|
Đau Tim
May 23, 2009 3:35:49 GMT -5
Post by vietnam on May 23, 2009 3:35:49 GMT -5
Đau Tim, Tức Ngực Bác sĩ Nguyễn Ý Đức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Trong suốt cuộc đời, thế nào chúng ta cũng có lúc ôm ngực kêu đau. Có người thì hơi đau một chút đã hoảng hốt la làng là đang bị cơn-đau-tim và vội vàng kêu xe cấp cứu. Ngược lại thì cũng có người mặt xanh như tầu lá, ngực nhói đau thì lại bảo vì ăn không tiêu, uống vài viên chống acit là ổn. Cả hai thái độ coi bộ đều cần được xét lại. Thành ra, thêm một chút hiểu biết về những cơn đau từ ngực tưởng cũng không phải là dư. Lồng ngực Ngực là khoảng trống trước của cơ thể, nằm giữa cổ và hoành cách mô. Các xương của ngực kết hợp với nhau thành một cái chuồng hình nón. Mười hai xương sườn là chấn song của lồng ngực. Xuơng sườn nối với xương ức ở phía trước và các đốt sống ở phía sau. Giữa các xương sườn là khoảng cách liên sườn, trong đó có dây thần kinh, mạch máu và cơ. Lồng ngực bao bọc và che chở cho hai lá phổi, trái tim, thực quản và các bộ phận phụ thuộc. Thực quản là ống dẫn thực phẩm từ miệng xuống bao tứ, nằm sau xương ức. Từ trái tim đi ra là động mạch chủ, chạy dọc xuống dưới, phân phối máu đỏ có nhiều dưỡng khí để nuôi tế bào. Tĩnh mạch chủ chạy từ phía dưới cơ thể lên tim, chuyển máu có nhiều khí carbon, rồi lên phổi để đổi lấy dưỡng khí. Dưới lồng ngực là xoang bụng chứa các bộ phận như dạ dày, ruột già ruột non, gan, lá lách, tuyến tụy, thận, bọng đái. Các bộ phận này nằm sát ngay dưới lồng ngực. Ngực và bụng ngăn cách nhau bằng cơ hoành. Khi áp xuất trong bụng tăng, các bộ phận này cũng ép lên lồng ngực. Với sự sắp đặt như vậy, cơn đau ngực có thể là từ nhiều cơ quan khác nhau, chứ không riêng gì từ trái tim. 1-Đau không từ trái tim a. Bệnh của túi mật như viêm hoặc sỏi mật đôi khi cũng gây đau tương tự như cơn đau của tim. b. Chứng ợ chua với chất acit từ bao tử trào ngược lên thực quản, tạo ra cảm giác nóng cháy sau xương ức. c. Viêm màng bọc hai lá phổi vì sưng phổi gây ra cảm giác đau, nhất là khi ho hoặc hít thở mạnh. d. Đau khi gẫy nứt xương sườn hoặc viêm lớp sụn nối tiếp xương sườn với xương ức. e. Đau nhức các cơ liên sườn hoặc khi dây thần kinh bị kẹp. g. Đau ngực trong các bệnh phổi như phổi tràn khí phế mạc (pneumothorax), hen suyễn, nghẽn động mạch phổi. h. Trong bệnh zona do virus thủy đậu gây ra, đau nhức từ sau lưng tới lồng ngực kèm theo một dải những mụn nước. i. Nuốt nhiều không khí khi vội vàng ăn hoặc uống nước có hơi hoặc uống với ống hút. Không khí làm căng bao tử, tạo ra cảm giác đau đau ở phía trái bụng dưới. Người đang tức giận bực mình cũng nuốt nhiều hơi trong khi ồn ào, hổn hển diễn tả lời nói. k. Nằm ngủ với cánh tay, bả vai ở vị thế bất bình thường cũng đưa tới đau ngực. l. Trong cơn hoảng sợ, tim đập nhanh, hơi thở dồn dập, đổ mồ hôi, hụt hơi thở cũng thường có cơn đau trước ngực. 2-Đau từ trái tim Đau từ trái tim cũng có nhiều loại: a- Cơn-đau-thắt-ngực, tiếng Anh gọi là angina pectoris. Angina có nghĩa đau như co thắt, xiết chặt trái tim lại (constricting pain). Pectoris là lồng ngực. Năm 1768, bác sĩ người Anh William Heberden là người đầu tiên tả cảm giác này một cách ngắn gọn, linh động như sau: “Người bị cơn đau thắt ngực hành hạ khi đang đi lên một con đường dốc hoặc sau khi ăn no. Đau rất khó chịu tưởng như có thể chết đi được nếu cơn đau cứ tiếp tục. Nhưng may mắn là khi người đó nghỉ thì cơn đau hết tức thì”. Đau của angina cho cảm giác như co thắt toàn thể hoặc phần ngực nằm sau xương ức, lan lên cổ, hàm, má, bả vai, cánh tay và xuống cả vùng giữa bụng hoặc giữa hai xương bả vai. Đau thắt ngực thường xảy ra khi ta leo lên một ngọn đồi hoặc bước những bậc cầu thang lên lầu, khi đi trong gió lạnh, mang vật nặng, cào lá, làm vườn, xúc tuyết, vươn mình chạy đỡ đường banh quần vợt, đang coi một truyện phim nhiều kích động, đôi khi cả trong lúc hấp dẫn giao hợp hoặc những cơn thịnh nộ, lo âu. Cũng có trường hợp đang ngủ, cơn đau xuất hiện đánh thức nạn nhân bừng dậy ôm ngực nhăn nhó. Mỗi cơn đau như vậy kéo dài không quá 10 hoặc 20 phút và hầu như chầm dứt khi ta ngưng hoạt động đã gây ra cơn đau. Hoặc đặt dưới lưỡi một viên nitroglycerin. Và khi được hỏi đau ở đâu thì hầu như mọi người đều chỉ vào ngực với cả bàn tay chứ không với một ngón tay. Tại sao có cơn đau thắt ngực như vậy? Thưa đau là tiếng kêu cứu, phản kháng của trái tim bị bỏ đói, thiếu dưỡng khí mà còn bị lạm dụng bóc lột sức lao động quá mức. Với kích thước bằng nắm tay, trái tim co bóp liên tục ngày đêm 70 lần trong một phút để bơm ra, hút vào một lượng máu khổng lồ là 6 tấn máu vào cả ngàn cây số mạch máu mỗi ngày. Để hoàn tất nhiệm vụ của một cái bơm, các cơ của tim cần được nuôi dưỡng với oxy. Động mạch vành lãnh trách nhiệm nuôi dưỡng này. Động mạch vành có hai nhánh chính trước và sau tim và các nhánh phụ bao phủ toàn bộ trái tim như một cái vương miện. Bình thường, tim và động mạch có khả năng thích nghi, làm việc nhiều hơn một chút để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng khi cơ thể hoạt động mạnh mẽ hơn. Động mạch vành có đường kính khoảng từ 2-3 mm, vừa đủ rộng để chứa một chiếc que diêm. Nhưng khi động mạch vành bị thu hẹp, sự nuôi dưỡng cơ tim giảm đi. Cơ tim gào thét bằng những cơn đau, để báo động cho con người là họ đang trong tình trạng hiểm nghèo. Thu hẹp thông thường của động mạch là do những mảng chất béo cholesterol bám vào thành động mạch vành. Cholesterol cần cho cơ thể, nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Nếu cao quá thì chúng phải kiếm chỗ để dung thân. Mà gần nhất là ở ngay các động mạch mà chúng đang lưu hành. Đó là sự Vữa Xơ Động Mạch (Atherosclerosis). Khởi thủy là lớp màng lót của một chỗ nào đó trong động mạch trở nên mềm rồi một thời gian sau cứng lại. Cholesterol bắt đầu bám vào đó, mỗi ngày mỗi cao hơn. Khoáng chất calci trong máu cũng nhân cơ hội táp vô, làm mảng cứng, khó tan. Diễn tiến của sự vữa xơ rất chậm, có khi cả năm và không có triệu chứng báo hiệu. Con người vẫn “vô tư” ăn uống, với nhiều chất béo cholesterol rất ngon miệng trong món ăn. Lòng động mạch thu hep dần dần và khi đường kính động mạch giảm tới 75% thì chuyện chẳng lành xảy ra. Đó là cơn đau-thắt-ngực, angina. Mỗi cơn đau tại một vùng cơ thể là một lời cảnh cáo, một báo hiệu có hiểm nguy, khó khăn đâu đó. Để con người biết mà đề phòng, đối phó, chữa trị. Trái tim thiếu nuôi dưỡng, làm việc quá sức và kêu đau. Nếu ngưng nguyên nhân gây đau, tim dịu xuống, hết nhăn nhó. Cũng có một số trường hợp, vữa xơ không đưa tới cơn đau thắt ngực. Đó là ở những người mà động mạch vành thu hẹp đã tạo ra được vài mạch máu bên lề (collateral), vòng qua đường hẹp tắc, dẫn máu nuôi tim. Hiện tượng vữa xơ cũng thấy ở các động mạch nuôi thận, nuôi não, nuôi ruột, nuôi tứ chi. Ở não, vữa xơ gây ra tai biến não (stroke). Ở thận đưa tới suy thận, phải lọc máu, thay thận. Ở chân đưa tới khập khiễng cách hồi (clauditation intermittant) với đau bắp vế khi đi, khi chạy, hết đau khi ngồi khi nghỉ… Những rủi ro đưa tới vữa xơ là cao huyết áp, béo phì, cao cholesterol trong máu, phì phèo thuốc lá luôn miệng, tiểu đường, không vận động cơ thể, căng thẳng tâm thần… Để xác định cơn-đau-thắt-ngực, bác sĩ cần tìm hiểu y sử người bệnh, hoàn cảnh nào angina xảy ra, cơn đau như thế nào, thường thường nạn nhân làm gì để giảm cơn đau. Rồi khám tổng quát, nghe nhịp tim, đo điện tâm đồ khi bệnh nhân nghỉ và sau khi bệnh nhân bước lên chục bực thang hoặc đi trên máy đi bộ (treadmill). Angina thường thường giảm hết sau khi ngưng động tác gây ra nó hoặc sau khi dùng nitroglycerin. Nitroglycerin là dược phẩm có tác dụng trị liệu rất lớn và thường được dùng để loại bỏ cấp kỳ cũng như giảm tần số và phòng tránh các cơn angina. Thuốc làm giãn mở động mạch vành, khiến cho máu lưu thông tới tim nhiều hơn để giải tỏa cơn đau kêu gào thiếu dưỡng khí của cơ tim. Thuốc cũng làm giãn mở mạch máu toàn thân, nhờ đó tim cũng bớt phải co bóp mạnh hơn để bơm máu ra. Thuốc được đặt dưới lưỡi để tự tan ngấm váo máu và tác động tức thì. Nhớ đừng nhai đừng nuốt nitroglycerin. Cũng có loại nitroglycerin dạng mỡ thoa trên ngực với tác dụng kéo dài vài giờ. Dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ. Nếu viên đầu không thấy công hiệu, có thể dùng thêm một viên nữa. Và nếu cơn đau không giảm sau khi dùng thuốc 15 phút, nên cho bác sĩ hay ngay. Cơn đau liên tục xẩy ra cần được điều trị tại nhà thương, vì rất có thể là ta bị cái đau của cơn-đau-tim, Heart attack. Để được an toàn, nên nghĩ tới heart attack khi angina không thuyên giảm với nghỉ hoặc với hai ba viên nitroglycerin. Cũng nghĩ tới heart attack nếu chưa bao giờ bị angina mà bây giờ chợt bị đau nơi ngực, không bớt khi ngưng công việc đang làm. b-Cơn-đau-tim Trên đây là đau-nghỉ-hết đau. Bây giờ là đau, nghỉ cũng chẳng hết mà lại có nhiều nguy cơ nghỉ luôn trong lòng đất. Đó là cơn-đau-tim, heart attack. Heart attack cũng báo hiệu bằng cơn đau trước ngực, đau như trái tim bị kẹp giữa hai ngàm của chiếc máy ép nước mía, kéo dài nhiều giờ và không thuyên giảm cho tới khi được cấp cứu (với morphine). Đau cũng xuất hiện ở vùng trên bụng, lan lên cổ, ra hai vai, tới cánh tay và có khi vòng ra sau lưng. Bệnh nhân ở trong tình trạng lo sợ, toát mồ hôi lạnh, mặt xanh như tàu lá, ợ hơi (belching), ọe khan hoặc ói mửa. Thêm vào đó là cảm giác hụt hơi thở, hổn hển ngáp ngáp không khí, tim đập nhanh. Ở nữ giới và lão niên, các dấu hiệu nhiều khi không rõ rệt, chỉ cảm thấy mệt mỏi, yếu sức khiến cho họ không nhận ra là đang trong cơn hiểm nghèo. Nguyên do đưa tới heart attack cũng bắt nguồn từ những mảng cholesterol trong động mạch. Tới một lúc nào đó, một mảnh của mảng này tách ra, tạo thành ra một máu cục, di chuyển tới động mạch tim và hoàn toàn gây tắc nghẽn sự lưu thông máu tới nuôi tế bào tim. Tế bào chết vì thiếu oxy, mà y học gọi là nhồi-máu-cơ-tim (myocardial infarction). Ngoài ra, heart attack cũng gây do một số nguy cơ khác như gia đình có người bị nan bệnh này, do hút nhiều thuốc lá, do cao huyết áp, tiểu đường, lạm dụng thuốc cấm cocaine…Đáng tiếc là trong nhiều trường hợp, các rủi ro này kết cấu với nhau để gây ra thiệt hại cho trái tim và đưa tới heart attack. Xác định heart attack bằng khám tổng quát, đo điện tâm đồ, chụp x-quang tim và thử máu tìm mức độ men tế bào tim. Khi tế bào tim bị hủy hoại, chúng nhả ra những enzyme và tế bào càng chết nhiều thì enzyme trong máu càng cao. Cơn-đau-tim là một cấp cứu y khoa vì tử vong có thể xảy ra trong vài chục phút. Nhiều người thiệt mạng trước khi tới bệnh viện vì họ coi thường các dấu hiệu báo động. Bệnh nhân thiệt mạng phần lớn là do rối loạn nhịp tim. Nhịp tim nhanh loạn xạ (tachycardia), rung tim thất (ventricular fibrillation) đưa tới tim rung rinh (quivering), co giật (twitching) thay vì co bóp (beating) và cuối cùng là ngưng tim, nhiệm vụ bơm máu chấm dứt. Do đó, các cơn đau ngực đều nên coi là khẩn cấp. Nếu bất cứ dấu hiệu nào mà ta nghĩ là có thể xuất phát từ trái tim, thì kêu cấp cứu ngay. c-Viêm màng bọc trái tim Màng bọc trái tim hoặc ngoại-tâm-mạc (pericardium) là một cái màng bao quanh tim để che chở cho cơ quan nhỏ bé nhưng quý giá này. Màng có thể bị viêm vì nhiễm virus, chứng ure huyết, ung thư và có các triệu chứng như đau ngực, nóng sốt… d-Rách động mạch chủ Động mạch chủ (aorta) là động mạch chính của cơ thể, xuất phát từ tâm thất trái, uốn cong phía trên tim rồi chạy xuống ngực và bụng, phía trước xương sống. Khi bị một cú đập mạnh vào ngực, hoặc khi huyết áp lên quá cao, lớp màng lót của động mạch chủ có thề bị rách (aorta dissection), tạo ra một cơn đau ngực không lường trước, rất dữ dội, có thể chết ngưới. May mắn là chuyện này rất hiếm khi xảy ra. e-Co thắt cơ của động mạch vành Đôi khi cơ của động mạch vành co thắt và cũng đưa tới đau ngực từng cơn. Nguyên do có thể là tự nhiên co hoặc bị các chất như nicotine, caffeine kích thích. Co thắt xảy ra khi nghỉ cũng như đang hoạt động. Kết luận Đó là những cơn đau ngực với các nguyên nhân. Biết chúng để đối phó với chúng là điều cần, vì cẩn tắc vô ưu, cứu bệnh như cứu hỏa. Bác sĩ chuyên bệnh Tim Mạch Harvey Simon, Đại học Y khoa Harvard, thường nói với các sinh viên của ông rằng: “Dấu hiệu thông thường nhất của cơn-đau-tim là cơn đau thắt ngực và dấu hiệu thứ nhì là sự phủ nhận denial, vùi đầu trong cát. -Ôi chỉ một chút căng thẳng, khó tiêu, hết ngay ấy mà!”. Và ông đề nghị: với mọi nhói tim, nặng ngực, khó thở, cần tham khảo ý kiến bác sĩ ngay. Kẻo rồi lại quá trễ.
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC Texas- Hoa Kỳ
|
|
|
Đau Tim
May 23, 2009 3:58:21 GMT -5
Post by vietnam on May 23, 2009 3:58:21 GMT -5
Thông Tim, Mổ Tim và Làm Mọc Nhánh Mới B.S. Vũ Quí Đài, M.D., Ph.D., Cựu Giáo Sư Khoa Trưởng Y Khoa Đại Học Sài Gòn
Bệnh động mạch vành, tức là mấy mạch máu nuôi bắp thịt tim bị nghẹt, đưa đến hậu quả là lên cơn đau tim tức ngực (angina), và nặng hơn nữa, thì bị đứng tim (heart attack). Nguyên tại nước Mỹ có trên 12 triệu người bị bệnh này. Người chết vì bệnh này nhiều nhất trong số tử vong vì bệnh tim mạch, mà ta đã biết là số tử vong vì tim mạch đứng hàng đầu trong bảng các nguyên nhân tử vong nói chung. Loại trừ nguy cơ sinh bệnh Việc chữa trị, thì đầu tiên là loại trừ các nguy cơ sinh bệnh (risk factors): bỏ thuốc lá, chữa trị cao huyết áp, hạ cholesterol, ăn uống lành mạnh, và năng hoạt động. Bác sĩ Y tế trưởng Hoa kỳ (U.S. Surgeon General) vừa ra thông báo cho biét tầm quan trọng của các nguy cơ bệnh tim mạch. Trong số trên 50 triêïu người bị bệnh cao máu, chỉ có một phần tư được chữa trị đúng mức. Hơn 90 triệu người có mức cholesterol quá cao. Mỗi ngày, có hơn 3000 thiếu niên sa vào vòng nghiện thuốc lá. Mỗi năm có gần nửa triệu người chết vì các bệnh liên quan đến thuốc lá. Bệnh mập gia tăng trong mọi lứa tuổi từ trẻ đến già: trên 90 triệu người nặng quá ký, làm tăng nguy cơ bị cao máu, cao cholesterol, tiểu đường, đứng tim, tai biến mạch máu não. Số trẻ em và người lớn ngồi ỳ trước Ti vi, trò chơi video và computer ngày càng gia tăng. Chỉ có một trong số các tiểu bang bắt buộc có giờ thể dục thể thao ở trung tiểu học. Dùng thuốc Mục đích của thuốc men là để phòng ngừa khỏi bị khan máu (ischemia) và giảm thiểu triệu chứng, như tức ngực. Bác sĩ thường dùng bốn loại thuốc sau này: Thuốc làm chậm nhịp tim - Thuốc thuộc nhóm này (gọi là beta-blocker) làm cho nhịp tim chậm lại khi nghỉ ngơi cũng như khi mệt nhọc, thành ra mức độ dưỡng khí từ máu cần thiết cho trái tim giảm bớt đi. Thuốc Nitrates - Thí dụ như Nitroglycerine, có thứ tác dụng ngắn hạn, có thứ dài hạn. Người bị đau tim tức ngực gọi là "ổn định", có thể dược bác sĩ cho mang sẵn thuốc trong người, khi sắp làm việc mệt nhọc nghi là sẽ lên cơn đau, hay là vừa lên cơn đau, ngậm một viên dưới lưỡi thì hết đau ngay trong vòng một hai phút, và có hiệu quả được chừng nửa giờ. Thuốc tác dụng dài hạn thì uống ngày mấy lần. Cũng có thứ thuốc dán cho ngấm qua da. Nhóm thứ ba, thí dụ như Verapamil và Diltiazem làm cho động mạch không co nhỏ lại được. Thuốc nhóm này đồng thời cũng có thể làm cho tim đập chậm lại. Loại thứ tư, như Aspirin là những thuốc chống tiểu cầu. Tiểu cầu có nhiệm vụ quan trọng trong việc làm cho máu đông lại. Tiểu cầu bám vào những mảng bên trong động mạch, tạo ra những cục máu đông làm cho lòng động mạch bị nhỏ thêm nữa. Aspirin bám cứng vào tiểu cầu, làm cho tiẻu cầu không gây cục máu đông được. Bác sĩ hay khuyên những người có bệnh động mạch vành uống ngày một viên Aspirin nhỏ, loại thuốc con nít. Người bị dị ứng với Aspirin, có thể dùng thuốc Ticlopidine. Mổ tạo đường tắt Khi có khúc động mạch vành nuôi tim bị tắc nghẽn nhiều, người ta có thể mổ để tạo một đường cho máu đi tắt tới nuôi tim mà không phải qua cái khúc bị nghẹt đó. Phẫu thuật này gọi là mổ tạo đường tắt (bypass surgery, hay nói đầy đủ hơn, là coronary artery bypass surgery) cũng còn gọi là ghép (bypass graft). Thường thì người ta lấy một đoạn tĩnh mạch từ dưới chân lên để làm đường nối đó. Nhưng vào khoảng một phần ba những tĩnh mạch này, sau chừng 5 năm làm nhiệm vụ thay thế khúc động mạch vành, lại bị nghẹt luôn. Thành ra cũng nhiều khi bác sĩ không dùng tĩnh mạch, mà lấy một động mạch nhỏ ở sau xương mỏ ác để tạo ra khúc mạch đi tắt. Những động mạch thay thế này bền lâu hơn là tĩnh mạch. Nếu tình trạng tim còn tốt, chưa bị đứng tim lần nào, thì giải phẫu tạo đường tắt khá an toàn. Mức độ tử vong không tới một phần trăm. Kết quả sau khi mổ rất rõ rệt: bệnh nhân không còn bị lên cơn đau tức khi mệt, và thuốc men nếu còn phải dùng cũng giảm liều lượng được nhiều. Thông tim Tùy theo điều kiện bệnh động mạch vành, và tùy theo tình trạng bệnh nhân, có khi bác sĩ quyết định thông tim (coronary angioplasty) thay vì mổ. Bác sĩ dùng một kim chích lớn chích vào một động mạch lớn, thường là động mạch ở đùi. Sau đó xuyên một sợi kim loại theo mạch máu vào tới động mạch chủ, là động mạch chính từ tim chạy ra, ở ngay chỗ gốc động mạch chủ là chỗ động mạch vành chạy ra nuôi tim. Tiếp tục luồn sợi kim loại vào động mạch vành ở tim. Khi đã yên vị rồi, mới dùng một cái ống mềm đầu có một quả bóng tí hon dựa theo sợi kim loại luồn vào tới khúc động mạch vành bị nghẹt. Lúc đó, người ta bơm cho quả bóng phồng lên xẹp xuống nhiều lần. Quả bóng này có cái khuôn giống như một lớp lưới, khi phồng lên, sợi lưới làm vỡ rách một ít cái mảng đóng nghẹt trong lòng mạch máu. Đồng thời mạch cũng nở thêm ra. Kết quả sau khi mổ lên đến 90 phần trăm. Mức độ an toàn cũng tương đương với việc mổ tạo đường tắt. Có một số ít bệnh nhân thông tim cần phải giải phẫu tạo đường tắt cấp thời vì biến chứng trong khi thông tim. Một số nữa bị nghẹt lại trong vòng sáu tháng, phải thông tim lại. Hai cách chữa mới 1- Tạo nhánh mới cho động mạch vành (therapeutic angiogenesis)- Người ta dùng thuốc lọai kích thích tăng trưởng (growth factor), thí dụ như vascular endothelial growth factor (gọi tắt là VEGF), chích thẳng vào bắp thịt tim, hoặc là truyền thuốc vào máu để động mạch vành được kích thích mọc ra những nhánh mới để nuôi tim. 2- Tia laser xuyên cơ tim (transmyocardial revascularisation by laser)- Dùng tia laser đục những lỗ nhỏ li ti trong bắp thịt tim, hoặc bằng cách mổ tim trực tiếp, hoặc dùng kỹ thuật vi phẫu đi vào bằng những ống qua mạch máu. Những lỗ nhỏ này có thể là làm cho máu ngấm thẳng vào nuôi tim, cũng có tác dụng kích thích sự tạo nhánh mới. Hai kỹ thuật trên đây còn rất là mới mẻ (kết quả sơ khởi mới ra chừng mấy tháng nay), hiện chỉ dành cho những bệnh nhân dùng thuốc men không có hiệu quả, mà mổ thì không được, hoặc vì mổ bị nghẹt lại, hoặc vì nghẹt nhiều chỗ quá mổ không được. Mới chỉ có một số ít trung tâm y khoa làm được những kỹ thuật này.
(Bài này chỉ nhằm cung cấp những thông tin cơ bản về sức khỏe và y tế. Nếu cần chữa bệnh, xin liên lạc trực tiếp với bác sĩ của bạn). Bs Vũ Quý Đài, M.D., Ph.D.
|
|
|
Đau Tim
May 23, 2009 3:59:45 GMT -5
Post by vietnam on May 23, 2009 3:59:45 GMT -5
Phòng Tránh Bệnh Tim Mạch Bác sĩ Nguyễn Ý - Ðức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Mỗi năm bệnh tim mạch gây thiệt mạng cho hơn 17 triệu người trên thế giới. Tại Hoa Kỳ số tử vong cũng xấp xỉ con số 700.000 người. Tuy được coi như “bệnh của người già” trên 65 tuổi, nhưng bệnh tim mạch cũng thường thấy ở lớp tuổi trẻ hơn Có nhiều loại bệnh tim, nhưng thông thường nhất vẫn là bệnh của động mạch tim (Coronary Heart Disease) với các “cơn đau tim”(Heart attack). Động mạch tim hoặc động mạch vành là mạch máu chính cung cấp dưỡng khí và các chất dinh dưỡng cho cơ tim. Các nhánh của động mạch bao phủ toàn bộ trái tim như một cái vương miện. Máu đến từ động mạch chủ. Khi máu lưu thông trong động mạch vành bị cản trở, sự nuôi dưỡng tim gặp trở ngại. Tế bào tim không đủ oxy để làm việc. Trái tim báo động bằng những cơn đau xuất hiện trên phía trái của lồng ngực. Cơn đau kéo dài vài ba phút rồi chấm dứt nhưng sẽ trở lại. Cơn đau lan tới cánh tay, lưng, cổ, mặt, bụng. Bệnh nhân cũng cảm thấy khó thở, toát mồ hôi lạnh, buồn nôn, chóng mặt. May mắn là bệnh tim có thể phòng tránh được và mọi người có thể tự mình giảm thiểu các rủi ro đưa tới bệnh tim cũng như cơn suy tim. Sau đây là các rủi ro có thể gây ra bệnh tim mạch và các phương thức phòng tránh. Các phương pháp này đã được chứng minh là rất công hiệu: 1.Cao cholesterol Cholesterol là chất giống như sáp do gan sản xuất hoặc có trong một vài loại thực phẩm mà ta tiêu thụ. Khi lượng cholesterol trong máu lên quá cao, chúng sẽ bám vào thành động mạch, kể cả động mạch vành. Lòng động mạch hẹp lại, lưu thông máu giảm, đưa tới bệnh của tim cũng như các biến chứng khác. Mức độ cholesterol trung bình là dưới 200mg/dl. Để duy trì mức độ cholesterol ở mức trung bình, cần sắp đặt một chế độ dinh dưỡng có ít chất béo bão hòa và cholesterol, có nhiều chất xơ, duy trì sức nặng cơ thể bình thường và vận động cơ thể đều đặn. Mổi năm năm, người trưởng thành nên thử nghiệm mức độ cholesterol trong máu một lần. Nếu cholesterol cao, bác sĩ có thể cho dùng dược phẩm để hạ cholesterol. 2.Bệnh cao huyết áp Huyết áp trung bình là ≤120/80mmHg Khi huyết áp quá cao, trái tim phải làm gắng sức nhiều hơn để đưa máu nuôi cơ thể. Tim sẽ mau suy yếu, nhất là khi động mạch vành bị tắc nghẽn, không cung cấp đủ oxy và các chất dinh dưỡng. Có thể duy trì huyết áp ở mức trung bình với nếp sống lành mạnh, dinh dưỡng hợp lý, bớt muối, không hút thuốc lá, vận động cơ thể, tránh mập phì. Nên đo huyết áp theo định kỳ, vì bệnh cao huyết áp xảy ra từ từ, đôi khi không có dấu hiệu báo trước. 3.Bệnh tiểu đường Đường huyết quá cao (trung bình từ 70mg/dl-125mg/dl) làm các mạch máu cứng, thoái hóa, kể cá động mạch tim. Có tới ¾ số người bị tiểu đường thiệt mạng vì bệnh tim mạch Phòng tránh bệnh tiểu đường bằng cách duy trì sức nặng cơ thể trung bình, với chế độ dinh dưỡng cân bằng và với sự vận động cơ thể. Lưu ý là 80% bệnh tiểu đường loại 2, ở người trưởng thành là do mập phì mà ra. 4.Hút thuốc lá Thuốc lá tăng rủi ro bị bệnh tim và cơn suy tim. Chất nicotine trong thuốc lá làm mạch máu co hẹp, cản trở sự lưu thông của máu, làm huyết áp tăng. Nicotine cũng tăng lượng thán khí và giảm oxy trong máu. Khói thuốc lá làm tăng rủi ro vữa xơ động mạch và tăng các yếu tố làm đông máu. Hậu quả là các bệnh tim mạch, tai biến động mạch não dễ dàng xảy ra. Đã có nhiều bằng chứng khoa học là hít khói thuốc thụ động của người hút thuốc lá cũng đưa tới các bệnh tim. Đã biết tác dụng xấu của thuốc lá như vậy thì xin hãy không hút hoặc đang hút thì ngưng. Chỉ cần một sự quyết tâm với sự hỗ trợ của gia đình là ta có thể bỏ thói quen ghiền thuốc lá. 5.Bia rượu Tiêu thụ bia rượu vừa phải có thể chấp nhận được. Vừa phải là khoảng 60cc rượu mạnh, 160cc rượu vang, 360cc bia, hai lần một ngày cho nam giới, một lần cho nữ giới. Nhưng quá nhiều rượu sẽ đưa tới tăng huyết áp, tăng lượng chất béo triglyceride, giảm chất béo tốt HDL, tăng rủi ro vữa xơ động mạch. Hậu quả là bệnh tim mạch, tai biến não, cơn suy tim. Do đó, nếu chưa uống rượu thì không nên uống vì nghe nói rằng uống một chút rượu tốt cho tim. Lý do là khi đã uống thì khó mà tự kiểm soát, rồi nghiện rượu lúc nào mà không biết. 6.Mập phì Mập phì khiến cho tim phải làm việc nhiều hơn để nuôi khối tế bào to lớn của cơ thể. Lâu ngày, tim sẽ suy yếu. Sức nặng được tính theo Chỉ số Sức Nặng Cơ Thể (Body Mass Index). Chỉ số từ 18- 24.9 là tốt. Chỉ số càng cao thì số lượng chất béo trong cơ thể càng nhiều. Dinh dưỡng đúng nhu cầu, vận động cơ thể giúp duy trì BMI ở mức bình thường. 7.Không vận động Không vận động là rủi ro đưa tới cao huyết áp, mập phì, tiểu đường. Vận động cơ thể giúp giảm các rủi ro này. Mỗi ngày chỉ cần 30 phút tập luyện là đạt được ích lợi này. 8-Dinh dưỡng không hợp lý Dinh dưỡng không hợp lý là ăn quá nhu cầu cơ thể, ăn những chất mà khi quá nhiều có tác dụng xấu. Hậu quả là cơ thể sẽ quá kí, cholesterol, đường huyết và huyết áp lên cao. Tất cả đều tác động xấu tới hệ tuần hoàn. Để tránh các rủi ro này, nên ăn uống vừa đúng nhu cầu cơ thể với chế độ thực phẩm cân bằng, nhiều loại khác nhau. 9-Stress Đòi sống luôn luôn có những căng thẳng, nhưng không phải là căng thẳng nào cũng có tác dụng xấu tới sức khỏe. Riêng với bệnh tim mạch, đã có cả ngàn chứng minh khoa học cho hay stress là một rủi ro lớn của bệnh này, đặc biệt là khi stress mạnh mẽ, kéo dài. Từ năm 1950, bác sĩ Hans Selye có so sánh như sau: “Khi gặp một gã say rượu hung hổ nhục mạ ta, nếu ta tỉnh bơ rảo bước bỏ qua thì mọi sự không sao. Nhưng nếu ta bực tức đáp lời, một cuộc đấu khẩu, thượng cẳng chân hạ cẳng tay sẽ xảy ra và ta có thể bị gã đó đả thương cộng thêm các rối loạn trong cơ thể do phản ứng của ta gây ra. Nhịp tim sẽ nhanh hơn, huyết áp lên cao, hóa chất trong cơ thể mất cân bằng, tất cả có khả năng đưa tới bệnh tật”. Bác sĩ Hans Selye là người đặt nền móng cho việc tìm hiểu về các bệnh do căng thẳng gây ra. Thực vậy, trong phản ứng với stress, tuyến thượng thận sẽ sản xuất nhiều adrenalin để giúp cơ thể tự phòng. Nhưng nếu stress tiếp tục, cơ thể sẽ suy yếu trong đó có trái tim. Ngược lại, giảm lo âu căng thẳng sẽ giúp giảm thiểu cơn đau tim hoặc tử vong. Đây là kết quả mới được bác sĩ Yinong Young-Xu, Massachusett, và các cộng sự viên công bố tại Đại hội lần thứ 57 vừa qua của hội Tim Mạch Hoa Kỳ họp tại Chicago ngày 29-3 tới 1 tháng 4, 2008. Họ đã quan sát 516 bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành. Ở các bệnh nhân này, cholesterol đóng vào thành động mạch khiến cho máu lưu thông tới tim giảm và đưa tới thiếu dinh dưỡng cho tế bào tim. Hậu quả là họ có nhiều nguy cơ bị cơn đau tim và tử vong. Bệnh nhân được yêu cầu trả lời các câu hỏi liên quan tới tâm trạng như là có khó khăn về giấc ngủ, có cảm thấy lo sợ về bệnh tim của mình, vể đại tiện, tiêu hóa thực phẩm… Sau hơn ba năm theo dõi, tác giả nhận thấy nhóm bệnh nhân nào giảm lo âu hoặc giữ tâm trạng thư giãn thì có 65% ít bị cơn đau tim hoặc tử vong hơn là những bệnh nhân luôn luôn lo âu, sợ hãi về căn bệnh của mình. Rõ thực là “Giết nhau chẳng cái lưu cầu, Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa”. Bác sĩ Young-Xu khuyên là nếu có bệnh lo âu, nên đi điều trị để được trường thọ trong khỏe mạnh.
Trên đây là các rủi ro đưa tới bệnh tim mạch mà ta có thể tránh được. Ngoài ra còn phải kể tới mấy rủi ro khác như: -Yếu tố di truyền: Con cái người có bệnh tim dễ mắc bệnh này hơn. -Tuổi tác: Trên 83% người thiệt mạng vì bệnh tim mạch đều ở tuổi từ 65 trở lên. -Phái tính: Nam giới thường có nhiều rủi ro bị cơn đau tim hơn nữ giới và các cơn đau tim này xảy ra sớm hơn trong đời sống. Với những nguy cơ này, ta đành bó tay chấp nhận, không thay đổi được.Cũng may là tỷ lệ gây bệnh của chúng rất thấp. Tuy nhiên, như cổ nhân đã nói :“Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Phòng tránh được rủi ro nào thì ta cứ kiên nhẫn áp dụng. Giảm thiểu càng nhiều rủi ro thì càng có nhiều triển vọng sống lâu trong khỏe mạnh, hạnh phúc.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Ðức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Đau Tim
May 23, 2009 4:17:22 GMT -5
Post by vietnam on May 23, 2009 4:17:22 GMT -5
Kỹ Thuật Thông Tim Bác sĩ Nguyễn Ý Đức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Nói là “Thông Tim” thì cũng không chính xác lắm. Ðúng ra là thông Ðộng Mạch Vành nuôi dưỡng trái tim thân yêu của chúng ta. Thay vì trơn tru mở rộng thì động mạch đã bị thoái hóa, tắc nghẽn với nhiều chất khác nhau bám vào thành của huyết quản. Ðộng Mạch Vành coronary artery bao bọc trái tim như một cái vương miện với hai nhánh phải và trái và nhận máu trực tiếp từ Ðộng Mạch Chủ aorta. Tế bào tim được tiếp tế oxy và chất dinh dưỡng từ động mạch vành. Nếu vì một lý do nào đó mà động mạch này bị nghẹt thì sự nuôi dưỡng bị trở ngại, tim thiếu dưỡng khí, báo động bằng cơn đau thắt ngực. Trong đa số các trường hợp, tắc nghẽn là do chất béo bám vào mặt trong của thành động mạch. Ðó là bệnh Vữa Xơ Ðộng Mạch. Ngày nay, nhiều người cứ nói vữa xơ là hậu quả của nếp sống dư thừa trong thời văn minh tiến bộ hiện đại. Thực ra dấu hiệu vữa xơ đã tìm thấy ở xác ướp Ai Cập cả nhiều ngàn năm về trước. Vữa xơ động mạch atherosclerosis là bệnh trong đó các mảng gồm nhiều chất bám vào mặt trong thành động mạch khiến cho sự lưu thông của máu bị gián đoạn. Thành phần chính của mảng này là chất béo, chất cholesterol cộng thêm các chất phụ khác như calcium, tế bào xơ. Mảng xơ vữa có thể tan vỡ, đưa tới chứng huyết khối. Ðây là một diễn tiến phức tạp, phát triển chậm, xuất hiện từ tuổi nhỏ và trầm trọng lên với thời gian. Theo nhiều khoa học gia, bệnh bắt đầu với sự tổn thương ở lớp tế bào trong cùng của động mạch. Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, ba rủi ro đã được chứng minh làm tổn thương lòng động mạch là 1) Mức độ cholesterol và triglyceride trong máu lên quá cao; 2) cao huyết áp; 3) ảnh hưởng của hút thuốc lá. Ngoài ra vữa xơ còn hay xẩy ra ở người béo phì, mắc bệnh tiểu đường, có nhiều căng thẳng tâm thần và không vận động cơ thể. Di truyền cũng tham dự phần nhỏ. Nếu cả cha lẫn mẹ bị vữa xơ thì con có nhiều triển vọng bị bệnh. Cũng còn phải kể tới tuổi tác và giới tính. Người dưới năm mươi tuổi ít vữa xơ hơn người trên tuổi này. Trước khi mãn kinh, phụ nữ ít bị vữa xơ hơn nam giới nhờ sự bảo vệ của kích thích tố nữ, nhưng từ tuổi mãn kinh thì nam nữ bị vữa xơ bằng nhau. Vữa xơ có thể thấy ở các động mạch cỡ trung và lớn. Nếu ở đõng mạch vành nuôi dưỡng tim thì đưa tới nhồi máu cơ tim; động mạch cảnh nuôi dưỡng não bộ sẽ có tai biến mạch máu não, động mạch nuôi dưỡng chi dưới với hoại tử chi; động mạch võng mạc đưa tới khiếm thị, mù lòa... Tắc nghẽn thì phải kiếm cách thông, giống như thông ống cống nước từ bếp ra vườn. Nhưng thông cống chỉ việc tống cây sào dài vào hoặc đổ nửa lít nước hóa chất là xong. Còn mạch máu thì nằm ở xa lại mỏng manh, khó mà đạt tới. Cũng đã có nhiều dược phẩm để giải tỏa tắc nghẽn nhưng công hiệu chậm. Nên nếu thông được như thông cống thì hay biết mấy. Thế là các nhà y khoa học lại vắt tay lên trán, tìm kiếm kỹ thuật, thuốc men. Và mở đầu với sự tò mò, mạo hiểm của một sinh viên nội trú y khoa người Ðức, anh Werner Frossmann. Ðó là vào năm 1929. Từ lâu, anh ta vẫn muốn tìm cách để thám hiểm trái tim mà không gây ra thương tổn gì. Sau khi đã có một ý niệm, anh trình bầy với các vị thầy, các vị đàn anh về điều anh định làm. Nhưng mọi người đều không tin tưởng và cấm không cho anh thực hiện ý tưởng điên rồ đó trong bệnh viện. Anh bèn năn nỉ một nữ điều dưỡng viên cho mượn một ống thông. Anh đưa ống thông từ mạch máu ở khuỷu tay của mình, luồn dần lên tim. Ðặt ống xong, anh lại năn nỉ một đồng nghiệp điện tuyến, chụp cho một tấm hình X -Quang ngực. Và thấy đầu ống thông đã an toàn nằm ở tim mà không gây ra khó khăn gì cho sức khỏe của mình. Werner hăm hở tường trình sự việc với ông thầy. Chẳng những không được khen mà còn bị khiển trách, không cho thực tập ngành tim tại bệnh viện. Anh ta đành học về tiết niệu và tiếp tục lén lút nghiên cứu, thọc thêm tới 15 lần nữa vào tim mạch của mình. Nghiên cứu được anh công bố trong y giới, nhưng không ai để ý. Buồn tình, anh về một tỉnh lẻ, hành nghề y, kiếm bạc cắc cho qua ngày. Rồi một ngày đẹp trời của năm 1956, Werner được mời ra nhận giải Nobel với hai nhà Tim học Andreas Frderic Coumand và Dickinson W. Richards. Hai vị bác sĩ này đã dựa trên kết quả các mạo hiểm trước đây của Werner để tìm cách chữa tắc nghẽn động mạch. Năm 1941, hai ông đã thành công trong việc dùng ống thông tim để đo lưu lượng máu từ tim ra. Các nhà y khoa học tiếp tục nghiên cứu. Tới năm 1977 thì bác sĩ Andreas Gruentzig của Bệnh Viện Ðại Học Zurich, Thụy Sĩ là người đầu tiên thực hiện kỹ thuật thông mạch máu bằng bóng balloon ở người. Ông này sau đó sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục tìm hiểu về bệnh tim và làm giầu trí thức cho quốc gia này. Balloon làm bằng một loại plastic gọi là polyethylene terephthalate (PET) rất bền bỉ và thay đổi hình dạng dễ dàng Ngày 3 tháng 8 năm 1994, cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ công nhận Balloon-Expandable –Stent do bác sĩ Richards Schatz chế biến để làm thông và mở rộng động mạch tim bị tắc nghẽn vì mỡ đóng lên. Ngày nay, cả triệu bệnh nhân nghẹt tim được thông bằng kỹ thuật này. Kỹ thuật rất phổ thông, được mang ra dùng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Phương pháp thông tim giản dị và dễ thực hiện hơn là giải phẫu bắc cầu by-pass surgery , nhưng một trở ngại là từ 30 – 50% bệnh nhân cần thông lại vì mạch có thể bị nghẹt lại. Và stent được các nhà chuyên môn đặt để tránh sự tái tắc nghẹt này. Xác định tắc nghẽn mạch máu Vữa xơ động mạch được xác định bằng kỹ thuật chụp X-Quang cardiac catheterization. Ðây là một kỹ thuật rất hữu ích và khá chính xác để biết tình trạng tốt xấu của hệ thống tuần hoàn. Một ống hướng dẫn bằng plastic mềm nhỏ được đưa vào mạch máu ở cánh tay hoặc ở bẹn. Ống được đẩy dọc theo mạch máu để vào lòng trái tim hoặc động mạch nuôi tim. Một loại hóa chất cản quang đặc biệt được chuyền vào ống hướng dẫn. Chất này giúp ta nhìn rõ được tình trạng trong lòng mạch máu hoặc các phòng trái tim qua máy X-Quang. Chụp X-Quang mạch máu được áp dụng trong các trường hợp sau: -Khi ta có dấu hiệu đau động mạch tim như là cơn đau trước ngực; -Ðau không biết nguyên nhân ở ngực, cằm, cổ, cánh tay mà các thử nghiệm khác đều không xác định được tại sao; -Khi có cơn đau mới xẩy ra ở ngực; -Không có triệu chứng gì nhưng vài thử nghiệm khác cho là ta có thể bị bệnh tim mạch; -Khi sẽ có phẫu thuật không liên hệ tới tim mạch nhưng ta có thể có rủi ro bệnh tim trong khi giải phẫu; -Khi ta sẽ có giải phẫu về van tim; -Khi ta đã có bệnh tim bẩm sinh; -Khi ta đang bị suy tim; -Khi có chấn thương ngực hoặc một bệnh tim nào đó. Thông Tim-Ðặt Lưới Khi tình trạng vữa xơ động mạch tim không có kết quả tốt với thay đổi nếp sống, dược phẩm, hoặc khi cơn đau tim ngày càng trầm trọng thì bác sĩ có thể đề nghị làm thông tim- đặt lưới angioplasty balloon. Trước khi thực hiện, bệnh nhân sẽ được khám tổng quát và làm một số thử nghiệm như: 1- Chụp một phim x-Quang đen trắng của lồng ngực. Việc này rất dễ thực hiện nhưng cho ta nhiều điều cần biết: hình dạng lớn nhỏ của trái tim, của đại động mạch và tĩnh mạch phổi; tình trạng toàn hảo của hai lá phổi, màng phổi và phế quản. 2- Làm Ðiện Tâm Ðồ - Mỗi lần trái tim đập một nhịp thì có những dòng điện phát ra từ một số tế bào đặc biệt của trái tim. Luồng điện chạy phắp tim, khiến tim co bóp. Ðiện tâm đồ ghi lại các sinh hoạt điện năng này. Nhìn hình tâm đồ, bác sĩ có thể chẩn đoán các rối loạn về nhịp đập của tim; cấu tạo bất thường to nhỏ của tim, sự nuôi dưỡng của tế bào tim với oxy; có tiền sử hoặc đang có cơn đau tim; theo dõi tình trạng tim khi đang giải phẫu hoặc khi thông động mạch. 3- Thử nghiệm máu để coi mức cao thấp của cholesterol lành HDL, cholesterol dữ LDL; của các yếu tố giúp máu bớt loãng prothrombine, fibrinogen; các diêu tố tim CPK, LDH, Troponin mà khi lên cao có thể là dấu hiệu của cơn đau tim... Tới ngày thông tim thì được nhắn nhủ không ăn từ nửa đêm hôm trước, điều chỉnh liều lượng hoặc ngưng một vài loại thuốc, nhất là thuốc loãng máu, thuốc tiểu đường. Kỹ thuật sẽ được một bác sĩ chuyên khoa tim có tu nghiệp thêm về phương pháp này thực hiện với sự tiếp tay của một nhóm chuyên viên điều dưỡng và kỹ thuật. Kỹ thuật thường được làm ở một trung tâm y tế có đơn vị tim mạch, để phòng hờ trường hợp cần cấp cứu giải phẫu tim. Thông tim thường thực hiện ở động mạch đùi, đôi khi động mạch cánh tay hoặc cổ tay. Bệnh nhân không cần gây mê tổng quát mà chỉ một chút thuốc tê được chích vào háng để giảm đau. Do đó ta tỉnh táo trong suốt thời gian phương pháp được thực hiện. Một vết cắt nhỏ trên da ở bẹn được rạch và một ống ngắn nhỏ được đặt vào động mạch. Qua ống này, một ống thông hướng đạo dài hơn, có thể uốn cong, được luồn vào trong. Dưới sự hướng dẫn qua X quang, ống thông được đưa lên động mạch tim, nơi bị nghẹt. Ống đi lên rất nhẹ nhàng, ta không cảm thấy đau gì, ngoại trừ một chút thôn thốn ở bẹn mà thôi. Nếu đau thì cho bác sĩ hay ngay để họ đối phó. Một chút dung dịch mầu cản quang được bơm vào ống, tới động mạch vành để chụp hình X quang, coi tắc nghẽn lớn nhỏ ra sao. Rồi một ống khác nhỏ hơn đầu có mang một bong bóng xẹp được chuyền vào trong ống hướng đạo. Khi lên tới chỗ bị tắc nghẽn, thì bong bóng được bơm phồng lên. Lúc này máu tới tim sẽ giảm chút ít và ta thấy hơi đau nhói nơi ngực. Bong bóng được bơm lên, xẹp xuống vài lần, sẽ đè vào nơi động mạch dính đầy chất béo, làm lòng động mạch mở rộng. Xong nhiệm vụ, bóng được làm xẹp trở lại. Công hiệu của nong bóng không vĩnh viễn. Theo thống kê, có tới 1/3 bệnh nhân có thể bị nghẹt trở lại trong vòng tháng. Ðể ngăn ngừa tái tắc nghẽn, một lưới gọi là stent nhỏ xíu được phát minh. Lưới nằm trên ống hướng đạo bong bóng, được đưa tới chỗ nghẹt. Bóng được bơm phồng, lưới mở ra và bám ép vào thành động mạch. Lưới an toàn nằm đó suốt đời người như một cái giá chống đỡ không cho động mạch nghẹt trở lại. Lưới làm bằng hợp kim không rỉ không hư hao, không di chuyển và không trở ngại khi ta đi qua máy rà kim loại ở phi trường hoặc chup X-Quang cơ thể.. Ống hướng dẫn được rút ra và phương pháp thông tim đặt lưới hoàn tất. Trước sau chỉ mất vài giờ đồng hồ, đôi khi chỉ ba mươi phút dưới bàn tay điêu luyện của một chuyên viên đặt ống giầu kinh nghiệm. Thường thường ta cần nằm lại nhà thương khoảng 24 giờ để bác sĩ theo dõi tình trạng sau giải phẫu. Các ống đều được rút ra. Vết cắt trên da nơi bẹn và động mạch được băng bó để tránh chẩy máu, nhiễm trùng và để vết thương mau lành. Tim được tâm điện đồ theo dõi, để phát hiện và phòng ngừa biến chứng. Nên nằm nghỉ, chân duỗi thẳng Một vài thuốc chống huyết cục như aspirin, thuốc kháng tiểu cầu, thuốc an thần được bác sĩ biên toa. Nên uống thuốc theo liều lượng, thời gian mà bác sĩ đã dặn. Về nhà, nên nghỉ ngơi, tránh làm việc quá nặng trong dăm ngày, uống nhiều nước để loại chất mầu cản quang. Ðể ý các dấu hiệu bất thường như chẩy máu, nhiễm trùng sưng đỏ, đau nơi vết thương ở bẹn, nhiệt độ cơ thể lên cao, trong người mệt mỏi, đau ngực, khó thở. Thông báo cho bác sĩ ngay. Vài tuần sau, khi bác sĩ đồng ý, ta có thể đi làm trở lại được. Và nhớ giữ ngày tái khám theo hẹn của bác sĩ. Thế là từ nay ta không còn đau ngực, không còn lo ngại cơn suy tim, tai biến não, tàn phế cơ thể. Nhiều người thấy da dẻ hồng hào, mặt mũi tươi rói, sinh hoạt gia tăng, yêu đời hơn. Nhưng nên lưu ý lành mạnh nếp sống, bỏ hút thuốc lá, ăn nhiều rau trái cây, bớt chất béo bão hòa động vật, vận động cơ thể đều đặn, giảm cân nếu quá mập phì, chữa các bệnh kinh niên như cao huyết áp, cao cholesterol, bệnh tiểu đường. Và nhẹ nhàng sống trong niềm vui của Tâm Thân An Lạc với gia đình, thân hữu. Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ.
|
|
|
Đau Tim
May 23, 2009 4:26:55 GMT -5
Post by vietnam on May 23, 2009 4:26:55 GMT -5
Nguy Cơ gây ra Bệnh Tim Mạch Câu Chuyện Thầy Lang - Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
Thực tội nghiệp cho trái tim nhỏ bé.. Tim chỉ nhỉnh cỡ bàn tay nắm, nặng khoảng 1 lb, nằm khiêm nhường ở góc trái lồng ngực. Tim rất hiền lành, chăm chỉ làm việc. Mỗi ngày tim co bóp cả 100,000 nhịp, bơm ra gần 7500 lít máu để nuôi dưỡng cơ thể. Tim cũng dạt dào những tình cảm thương yêu, được mọi người nâng niu ca ngợi... Vậy mà biết bao nhiêu khó khăn giông tố cứ rình rập, đe dọa làm tan nát một đời tim với bệnh này, tật nọ... Thực vây, bệnh tim mạch là nguyên nhân số một về tử vong tại nhiều các quốc gia trên thế giới. Riêng tại Hoa Kỳ, năm 2004 có trên 60 triệu người bị bệnh tim mạch với rất nhiều thiệt hại nhân mạng. Bệnh Tim Mạch là bệnh của trái tim và bất cứ một huyết quản nào. Bệnh gồm có nhiều loại khác nhau như cao huyết áp, bệnh động mạch vành, bệnh các van của tim, tai biến động mạch não, phong thấp tim, suy tim, bệnh tim bẩm sinh, loạn nhịp tim, phình động-tĩnh mạch, tắc nghẽn động mạch, bệnh động mạch cảnh... Bệnh của động mạch tim là dạng thông thường nhất. Động mạch này cung cấp máu có nhiều oxygen và dưỡng chất để nuôi các tế bào của trái tim. Nếu vì một lý do nào đó mà sự lưu thông máu tới tim bị gián đoạn, thì tim sẽ bị tổn thương và không hoạt động được. Những rủi ro đưa tới các bệnh Tim Mạch Trong y khoa, nguy cơ hoặc rủi ro là những yếu tố có thể làm cho cơ thể bị đau yếu suy nhược. Tuy nhiên, có rủi ro không phải là đương nhiên bị bệnh, mà chỉ là “có thể”, nếu ta không tìm cách thay đổi, xa lánh các rủi ro đó. Vì vậy, khi đi khám bệnh, bác sĩ thường hỏi y sử cá nhân và gia đình người bệnh cũng như nếp sống để xem người đó có thể mắc phải một bệnh. Rồi cùng nhau thảo luận, quyết định các phương thức phòng ngừa và điều trị thích hợp cho từng trường hợp. Có nhiều loại rủi ro mà một số ta có thể thay đổi, điều trị và tránh được, một số khác ta đành bó tay. Các rủi ro đó là: a- Giới tính. Nói chung thì nam giới hay bị cơn suy tim hơn là nữ giới. Tuy nhiên, ở tuổi mãn kinh thì tỷ lệ bệnh ở đôi bên sấp sỉ bằng nhau. Lý do được giải thích là tim mạch của quý bà được kích thích tố nữ che trở khi còn trong tuổi mầu mỡ, sinh đẻ. Tới tuổi mãn kinh, các kích thích tố này giảm xuống rất nhiều. b- Di truyền. Bệnh tim mạch thường xẩy ra cho người trong cùng một gia đình. Quan sát cho thấy nếu bố mẹ hoặc anh chi em bị bệnh tim thì tới tuổi 55, con cái cũng có nhiều nguy cơ mắc bệnh đó. c- Tuổi tác. Tới tuổi cao, tim thường yếu đi, vách tim dầy hơn, động mạch cứng lại và khả năng bơm máu của tim ra động mạch trở nên khó khăn. Do đó, cao tuổi là một nguy cơ dẫn tới bệnh tim mạch. Theo thống kê thì cứ năm người thiệt mạng vì bệnh tim thì 4 vị ở tuổi ngoài 65. Trên đây là ba nguy cơ mà ta đành bó tay chịu đựng, không thay đổi được. Còn những hoàn cảnh mà ta có thể kiểm soát và tránh được là: d- Cao huyết áp. Thành động mạch của người bị cao huyết áp thường cứng và kém co giãn khiến tim phải co bóp mạnh hơn để đưa máu vào huyết quản. Lâu ngày, cơ tim sẽ dầy lên và cứng hơn. Nếu liên tục cố gắng, tim sẽ suy yếu, bệnh hoạn và tăng nguy cơ tai biến động mạch não, suy nhược thận. Huyết áp lý tưởng là dưới 120/70. e- Cao cholesterol trong máu Cholesterol là một loại chất béo có trong thực phẩm như mỡ gà, heo, bò hoặc dầu dừa. Gan sản xuất hầu hết cholesterol mà cơ thể cần. Trong cơ thể, cholesterol phân phối ở mọi tế bào và có nhiều công dụng quan trọng. Tuy nhiên khi mức độ cholesterol trong máu lên cao (trên 200mg/100ml máu) thì nguy cơ bệnh động mạch tim cũng tăng theo. Cholesterol sẽ đóng thành miếng nhỏ ở thành mạch máu đưa tới vữa xơ động mạch, cản trở sự lưu thông của máu Hậu quả là tim sẽ thiếu chất dinh dưỡng, tế bào tim bị hủy hoại và ta có cơn đau tim. g- Bệnh tiểu đường.. Theo Hội Tim Hoa Kỳ thì 65% người bị tiểu đường có thể thiệt mạng vì một bệnh tim mạch nào đó. Vì thế, người bị tiểu đường nhất là loại II cần điều trị đúng đắn để tránh rủi ro này. Người Việt Nam nói riêng, dân Á châu nói chung đều có tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường khá cao. h- Béo phì. Béo phì được coi như làm tăng cholestetrol, cao huyết áp và là nguy cơ đưa tới bệnh động mạch tim. i- Hút thuốc lá. Nghiên cứu cho hay chất nicotine trong thuốc lá làm tăng nhịp tim, tăng huyết áp, giảm dưỡng khí nuôi tim, tăng huyết cục, gây tổn thương cho tế bào lòng mạch máu, làm chất béo kết tụ trong động mạch... Trái tim phải cố gắng làm việc nhiều hơn để đưa máu đi nuôi cơ thể. Tất cả các yếu tố đó đều là nguy cơ đưa tới bệnh tim mạch. k- Không hoạt động cơ thể. Người không vận động đều có nhiều rủi ro bị cơn đột quỵ tim hơn là người tập luyện cơ thể đều đặn.Vận động cơ thể tăng tiêu dùng năng lượng, giảm cholesterol, đường huyết và có thể làm hạ huyết áp. Vận động cũng tăng sức mạnh của bắp thịt tim và làm mạch máu bền bỉ hơn. l- Căng thẳng tâm thần. Rủi ro của stress trong bệnh tim mạch chưa được xác định vì mỗi người đối phó với căng thẳng theo cách khác nhau. Với người này thì stress là khó khăn nhưng với người khác cũng cùng stress đó lại là một thách thức mà nếu vượt qua được thì cảm thấy phấn khởi, vui vẻ. Tuy nhiên nếu liên tục xẩy ra, stress có thể nâng cao nhịp tim và huyết áp, tim sẽ cần nhiều dưỡng khí hơn. Người đã bị bệnh tim mà liên tục bị stress quấy rầy sẽ hay bị cơn đau thắt ngực (angina pectoris); Trong khi bị stress, thần kinh tiết ra nhiều kích thích tố, đặc biệt chất adrenaline. Các hóa chất này làm tăng huyết áp, đưa tới tổn thương thành động mạch mà khi lành, sẽ cứng, cholesterol dễ dàng đóng vào đó. Stress cũng làm tăng chất làm máu đóng cục, làm nghẹt mạch máu và đưa tới cơn đau tim. Ngoài ra, đôi khi người ở trong tâm trạng căng thẳng cũng ăn nhiều (dễ béo phì), hút thuốc lá và uống rượu nhiều hơn thường lệ. m- Kích thích tố Nhiều nghiên cứu cho hay nữ giới ở tuổi mãn kinh thường hay bị bệnh tim nhiều hơn vì kích thích tố estrogen của họ giảm rất nhiều. Estrogen được coi như làm tăng cholesterol lành HDL và giảm cholesterol dữ LDL, do đó bảo vệ trái tim. n- Rượu. Uống nhiều và uống lâu năm, rượu có thể đưa tới mập phì, tăng huyết áp và tăng chất béo triglicerides, với hậu quả là suy tim và tai biến động mạch não. Uống vừa phải dường như lại có tác dụng tốt cho tim. Vừa phải là khoảng 60 cc rượu mạnh, 160 cc rượu vang và 360 cc bia, hai lần một ngày. Nữ giới thì một lần thôi. Nhưng nếu chưa bao giờ uống rượu thì cũng chẳng nên uống, vì tác dụng tốt này cũng chưa được mọi khoa học gia đồng ý. Vậy thì ta nên làm gì để giảm nguy cơ bị bệnh tim mạch? Thay đổi nếp sống đã được các nhà y khoa học đồng ý là phương thức hữu hiệu để giảm thiểu các nguy cơ dẫn tới bệnh tim mạch. Sau đây là những điều ta có thể thực hiện: a- Ngưng hút thuốc lá nếu đang hút vì người hút thuốc bị cơn suy tim heart attack nhiều gấp đôi người không hút thuốc. Nên cương quyết ngưng tức thì chứ đừng lần lữa giảm hút dần dần. b- Kiểm soát mức cholesterol trong máu. Cholesterol cần cho các chức năng của cơ thể, nhưng nếu quá cao thì lại có hại. Nên cố gắng giữ mức cholestetol dưới 200mg/100ml; cholesterol xấu LDL dưới 130mg/100ml và cholesterol lành HDL trên 40mg/100ml hoặc cao hơn. Ðể đạt được mục đích này, nên giảm tiêu thụ thực phẩm động vật có nhiều cholesterol và chất béo bão hòa, ăn nhiều rau và trái cây có chất xơ. c- Ðừng để huyết áp lên quá cao. Cao huyết áp là bệnh rất thường xẩy ra và là nguyên do thứ nhất đưa tới bệnh tim mạch. Giữ huyết áp khoảng 120/70 mmHg bằng chế độ ăn uống hợp lý, vận động cơ thể đều đặn, giảm béo phì và nếu cần bằng dược phẩm. d- Giữ đường huyết ở mức trung bình. Ðường là nguồn cung cấp năng lượng quan trọng cho cơ thể, nhất là với não bộ. Nhưng nếu quá cao, đường sẽ gây tổn thương cho nhiều cơ quan bộ phận của cơ thể như là suy thận, hư tim, rối loạn thần kinh ngoại vi, giảm thị giác... Nên giữ đường huyết ở mức 80 tới 120mg/100ml trước bữa ăn và 100-140mg/100ml buổi tối trước khi đi ngủ. e- Năng vận động cơ thểgiúp giảm nguy cơ bệnh tim mạch rất nhiều. Ta chỉ cần đi bộ mỗi ngày khoảng 30 phút, làm mươi vòng vùng vẫy trong nước quanh hồ bơi hoặc thong thả cùng người bạn đường song hành đạp xe đạp mỗi buổi sáng còn hơi sương gió mát. Khiêu vũ cũng là cách vận động cơ thể tốt đối với nhiều người. Nên hỏi ý kiến bác sĩ gia đình trước khi áp dụng chương trình vận động, để tránh “cố quá” mà thành “quá cố”. g- Dinh dưỡng cân đối, hợp lý vừa đủ cho nhu cầu các hoạt động của cơ thể. Giảm muối, đường; giảm thực phẩm có chất béo bão hòa, cholesterol, ăn nhiều thực phẩm gốc thực vật. Ta có thể dùng thêm sinh tố, khoáng chất hoặc các chất chống oxy hóa, đặc biệt là đối với quý cụ “tóc bạc da mồi”. h- Tránh béo phì để trái tim nhỏ bé khỏi phải quá sức bơm máu nuôi dưỡng cho tấm thân nặng chừng nửa tạ. Và cố gắng giảm thiểu những quá mức của hỉ nộ ái ố lạc, đố kỵ ghen tương, cường điệu vọng ngữ, những stress, những căng thẳng trong đời sống hàng ngày. Bằng kinh nghiệm “Ðắc nhân tâm” xưa nay : “Chín bỏ làm mười”, “Ở đời muôn sự của chung”, “Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, “Quảng gánh lo đi và vui sống” “Cười là mười thang thuốc bổ”.... Và suy gẫm bài kệ của Vạn Hạnh Thiền sư : Thân như bóng chớp chiều tà Cỏ Xuân tươi tốt, Thu qua rụng rời Sá chi suy, thạnh việc đời Thạnh, suy như hạt sương rơi đầu cành. (Thích Mật Thể dịch)
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Đau Tim
May 23, 2009 4:28:20 GMT -5
Post by vietnam on May 23, 2009 4:28:20 GMT -5
Loạn Nhịp Tim Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức (Câu Chuyện Thầy Lang)
Trong một phút, trái tim của người trưởng thành, khỏe mạnh, đập khoảng 70 lần, mỗi lần đẩy ra 150ml máu. Một ngày tim đập 105,000 lần và bơm hơn 6000 lít máu vào 96,000 cây số mạch máu. Trong suốt đời người, tim lần lượt đập cả gần ba tỷ nhịp, bơm ra cả triệu thùng máu. Tim làm việc liên tục ngày đêm, không mệt mỏi, mặc dù tim chỉ to bằng nắm tay em bé và nặng trên 300 gram. Khả năng và cấu tạo của tim vẫn tương đối toàn vẹn cho tới khi con người đi vào tử biệt, nếu không xảy ra những biến cố, khó khăn. Một trong những khó khăn đó là sự rối loạn trong nhịp đập của tim. Trái tim Tim được ví như hai cái bơm nằm song song giữa lồng ngực. Mỗi bơm có nhiệm vụ khác nhau nhưng hoạt động nhịp nhàng, phối hợp vì được cùng một trung tâm điều khiển. Hai ngăn trên để tiếp nhận máu có tên là tâm nhĩ, hai ngăn dưới, tâm thất đẩy máu ra ngoài tim. Tâm nhĩ nhỏ, không cần mạnh lắm vì chỉ cần bơm máu xuống tâm thất, rất gần. Tâm thất lớn hơn, mạnh hơn, đặc biệt là thất trái, bơm máu xa tới cả chục ngàn cây số động mạch lớn nhỏ khắp cơ thể. Bốn van một chiều nằm ở cửa vào (van nhĩ thất) và cửa ra (van bán nguyệt) của mỗi tâm thất Van nhĩ-thất phải, còn gọi là van -ba- lá, mở ra để máu chẩy từ nhĩ phải xuống thất phải. Van khép lại khi thất phải co bóp, đẩy máu lên động mạch phổi, ngăn không cho máu dội ngược lên trên. Van nhĩ-thất trái hoặc van-hai-lá mở khi máu từ nhĩ trái xuống thất trái; khép kín khi máu từ thất phải được đưa vào động mạch chủ. Các van này có thể bị hở hoặc chai cứng, gây trở ngại cho sự lưu thông của máu. Hai van động mạch phổi và động mạch chủ nằm ở gốc các động mạch này, ngăn không cho máu trở lại tim, sau khi đã được bơm ra. Nhịp tim Tim co bóp do một nhóm tế bào đặc biệt nằm ở vách sau của tâm nhĩ phải khởi xướng và quyết định số nhịp đập của tim. Ðó là nút-xoang-nhĩ (sino-atrial node), một máy điều hòa nhịp tim (pacemaker) tự nhiên. Nút phát ra những xung lực điện, được những sợi cơ tim đặc biệt dẫn truyền tới kích thích các ngăn của tim co bóp. Âm thanh co bóp được diễn tả bằng hai âm tiết “lubb” và “dupp” , nghe được khi ta đặt tai vào ngực để nghe. Âm “lubb” trầm, dài hơn, khi tâm thất bắt đầu bóp và các van nhĩ thất khép lại. Âm “dupp” thanh nhưng ngắn hơn khi tâm thất bắt đầu thư giãn và các van bán nguyệt khép lại. . Mạch (pulse) là do sóng áp suất chuyển tới động mạch mỗi khi trái tim co bóp, đẩy máu ra ngoài. Mạch được nhận ra dễ dàng trên các động mạch nổi gần mặt da như động mạch quay (radial artery) ở cổ tay động mạch cảnh (carotid artery) ở cổ, động mạch ở cổ chân, ở bẹn, ở thái dương.... Mạch được tính theo số lần tim đập trong một phút và có thể đếm dễ dàng bằng cách đặt đầu ngón tay giữa và trỏ lên một động mạch nổi trên da. Ngón tay sẽ cảm thấy tiếng chuyển động nhè nhẹ của sóng áp lực trên mạch máu đó. Mỗi sóng tương ứng với một lần tim bóp. Khi bắt mạch, nên thoải mái, thư giãn, vì nếu hồi hộp, lo lắng, nhịp tim thường nhanh hơn một chút. Ðếm mạch trong 1 phút hoặc trong 30 giây rồi nhân đôi để có số nhịp tim. Nhịp tim bình thường tùy thuộc tuổi tác, tình trạng sức khỏe, thời gian trong ngày... Buổi sáng trước khi thức giấc, nhịp thấp nhất. Khi hít thở vào, nhịp hơi nhanh hơn và khi thở ra, nhịp hơi chậm. Nhịp phải đều đặn, có nghĩa là thời gian giữa hai nhịp phải bằng nhau. Sau đây là số nhịp trung bình trong 1 phút: -Trẻ em dưới 1 tuổi: 100 tới 160 nhịp/ 1phút -Trẻ từ 1 tới 10 tuổi: 70 tới 120 nhịp/1phút -Người từ 10 trở lên: 60 tới 120 nhịp/ 1phút -Vận động viên thể thao: 40 tới 60 nhịp/1 phút. Phụ nữ có nhịp tim nhanh hơn nam giới khoảng 5 lần tim đập và được giải thích là tim quý bà hơi nhẹ hơn tim quý ông, mà nhẹ thì co bóp hơi nhanh hơn, nhiều hơn. Mặc dù tim đập là do chính trái tim điều khiển, nhưng nhịp tim có thể bị chi phối bởi hệ thần kinh và nhiều yếu tố khác. Ðó là: a- Hệ thần kinh tự chủ có thể thay đổi nhịp tim tùy theo nhu cầu tuần hoàn của cơ thể. Các kích thích từ hệ thần kinh này làm nhịp tim nhanh hơn và tăng lượng máu do tim đẩy ra ngoài. b- Kích thích từ hệ thần kinh phó giao cảm làm chậm nhịp tim. c- Các hóa chất lưu hành trong máu như hormon, sắt, dược phẩm... cũng có thể thay đổi nhịp tim. d- Tập luyên cơ thể đều đặn làm cơ tim mạnh hơn và tăng lượng máu đẩy ra mỗi lần tim đâp. Khi nghỉ ngơi, nhu cầu máu được thỏa mãn với nhịp tim chậm. Do đó nhịp tim ở các vận động viên thể dục, thể thao đều chậm. Nhịp tim có thể cho biết nhiều chi tiết về tình trạng khỏe mạnh hoặc đau yếu của cơ thể. Các vị thầy thuốc y học cổ truyền chỉ cần bắt mạch mà chẩn đoán được nhiều bệnh của lục phủ ngũ tạng. Trong y khoa hiện đại, mạch là một trong bốn dấu hiệu chính cần được kiểm soát mỗi khi đi khám bác sĩ. Ðó là Mạch, Nhịp Thở, Thân Nhiệt và Huyết áp. Ngoài ra, sinh hoạt điện của tim có thể được ghi bằng tâm-điện-đồ (EKG). Loạn nhịp tim Nhịp tim không bình thường là dấu hiệu có rối loạn nào đó trong việc khởi xướng các xung lực điện năng từ trung tâm tự động tim hoặc trong việc dẫn truyền các xung lực này tới tế bào tim. Trung tâm tự động tự nhiên của tim (pacemaker) nằm ở vách sau tâm nhĩ phải. Trung tâm này điều hòa nhịp tim đập. Loạn nhịp tim có thể là tim co bóp quá nhanh, quá chậm hoặc không đều nhau. Thực ra, ở người bình thường đôi khi cũng có vài thay đổi thoảng qua, vô hại của nhịp tim. Ðang lim dim suy nghĩ, mà có tiếng động mạnh là giật mình hoảng hốt. Gặp người tình lần đầu hò hẹn, chắc là nhiều người cũng đỏ mặt hồi hộp. Và trong cả hai trường hợp, tim đều rộn rã đập nhanh trong vài giây. Nhưng nếu loạn nhịp kéo dài, khó thở, đau ngực, buồn nôn, chóng mặt, bất tỉnh...thì nên cẩn thận, thông báo cho bác sĩ gia đình. Ðây có thể là dấu hiệu một bệnh nào đó ở bệnh tim hoặc của cơ thể. a- Mạch chậm khi tim đập dưới 60 nhịp một phút. Mạch chậm có thể là bình thường đối với các lực sĩ, các vận động viên thể dục thể thao hoặc trong khi đang ngủ. Qua tập kuyện cơ thể, trái tim của họ đã trở nên mạnh mẽ, khả năng bơm rất tốt sau mỗi lần co bóp, nên tim không cần đập nhiều mà vẫn đủ máu nuôi dưỡng mọi cơ quan, bộ phận. Ban đêm, cơ thể không cần nhiều máu, tim cũng nghỉ ngơi đôi chút, để ngày hôm sau làm việc. Với nhiều người khác, nhịp tim chậm có thể là do rối loạn ở nút xoang nhĩ, nơi phát xuất tín hiệu điện để tim co bóp hoặc do gián đoạn sự dẫn truyền tín hiệu tới tế bào tim. Bệnh tim, thương tích tim, tác dụng phụ của một vài dược phẩm (atenolol, ditiazem chữa cao huyết áp), bẩm sinh, suy nhược tuyến giáp... có thể là những nguyên nhân đưa tới chậm nhịp tim, và tim sẽ không bơm đủ máu nuôi cơ thể. b- Nhịp tim nhanh khi tim đập trên 100 lần trong một phút. Tim đập tạm thời nhanh hơn bình thường có thể xẩy ra khi vận động cơ thể mạnh mẽ, nóng sốt, sợ hãi, tác dụng phụ vài loại dược phẩm, kích thích tố...và không có ảnh hưởng nhiều lắm tới khả năng bơm máu của tim. Nhưng khi nhịp tim liên tục thật nhanh và kéo dài thì có thể là do rối loạn ở nút xoang nhĩ và hệ thống dẫn truyền xung lực điện ở tim. Ngoài ra, các tế bào tim cũng có thể tự mình phát ra xung lực điện, tạo ra những nhịp tim riêng và gây rối loạn cho nhịp bình thường. Sau đây là mấy trường hợp đáng lưu ý: - Rung tâm nhĩ và tâm thất là những trường hợp tim đập nhanh và hỗn loạn, khiến cho tim không duy trì được sự co bóp đồng đều và giảm khả năng bơm máu. - Rung tâm nhĩ có thể là hậu quả của cao huyết áp, vữa xơ động mạch, thấp khớp tim, cường tuyến giáp...Vì tâm nhĩ rung giựt, máu không bơm hết xuống tâm thất, nên máu sót lại, đưa tới một hậu quả nghiêm trọng là tạo ra khối huyết. Huyết cục có thể di chuyển lên não gây ra tai biến não, tới động mạch tim gây ra nhồi máu cơ tim... - Rung tâm thất thường gây ra do nhồi máu cơ tim và tim có thể ngưng đập. Tâm thất có nhiệm vụ bơm máu ra ngoài tim qua mỗi lần tim đập. Khi cơ của tâm thất rung liên hồi thay vì co bóp, máu sẽ không được đẩy ra để nuôi dưỡng các cơ quan bộ phận và hậu quả trầm trọng sẽ xẩy ra. - Tế bào ở một điểm nào đó của tâm thất cũng có thể khởi xướng một nhịp tim đập rất nhanh có khi tới gần 300 nhịp một phút. Người bệnh thấy chóng mặt, đau ngực, hồi hộp, khó thở và có thể đưa tới bất tỉnh, nguy hiểm cho tính mạng. Rối loạn này thường thấy trong trường hợp động mạch tim bị nghẹt, bệnh của các van tim, cơ tim hư hao... c- Nhịp đập lạc vị (extrasystole) do một xung lực điện phát ra từ một nơi nào đó của tim, bên ngoài nút xoang-nhĩ. Nhịp tim không thay đổi, nhưng giữa những lần tim đập bình thường thì xuất hiện những tim đập thêm. Loạn nhịp này không nguy hiểm lắm và có thể gây ra do bất cứ một bệnh nào của tim, do sử dụng cafeine quá độ, do nicotine trong thuốc lá, do vài hoạt chất trong thuốc chữa cảm lạnh, thuốc trị bệnh hen suyễn ... đôi khi cũng thấy ở người bình thường Ðiều chỉnh loạn nhịp tim Loạn nhịp tim cần được bác sĩ chuyên khoa tim mạch xem xét kỹ càng về các dấu hiệu biểu lộ hoặc tìm thấy cũng như những hậu quả mà loạn nhịp có thể gây ra. Khi đã biết rõ nguyên nhân gây ra loạn nhịp, việc điều trị đều có thể thực hiện được với dược phẩm, các dụng cụ y khoa, giải phẫu tim... Có nhiều loại dược phẩm rất công hiệu nhưng tác dụng phụ cũng không phải là ít, cho nên việc sử dụng cần được sự chỉ định và theo dõi của các thầy thuốc chuyên khoa. Mỗi loại loạn nhịp có dược phẩm riêng để làm tăng hoặc làm dịu nhịp. . Bệnh nhân cần tuân thủ các hướng dẫn về cách dùng về liều lượng, về khó khăn có thể xẩy ra khi dùng thuốc Ðôi khi, chỉ “sai một li là đi một dặm”, loạn nhịp trở nên ngưng nhịp, tim đứng yên... Hiện nay, có nhiều phương thức, máy móc “chiêu hồi” loạn nhịp trở lại đều đặn, bình thường: phá rung bằng dòng điện, gài máy chuyển nhịp phá rung tự động (AICD), shock điện, tác động vào nhánh phó giao cảm dây thần kinh phế vị... Máy điều hòa nhịp tim nhân tạo (artificial pacemaker), là thiết bị mà nhiều người có loạn nhịp tim đang dùng... Máy rất giản dị và nguyên tắc điều hành cũng dễ hiểu. Bộ phận chính là một cái hộp lớn bằng nửa chiếc bánh bèo, gắn kín, chứa bình phát điện và bộ máy điện tử. Hai dây điện nối máy với tim. Bình điện dùng được mươi năm và thay thế dễ dàng. Máy được gắn dưới lớp tế bào mỡ ở phần trên ngực, thường là phía bên phải. Dây dẫn điện được luồn vào tĩnh mạch dưới xương đòn gánh, vào tim. Máy có nhiệm vụ canh chừng, nghe nhịp đập tự nhiên của tim. Khi không thấy nhịp xuất hiện sau một thời gian nào đó thì máy nhẹ nhàng nhắc nhở kích thích tim, “đập đi chứ!”. Thời gian giải phẫu đặt máy rất mau, khoảng vài giờ và bệnh nhân có thể về nhà sau giải phẫu nhưng đừng lái xe hơi. Người mang máy có thể được sắp đặt theo dõi tự động qua hệ thống viễn liên. Rồi sau đó, cần được bác sĩ kiểm soát lại tùy theo tình trạng bệnh và tùy theo loại pacemaker Nên giữ đúng hẹn để được tái khám. An toàn pacemaker Các máy điều hòa nhịp tim hiện nay đều được cải thiện về khả năng và an toàn cho người sử dụng. Tuy nhiên cũng cần lưu ý tới mấy điều như sau: -Tránh những hoạt động quá mạnh trong thời gian 8 tuần lễ sau khi gắn máy. -Sử dụng hết sức nương nhẹ cánh tay ở phía ngực mang máy. -Tránh tiếp xúc với các máy móc quá cũ, không được bao che kín; tránh tắt, mở công tắc điện thường xuyên. -Tránh đi qua cửa kiểm soát an ninh tại phi trường, máy dò kim khí có thể thay đổi khả năng của pacemaker và cục pin. Cho nhân viên kiểm soát coi thẻ chứng nhận mang máy điều hòa nhịp tim và yêu cầu kiểm soát cơ thể bằng tay. -Không nên đứng gần các máy dò kim khí, các động cơ đang vận hành, cục nam châm -Không làm thử nghiệm MRI, vì từ trường của MRI rất mạnh, có thể di chuyển kim khí trong pacemaker, gây ra thương tích... -Nên thông báo cho nhân viên y tế, nha sĩ.là mình mang pacemaker, để tránh rủi ro có thể xảy cho máy khi tiếp xúc với các dụng cụ y khoa khác. Khi máy bị hư hao, người bệnh sẽ thấy những dấu hiệu như bắp thịt gần máy co soắn, nhịp tim bất bình thường, khó thở, nặng ngực, chóng mặt, vết mổ sưng... Trong trường hợp này, cần tham khảo ý kiến bác sĩ ngay. Phòng ngừa loạn nhịp tim Ða số các nguyên nhân đưa tới loạn nhịp tim là do một bệnh nào đó của trái tim. Do đó, các phương thức phòng ngừa bệnh tim cũng áp dụng cho phòng ngừa loạn nhịp. Dinh dưỡng hợp lý, giảm chất béo; giữ cân nặng cơ thể trung bình; vận động cơ thể đều đặn, giới hạn rượu, không hút thuốc lá, giảm căng thẳng tinh thần...
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Đau Tim
May 23, 2009 4:32:23 GMT -5
Post by vietnam on May 23, 2009 4:32:23 GMT -5
Hỏi và Đáp Thông Thường về Cơn Tim Cấp (Heart Attack FAQ) Bác sĩ Nguyễn Nguyên
[Vì thuật ngữ Việt nam về Y khoa chưa thống nhất, và để tiện độc giả đối chiếu lúc tham cứu, một số thuật ngữ đã được kèm theo từ ngữ chuyên môn bằng Anh ngữ.]
1. Dấu hiệu báo động Cơn Tim Cấp (Heart Attack) gồm: A khó chịu ở vùng ngực hoặc khó thở B khó chịu ở vùng trên cơ thể như ở tay trong - một bên hoặc hai bên C thở dốc, toát mồ hôi, buồn nôn, mửa, chóng mặt, nặng hoặc nhẹ đầu D Tất cả đều có thể đúng Đáp ===>D 2. Khi nghi ngờ Cơn Tim Cấp (Heart Attack) cần gọi ngay xe Cứu Thương (Ambulance) vì nhân viên cấp cứu có phương tiện và thuốc thang tại chỗ như: A dưỡng khí (oxygen) B thuốc đặc trị Cơn Tim Cấp, như nitroglycerine C thuốc giảm đau, như morphine D Tất cả đều có thể đúng Đáp ===>D
3. Những nguy cơ gây Cơn Tim Cấp (Heart Attack) mà người ta có thể làm giảm được gồm: A Hút thuốc, Mập phì B Thiếu vận động C Huyết áp cao; Cholesterol trong máu cao, bệnh Tiểi đường (Diabetes) D Tất cả đều có thể đúng Đáp ===>D
4. Xét nghiệm giúp chẩn đoán Cơn Tim Cấp (Heart Attack) gồm: A Điện Tâm Đồ (ElectroCardioGram - ECG) B một số xét nghiệm máu đặc biệt C xét nghiệm tim bằng phóng xạ (nuclear heart scan) D Tất cả đều có thể đúng Đáp ===>D
5. Xét nghiệm máu thường được làm trong việc chẩn đoán Chứng Tim Cấp (Heart Attack) là để định lượng: A đường trong máu của cơ thể B diếu tố (enzymes) đặc biệt trong cơ thể C chất phóng xạ (radioactive substances) trong cơ thể D chất kích tố (hormones) trong cơ thể Đáp ===>B
6. Việc Chẩn đoán và Điều trị Chứng Tim Cấp (Heart Attack): A chỉ nên được bắt đầu sau khi người bệnh được đưa vào bệnh viện B chỉ nên được bắt đầu sau khi có bác sĩ gia đình đến C có thể được bắt đầu ngay bởi nhân viên cứu cấp (Ambulance) khi được gọi đến D chỉ nên được bắt đầu sau khi chụp hình X-quang (X-ray) Đáp ===>C 7. Thuốc chống huyết khối (thrombolytic drugs) giúp tan cục máu đông trong mạch và ngừa tổn thương nặng thêm ở tim. Muốn thật sự hữu hiệu, các thuốc này cần được dùng: A một ngày sau Cơn Tim Cấp (Heart Attack) B ngay bởi nhân viên cứu cấp (Ambulance) khi được gọi đến C trong vòng một giờ sau Cơn Tim Cấp (Heart Attack) D sau khi đã chụp hình X-quang (x-ray). Đáp ===>C
8. Một số thuốc được dùng để điều trị Chứng Tim Cấp (Heart Attack). Những thuốc này giúp: A nhẹ gánh nặng cho sự hoạt động của tim B giảm huyết áp, giảm hoặc ngừa máu đóng cục trong mạch C giảm đau ngực D Tất cả đều có thể đúng Đáp ===>D
9. Một số điều đáng chú ý thêm về Chứng Tim Cấp (Heart Attack) gồm: A Hàng triệu người bị Chứng Tim Cấp (Heart Attack), người bệnh sau khi được cứu sống có thể tiếp tục sống bình thường B Sau một Cơn Tim Cấp người bệnh cần có nếp sống lành mạnh, dùng thuốc đúng chỉ định và phục hoạt về tim C Cơn Tim Cấp chỉ xảy ra một lần trong đời rồi thôi D Người bệnh - và cả thân quyến - cần biết làm thế nào để gọi cấp cứu khi lên Cơn Tim Cấp. Đáp =A,B,D
>> Next Question available ASAP
Bác sĩ Nguyễn Nguyên
|
|
|
Đau Tim
Jul 31, 2009 18:25:24 GMT -5
Post by vietnam on Jul 31, 2009 18:25:24 GMT -5
Chứng loạn nhịp tim (arrhythmias)
Bác Sĩ Lý Lê Trần (lltran) Trich tu web : Thuvienvietnam
Loạn nhịp tim xảy ra khi dòng điện phối hợp nhịp tim không hoạt động bình thường khiến nhịp tim trở nên quá nhanh, quá chậm hoặc không đều đặn.
Chứng loạn nhịp tim có nhiều loại, thông thường không ảnh hưởng đến sức khỏe; ta thỉnh thoảng cảm nhận được tim đập loạn nhịp, nhảy một vài nhịp hoặc tim đập nhanh. Tuy nhiên chứng loạn nhịp tim có thể gây nhiều triệu chứng nguy hại cho sức khỏe và đôi khi tử vong. Bác sĩ dùng thuốc men hoặc một vài dụng cụ để chữa trị chứng loạn nhịp tim.
Loạn nhịp tim có thể không tạo ra triệu chứng hoặc dấu hiệu nào. Đôi khi qua việc thử nghiệm định kỳ mà bác sĩ tìm ra chứng loạn nhịp tim trong khi bệnh nhân không có triệu chứng nào. Bình thường, loạn nhịp tim gây ra một hoặc nhiều triệu chứng sau:
- Tim đập mạnh - Tim đập nhanh - Tim đập chậm - Đau vùng ngực - Ngộp hơi (nên thở cạn) - Xây xẩm - Chóng mặt - Té xỉu, ngất
Có triệu chứng chưa hẳn là việc loạn nhịp tim nguy hại đến tính mạng, và ngược lại, không có triệu chứng chưa hẳn là việc loạn nhịp tim vô hại.
Khi tim đập, dòng điện kích thích cơ tim co thắt phải chuyển dẫn theo một đường lối nhất định khi đi qua tim. Khi dòng điện nay bị cắt đứt vì bất cứ lý do gì, tim đập loạn nhịp. Trước khi tìm hiểu về nguyên nhân hay sự bất thường của nhịp tim, ta cần hiểu rõ sự hoạt động bình thường của tim.
Như thế nào là nhịp tim bình thường?
Tim có bốn (4) ngăn, hai ngăn trên là tâm nhĩ (hay atrium phải và trái), hai ngăn dưới là tâm thất (hay ventricle phải và trái).
Trong thời khắc của một nhịp tim, tâm nhĩ (nhỏ và ít cơ hơn so với tâm thất) co thắt và đẩy máu xuống tâm nhĩ đang trong trạng thái nghỉ. Sư co thắt này bắt đầu khi sinus node, một cấu trúc gồm nhiều tế bào dẫn điện trong tâm nhĩ bên phải, truyền một dòng điện kích thích cơ tâm nhĩ phải và trái co thắt.
Dòng điện này truyền đến atrioventricular node, một cấu trúc nằm giữa trái tim, trên hệ thống chuyển điện giữa tâm nhĩ và tâm thất. Từ đây dòng điện đến hai tâm thất, kích thích cơ tâm thất co thắt và bơm máu đi khắp châu thân.
*Hình ảnh của Mayo Foundation, chỉ được phép sử dụng một cách giới hạn, cho mục đích cá nhân không vụ lợi (non-commercial personal use)
Hiệu đính tiếng Việt:
1) Dòng điện tại sinus node 2) Dòng điện đến atrioventricular node hay AV node 3) Dòng điện đi qua tâm thất 4) Hoàn tất một chu kỳ
Như thế, bình thường, ta cần một khoảng thời gian nhất định, đủ để dòng điện đi qua những cấu trúc của tim, kích thích tim hoạt động theo một chu kỳ sẵn có. Khi chu kỳ dẫn truyền dòng điện này bị xáo trộn, tim sẽ đập loạn nhịp.
Ở trái tim khỏe mạnh, quá trình dẫn chuyển điện hoạt động nhịp nhàng và đều đặn, tạo nên một nhịp tim bình thường là 60 -100 nhịp/mỗi phút. Những thể thao gia, lúc nghỉ, thường có một nhịp tim thấp hơn 60 vì thân thể khỏe mạnh, tim không cần đập nhiều nhịp mà dẫn chuyển máu đầy đủ khắp cơ thể.
Nguyên nhân:
Chứng loạn nhịp tim gây ra bởi nhiều nguyên nhân, bệnh tim mạch như cao huyết áp, tiểu đường, hút thuốc lá, uống quá nhiều rượu hoặc cà phê (chưa hẳn là nghiện), ma túy hoặc áp lực tâm thần. Các loại thuốc men, thực phẩm phụ, chất dinh dưỡng kể cả thảo mộc cũng có thể gây loạn nhịp tim.
Thẹo (scar) tại cơ tim (thường do cơn nhồi cơ tim, trụy tim trong quá khứ, những cơ tim bị hư hoại trở thành thẹo) có thể gây loạn nhịp tim vì những mô này không còn dẫn truyền dòng điện hiệu quả như trước.
Những chứng bệnh gây hư hoại cấu trúc tim cũng đưa đến chứng loạn nhịp tim: - Thiếu máu: Khi lượng máu cần thiết giảm sút vì bệnh tật (nghẽn mạch máu), cơ tim sẽ không hoạt động hiệu quả và việc dẫn truyền dòng điện cũng giảm sút. - Mô tim bị hư hoại: việc dẫn truyền dòng điện cũng bị ảnh hưởng.
1. Chứng nghẽn động mạch tim (coronary artery disease, CAD): Gây nhiều chứng loạn nhịp tim nhưng thông thường nhất là chứng loạn nhịp tim xuất phát từ tâm thất, ventricular arrhythmias, và gây ra những cái chết bất ngờ. CAD gây nhồi cơ tim, trụy tim (heart attack). Sau cơn bệnh và khi hồi phục, những mô tim chết vì thiếu máu trong một thời gian trở thành thẹo và không còn làm việc một cách hiệu quả như trước từ việc dẫn truyền dòng điện đến việc bơm máu.
2. Chứng hoại cơ tim (cardiomyophathy): xảy ra khi mô tim tại hai tâm thất bị giãn nở (dilated caridomyopathy) hoặc khi mô tim tại tâm thất trái dầy (thicken) và thu nhỏ dung tích tâm thất (hypertrophic cardiomyopathy). Cả hai chứng bệnh này này đều đưa đến việc suy tim, cơ tim không còn bơm máu hiệu quả nữa cũng như không còn dẫn điện hiệu quả nữa.
3. Chứng hư hại van tim: van tim bị hở hoặc van tim bị thu nhỏ đều đưa đến sự giãn nở hoặc dầy cơ tim; sau một thời gian dài sẽ gây giãn nở ngăn tim. Khi các ngăn tim bị giãn nở hoặc suy yếu sẽ đưa đến chứng loạn nhịp tim.
Phân loại chứng loạn nhịp tim
Chứng loạn nhịp tim được phân loại theo nơi xuất phát (tâm nhĩ hoặc tâm thất) và theo tốc độ nhanh chậm của nhịp tim: - Tim đập nhanh (tachycardia): tim đập trên 100 nhịp/mỗi phút - Tim đập chậm (bradycardia): tim đập dưới 60 nhịp/ mỗi phút
Tuy nhiên việc tim đập nhanh hay chậm (theo định nghĩa trên) chưa hẳn là bệnh tật. Thí dụ, khi tập thể dục, tim đập nhanh hơn để đưa thêm máu đến các bắp thịt. Đây là một sự “điều tiết” bình thường và tự nhiên của cơ thể khi cần cung cấp một lượng oxygen lớn hơn.
|
|