|
Post by Admin on Apr 24, 2009 19:31:52 GMT -5
Một thất bại nữa của Rafale MMRCA là hợp đồng cung cấp 126 máy bay chiến đấu đa năng hạng trung mới cho không quân Ấn độ (IAF). Với giá trị hơn 10 tỷ dollar, nó là gói thầu cung cấp chiến đấu cơ lớn nhất kể từ những năm 90, theo lời một quan chức Boeing. Tầm quan trọng của nó không chỉ là bản thân giá trị của hợp đồng, mà còn là việc Ấn độ là một trong những thị trường quốc phòng béo bở nhất hiện nay mà bất cứ ai cũng muốn chen chân vào. Trước đây Ấn độ hầu như chỉ sử dụng vũ khí của Nga, nhưng những năm gần đó, họ chủ động tìm kiếm nhiều nguồn vũ khí khác nhau, và đã mua rất nhiều vũ khí từ phương Tây. Các đối thủ cạnh tranh với nhau gồm: Mig-35 từ Nga, F-16 và F-18E/F từ Mỹ, Typhoon của dự án liên kết Eurofighter, Rafale của Pháp, Gripen từ Thụy Điển. Có thể nói hầu như tất cả anh tài của lớp chiến đấu cơ hạng trung đều có mặt. Tuy vậy, mới đây danh sách đó đã ngắn lại khi mà Ấn độ vừa tuyên bố loại Rafale ra khỏi cuộc đua, thậm chí ngay khi mà các cuộc bay thử còn chưa bắt đầu với lí do nó không đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật và giá thành cao. Sự việc này gây chú ý không chỉ vì Rafale là đấu thủ đầu tiên ngã ngựa và còn vì một lần nữa nó nhắc mọi người nhớ rằng Rafale là chiến đấu cơ duy nhất của phương tây mà chưa có bất cứ một hợp đồng xuất khẩu nào (tất nhiên không tính tới những máy bay bị cấm xuất khẩu như F-22) mặc dù nếu xét về mặt kỹ thuật, nó là một máy bay rất đáng nể. Từ khi xuất hiện vào những năm 90, Rafale đã trở thành một mốc son của công nghệ hàng không Pháp, thay thế cho dòng Mirage nổi tiếng. Rafale tích hợp những công nghệ mới nhất thời đó về radar quét điện tử, vật liệu composite, khí động học, tác chiến điện tử…Rafale trở thành một máy bay đa năng thế hệ 4+ với rất nhiều tính năng ưu việt. Trang bị cánh tam giác, một chi tiết tiêu biểu của các máy bay của nhà chế tạo Dassault, cùng với 2 cánh phụ ở mũi và hệ thống điều khiển vi tính ("bay bằng dây") khiến cho nó cực kỳ linh hoạt trong cơ động. Nó có khả năng đạt đến giới hạn cơ động 11G (gấp 11 lần gia tốc trọng trường) 2 động cơ M88 cung cấp sức đẩy 10 tấn. Các thông số chính: tốc độ tối đa 2125 km/h, tầm hoạt động 1850 km, trần bay 17km. Rafale có 3 phiên bản chính: C là loại chuyên dùng không đối không, B là máy bay ném bom chiến đấu, M là loại dùng trên tàu sân bay. Thiết kế của Rafale có nhấn mạnh đến yếu tố diện tích phản xạ radar. Thân máy bay làm từ vật liệu tổng hợp. Hỗn hợp carbon và kevlar (vật liệu trong áo chống đạn) được phủ trên bề mặt máy bay. Hợp kim titan và nhôm-lithium cũng đượ sử dụng nhiều. Rafale vẫn thường được gọi là máy bay 'bán tàng hình'. Hệ thống điện tử của nó cũng rất đáng nể. Radar quét điện tử thụ động RBE2 có khả năng theo dõi cùng lúc 8 mục tiêu, phân tích và xác định mức độ ưu tiên của các mục tiêu đó. Nó còn có thể quét và tái tạo hình ảnh 3 chiều của địa hình bên dưới cho phép máy bay bay ở độ thấp, bám sát địa hình mặt đất. Nó có thể đồng thời theo dõi một mục tiêu trên không cùng lúc với việc tìm kiếm mục tiêu dưới mặt đất. Radar quét điện tử thụ động của Rafale tuy vậy không có tầm hoạt động và độ nhạy tốt như các radar quét điện tử chủ động ra đời sau này, hay các radar quét cơ thế hệ mới trên Gripen hay Typhoon. Mũi máy bay có gắn thiết bị cảm biến hồng ngoại OSF, dùng để phát hiện bức xạ nhiệt từ các máy bay khác, nếu như radar bị vô hiệu hóa. Thực tế, nó gồm 2 cảm biến. Ở bên phải là cảm biến tầm xa, dùng để xác định nguồn phát nhiệt. Bên trái là cảm biến tầm gần, dùng cảm biến hình ảnh, cho phép phóng lớn hình ảnh của mục tiêu lên màn hình để phi công có thể xác định mục tiêu bằng mắt thường, giúp giảm nguy cơ bắn nhầm đồng đội. Hệ thống tác chiến điện tử Spectra là niềm tự hào của Rafale, nó là một phần trong tính năng 'tàng hình' của Rafale. Nó bao gồm các bộ phát hiện tín hiệu vô tuyến, cảm biến phát hiện tên lửa, cảm biến cảnh báo laser, và bao phủ 360 độ quanh máy bay. Các bộ phát hiện tín hiệu có thể xác định góc tới của tia radar với độ chính xác chưa tới 1 độ. Spectra còn có tính năng gây nhiễu chủ động với độ chính xác cao nhắm vào nguồn phát radar. Tuy vậy, tính năng độc đáo nhất của Spectra là 'triệt tiêu tín hiệu chủ động". Theo đó, khi máy bay bị đối phương chiếu radar vào, nó sẽ phát ra một tín hiệu mô phỏng tín hiệu radar đối phương bị phản xạ lại, nhưng lệch 1 nửa bước sóng, do đó nó sẽ triệt tiêu với tính hiệu thật và radar đối phương không nhận được gì. Cơ chế này cũng tạo ra rất ít năng lượng, giúp máy bay khó bị phát hiện hơn. Một đặc tính nữa của Rafale là khả năng tổng hợp cảm biến. Theo đó, thông tin từ tất cả các nguồn cảm biến: radar, OSF, Spectra…sẽ được tổng hợp, trộn chung lại và hiển thị ra một màn hình duy nhất, cung cấp một góc nhìn toàn cảnh 360 độ với tất cả thông tin cần thiết. Buồng lái được trang bị các màn hình cảm ứng lớn, với diện tích hiển thị 160 inch vuông, chỉ thua 180 inch vuông của F-22. Nó còn có điều khiển bằng giọng nói. Thông tin có thể được hiển thị ngay trên kính của mũ bảo hiểm, cho phép phi công có thể theo dõi và khóa mục tiêu chỉ bằng cách xoay đầu. Rafale là một máy bay khá nhỏ nhưng sức chở đáng nể, với khoảng 10 tấn. Khi không có nhiên liệu hay vũ khí, nó nặng hơn F-16C 1.5 tấn, nhưng trọng lượng cất cánh tối đa của nó thì hơn tới 5 tấn. Nó có thể mang theo rất nhiều loại vũ khí, bao gồm cả vũ khí hạt nhân. Các loại trang bị chính của nó gồm: Tên lửa không-không MICA, phiên bản trang bị đầu dẫn hồng ngoại, nó có khả năng nhận thông tin cập nhật về mục tiêu từ máy bay mẹ và tính năng cơ động rất tốt. Bom bay AASM, tầm tối đa 50km, dẫn đường bằng GPS, kết hợp cảm biến hồng ngoại. Tên lửa hành trình Storm Shadow, tầm 250km, dẫn đường bằng GPS, radar địa hình, hồng ngoại. Ngoài ra nó còn có thể được trang bị hầu hết các loại vũ khí của các thành viên NATO khác. Rafale được thiết kế tối ưu cho việc bay rất thấp, hạn chế sử dụng radar (tránh bị phát hiện) xuyên qua hệ thống phòng không của Liên Xô và tấn công các mục tiêu bằng vũ khí tầm xa. Rafale rất mạnh về các loại cảm biến thụ động, giúp nó có thể di chuyển rất 'yên lặng'. Rafale là sản phẩm của tư duy quân sự độc lập với Mỹ, vốn có từ thời De Gaulle. Do đó, nó được thiết kế để có thể thực hiện rất nhiều loại nhiệm vụ khác nhau. Tuy vậy, chính do sự ôm đồm đó mà nó trở thành 1 loại vũ khí tuy có rất nhiều tính năng, nhưng không có cái nào thật sự vượt trội, và giá thành rất đắt (gần 100 triệu dollar). Đó là lí do cho đến nay chưa có nước nào đặt mua nó. Và trong trường hợp MMRCA cũng không phải là ngoại lệ. Trước đó, Dassault đề nghị phương án nâng cấp Mirage 2000 mà Ấn độ đang sử dụng. Nhưng một lần nữa cái giá cao ngất 40-50 triệu dollar đã khiến Ấn độ từ chối. Dassault sau đó đưa ra Rafale. Nhưng rồi việc cũng không thành. Trở lại với MMRCA, ban đầu yêu cầu của Ấn độ là các máy bay hạng nhẹ thay thế cho số Mig-21 về hưu. Nhưng rồi họ nâng yêu cầu lên thành hạng trung, lấp vào khoảng trống trong cơ cấu của IAF trong tương lai, với Su-30MKI là hi-end và dưới cùng là Tejas LCA, một loại chiến đấu cơ hạng nhẹ do Ấn độ tự thiết kế. Thử điểm qua điểm mạnh yều của các đối thủ còn lại: F-16, lô 70 là sự nâng cấp từ phiên bản "Chim ưng sa mạc" bán cho UAE, trang bị radar quét điện tử chủ động (AESA), đa năng, gọn nhẹ, với độ tin cậy cao, thời gian hoạt động và số lượng ấn tượng (4000 chiếc cho tới nay). Tuy vậy, nó hơi nhỏ so với yêu cầu 'hạng trung', và nó cũng là máy bay được Pakistan sử dụng. Gripen, mới hơn so với F-16, giá hợp lý, khả năng cất và hạ cánh trên đường bộ thông thường. Tuy vậy, nó cũng khá nhỏ, tầm hoạt động nhỏ. Mig-35, thực chất là một phiên bản cải tiến từ Mig-29. Do đó, nó có lợi thế do Ấn độ đang sử dụng Mig-29 và quen thuộc với nó. Nó có radar và hệ thống điện tử cải tiến, động cơ sử dụng cơ chế lực đẩy vector cho độ linh hoạt cao. Điểm mạnh nữa là người Nga luôn sẵn lòng chuyển giao công nghệ, không như phương tây. Điểm yếu là hiện nay Ấn độ không hài lòng lắm với một số hợp đồng quân sự với Nga, đặc biệt là vụ mua lại tàu sân bay. Ngoài ra, hiện nay nhà sản xuất Mig đang gặp rất nhiều khó khăn, uy tín bị ảnh hưởng nhiều và đội máy bay Mig của Ấn độ cũng không có độ tin cậy cao trong thời gian hoạt động. Typhoon, là một máy bay chuyên về không đối không, nhưng đợt nâng cấp gần đây khiến nó trở thành 1 máy bay đa năng. Được coi là chỉ đứng sau F-22 và ngang ngửa Su-30. Tuy vậy, giá thành cao, hơn 100 triệu dollar. F-18E/F Super Hornet, trang bị radar AESA, cộng với khả năng chia sẻ thông tin, cho phép nó đóng vai trò như kẻ chỉ điểm, phối hợp hoạt động các máy bay khác. Nó còn có thể hoạt động trên tàu sân bay. Nó có thành tích tác chiến thực tế tốt. Ngoài ra nó còn có phiên bản tác chiến điện tử Growler rất ấn tượng. Điểm yếu là giá thành khá cao, khả năng cơ động không linh hoạt như Typhoon và Rafale. Hình dưới đây là cơ cấu hiện tại của IAF, từ trái qua là Jaguar, Mirage 2000, Su-30, Mig-27, Mig-21 Bison.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 13:50:39 GMT -5
F-22 vs. EA-18 hay USAF vs. USN
Chiếc EA-18G với biểu tượng của F-22 Hình ảnh về chiếc F-22 bị đưa vào tầm ngắm (2006) Lắp ráp F-22 F-22 Raptor là chiến đấu cơ hiện đại nhất thế giới hiện nay. Nó là máy bay thế hệ thứ 5 duy nhất đang ở mức sản xuất tối đa. Và tất nhiên nó cũng được xếp vào hàng bảo mật tối đa. Những hình ảnh sau là chụp từ nhà máy Marietta, bang Georgia, là nơi lắp ráp cuối cùng. Có hơn 25,000 nhân công tại các nhà máy trên khắp 44 bang ở Mỹ tham gia vào các công đoạn chế tạo F-22. ********* Tiết lộ về F-22 Không lực Mỹ vừa chính thức tiết lộ một số thông số kỹ thuật của F-22, chiến đấu cơ hiện đại nhất thế giới hiện nay. Về tính năng tàng hình, đối với radar, F-22 chỉ tương đương với một viên bi thép. F-35, loại chiến đấu cơ đa năng ra đời sau F-22, tương đương với một quả bóng golf thép. Những thông số này thật ra đã được đồn đoán nhiều trong thời gian qua một cách không chính thức trong giới quân sự, một số người đã có cách so sánh gần giồng với cách không lực Mỹ công bố. Một số phi công tham gia huấn luyện với F-22 mô tả nó chỉ như một 'con chim sẻ' đối với radar. Tuy vậy, đây là lần đầu tiên có một công bố chính thức. Thông số của radar AESA được công bố là 210km, so vớ 200km trong bản thông số chính thức trước. Nó có thể phát hiện tính hiệu của radar đối phương từ 300km. Có thể coi sự công bố này là một bước nữa trong một chiến dịch của Không lực nhằm thuyết phục Quốc Hội đồng ý cho sản xuất thêm F-22, nhiều hơn mức 183 chiếc hiện tại. Hiện nay, giá thành sản xuất mỗi chiếc F-22 là 145 triệu dollar. Tuy vậy, cũng như mọi thông số vũ khí khác, không ai biết chắc liệu đây có phải đã là thông số chính xác hay chưa. Vì giới quân sự luôn công bố ở mức thấp hơn thực tế, vì những lí do mà ai cũng hiểu. *************** Ngày 25/2 vừa qua, tại căn cứ không quân Andrew, gần Washington DC, diễn ra một buổi trưng bày cho công chúng các công nghệ điện tử trong không quân. Một trong những ngôi sao của buổi trưng bày là chiếc EA-18G, máy bay tác chiến điện tử mới nhất của Hải quân Mỹ (USN). Tuy vậy, điều đặc biệt nhất là dưới buồng lái của nó có hình biểu tượng của một chiếc F-22. Đó là vị trí người ta thường để biểu tượng của những chiếc máy bay đối phương bị chiếc máy bay đó hạ trong chiến đấu, hoặc nếu biểu tượng là hình 1 quả bom thì nó tượng trưng cho 1 phi vụ oanh kích. Người ta chỉ được cho biết rằng đó là do chiếc EA-18G này vừa 'bắn hạ' một chiếc F-22 trong tập trận bằng một tên lửa AMRAAM tại căn cứ Nellis. Tuy vậy, không ai tiết lộ rằng liệu có phải nhờ vào khả năng gây nhiễu của các thiết bị tác chiến điện tử mà chiếc EA-18G có thể giành chiến thắng không. Tất nhiên, bình thường thì không ai tính một 'kill' trong huấn luyện vào thành tích của máy bay. Nhưng F-22 là chiến đấu cơ tân tiến nhất hiện nay, với khả năng vượt trội các đối thủ cả về khả năng cơ động, radar, hệ thống điện tử, và đặc biệt là khả năng tàng hình. Hạ được một chiếc F-22, cho dù là trong tập trận, là mơ ước của mọi phi công. Mặc dù không có con số chính thức, người ta ước tính F-22 có thể giành những chiến thắng với tỷ lệ tổn thất từ 80-0 đến 188-1 khi tham gia huấn luyện với các máy bay khác của không lực Mỹ. Và cái biểu tượng kia có lẽ cũng chỉ để trưng bày và kỷ niệm một sự kiện đặc biệt này và sau đó sẽ được xóa. Một trong những nguyên nhân khác có thể nằm trong sự 'cạnh tranh' ngầm giữa hải quân (USN) và không quân Mỹ (USAF) bấy lâu nay. Hải quân vẫn thường tự hào rằng các phi công của mình, vốn hoạt động từ tàu sân bay, có kỹ năng thậm chí còn tốt hơn chính các phi công không quân. Và rõ ràng họ rất muốn được chứng minh rằng máy bay của mình đã bắn hạ được đứa con cưng của không quân. Một chi tiết nữa là cách đây gần 3 năm, cộng đồng quân sự cũng có một lần xôn xao khi một bức ảnh được lan truyền trên mạng cho thấy một chiếc F-22 trong quá trình tập trận đã bị một chiếc F-18E của hải quân đưa vào tầm ngắm của súng đại liên gắn trên máy bay, hàm ý rằng chiếc F-22 này đã bị chiếc F-18E 'bắn hạ'. EA-18G là một phiên bản đặc biệt của F-18E. *********************** Thỏa thuận về UAV Lục quân và Không lực Mỹ vừa đồng ý sửa đổi một thỏa thuận từ cách đây hơn nửa thế kỷ liên quan tới việc giới hạn chủng loại máy bay mà lục quân có thể sử dụng. Sau khi tách ra khỏi lục quân và trở thành một quân chủng độc lập năm 1947, không lực Mỹ đã tìm cách kiểm soát tất cả các loại máy bay. Hải quân và thủ quân lục chiến tìm được cách để giữ quyền kiểm soát. Lục quân thì không may mắn đến thế. Họ chỉ được kiểm soát trực thăng và một số ít máy bay cách bằng loại nhỏ và không có vũ trang. Nhưng thỏa thuận mới cho phép lục quân mở rộng quyền kiểm soát của mình sang máy bay cánh bằng có trang bị vũ trang, nhưng không chở người, kể cả phi công. Ta đang nói tới UAV, nhất là UAV cỡ lớn, cụ thể là Predator và các hậu duệ của nó là Reaper và Sky Warrior. UAV đã làm thay đổi sâu sắc bộ mặt chiến tranh. Lục quân Mỹ hiện đang xây dựng một đội UAV hơn 1000 chiếc. Không lực không ủng hộ việc này, nhưng lục quân đã thành công trong việc giữ lại quyền kiểm soát với các máy bay vũ trang của mình. MQ-1 Predator nặng 1 tấn, dài 9m và sải cánh 16m. Nó có 2 điểm treo vũ khí, mỗi cái có thể mang 1 tên lửa Hellfire hoặc tên lửa không đối không Stinger. Tốc độ tối đa 215 km/h. Độ cao tối đa khoảng gần 10km. Mỗi phi vụ kéo dài khoảng 12-20h. Predator được thiết kế với nhiệm vụ chính là trinh sát, do thám mặc dù nó cũng có khả năng mang vũ khí. MQ-9 Reaper hay Predator B nặng 4.7 tấn, dài 12m, sải cánh 22m, 6 điểm treo, có thể mang 500 kg vũ khí, bao gồm cả tên lửa đối không AMRAAM, tên lửa đối đất Hellfire, Maverick, hay bom thông minh (laser hay gps). Tốc độ tối đa 400 km/h. Thời gian hoạt động 15h. Reaper được thiết kế như một máy bay tấn công thực thụ, thay thế cho F-16 hay A-10 trong một số loại nhiệm vụ. MQ-1C Sky Warrior là sự thay thế cho Predator, nặng 1.5 tấn, có thể tải 400kg. Thời gian hoạt động là 36 tiếng, vận tốc tối đa 270 km/h. Dài 9m, sải cánh 19m. Sky Warrior có thể cất và hạ cánh hoàn toàn tự động, có thể mang 4 tên lửa Hellfire. Dự kiến sẽ có tất cả 500 Sky Warrior được sản xuất. Hai quân chủng có cách sử dụng UAV khá khác nhau. Với lục quân thì UAV là một công cụ của các chỉ huy chiến trường. VD mỗi sư đoàn sẽ có một phi đoàn Sky Warrior kèm theo, mỗi trung đoàn sẽ có từ 2 đến 4 UAV. Không quân sử dụng Predator hay Warrior như một vũ khí chiền lược, dưới sự chỉ huy của những sĩ quan cao cấp nhất. Tất nhiên ở đây chỉ nói tới các UAV cỡ lớn. Đa phần trong số hàng ngàn UAV được sử dụng ở Iraq và Afghanistan là cỡ trung bình và nhỏ, thậm chí là micro-uav như Shadow hay Raven. Những loại này do lục quân nắm giữ và cũng được đưa trực tiếp dưới quyền chỉ huy của các chỉ huy chiến trường. UAV giúp lục quân có nhiều lựa chọn hơn về hỏa lực chính xác. Sky Warrior có thể mang tên lửa Hellfire và bom thông minh Viper Strike. Hellfire chứa khoảng 5kg thuốc nổ, Viper strike là 1kg. Excalibur, loại đạn pháo đầu tiên điều khiển bằng GPS chứa 10kg, pháo phản lực MLRS chứa 75kg. Lục quân Mỹ cũng đang bàn về việc phát triển một loại JDAM mini, nặng khoảng 50kg, với khoảng 25kg thuốc nổ. Tất cả số vũ khí chính xác này khiến cho lục quân Mỹ ít phụ thuộc vào không quân hơn cho nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 14:23:17 GMT -5
Growler EA-18G F-18E EA-6B --------------------------------------- A-18G 'Growler', một phiên bản đặc biệt của F-18E Super Hornet, là máy bay tác chiến điện tử mới nhất của Hải quân Hoa Kỳ. 85 chiếc sẽ được giao trong vòng 4 năm tới. Trong khi đó, Boeing cũng đã phát triển xong bản dùng cho xuất khẩu, Growler Lite. So với Growler, bản Lite có một số khác biệt. Hệ thống gây nhiễu radar ALQ-99 sẽ không kèm theo, vì công nghệ của nó là tối mật. Thay vào đó là bộ thu nhận tín hiệu ALQ-218 dùng để nghe trộm thông tin của đối phương và bộ gây nhiễu viễn thông ALQ- 227. Nghĩa là bản xuất khẩu sẽ giống với một máy bay do thám điện tử hơn là dùng để gây nhiễu radar như bản chính. Ngoài ra, bản xuất khẩu vẫn sử dụng radar AESA, vốn cũng có khả năng gây nhiễu, nếu sử dụng phần mềm thích hợp. EA-18G thay thế cho EA-6B, vốn được sử dụng trong cả hải quân và không quân Mỹ cho vai trò bảo vệ các máy bay khác khỏi radar và tên lửa đối phương. Một máy bay khác có vai trò tương tự là EF-111 đã được không quân cho nghỉ hưu từ 1994. EA-6B, nặng 27 tấn, có phi hành đoàn 4 người, trong khi EA-18G nặng 29 tấn và phi hành đoàn 2 người. EA-18G có thể mang tới 5 khoang chứa thiết bị điện tử được đeo dưới cánh và thân máy bay thay vào chỗ những vũ khí thông thường. Chúng ta có thể phân biệt giữa F-18E và EA-18G dựa vào điểm này. Ngoài ra, nó còn mang 2 tên lửa chống radar HARM và 2 tên lửa không đối không AMRAAM. Sau 85 chiếc đầu tiên, hải quân Mỹ sẽ nhận thêm 30 chiếc nữa. Ngay từ bây giờ, cả hải quân và thủy quân lục chiến Mỹ đang nghiên cứu việc chế tạo phiên bản tác chiến điện tử của F-35 hoặc sử dụng UAV. F -117A Nighthawk Stealth Fighter F/A-18 Hornet F 14 Tomcat
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 15:34:40 GMT -5
EMALS: Bệ phóng điện từ trường CVF CVN-21 Một trong số những thiết bị quan trọng nhất trên một tàu sân bay chính là máy phóng máy bay. Vì trên tàu sân bay, không thể nào có một đường băng đủ dài cho một máy bay có thể đạt được tốc độ cần thiết để cất cánh. Do đó, máy phóng được sử dụng để cung cấp thêm gia tốc cho máy bay, giúp đạt được vận tốc cần thiết chỉ trong thời gian ngắn. Nếu không có máy phóng, tàu sân bay sẽ phải sử dụng dốc phóng. Khi đó phần đường băng ở mũi tàu sẽ dốc lên, máy bay khi qua khỏi dốc phóng sẽ có đủ lực nâng. Tuy vậy, khả năng hỗ trợ của nó bị giới hạn rất nhiều. Máy bay khi đó sẽ không thể bay với đầy đủ nhiên liệu và tải trọng vũ khí. Cho đến nay, các máy phóng đều sử dụng hơi áp suất cao. Chúng được sử dụng trên các tàu sân bay của Mỹ và chiếc Charles De Gaulle của Pháp, vốn cũng mua công nghệ từ Mỹ. Hơi nước được cung cấp từ lò phản ứng hạt nhân của tàu. Công nghệ này cũng có một số hạn chế, đặc biệt là yêu cầu cao về bảo trì, bảo dưỡng. Hiện nay, Hải quân Mỹ đang dự tính sẽ chuyển sang sử dụng máy phóng dùng điện từ trên lớp tàu sân bay mới của mình, CVN - 21 Gerald Ford. Công nghệ này được gọi là EMALS. Và nó cũng được dự tính trang bị cho lớp tàu sân bay mới của Hải quân Anh, Nữ hoàng Elizabeth hay CVF. Công nghệ mới này hứa hẹn sẽ hiệu quả, tiết kiệm hơn. Hiện nay, mỗi lần phóng máy bay cần khoảng 615kg hơi áp suất cao, cùng với đó là rất nhiều hệ thống thủy lực, và nước để hấp thụ va chạm và giảm tốc cho máy phóng. Cả hệ thống nói chung là rất lớn, phức tạp. Ngoài ra, một khuyết điểm lớn của nó là tạo ra gia tốc rất lớn, sự tăng tốc rất đột ngột đó tạo ra sức ép rất lớn lên khung máy bay. Do đó các mẫu máy bay của hải quân thường có yêu cầu rất cao về độ bền so với của không quân, và làm tăng chi phí. EMALS sử dụng cùng nguyên lý như của súng điện từ. Nó giúp cho việc phóng máy bay diễn ra nhẹ nhàng hơn (gia tốc nhỏ hơn), với 30% tăng thêm về lực phóng. Nó cũng nhỏ gọn và ít yêu cầu về bảo trì. Công suất cực đại của nó là 60 MW, cung cấp một năng lượng lên tới 60 megajun, đủ để thắp sáng 12,000 căn hộ.
|
|
|
Post by vietnam on May 5, 2009 15:10:03 GMT -5
|
|
|
Post by vietnam on May 14, 2009 20:51:08 GMT -5
Phản Lực Cơ chiến đấu Su-35 Nga . Phản lục cơ chiến đấu mới nhất của Nga dòng Sukhoi đã đi vào giai đoạn hoàn thiện kỹ thuật qua những chuyến bay thực nghiệm vừa qua .The SU-35 Flanker mà đã có 1 bước tiến mới sau thế hệ thứ 5 của dòng Sukhoi để chúng tỏ Su 35 là đệ nhất anh hào của Nga ngày nay. " Chúng tôi đã đi trước các đối thủ của mình bằng nhiều khía cạnh , tấn công tầm rộng lớn hơn, khoảng cách chiến đấu xa từ sân nhà , trang bị vũ khí mạnh hơn,.... Hơn nữa với chi phí thấp so với các loại khác cùng đẳng cấp, tất cả yếu tố đó giúp cho Su35 đạt đẳng cấp cao nhất của chủng loại phi cơ này ." Theo Mikhail Pogosyan,Tổng giám đốc Sukhoi ,Nga. Không quân của hơn 30 quốc gia thế giới được trang bị loại phi cơ chiến đấu Sukhoi này . Chỉ riêng năm 2007 , với hơn 50 chiếc trị giá hơn $US 2 tỉ đã cung cấp cho các nước Malaysia, India, Venezuela và Algeria. Raptor, F-22 đệ nhất của Mỹ Với tên gọi Raptor, the F-22 là một phản lục cơ chiến đấu tối tân và đăc giá nhất thế giới hiện nay của không quân thế giới . Nó củng là loại chiến đấu phản lưc cơ tối tân và mới nhất của Mỹ khi được trang bị cho mình vào tháng 12 năm 2005 sau 15 năm thử nghiệm và cải tiến không ngừng . Trong quá trình tự cải tiến ,nó đã được đổi mẫu thiết kế nhiều lần , củng như thay đổi sản xuất do mẫu mã ban đầu đã không đáp ứng điều kiện gắt gao của không quân Mỹ mong đợi .Nó được trang bị vũ khí không đối không lẫn không đối địa . Ngài ra Raptor củng là một được trình làng một nhân dáng tuyệt mỹ . Trang bị radar vừa vặn trong đôi cánh của mình 62 feet dài, chiều rộng xoải cánh 44.5 feet. tốc độ bay 1,600 miles /per hour (Mach 2.42). Với khả năng tàng hình cao hơn các phi cơ khác , làm cho kẻ địch rất khó phát hiện ra Raptor , Những kỹ thuật mới của nó làm cho bản thân khó bị nhìn thấy như tán âm và phản hồi sóng radảr thấp củng như tản nhiệt trong việc bắt nhiệt cho màn hình radar . Góc độ của đôi cánh và đuôi của Raptor thẳng hàng giúp cho nó rất khó bị kẻ khác phát hiện . Độ nghiêng của thân phi cơ cùng với việc mang vũ khí dấu trong thân phi cơ củng giúp khả năng tàng hình cao hơn . Dáng của F-22 củng tăng độ chống ghì kéo so với các phi cơ khác củng giúp nó đạt tốc độ âm thanh nhanh chóng mà không cần dùng sự kích hỏa phụ củng giúp tránh làm chậm và giới hạn khả năng bán kính hoạt động cần thiết của nó . Nó là một phi cơ dẫn đầu nhờ sự thiết kế kết hợp kỹ thuật khí động học , bộ phận điều khiển tiên tiến , lực tống mạnh , với tỉ số lực tống tới trên trọng lượng cao ( theo giới chúc không quân Mỹ ) . Chuyến bay thử đầu tiên vào tháng 9 năm 1990, và từ đó Không quân Mỹ đã đặt mua đến 400 chiếc để trang bị cho mình . usmilitary.about.com/od/afweapons/a/f22raptor.htm
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 13:28:01 GMT -5
Tai nạn của Su-35
Hôm 26/4, một mẫu thử nghiệm Su-35 gặp tai nạn và bốc cháy khi đang di chuyển ra vị trí cất cánh. Đây là chiếc Su-35 thử nghiệm thứ 3, số hiệu 904. Phi công thoát ra an toàn. Chiếc thử nghiệm đầu tiên bay vào tháng 2/2008, chiếc thứ 2 vào 10/2008. Dự kiến Su-35 sẽ chính thức hoạt động vào 2011. Posted by Mili-Tec
Nguyên nhân tai nạn của Su-35 Các kỹ sư Nga xác định rằng nguyên nhân khiến họ mất một trong 2 mẫu thử nghiệm hiện tại của Su-35 là một lỗi kỹ thuật của 1 trong 2 động cơ của máy bay. Trước đó có phỏng đoán cho rằng nguyên nhân là do bộ càng đáp hay đường dẫn nguyên liệu. Loại động cơ sử dụng trên Su-35 là AL-41.
Hiện Nga sử dụng 2 loại động cơ chính cho các chiến đấu cơ của mình là AL-31 cho dòng Su-27/30 và RD33/93 cho Mig-29. AL-41 là một bản nâng cấp từ AL-31, có sức đẩy khoảng 15,000kg. Trước kia động cơ phản lực của Nga/LX thường có độ tin cậy và tuổi thọ thấp hơn của phương tây, song những năm gần đây họ đã cố gắng thu hẹp khoảng cách lại.
Nhân đây ta cũng có thể bàn qua về sự khác biệt trong cách đặt tên máy bay giữa Nga và Mỹ. Nga và LX trước đây thường đặt tên khác nhau cho những thiết kế được phát triển lên dựa vào một mẫu nguyên thủy. Su-30, Su-35 là những phiên bản nâng cao của Su-27 với nhiều cải tiến khác nhau. Ngược lại, Mỹ chỉ đặt tên mới cho máy bay của mình nếu đó là một thiết kế hoàn toàn mới. Do đó, nếu Sukhoi là 1 hãng Mỹ thì ta sẽ có Su-27, Su-27E hay Su-27H…thay vì Su-27/30/35. Ngược lại, nếu Boeing là hãng Nga thì ta sẽ có F-18, F-24 thay vì F-18, F-18E/F. Một điểm lưu ý nhỏ là 2 mẫu máy bay này (F-18 và F-18E/F) mặc dù có bề ngoài rất giống nhau, nhưng thật sự là 2 thiết kế rất khác nhau, chúng chỉ có 25% điểm tương đồng.
Sở dĩ có sự khác biệt này do nhiều lí do. Quan trọng nhất có lẽ là lí do sau: đối với ngành CNQP Nga, ưu tiên cao là dành cho xuất khẩu. Đặt những tên mới cho thiết kế của mình sẽ giúp nó dễ bán hơn, vì rõ ràng Su-30 nghe 'hiện đại' hơn so với Su-27E. Ngược lại, ngành CNQP Mỹ gồm nhiều hãng cạnh tranh với nhau, và nội bộ các quân chủng cũng cạnh tranh rất dữ dội về việc phân bổ ngân sách từ QH. Gọi tên F-18E/F sẽ tạo ấn tượng đó chỉ là một đợt nâng cấp, còn F-24 sẽ khiến người ta cho rằng đây là một dự án hoàn toàn mới và rất tốn kém, do đó khó xin ngân sách từ QH hơn. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 13:39:26 GMT -5
Tương lai không quân Mỹ bắt đầu từ hôm nay .Cả Bộ trưởng BQP Mỹ Robert Gates và chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân (tổng tham mưu trưởng), đô đốc hải quân Mullen, đều đã tuyên bố một cách rõ ràng rằng UAV, máy bay không người lái, sẽ là tương lai của không quân Mỹ. Nó đánh dấu một cột mốc rất quan trọng của công nghệ hàng không quân sự Mỹ, xác định ưu tiên chính cho các dự án sau này. Cột mốc tương đương trước đó là việc biến không quân Mỹ thành một lực lượng 'toàn tàng hình', với tất cả các thiết kế đều ứng dụng công nghệ giảm diện tích phản xạ radar và coi đó là ưu tiên cao nhất, bao gồm B-2, F-22, F-35. Trước mắt, thế hệ máy bay ném bom chiến lược mới, NGB, có thể sẽ là UAV. Mullen thậm chí tin tưởng rằng F-35 sẽ là mẫu máy bay chiến đấu có người lái cuối cùng được thiết kế. Việc một đô đốc lại rất nhiệt tình với UAV không có gì lạ vì hải quân Mỹ cho tới nay đặt rất nhiều kỳ vọng vào UAV, vì lực lượng máy bay của họ đặt trên tàu sân bay, nơi mà không gian rất có hạn. UAV nhỏ gọn hơn máy bay có người lái, đồng thời sẽ tiết kiệm được những không gian trước đây dành cho phi công. X-47B Vài năm trước, dự án J-UCAS, máy bay chiến đấu không người lái đa quân chủng, được khởi động với mục tiêu là chế tạo một mẫu UAV chiến đấu chung cho cả hải quân và không quân Mỹ. 2 thiết kế cạnh tranh với nhau là X-45 của Boeing và X-47 của Northrop Grunman, hãng chế tạo B-2. X-47 chiến thắng, tuy vậy dự án J-UCAS sau đó bị hủy bỏ vì 2 quân chủng nhận thấy rằng họ cần những thiết kế riêng phù hợp nhu cầu của mình. Năm ngoái, hải quân Mỹ chính thức giới thiệu mẫu UAV chiến đấu đầu tiên của mình, X-47B. Đây mới chỉ ở dạng mẫu thử nghiệm, dự kiến cuối năm nay nó sẽ bay chuyến đầu tiên và đến năm sau sẽ thực hiện một cuộc hạ cánh trên tàu sân bay. Với sải cánh 20m, nặng 8 tấn, có thể chở theo 2 tấn vũ khí, nó có thể hoạt động liên tục tối đa 12 tiếng đồng hồ. Nó sử dụng bản cải tiến của động cơ phản lực F100, loại dùng trên F-16 và F-15. X-47B hoàn toàn tự động, từ lúc cất cánh tới hạ cánh, bao gồm cả việc tiếp nhiên liệu trên không. X-45A Mặc dù thua cuộc trong J-UCAS, Boeing với X-45 vẫn tiếp tục đặt kỳ vọng vào thiết kế của mình, và tự bỏ tiền ra để tiếp tục nghiên cứu. Dự án giờ đây có tên mới là Phantom Ray. X-45A cũng có thiết kế tàng hình, sải cánh 10m, sức tải 700kg. Hoàn toàn tự động từ lúc cất tới hạ cánh, trần bay 10km, vận tốc hành trình Mach 0.75. Thiết kế X-45A cho phép cánh được tháo rời ra dễ dàng để máy bay có thể được xếp gọn vào trong một container chuyên dụng. Một máy bay vận tải C-17 có thể chở theo 6 container như vậy đến bất cứ đâu trên thế giới. X-45C X-45C, phiên bản nâng cao của X-45A, lớn hơn và có thiết kế khác. Nặng 19 tấn, sải cánh 18m. Trần bay 13km, sức tải tối đa là hơn 2 tấn. Tầm hoạt động 2300km với vận tốc hành trình Mach 0.85. Một chiếc X-45C có thể mang theo 8 bom SDB trong khoang chứa kín của mình. Những UAV chiến đấu như vậy ban đầu sẽ được dùng cho những nhiệm vụ nguy hiểm, đặc biệt là tấn công hệ thống phòng không của đối phương. Tuy vậy, cho tới nay, người ta vẫn ít khi đề cập đến việc dùng máy bay không người lái trong vai trò không đối không. Vấn đề không chỉ là về mặt kỹ thuật mà còn là việc nó đồng nghĩa với sự 'biến mất' của các phi công chiến đấu. Tuy nhiên, trước khi UAV có thể tham gia không chiến, nó cần đạt được 2 yếu tố sau. Thứ nhất là khả năng nhận thức về tình huống, môi trường bên ngoài. Và thứ hai và khả năng xử lý những thông tin đó là tự đưa ra quyết định, hay có thể 'suy nghĩ' như một con người. UAV nếu được dùng trong không chiến sẽ có lợi thế là không bị giới hạn về gia tốc. Cơ thể con người chỉ có thể chịu được 1 mức gia tốc nào đó, trên lý thuyết là 9G, gấp 9 lần gia tốc trọng trường. Nếu gia tốc quá lớn, phi công sẽ dần mất ý thức và có thể tử vong. Ngoài ra, UAV cũng sẽ không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tâm sinh lý, ngay cả trong tình huống khó khăn, và thời gian hoạt động dài hơn nhiều so với máy bay có người lái. Việc chuyển từ máy bay có người lái sang UAV cũng sẽ giúp tiết kiệm một khoản chi phí khổng lồ dùng cho đào tạo, trả lương cho phi công. Tuy vậy, từ đây cho đến lúc đó vẫn còn một đoạn đường dài. Mặc dù đã quyết định đẩy nhanh việc robot hóa lực lượng chiến đấu cơ của mình sớm 20 năm so với kế hoạch vạch ra trước đây, BQP Mỹ dự tính rằng phải đến 2020 thì chiếc UAV đầu tiên có tính năng tương đương F-35 mới xuất hiện. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on May 27, 2009 20:03:28 GMT -5
Hôm 5/5 vừa qua, hãng Pride Aircraft vừa chính thức xác nhận việc 2 chiếc Su-27 đã được chở tới Mỹ trên máy bay vận tải An-124 từ vài tháng trước đó. Về nguyên tắc thì chúng thuộc sở hữu tư nhân, do công ty Pride Aircraft mua từ Ukraina. Nhưng sau khi được sửa chữa và nâng cấp, chúng sẽ được chuyển cho không lực Mỹ để dùng trong các phi đội aggressor. Aggressor là tên gọi những đơn vị đặc biệt trong không quân Mỹ được dùng để đóng vai không quân LX/Nga trong huấn luyện. Chỉ những phi công đặc biệt xuất sắc mới được chọn vào đây. Trong hình dưới là F-15 và F-16 trong vai trò aggressor. Những aggressor sẽ mô phỏng tối đa các trang thiết bị, chiến thuật mà không quân Nga sử dụng. Ví dụ như qua bức hình trên, một chi tiết nhỏ mà ta có thể nhận thấy là màu sơn của máy bay. Máy bay Mỹ thường dùng màu đơn sắc, ví dụ như xám, trắng hay xanh đậm. Máy bay Nga thường được sơn theo hoa văn ngụy trang. Su-27 là mẫu máy bay thế hệ thứ tư, được ra đời với yêu cầu về một máy bay tiêm kích có tầm hoạt động rộng, đủ sức đương đầu với những chiến đấu cơ thế hệ 4 của Mỹ như F-15, F-16, F-14 và F-18. Có thể nói ít có dự án phát triển vũ khí nào trải qua nhiều thăng trầm như Su-27. Chương trình bắt đầu từ 1970, với tên gọi khi đó là dự án T-10. Mẫu thử nghiệm đầu tiên T-10-1 bay chuyến đầu tiên 7 năm sau đó. Dự án gặp rất nhiều khó khăn, và sau một vụ tai nạn chết người vào 7/5/1978 thì nó bị buộc phải thay máu hoàn toàn. Mikhail Somonov được đưa về làm tổng công trình sư ở Sukhoi, và thiết kế T-10 lại hoàn toàn. Theo Mikhail thì ông chỉ giữ lại 2 thứ từ thiết kế trước, là bộ bánh đáp và ghế phi công! Mẫu mới được gọi là T-10S. T-10S-1 bay chuyến đầu tiên vào 1981. Tuy vậy, việc nghiên cứu vẫn rất trắc trở về đến 23/11/1983 thì vụ tai nạn chết người thứ 2 xảy ra. Cho đến 1983, vấn đề vẫn không được cải thiện. Nhưng điều bất ngờ là một sai lệch thông số nhỏ khi chuyển từ mẫu thu nhỏ sang máy bay thật khiến cho máy bay đạt được những khả năng tốt hơn mong đợi. Những phi công thử nghiệm khi đó đã tưởng rằng mình đọc sai các chỉ số trên bảng điều khiển. Su-27 bắt đầu tham gia biên chế không quân LX vào 1984. Sự xuất hiện của Su-27 đánh dấu thời kì hoàng kim của Sukhoi trong khi Mig, từ chỗ là biểu tượng của của hàng không LX rơi vào cảnh nợ nần. Thiết kế của Su-27 có rất nhiều điểm tương đồng với F-14 và F-16, hay có thể nói là kết hợp của cả 2. Một số người cho rằng LX đã tiếp cận được số F-14 của Iran sau cuộc cách mạng hồi giáo 1979, tuy vậy không có bằng chứng xác thực cho việc này. Su-27 được thiết kế với tính bất ổn định theo cả trục dọc và ngang. F-16, ra đời trước đó, là thiết kế tiên phong với nguyên lý bất ổn định. Điều này nghe có vẻ nghịch lý, vì tại sao lại thiết kế một chiếc máy bay luôn có xu hướng không ổn định. Bởi vì như vậy thì nó sẽ linh hoạt, dễ xoay trở hơn. Một máy bay có tính ổn định cao, như máy bay chở khách, rất khó xoay trở. Tuy vậy, trước kia người ta không thể thiết kế theo nguyên lý này là vì phi công sẽ phải giành toàn bộ thời gian, sức lực của mình chỉ để giữ cho chiếc máy bay không bồ nhào xuống đất. Và khả năng của phi công cũng có hạn, khi thiết kế của máy bay vượt 1 ngưỡng nào đó thì nó chỉ đơn giản là không thể điều khiển được. Do đó, F-16 cũng đồng thời tiên phong trong việc ứng dụng công nghệ điều khiển qua máy tính, hay còn gọi là 'bay bằng dây dẫn'. Gọi là vậy bởi vì nó thay thế những cơ cấu điều khiển cơ học trước kia bằng dây dẫn tín hiệu. Trước kia, máy bay sử dụng các thiết bị cơ học như dây cáp, hệ thống thủy lực để truyền lệnh điều khiển từ phi công. Nay các cơ cấu nặng nề này được thay thế bằng cách dây truyền dẫn tín hiệu điện gọn nhẹ và đáng tin cậy hơn. Tuy vậy, ý nghĩa thật sự của hệ thống này là việc thêm máy tính vào giữa phi công và các bề mặt điều khiển. Giờ đây lệnh của phi công sẽ được đưa vào máy tính trước, máy tính sẽ xử lý yêu cầu và truyền lệnh cụ thể đến các bề mặt điều khiển trên cánh máy bay. Như vậy, thật sự điều khiển trực tiếp máy bay là máy tính chứ không phải phi công. Do đó, những máy bay có thiết kế không ổn định giờ đây vẫn có thể bay được bình thường, vì máy tính sẽ liên tục đưa ra những lệnh, thực hiện những điều chỉnh nhỏ để giữ cho máy bay cân bằng. Mỗi giây có thể có tới hàng ngàn lần điều chỉnh nhỏ như vậy, và đối với phi công thì đơn giản là họ không cảm nhận được những thay đổi đó. Ngoài ra, máy tính sẽ giữ cho máy bay hoạt động trong giới hạn của mình, cho dù phi công có điều khiển hơi 'quá tay'. Vì mỗi máy bay có một giới hạn lực mà cấu trúc của nó có thể chịu được, chưa kể bản thân phi công cũng chỉ chịu được gia tốc đến 1 mức nào đó. F-16 được thiết kế bất cân bằng theo trục xoay dọc (giúp nó lật cánh dễ dàng hơn), còn Su-27 sau này còn bất ổn định theo phương xoay ngang (góc nâng của mũi máy bay). Do đó Su-27 có thể thực hiện những động tác nhào lộn trên không rất ấn tượng. Nổi tiếng nhất là động tác 'Rắn hổ mang' nổi tiếng của Pugachev. Khi được trình diễn lần đầu ở hội chợ hàng không Paris, nhiều người đã mô tả cảm giác của mình khi đó như đang trong một 'thời khắc thần thánh'. Tuy vậy, đối thủ trực tiếp của Su-27 là F-15. Kích thước của Su-27 hơi lớn hơn (dài 21m, sải cánh 14m) so với F-15 (19m-13m). Hai loại này chưa từng đối đầu nhau trong thực tế. F-15 hiện giữ kỷ lục về không chiến, với 104 lần bắn hạ đối phương mà chưa thua lần nào. Còn Su-27 chưa có nhiều dịp tham chiến. Quay lại việc 2 chiếc Su-27 đến Mỹ. Một trong những thắc mắc lớn hiện nay là liệu người Mỹ có được cung cấp đủ phụ tùng để duy trì hoạt động của chúng trong thời gian dài. Theo như Pride Aircraft thì họ nhận được hỗ trợ kỹ thuật và phụ tùng đầy đủ. Còn nếu không thì người Mỹ sẽ phải cải biến thiết bị của mình. Trong đó khó nhất là động cơ. Su-27 dùng động cơ AL-31F (sức đẩy tối đa 12510kg) còn F-15 dùng F100PW229 (13211kg). Cả 2 có kích thước gần giống nhau. Nhưng AL-31F có hộp số phía trên, còn F100 có hộp số phía dưới, như trong hình. Do đó việc gắn động cơ F100 vào Su-27 là rất khó
|
|
|
Post by vietnam on May 30, 2009 13:41:25 GMT -5
Anh bạn nhỏ biết bay ALE-50 là một thiết bị trông giống một quả bom, và cũng được gắn dưới điểm treo vũ khí của máy bay. Nhưng khi được kích hoạt, nó sẽ thả ra một thiết bị mồi có thể lướt đi và được nối với máy bay bằng cáp, và có thể được điều khiển bay theo sau máy bay. Bên trong là những thiết bị điện tử để đánh lừa các tên lửa đối không điều khiển bằng radar, làm cho nó 'trông giống' như chiếc máy bay và thu hút tên lửa nhắm vào nó, thay vì máy bay. ALE-50 được thiết kế để dùng trên F-16, F-18 và B-1. Hiệ quả của nó đã được chứng minh trong thực tế chiến đấu, đối với cả tên lửa đất đối không và không đối không. Một phi công Mỹ sau khi được ALE-50 cứu đã về nhà, viết thư cho Raytheon, hãng chế tạo, và gọi nó là 'anh bạn nhỏ của tôi". Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on Jun 9, 2009 12:51:20 GMT -5
Máy bay tiếp nhiên liệu lớn nhất? Trong tác chiến, các hệ thống hỗ trợ, mặc dù không trực tiếp đóng góp hỏa lực, đóng vai trò không hề kém quan trọng hơn các hệ thống trực tiếp tham chiến. Đối với không quân, những hệ thống như cảnh báo sớm và kiểm soát trên không (AWACS), tiếp dầu, tác chiến điện tử, tuần tra hàng hải…là một phần không thể thiếu của các lực lượng không quân hiện đại. Không quân Ấn độ (IAF) cũng không phải ngoại lệ. Một phần trong kế hoạch hiện đại hóa lực lượng vũ trang của mình, Ấn độ trong thời gian qua đã có nhiều hợp đồng để nâng cấp các hệ thống hỗ trợ của không quân. Họ đặt hàng AWACS Phalcon, hệ thống này sử dụng máy bay IL-76 của Nga và gắn radar Phalcon của Israel, MC-130, một phiên bản đặc biệt của mẫu máy bay C-130, chuyên dùng cho các chiến dịch đặc biệt. Poseidon P-8, máy bay tuần tra hàng hải tầm xa. Đồng thời trong tương lai, họ sẽ đặt mua thêm AWACS và máy bay tuần tra hàng hải loại trung. Với máy bay tiếp dầu, hiện Ấn độ đang sử dụng 6 chiếc IL-78MK của Nga, đây là một phiên bản của máy bay vận tải IL-76. Ấn độ muốn mua thêm 6 chiếc nữa, nhưng thay vì tiếp tục mua IL-78, họ quyết định quay sang A330 MRTT. MRTT là viết tắt của máy bay bay vận tải-tiếp dần đa năng. Giá mỗi chiếc khoảng 160 triệu dollar. Dựa trên mẫu máy bay 2 động cơ A 330-300, loại máy bay mất tích ở Brazil gần đây, MRTT nặng 233 tấn, có thể mang theo 111 tấn nhiên liệu, cộng với 43 tấn hàng hóa. Nếu dùng để chở người, sức tải là 238 người. Sự linh hoạt là một trong những điểm mạnh nhất của MRTT. IL-78 có 4 động cơ, nặng 220 tấn, chỉ có thể chở theo nhiên liệu (138 tấn). Ngoài việc kém linh hoạt hơn MRTT, tính tin cậy và hỗ trợ bảo trì kém là những nguyên nhân khiến Ấn độ chọn Airbus. Ilyushin không phải là kẻ duy nhất bị Airbus hớt tay trên. Boeing cũng suýt bị đấu thủ từ châu Âu thắng ngay trên sân nhà. Trong một hợp đồng khổng lồ để thay thế cho đội máy bay tiếp dầu của mình, không quân Mỹ đã chọn KC-30 của Airbus (cũng dựa trên mẫu A 330-300) thay vì KC-767 của Boeing. Tuy nhiên Boeing sau đó đã kiện lại và hiện quá trình đấu thầu sẽ bắt đầu lại từ đầu. KC-30 lớn hơn so với KC-767, chở nhiều hơn 20% số nhiên liệu. Điểm mạnh của KC-767, dựa trên mẫu Boeing 767, là nó có kích thước gần giống như KC-135, là mẫu máy bay tiếp dầu chính của không quân Mỹ hiện nay, do đó tận dụng được các cơ sở vật chất cũ mà không cần sửa đổi nhiều. KC-135 cũng do Boeing sản xuất, với hơn 2000 chiếc xuất xưởng cho tới nay. Nó có thể mang theo 90 tấn nhiên liệu, 68 tấn trong số đó là để tiếp cho các máy bay khác. Ngoài ra, không quân Mỹ còn sử dụng một số chiếc KC-10, dựa trên mẫu DC-10. Lớn hơn so với KC-135, với sức tải 160 tấn, chỉ có khoảng 70 chiếc KC-10 trong biên chế, so với hơn 500 chiếc KC-135. Ngoài ra, còn có mẫu Tristar của không quân Anh, với sức tải 136 tấn nhiên liệu. Tuy vậy, không phải KC-10, KC-30, IL-78 hay Tristar là mẫu máy bay tiếp dầu lớn nhất. Loại lớn nhất, đáng ngạc nhiên, lại thuộc về không quân Iran. Đó là KC-747, tất nhiên là dựa trên loại máy bay chở khách nổi tiếng Boeing 747. Trước cách mạng hồi giáo 1979, Iran là đồng minh của Mỹ, và đã mua khoảng 4 chiếc KC-747. Trong khi đó, không quân Mỹ lại chọn KC-10 thay vì KC-747. Do đó, Iran là nước duy nhất có KC-747. Điều thú vị là khi đó, 2 mẫu DC-10, của McDonnell Douglas, và Boeing 747 cùng cạnh tranh nhau trong phân khúc máy bay thân rộng. Phần thắng nghiêng về Boeing, và sau này đã mua lại chính đối thủ của mình. KC-747 có thể chở theo 170 tấn nhiên liệu và 54 tấn hàng hóa. Tuy vậy, do cấm vận, Iran hầu như không thể duy trì hoạt động của phi đội này. Hiện nay người ta cho rằng Iran chỉ còn 1 chiếc còn có thể bay được. MRTT (KC30) IL-78 KC-767 KC-135 KC-10 Tristar KC-747
|
|
|
Post by vietnam on Jun 11, 2009 13:23:38 GMT -5
Phi cơ quân sự lao xuống đất, nổ tung, phi công mất tích Tuesday, June 09, 2009 Chiến đấu cơ Sukhoi SU 22 do Nga chế tạo từ 1966 đến 1991. Hình Pacman@cix Chiếc SU 22 chỉ còn là một đống sắt vụn sau khi lao xuống đất và phát nổ ở Thanh Hoá. Hình: Báo Tiền Phong THANH HÓA 9-6 (TH) .- Một chiến đấu cơ già nua của CSVN đã lao xuống đất, nổ tung và phi công đã tử nạn trong đống sắt vụn còn lại. đại úy phi công Trần Thanh Nghị đã hy sinh trong vụ tai nạn sáng ngày 6/9 tại Thanh Hóa. Su-22 là bản xuất khẩu của Su-17. Được phát triển lên từ Su-7, Su-17 là máy bay tấn công mặt đất cánh cụp cánh xòe, nhờ đó tăng tải trọng vũ khí. Ra đời những những năm 60-70, Su-17/22 có thể coi như thuộc thế hệ thứ 3, nghĩa là đã lạc hậu ở thời điểm này. Cho dù đã được nâng cấp các thiết bị điện tử thì những hạn chế và hao mòn về cấu trúc máy bay, động cơ…vẫn khó có thể cải thiện được. Mất mát lớn nhất trong vụ tai nạn này, như mọi khi, vẫn là con người. Nhiều báo trong nước tường thuật tin này về việc chiếc chiến đấu cơ Sukhoi SU-22 rơi xuống một cánh đồng trồng bắp ở tỉnh Thanh Hoá. “Khoảng 7 giờ 30 phút sáng9/6/2009, một chiếc máy bay quân sự đang luyện tập bất ngờ lao xuống đồi Bãi Chiêng thuộc khu vực trồng ngô của gia đình ông Lê Xuân Thế, thôn Lạc Long II, xã Cẩm Phú, huyện miền núi Cẩm Thủy, cách thành phố Thanh Hóa hơn 60 km.” Báo Tiền Phong tường thuật. SU 22 là phiên bản xuất cảng của Sukhoi SU 17 đã không còn sản xuất từ năm 1991 vì quá lỗi thời và khả năng yếu kém. Nga đã tiến bộ hơn rất nhiều và sản xuất các loại máy bay quân sự tối tân hiện đại nên đã không còn dùng loại máy bay này nữa. Dòng phi cơ này bắt đầu được sản xuất từ năm 1966 với khoảng 3,000 chiếc. CSVN có khoảng 150 chiếc loại này. Theo bản tin VTC News “nhiều người dân xã Cẩm Phú nhìn thấy một chiếc máy bay quân sự gầm rú trên bầu trời rồi chao đảo và rơi xuống bãi trồng ngô. Bãitrồng ngô của gia đình ông Lê Xuân Thế ở cánh đồng Cuốn Chéo thuộc thôn Lạc Long, xã Cẩm Phú. Ít giây sau, tại hiện trường máy bay rơi phát ra tiếng nổ lớn rồi bốc cháy dữ dội”. Nguồn tin này thuật tiếp lời một người ở địa phương rằng: 'Lúc chiếc máy bay rơi, nổ và bốc cháy, nhiều nông dân bỏ cày chạy về nhà để ngăn không cho những đứa trẻ hiếu kỳ trong gia đình ra gần địa điểm chiếc máy bay đang cháy, vì sợ những điều không may có thể xảy ra.” Dù vậy, người ta thấy rất đông người dân địa phương đã đến gần chỗ đống sắt vụn còn lại của máy bay rớt cháy để xem. Sau đó, “… một số người trong thôn Lạc Long 2 được ông Bùi Văn Lịch (xã đội trưởng Cẩm Phú) cử đi tìm kiếm người phi công đã lái chiếc máy bay trên. Thế nhưng, đến 10h30’ ngày 9/6/2009, vẫn chưa tìm được người phi công. Theo ghi nhận của các nhân chứng tại hiện trường, người phi công lái chiếc máy bay quân sự trên rất khó sống sót vì khu vực máy bay rơi rất nhiều đồi núi.” Theo phóng viên báo Tiền phong khi đến nơi “chiếc máy bay bị nạn đang tiếp tục cháy, khói đen phủ khắp cả vùng đồi. Nhiều mảnh vỡ của chiếc máy bay văng tung tóe, cháy đen, có mảnh cách xa hiện trường hàng trăm mét; máy bay bị cháy rụi, chỉ còn lại vài mảnh vỡ nhỏ.” Mấy năm nay, năm nào cũng có máy bay quân sự CSVN rớt. Có năm rớt hai lần. Năm ngoái, ngày 8/4/08, rớt máy bay vận tải quân sự AN 26 ở gần Hà Nội. Cả 5 người trên máy bay đều thiệt mạng. Năm 2007 rớt hai lần. Ngày 5/6/07, rớt máy bay vận tải quân sự phản lực loại L39 tại bờ biển thuộc địa phận xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước tỉnh Ninh Thuận. Hai phi công trên máy bay tử nạn. Ngày 23/11, một máy bay quân sự đã rơi xuống ruộng ngô tại xã Nam Tiến (huyện Phổ Yên,Thái Nguyên). Phi công đã nhảy dù thoát nạn, theo tin báo Tiền Phong. Theo báo Dân Trí , ngày 12/4/2006, “một máy bay quân sự (chưa rõ loại máy bay gì) của Trung Đoàn 920 đóng tại Phù Cát đang bay tập luyện thì bị cháy và rơi tại xã Phước Hoà, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Hai phi công đã kịp nhảy dù nên bảo toàn được tính mạng. Tuy nhiên, một trong hai người đã bị thương”. Ngày 26/1/2005 một trực thăng quân sự đã rớt ở đảo Cồn Cỏ (ngoài khơi Quảng Trị) làm thiệt mạng 16 cán bộ trung và cao cấp CSVN
|
|
|
Post by vietnam on Jun 13, 2009 14:24:05 GMT -5
Silent Eagle 'yên lặng' tới đâu
Khi Boeing giới thiệu ý tưởng về phiên bản tàng hình của F-15 vào tháng 3, họ tuyên bố rằng diện tích bề mặt phản xạ radar của nó tương đương với phần trước của F-35. Và hiện họ đang thực hiện nhiều lần nghiên cứu để đo đạc chính xác các mức tàng hình của F-15SE. Theo lời Boeing, vấn đề không phải là giảm được diện tích phản xạ radar tới đâu, mà là chuyện chính phủ Mỹ cho phép xuất khẩu ở mức nào, vì F-15SE được nhắm chủ yếu tới thị trường xuất khẩu. Đặc biệt là những nước đang sử dụng F-15 như Hàn quốc, Nhật, Singapore hay Arab Saudi. Tính năng tàng hình của F-15SE đạt được chủ yếu từ việc đưa vũ khí vào trong khoang chứa kín, nơi trươc đây là thùng nhiên liệu phụ. Sử dụng vật liệu hấp thụ radar (RAM). Chỉnh cánh đuôi sang dạng chữ V. Và dùng bộ chặn sóng radar ở cửa hút gió động cơ. Boeing còn đề nghị việc cải tiến những mẫu F-15 cũ sang phiên bản 'tàng hình'. Đại bàng 'tàng hình' Boeing vừa giới thiệu mẫu thử nghiệm của một phiên bản mới cho chiếc máy bay cường kich chiến đấu F-15E Strike Eagle. Phiên bản này, được gọi là Silent Eagle, áp dụng những công nghệ tàng hình và nhắm đến các thị trường ở chấu Á và Trung Đông. Thay đổi lớn nhất trong thiết kế của Silent Eagle là việc thêm vào khoang chứa vũ khí bên trong thân máy bay, ở nơi trước kia là bình chứa nhiên liệu. Việc đưa vũ khí vào khoang kín bên trong thân máy bay thay vì đeo dưới cánh có tác dụng lớn giúp làm giảm tín hiệu radar phản xạ lại. 2 khoang chứa có thể chứa 4 tên lửa phòng không, Sidewinder hoặc AMRAAM, hoặc 4 quả bom dẫn đường bằng GPS 250kg hoặc 8 bom thông minh mini SDB, hoặc có thể là kết hợp giữa bom và tên lửa không đối không. Ngoài ra, cánh đuôi thằng đứng sẽ được thay bằng đuôi hình chữ V, cũng có tác dụng giảm tín hiệu radar phản xạ. Tốc độ tối đa vẫn là Mach 2.5, nhưng tầm bay của Silent so với F-15E giảm 180 - 200 hải lý vì thể tích khoang chứa nhiên liệu bị giảm để chừa chỗ cho khoang vũ khí. Thiết kế mới còn bao gồm một hệ thống tác chiến điện tử kỹ thuật số, hoạt động đồng bộ với radar quét điện tử chủ động (AESA), công nghệ radar tiên tiến nhất hiện nay. Mẫu thử nghiệm này không được phủ lớp vật liệu hấp thụ radar, nhưng có thể được áp dụng sau nếu cần. Bộ cản sóng radar gắn ở cửa hút gió, như trên chiếc F-18E, cũng có thể được thêm vào. Cửa hút gió, để cung cấp không khí cho động cơ phản lực, là một trong những điểm phản xạ tín hiệu radar nhiều nhất của một chiếc chiến đấu cơ. Chỉ mất khoảng 2h để hoán chuyển 1 chiếc Silent Eagle trở lại cấu hình như một chiếc Strike Eagle thông thường, khi đó tính năng 'tàng hình' giảm nhưng bù lại tầm bay và sức chứa vũ khí tăng lên. Các khách hàng mà Boeing nhắm tới là Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Israel và Ả rập Saudi.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 13, 2009 14:24:42 GMT -5
F-22 đa năng Không quân Mỹ vừa hoàn thành một đợt nâng cấp rất quan trọng cho F-22, tạo cho nó khả năng tấn công mục tiêu mặt đất, từ đó biến nó thành một máy bay đa năng. Mục đích của F-22 trước kia là chiếm quyền kiểm soát bầu trời trong chiến tranh. Đợt nâng cấp này cho phép F-22 mang theo * SDB, loại bom vệ tinh thế hệ 2, nâng cấp radar AESA để có thêm tính năng quét mặt đất. Ngoài ra, đợt nâng cấp còn tăng thêm tuổi thọ của F-22, từ 8,000 giờ theo thiết kế lên 13,000 giờ. * SDB - Thế hệ 2 của bom dẫn đường bằng vệ tinh Sự xuất hiện của JDAM, loại bom thông minh dẫn đường bằng vệ tinh đầu tiên, đã tạo ra một cuộc cách mạng trong tác chiến. Mặc dù trước đó đã có một số công nghệ chính xác cho vũ khí không lực khác, như dẫn bằng camera gắn ở đầu quả bom, dẫn bằng hồng ngoại, và đặc biệt là bằng laser; nhưng chúng có nhiều nhược điểm làm hạn chế việc sử dụng rộng rãi mà chỉ trong một số ít nhiệm vụ đặc biệt. Giá thành đắt, phụ thuộc nhiều vào điều kiện bên ngoài (mây, sương mù, khói, bão cát…) là những lí do quan trọng nhất. Ngoài ra, chúng còn bị hạn chế về tầm hoạt động vì cơ chế dẫn đường đòi hỏi nó phải 'nhìn thấy' mục tiêu. Dẫn đường bằng vệ tinh khắc phục những nhược điểm trên, tất cả gì cần thiết là tọa độ của mục tiêu. Do đó, nó không phụ thuộc vào điều kiện môi trường bên ngoài. Và máy bay cũng không cần phải 'nhìn thấy' mục tiêu nên không ảnh hưởng đến tầm hoạt động. Tùy vào độ cao khi thả bom, JDAM có thể lướt đi 40-70km đến mục tiêu nếu được trang bị những cánh lái lớn hay thậm chí là động cơ rocket nhỏ thì JDAM có thể trở thành một loại tên lửa hành trình mini. Bên cạnh đó, khi sử dụng công nghệ dẫn đường bằng vệ tinh, một máy bay có thể tấn công cùng lúc nhiều mục tiêu.Ngoài ra, giá thành của nó cũng rẻ hơn. Thực chất, JDAM không phải là một loại bom được thiết kế riêng biệt mà gồm những bộ thiết bị gắn thêm vào những quả bom thông thường. Và đó là điểm khác biệt lớn giữa JDAM và hậu sinh của mình, SDB. SDB là một loại bom dẫn đường bằng vệ tinh (GPS) được thiết kế hoàn chỉnh như một loại vũ khí riêng biệt. Nó trông giống một tên lửa hơn là một quả bom, với một bộ cánh xếp, cho phép nó lướt đi gần 100km, hình dạng thuôn dài tạo khả năng xuyên tương đương với loại bom 1 tấn mặc dù nó chỉ nặng 120kg. SDB có kích thước nhỏ, chỉ 120kg, so với 250kg của loại JDAM nhỏ nhất. Lí do vì khi mà độ chính xác của vũ khí ngày càng cao thì yêu cầu về sức công phá cũng giảm xuống. Điều đó cho phép một chiếc máy bay mang nhiều bom hơn, đồng thời giảm thiệt hại phụ, đặc biệt nếu nó được sử dụng trong thành thị. SDB được thiết kế để cho một lốc 4 bom có thể được treo trên cùng 1 điểm treo vũ khí, thay vì chỉ 1 như loại bom thường. Ngoài ra, kích thước nhỏ gọn cũng thích hợp cho việc trang bị trong các máy bay tàng hình có khoang chứa vũ khí kín như F-22 và F-35. Như trong đoạn video đầu tiên là F-22. Bên cạnh đó, công nghệ dẫn đường trên SDB hiện đại hơn JDAM, dù cùng một cơ chế, cho phép tăng độ chính xác. Với SDB, một chiếc máy bay có thể tấn công nhiều mục tiêu hơn với mức độ hiệu quả không đổi. Trong đoạn clip dưới là SDB được không quân Israel sử dụng trong chiến dịch Cast Lead tại Gaza. Đó là nơi rất thích hợp cho SDB, vì Hamas luôn tìm cách chen lẫn các cơ sở của mình vào khu vực dân cư. Do đó, cần một loại bom không quá lớn, đồng thời vẫn phải có độ chính xác và sức xuyên để phá sập các đường hầm dùng để chuyển lậu vũ khí từ Ai cập qua Gaza. Hiện nay, hệ thống vệ tinh định vị duy nhất đang hoạt động đầy đủ, nghĩa là phủ sóng toàn bộ trái đất 24/24, là GPS của quân đội Mỹ. Trong tương lai có thể có thêm Glonass của Nga, Baidu của TQ và Galilleo của Châu Âu F-35 JSF (JOINT STRIKE FIGHTER)
PHẢN LỰC CƠ ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ CỦA THẾ KỶ 21Kỹ sư Nguyễn Thanh Bình Hai phải lực cơ X-32 của hãng Boeing và X-35 của hãng Lockheed Martin trong những tháng qua đã tranh tài với nhau tại một căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ tại tiểu bang Maryland và nay đã có kết quả. Vào ngày 26 tháng 10 năm 2001, chiếc phản lực cớ X-35 của hãng Lockheed Martin được bộ Quốc Phòng HK (BQP/HK) chọn để sử dụng cho các thập niên đầu của thế kỷ này. Chiếc F-35 sẽ thay thế một số phi cơ đã cũ của Hải Quân, Không Quân, Thủy Quân Lục Chiến HK, Không Quân & Hải Quân Hoàng Gia Anh. Loại phản lực cơ JSF mới có này có thể sử dụng được nhiều mục đích khác nhau vừa có thể không chiến vừa có thể oanh kích các vị trí dưới đất, giữ ưu thế trên không và có khả năng đánh mục tiêu rất chính xác. Với kỹ thuật tối tân hiện nay, BQPHK đang sắp sửa cho ra lò phản lực cơ "con ma" siêu thanh F-22 lấy tên là Raptor, chiếc F-35 cũng được dựa trên những yếu tố kỹ thuật đó. Cả hai chiếc X-32 và X-35 là loại phản lực cơ con ma (ra-da địch không biết chính xác) siêu thanh nhưng có thể cất cánh và hạ cánh như phi cơ trực thăng. Tuy nhiên, chiếc X-35 được chọn vì hệ thống điều khiển lên xuống thẳng đứng của hãng Lockheed Martin theo kiểu "lift fan design" có kết quả tốt hơn của Boeing theo kiểi "vectored-thrust approach". Kiểu "lift-fan design" có thể tăng thêm sức đẩy cho phản lực cơ khi cần trong trường hợp đặt biệt. Hãng Lockheed Martin trúng thầu được $200 tỷ mỹ kim ($200,000,000,000) để chế tạo 3 kiểu JSF khác nhau cho HQ, KQ, TQLC Hoa Kỳ, KQ và HQ Hoàng Gia Anh. Ba kiểu khác nhau này sẽ có thân phi cơ, phòng chứa vũ khí, phần bên ngoài như hệ thống cánh xếp và cánh đuôi giống nhau. Hai hệ thống chứa vũ khí được đặt dưới bụng phi cơ sau hệ thống bánh đập chính. Hệ thống ra-da, hệ thống thoát hiểm, phòng lái và những hệ thống điện tử cũng đều giống nhau. Động cơ F-135 của F-35 do hãng Pratt&Whitney chế tạo. Lockheed Martin hy vong sẽ bán khoảng 3,000 chiếc với giá từ $40 đến $50 triệu mỹ kim (MK) một chiếc. X-35 (X= experimental aircraft) là chiếc phi cơ dùng để bay thử nghiệm được đổi tên thành F-35 sẽ được đóng ráp tại Lockheed Martin Aeronautics Co, Fort Wort, Texas. Ngoài ra, chính phủ Anh cũng đã bỏ ra $2 tỷ MK cho chương trình này và một đia điểm đóng ráp khác tại Samlesbury, Anh Quốc. BQP/HK cũng đang thương lượng với các chính phủ Ý và Hòa Lan với mọi quốc gia bỏ vào $1 tỷ MK, Gia Nã Đại, Thổ Nhĩ Kỳ và Đan Mạch có thể đóng góp từ $200 đến $400 triệu MK để hợp tác hạn chế vào chương trình này. Những hệ thống khác như hệ thống Ra-Da đã dùng điện tử tối tân (AESA) do hãng Northrop Grumman chế tạo, hệ thống đo lường bằng điện tử do hãng Snader/Litton Amecon chế tạo, hệ thống điện tử xác định mức tiêu do hãng Lockheed Martin chế tạo, hệ thống tấm nhiệt do hãng Nortrop Grumman chế tạo, nón đội helmet có màn ảnh điều khiển trên nón trước mắt do hãng Vision System International chế tạo, v.v... Một vài chi tiết về F-35: Trọng lượng không trang bị từ 22,500 đến 24,000 pounds. Trọng lượng xăng chưa bên trong từ 15,000 đến 16,000 pounds. Trọng lượng vũ khí từ 13,000 đến 17,000 pounds. Trọng lượng phi cơ cất cánh tối đa là 50,000 pounds. Bề ngán cánh dài tổng cộng từ 30 đến 36 feet. Tầm hoạt động bán kính trên 1,000 miles. Phi hành đoàn 1 người. Chuyến bay thử đầu tiên vào năm 1999. Phi cơ sẽ được sử dụng vào năm 2008. KQ/HK dự tính sẽ mua 1,763 chiếc F-35 với giá khoảng $28 triệu MK một chiếc. Phản lực cơ "con ma" siêu thanh F-22 va F-35 sẽ thay thế các phản lực cơ F-15 Eagle và F-16 Falcon. Hệ thống súng liên thanh được điều khiển bằng điện tử và tia sáng laser. Kiểu của KQ thì đơn giản hơn, không cần phải cất cánh hay đáp thẳng đứng. HQ/HK dự tính sẽ mua 480 chiếc với giá khoảng $35 triệu MK một chiếc. Vì phi cơ của HQ phải đáp trên hàng không mẫu hạm nên kiểu F-35 này khác với của KQ về hệ thống lên xuống. Cánh và đuôi có phần lớn hơn để có thể bay chậm hơn khi đáp và cũng có thể chở được vũ khí nhiều hơn. Vì vậy, sườn phi cơ, hệ thống bánh đáp, hệ thống dây móc phía dưới (dùng để khi đáp) cần phải chế tạo chắc chắn hơn. F-35 có tầm bay xa gấp đôi loại F-18 C Hornet mà không cần bình xăng phụ. Hệ thống súng liên thanh điện tử và laser cũng giống như kiểu của KQ. F-35 cùng với một loại phản lực vừa mới ra lò của HQ là chiếc F/A-18 E/F Super Hornet sẽ thay thế các loại phi cơ A-6 Intruder va F-14 Tomcat. TQLC/HK dự tính sẽ mua 480 chiếc với giá khoảng $38 triệu MK một chiếc. Đặc điểm của kiểu cho TQLC/HK là có thể bay lên đáp xuống như phi cơ trực thăng được nhờ có thêm hệ thống máy phản lực phía dưới thân của phi cơ. Vì thế hệ thống súng liên thanh không gắn bên trong mà được gắn bên ngoài. F-35 này có thể đứng một chỗ trên không và có thể xoay tròn được như trực thăng nên hệ thống điều khiển phi cơ được chế tạo đặc biệt hơn. F-35 sẽ thay thế F/A-18 Hornet và AV-8 Harrier (Harrier đầu tiên do Anh chế tạo cho HQ Hoàng Gia Anh và sau đó được hãng Boeing tân trang, cũng có thể lên xuống thẳng được nhưng vận tốc không siêu thanh). KQ va HQ Hoang Gia Anh: Chính Phủ Anh dự tính sẽ mua 60 chiếc F-35 kiểu giống như của TQLC/HK để thay AV-8 Harrier. KS Nguyễn Thanh Bình
|
|
|
Post by vietnam on Jun 29, 2009 15:10:38 GMT -5
Výợt týờng âm thanh Một chiếc F-22 ðang výợt qua bức týờng âm thanh trong cuộc tập trận Northen Edge.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 29, 2009 19:27:54 GMT -5
Nguyên nhân vụ rơi Su-30MKI của Ấn độ
Hồi tháng 4, một máy bay Su-30MKI của không quân Ấn độ bị rơi phi đang huấn luyện, làm chết phi công phụ. Vụ tai nạn khiến cho cả Ấn độ và Nga bối rối, trong khi toàn bộ số đội máy bay hiện đại nhất của Ấn độ phải tạm ngừng hoạt động. Và đến nay thì nguyên nhân vụ tai nạn đã được làm rõ.
Lỗi chính thuộc về phi công, khi anh này định tắt công tắc vũ khí chính, nhưng lại tắt nhầm nguồn cấp điện cho máy tính. Việc này không chỉ làm máy tính ngừng hoạt động mà ngay cả việc cấp điện trở lại cũng không thể làm nó khởi động lại được. Không còn máy tính, máy bay mất điều khiển và rơi. Phi công phụ chết do dây đai ở ghế bị hỏng vì nhiệt từ mặt trời khi nó đậu trên đường băng và không được che chắn.
Mặc dù vậy, nhiều người cho rằng 1 phần lỗi là từ chính thiết kế của máy bay. Tại sao những công tắc cực kỳ quan trọng như vậy (4 công tắc tất cả) lại được đặt ở vị trí dễ gây nhầm lẫn. Và hoàn toàn không có bất kì cơ chế an toàn nào, ví dụ như dây khóa hay nắp đậy để đề phòng trường hợp sử dụng lầm như trên. Nhất là khi mà phi công hoàn toàn không sử dụng công tắc này khi đang bay, vì như đã nói ở trên, một khi đã tắt nguồn thì không thể khởi động lại được. Posted by Mili-Tec
|
|