính bổ dưỡng. Yogurt được làm cho lên men bởi những loại vi khuẩn tốt, đó là những Probiotics. Probiotic là gì? Đây là những vi khuẩn có ích lợi cho sức khỏe chúng ta. Probiotic là những vi khuẩn tốt sống trong đường tiêu hóa và ngay cả trong âm hộ. Sự hiện diện của probiotic giúp ngăn chận tác hại của các vi khuẩn xấu xâm nhập vào ruột. Thí dụ điển hình về probiotic là vi khuẩn Bifidobacterium và vi khuẩn Lactobacillus trích từ hệ vi sinh đường ruột. Hai loại vi khuẩn nầy từ lâu đã được Nhật bản và Âu châu sử dụng trong kỹ nghệ sản xuất sữa chua lên men. Tại Hoa Kỳ, trên 60% yogurt có chứa bifidobacterium và lactobacillus. Trong kỹ nghệ yogurt, các probiotics sau đây thường được thấy sử dụng: Bifidobacterium bifidum, Bifidobacterium breve, Bifidobacterium infantis, Bifidobacterium longum, Lactobacillus acidophilus và Lactobacillus casei. Probiotic có ích lợi gì cho sức khỏe? Theo giới thuốc thiên nhiên, kỹ nghệ sữa cũng như ý kiến của một số nhà dinh dưỡng thì yogurt là một thực phẩm chức năng (functional food) rất tốt cho sức khỏe. Probiotic trong yogurt có thể đem đến cho cơ thể những lợi ích sau đây: *-Ngăn chận sự xâm nhập của các vi khuẩn gây bệnh bằng cách cản chúng bám vào thành ruột. *-Giúp cho việc tiêu hóa thức ăn được hữu hiệu hơn. Đối với những người thường bị chứng bất dung nạp đường lactose (intolérance au lactose) thì probiotic sẽ giúp họ tiêu hóa chất đường nầy được dễ dàng hơn. *-Giảm nguy cơ bị tiêu chảy do uống nhiều thuốc kháng sinh (antibiotic associated diarrhea hay AAD). *-Điều hoà hệ miễn dịch. *-Ngừa cancer ruột. *-Giảm cholesterol trong máu. *-Giảm thiểu hiện tượng dị ứng. *-Các thí nghiệm gần đây cho biết probiotic cũng có ít nhiều tác dụng tốt trong việc chữa trị các bệnh viêm ruột tiêu chảy do virus và vi khuẩn chẳng hạn như Clostridium difficile. Có quảng cáo còn đi xa hơn nữa, như bảo…probiotic giúp vào việc quân bình của các hormones, ngừa viêm đường tiết niệu và viêm âm hộ, ngăn ngừa chứng loãng xương, ngăn chặn tác dụng độc hại của tia phóng xạ và của các kim loại nặng, ngừa chứng hôi miệng và giảm stress, v.v… Trên đây là những gì kỹ nghệ probiotic đã quảng cáo. Tại Canada và Hoa Kỳ, probiotic chỉ được xếp vào loại thực phẩm bổ sung (dietary supplement) mà thôi. Ở dạng bột và dạng viên probiotic phải chịu sự chi phối của cơ quan FDA thông qua luật Dietary Supplement Health and Education Act Standards...Trường hợp dùng để làm lên men yogurt, kefir (cũng là một loại sữa lên men) thì probiotic được xem như nằm trong thành phần bình thường của sản phẩm ...Trường hợp kỹ nghệ muốn sử dụng một loại vi khuẩn nào đó như một probiotic để thêm vào sản phẩm, vi khuẩn nầy cần phải được FDA xét duyệt và công nhận là nằm trong nhóm vi khuẩn an toàn gọi là GRAS (Generally Recognized as Safe). Vấn đề probiotic còn rất phức tạp và chưa rõ rệt cho lắm nên các cơ quan y tế của Canada lẫn Hoa Kỳ chỉ cho phép ghi chú trên món hàng những câu quảng cáo (claims) chung chung như “giúp cho hệ vi sinh đường ruột được tốt” (supports a healthy intestinal flora) mà thôi. Probiotic phải là vi khuẩn sống! Muốn được hiệu nghiệm, probiotic cần phải là vi khuẩn sống. Trở ngại thường gặp phải là acid của dịch vị tiêu hóa có thể hủy diệt lối 90% probiotic đã được ăn vào. Bởi lý do nầy mà chúng ta cần tiêu thụ một số lượng thật lớn probiotic để bù đắp số probiotic mất mát. Chúng ta cũng có thể uống những thuốc probiotic có áo bọc bên ngoài để nó chỉ tan ra lúc vào đến ruột mà thôi. Tại Canada, luật lệ về bao bì nhãn hiệu quy định sản phẩm probiotic cần phải được ghi chú rõ rệt về nồng độ vi khuẩn sống (active) hay U.F.C (unités formatrices de colonies) cho mỗi gram sản phẩm. Probiotic, một mặt hàng đang lên Khuynh hướng của nguời tiêu thụ nói chung là càng ngày họ càng chuộng những sản phẩm có mang tính thiên nhiên. Âu châu dẫn đầu trong việc tiêu thụ probiotic. Mỗi người dân Pháp tiêu thụ trung bình hằng năm 33kg yogurt trong khi mỗi người dân Mỹ chỉ tiêu thụ có 4 kg. Trên thị trường, probiotic không những chỉ hiện diện trong yogurt mà thôi nhưng nó còn có thể được thấy trong hằng trăm loại sản phẩm khác nữa. Sản phẩm có probiotic rất đa dạng. Đôi khi nhà sản xuất cho trộn thêm vào yogurt những chất fructo oligosaccharides trích từ Inuline (là một glucide) của cây Chicorée (Chicory, wild succory). Chất thêm vào nầy được gọi là Prebiotic và có công dụng giúp cho probiotic tăng trưởng mạnh hơn. Tại Canada, probiotic có mặt trong các món hàng sau đây: yogurt, nước trái cây, Activia, Yoptimal, Lait Natrel PRO và trong các viên thuốc probiotic, v.v… Nên mua loại probiotic nào? Tốt hơn hết là nên chọn những sản phẩm có chứa những probiotics nào đã từng được nghiên cứu nhiều, như Lactobacillus casei, Lactobacillus rhamnosus… Nên chọn các vi khuẩn có tính cộng lực với nhau vì mỗi loại vi khuẩn có khuynh hướng tác động tại những nơi chuyên biệt khác nhau chẳng hạn như Lactobacillus có tác động chủ yếu trên ruột non, còn loại Bifidobacterium thì tác động trên ruột già. Tại Quebec, sản phẩm yogurt thường có chứa các loại probiotic như Lactobacillus bulgaricus Streptococcus thermophilus, Lactobacillus acidophilus, Lactobacillus casei và Bifidus… + chọn những viên có áo bọc để tránh bị acid của bao tử làm tổn hại vi khuẩn. + nên biết là yogurt loại chúng ta thường mua ở siêu thị đều chứa rất ít vi khuẩn. + nên mua những loại yogurt dùng để trị liệu (yogurt thérapeutique) vì có chứa số lượng lớn vi khuẩn cần thiết. Có thể mua trong các tiệm bán thực phẩm thiên nhiên. + tránh mua yogurt có pha trộn thêm nhiều loại trái cây. + tốt nhất nên mua những loại yogurt ferme hoặc nature hay plain. Số lượng vi khuẩn sống có hoạt tính cũng có thể rất thay đổi tùy theo nhãn hiệu yogurt. Theo các nhà chuyên môn, một yogurt tốt cho sức khỏe cần phải có ít nhất 10 triệu vi khuẩn/gr trở lên. Thông thường, yogurt bán ở chợ chứa rất ít vi khuẩn có hoạt tính, có lẽ vì được sản xuất từ sữa đã được hấp khử trùng (pasteurisé) hoặc đã được cho thêm những hoá chất để làm ổn định (stabilisé) sản phẩm trước khi bán ra, thí dụ như các loại yogurt có trộn thêm trái cây. Các dạng của probiotic Ngoài dạng probiotic thường gặp trong yogurt, kefir, v.v… Probiotic còn có thể được thấy bán ra dưới nhiều hình thức khác như: • Probiotic cô lạnh (lyophilisé): Khi hạ nhiệt độ xuống thật thấp vi khuẩn sẽ trở nên khô như bột nhưng không bị hủy diệt. Chúng sẽ sống trở lại lúc được uống vào. • Viên nang (capsule): Tại Canada, mỗi viên chứa từ 2 đến 6 tỉ vi khuẩn. Thường có hai hoặc bốn loại vi khuẩn phối hợp lại với nhau. Các vi khuẩn thường được sử dụng có thể là: L.casei, L.acidophilus, L.bulgaricus, L.rhamnosus, Streptococcus thermophi- lus, B.lactis, B. longum. Một số viên probiotics được bán dưới dạng đông lạnh hay dạng trữ lạnh, một số khác thì được giữ ở nhiệt độ bình thường. Dạng lạnh chứa nhiều vi khuẩn sống hơn dạng bình thường. • Bột (poudre): Dạng bột để pha trong nước. Nhờ lưu lại bao tử trong thời gian ngắn nên khi đến ruột một số lượng lớn vi khuẩn vẫn còn sống. • Yogurt trị liệu (yogurt thérapeutique): Nên uống trước bữa ăn. Có thể chứa một tỉ lệ Pro -biotic rất cao (50 tỉ cho một liều). • Men bia, có hai loại: 1-Men bia Saccharomyces boulardii, còn gọi là men sống hay men có hoạt tính. Được xấy khô ở nhiệt độ không quá 40oC. Có tính năng trị liệu rất tốt. 2-Men không có hoạt tính thường là những phế phẩm của kỹ nghệ bia. Giá rẻ. Probiotic không có hoạt tính vì đã bị xấy khô ở nhiệt độ cao. Kết luận Hiện nay trên thị trường, probiotic cũng như Omega-3 nhờ khéo quảng cáo đã trở thành những mặt hàng đang lên rất mạnh mẽ trên khắp thế giới... Kỹ nghệ sữa và kỹ nghệ thuốc thiên nhiên đều hết lời ca tụng probiotic và xem nó như là một thực phẩm bổ sung mang những tính năng phòng trị được rất nhiều bệnh tật. Ngược lại, phía y khoa thì dè dặt hơn. Họ cũng công nhận rằng probiotic là vi khuẩn tốt cho sức khỏe, nhất là trong việc củng cố hệ vi sinh đường ruột và ngăn chặn bệnh tiêu chảy do việc lạm dụng thuốc kháng sinh gây ra. Còn đối với các tính năng khác của probiotic thì các bác sĩ khuyên chúng ta cần phải thận trọng dè dặt hơn vì lẽ còn thiếu rất nhiều xét nghiệm lâm sàng cùng các khảo cứu khoa học đáng tin cậy. Người ta tự hỏi phải chăng cơn sốt probiotic chẳng qua chỉ là một đòn khuyến mãi của kỹ nghệ sữa? Nhưng dù có nói sao đi nữa, chúng ta phải nhìn nhận rằng yogurt là một thức ăn ngon miệng và rất tốt cho tất cả mọi người bất luận già hay trẻ. Tại sao chúng ta không dám thử?
Montreal, April 28, 2007 Nguyễn Thượng Chánh, DVM
|
|