|
Post by vietnam on May 22, 2009 18:50:50 GMT -5
Sino-Soviet Relations and the February 1979 Sino-Vietnamese Conflict www.vietnam.ttu.edu/vietnamcenter/events/1996_Symposium/96papers/elleviet.htm Quan hệ Xô Trung và cuộc xung đột Trung-Việt tháng 2/1979Bruce Elleman 20/4/1996 Ngưòi dịch: Đỗ Thúy Trong cuốn Defending China (Bảo vệ Trung Quốc) phát hành năm 1985, Gerald Segal kết luận rằng cuộc chiến tranh chống Việt Nam của Trung Quốc năm 1979 là một thất bại hoàn toàn: “Trung Quốc đã không thể buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, không chấm dứt được các cuộc đụng độ ở biên giới, không tạo được sự nghi ngờ về sức mạnh của Liên Xô, không xua đi được hình ảnh về Trung Quốc là một con hổ giấy, và không kéo được Mỹ vào một liên minh chống Liên Xô. Với mục đích phản bác quan điểm nêu trên rằng chính sách của Bắc Kinh là một sai lầm, bài viết này sẽ đánh giá lại vai trò trung tâm của mối quan hệ Trung-Nga đối với quyết định tấn công Việt Nam của Trung Quốc. Quan trọng nhất, bài viết sẽ chỉ ra việc chọn thời điểm 17/2 của Trung Quốc để tấn công Việt Nam là có liên hệ với dấu mốc 29 năm ký Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Xô-Trung năm 1950. Cần nhớ lại rằng ngày 14/2/1950, Bắc Kinh và Mátxcơva ký một hiệp ước 30 năm trong đó có những điều khoản bí mật ủng hộ Liên Xô đóng vai trò lãnh đạo của phong trào cộng sản thế giới. Khi Mátxcơva sau đó từ chối đàm phán trở lại các tranh chấp lãnh thổ Xô-Trung, việc này đã dẫn tới các vụ đụng độ ở biên giới hai nước, mà quan trọng nhất là thời kỳ cuối thập kỷ 1960. Các học giả phương Tây thường không thấy được rằng kể cả trong thời kỳ diễn ra những căng thẳng này trong quan hệ Xô-Trung, Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ năm 1950 vẫn có đầy đủ hiệu lực trong suốt toàn bộ thời kỳ bất ổn này. Ít nhất từ quan điểm của Bắc Kinh, Hiệp ước Xô-Trung 1950 vẫn là một công cụ chính để cho Mátxcơva tìm cách áp đặt bá quyền đối với Trung Quốc. Mátxcơva rõ ràng quan ngại điều gì sẽ xảy ra khi hiệp ước Xô-Trung không còn hiệu lực sau 30 năm. Bắt đầu từ năm 1969, Liên Xô thường xuyên hối thúc Trung Quốc thay thế hiệp ước năm 1950 bằng một hiệp ước mới. Năm 1978, các lực lượng Liên Xô được tăng cường dọc theo biên giới Xô-Trung và Trung Quốc-Mông Cổ. Mátxcơva cũng tìm cách buộc Bắc Kinh phải chấp nhận các điều kiện do mình đặt ra bằng cách tăng cường quan hệ ngoại giao với Hà Nội, ký hiệp ước phòng thủ có giá trị 25 năm với Việt Nam vào ngày 3/11/1978. Tuy nhiên, thay vì xuống nước, Trung Quốc tuyên bố ý định tấn công Việt Nam vào ngày 15/2/1979, ngày đầu tiên mà Trung Quốc có thể kết thúc một cách hợp pháp Hiệp ước Xô-Trung 1950 và tấn công Việt Nam ba ngày sau đó. Khi Mátxcơva không can thiệp, Bắc Kinh tuyên bố công khai rằng Liên Xô đã không thực hiện nhiều lời hứa trợ giúp Việt Nam. Việc Liên Xô không trợ giúp Việt Nam đã khiến Trung Quốc mạnh dạn tuyên bố vào ngày 3/4/1979 ý định chấm dứt Hiệp định Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Xô-Trung năm 1950. Thay vì chấp nhận ý kiến rằng cuộc tấn công Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc là một thất bại hoàn toàn, bài viết này sẽ chỉ ra rằng một trong các mục tiêu ngoại giao chính đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là để người ta thấy rằng việc đảm bảo trợ giúp quân sự của Liên Xô đối với Việt Nam chỉ là dối trá. Dưới góc độ này thì chính sách của Bắc Kinh là một thành công thực sự, do Mátxcơva đã không tích cực can thiệp, và do đó thể hiện những hạn chế trên thực tế của hiệp ước quân sự Xô-Việt. Kết quả là, bài viết này sẽ chỉ ra rằng Trung Quốc đã đạt được một chiến thắng chiến lược bằng việc giảm thiểu khả năng trong tương lai của một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận chống Liên Xô và Việt Nam, và cũng là một thằng lợi ngoại giao bằng việc chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung năm 1950. Bài viết này cũng sẽ đánh giá lại tuyên bố của Bắc Kinh rằng việc Liên Xô đã không can thiệp chống Trung Quốc đã cho thấy Liên Xô thực chất chỉ là “một con gấu giấy.” Các tư liệu được giải mật gần đây của Liên Xô có xu hướng phù hợp với tuyên bố của Trung Quốc, nó đưa đến một câu hỏi quan trọng là liệu BắcKinh đã xác định được chính xác những dấu hiệu ở Viễn Đông về sự suy yếu trong nội bộ của Mátxcơva – chính sự suy yếu cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 – hay chưa vào năm 1979 – nhiều năm trước khi bằng chứng về sự suy yếu này trở nên rõ ràng trên vũ đài châu Âu. Nếu như vậy thì tồn tại khả năng rằng “sự bắt đầu kết thúc” của Chiến tranh Lạnh thực sự diễn ra ở châu Á. Sơ lược lịch sử quan hệ Xô-Trung cuối những năm 1960 Quan hệ Xô-Trung cuối những năm 1960 xấu đi không chỉ bởi sự bất đồng sâu sắc về quy chế của vùng Ngoại Mông (Outer Mongolia), mà còn bởi rất nhiều tranh chấp chủ quyền dọc theo biên giới Xô-Trung. Thực tế, những xung đột này đã mang mầm mống ung nhọt bên dưới bề mặt của mối quan hệ Xô-Trung trong hơn một thế kỷ, kể từ khi Đế chế Nga buộc Trung Quốc phải ký một loạt các hiệp ước nhượng lại nhiều phần lãnh thổ rộng lớn của mình. Theo tác giả S. C. M Paine trong cuốn Imperial Rivals (Các đế quốc đối thủ) sắp phát hành: “Đối với Trung Quốc, những phần lãnh thổ bị mất là rất lớn: một vùng rộng hơn cả phần phía đông sông Mississipi của nước Mỹ đã trở thành lãnh thổ của Nga, hoặc, như trong trường hợp Ngoại Mông, đặt dưới sự bảo hộ của Nga.” Trên thực tế, các bản được công bố của hiệp ước Xô-Trung đã không đưa vào các nghị định thư bí mật. Ấn bản Mùa đông 1995 của Bản tin Dự án Nghiên cứu Lịch sử Quốc tế thời Chiến tranh Lạnh (Cold War International History Project Bulletin) có trích một đoạn lời của Mao Trạch Đông nói về các cuộc đàm phán bí mật Xô-Trung: Trong các cuộc đàm phán, theo sáng kiến của Stalin, Liên Xô đã tìm cách chiếm quyền sở hữu chính đối với Railway Changchun (tức Harbin). Tuy nhiên, sau đó một quyết định được đưa ra về việc khai thác chung … Railway, bên cạnh đó Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trao cho Liên Xô căn cứ hải quân ở Cảng Arthur, và bốn công ty cổ phần được mở ở Trung Quốc. Theo sáng kiến của Stalin, … Manchuria và Xinjiang trên thực tế được đưa vào phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô. Do đó, mặc dù phần công khai của Hiệp ước Xô-Trung 1950 đã được biết đến từ lâu, nhưng cũng không rõ có bao nhiêu nghị định thư bí mật đã được ký kết. Cho đến nay, các nghị định thư này chưa bao giờ được công bố. (Bruce Elleman, “Sự kết thúc của Đặc quyền Ngoại giao ở Trung Quốc: Trường hợp của Liên Xô, 1917-1960,” Nước Trung Hoa Cộng hòa (sắp phát hành, Spring 1996). Ngày15/2/1950, Mao miễn cưỡng đồng ý công nhận “quy chế độc lập” của Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Tuy nhiên, việc này không hề có nghĩa là công nhận sự độc lập hoàn toàn của Mông Cổ đối với Trung Quốc, vì Mao tin chắc rằng chính phủ Liên Xô trước đó đã hứa trả Mông Cổ về cho Trung Quốc. Dựa trên những phàn nàn sau này của Mao, có thể thấy hẳn Mao đã nhận được sự đảm bảo từ Stalin rằng tình trạng của Mông Cổ, cũng như vị trí đích xác của các đường biên giới Trung Quốc-Mông Cổ và Trung Quốc-Liên Xô, sẽ được bàn thảo trong các cuộc gặp trong tương lai. Do đó, chính việc Mátxcơva từ chối mở các cuộc đàm phán với Bắc Kinh cuối cùng đã dẫn đến những cuộc đụng độ trong các thập kỷ 1950 và 1960. Dù vấn đề biên giới Trung Quốc-Mông Cổ đã được giải quyết năm 1962, Mao vẫn công khai lên án những hành động xâm lấn của Liên Xô vào lãnh thổ Trung Quốc và phản đối việc Liên Xô kiểm soát Mông Cổ rằng: “Liên Xô, với lý do đảm bảo sự độc lập của Mông Cổ, trên thực tế đã đặt đất nước này dưới sự thống trị của mình.” Cuối những năm 1960, trong một loạt các sự cố ở biên giới dọc theo các con sông Ussuri và Amur, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã thể hiện sự kiên cường đáng ngạc nhiên trước Hồng Quân Liên Xô. Các cuộc xung đột này tuy nhỏ về phạm vi và không có kết cục rõ ràng, nhưng đã dẫn đến các cuộc xung đột lãnh thổ sau này ở Xinjiang dọc biên giới Trung Quốc với Liên Xô. Mặc dù căng thẳng trong quan hệ Xô-Trung lớn đến mức nhiều học giả phương Tây gọi đó là “chia rẽ”, nhưng Hiệp ước Xô-Trung 1950 vẫn tiếp tục có hiệu lực. Trên thực tế, hiệp ước này, gồm cả các nội dung được công bố công khai lẫn các phần bí mật, vẫn là nền móng làm cơ sở cho quan hệ Xô-Trung. Tuy nhiên, nền móng này không vững chắc ngay từ ban đầu, do Liên Xô đã từ chối trả lại các phần lãnh thổ mà Sa Hoàng đoạt được trước đây về cho Trung Quốc. Có thể cho rằng chính vấn đề này chứ không phải điều gì khác đã kiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc lên án “bá quyền” của Liên Xô ở vùng Viễn Đông. Và cũng chính vấn đề này đã gây ra căng thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong những năm 1970. Quan hệ Xô-Trung trong những năm 1970 Những tranh chấp biên giới Xô-Trung cuối những năm 1960 làm Mátxcơva và Bắc Kinh lo lắng, vì cả Liên Xô và Trung Quốc đều là các cường quốc hạt nhân; dường như có một sự đồng thuận không chính thức là không bên nào dùng đến sức mạnh không quân. (Christian F. Ostermann, "New Evidence on The Sino-Soviet Border Dispute," Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (Spring 1995), 186-193.) Tuy nhiên, các xung đột biên giới Xô-Trung này đã để lại những hậu quả rất lớn về xã hội, khiến cả hai quốc gia phải sử dụng những nguồn lực hiếm hoi để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra hoặc cho sự leo thang quân sự trong tương lai dọc theo các đường biên giới chung. Sự vững tin mới có được của PLA về khả năng có thể chống chọi được Hồng Quân Liên Xô cũng cho phép Bắc Kinh có cơ hội trong năm 1971 thực hiện chính sách đối ngoại mới thúc đẩy quan hệ thân thiện với Mỹ. Ngoài ra, Trung Quốc cũng nỗ lực để cải thiện quan hệ với Nhật Bản, ký kết một hiệp ước vào tháng 8/1978 với nội dung dường như có tính chất chỉ trích chính sách đối ngoại của Liên Xô ở châu Á bằng việc lên án đích danh “chủ nghĩa bá quyền”. Cuối cùng, những căng thẳng Xô-Trung cũng đưa đến một số cuộc chiến tranh qua tay người khác ở Đông Nam Á, chẳng hạn như cuộc xung đột cuối những năm 1970 giữa Việt Nam và Campuchia, cũng như khiến Trung Quốc phải chấp nhận vai trò cường quốc khu vực của mình, trong đó thể hiện rõ nhất bằng cuộc tấn công Việt Nam năm 1979 nhằm cản trở ảnh hưởng đang tăng lên của Liên Xô. Trong suốt những năm 1970, những căng thẳng Xô-Trung vẫn ở mức cao. Trong thời kỳ này, Mátxcơva cố gắng thuyết phục Bắc kinh đàm phán một hiệp ước mới hỗ trợ, hoặc thay thế, Hiệp ước Xô-Trung năm 1950. Bắt đầu từ năm 1969 và 1970, Mátxcơva đề xuất rằng hai bên cam kết không tấn công lẫn nhau, và đặc biệt là không dùng đến vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh không thể hiện bất cứ sự quan tâm nào đến thỏa thuận này, năm 1971 Mátxcơva đề xuất việc hai nước kí một hiệp ước mới cùng nhau từ bỏ việc sử dụng vũ lực. Sau đó, năm 1973 Mátxcơva thể hiện sự quan tâm bằng đề xuất cụ thể rằng hai nước ký một hiệp ước không tấn công lẫn nhau; Bắc Kinh tiếp tục phớt lờ các bước đi của Mátxcơva. Khi thời hạn 30 năm của Hiệp ước Xô-Trung sắp kết thúc, các nỗ lực của Liên Xô nhằm thay thế hiệp ước này tăng lên đáng kể. Thí dụ, ngày 24/2/1978, Mátxcơva công khai đè xuất hai chính phủ ra một tuyên bố về các nguyên tắc cho quan hệ Xô-Trung. Các nguyên tắc này bao gồm: 1) bình đẳng; 2) tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau; 3) không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; 4) không sử dụng vũ lực. Mátxcơva rõ ràng hy vọng rằng một tuyên bố như vậy có thể được sử dụng để thay thế cho Hiệp ước Xô-Trung 1950 nhằm điều chỉnh các quan hệ Xô-Trung. Tuy nhiên, mục tiêu cao nhất trong các đề xuất của Liên Xô rõ ràng là nhằm hạn chế, hoặc thậm chí là làm giàm, ảnh hưởng đang lên của Trung Quốc ở châu Á. (Theo Chang Pao-min, khía cạnh này trong chính sách của Liên Xô đối với Trung Quốc là điều hấp dẫn nhất đối với Việt Nam, thậm chí còn trích lời một quan chức Việt Nam nói rằng: “Rõ ràng lợi ích của Liên Xô có sự song trùng rất lợi với lợi ích của Việt Nam – giảm ảnh hưởng của Trung Quốc trong phần này của thế giới.” Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 46-47.) Tuy nhiên, Bắc Kinh từ chối mọi lời đề nghị của Mátxcơva và trong suốt những năm 1970 Trung Quốc lên án Liên Xô bằng những lời lẽ mạnh bạo hơn. Thí dụ, tháng 2/1974, Mao Trạch Đông công khai kêu gọi thành lập một liên minh “thế giới thứ ba” chống lại cái gọi là “thế giới thứ nhất”, trong trường hợp này bao giồm cả Liên Xô và Mỹ. Tuy nhiên, sau khi Mao chết, tờ Nhân dân Nhật báo ra ngày 1/11/1977 có bài viết coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc trong khi Mỹ được coi là một đồng minh. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa – trong đó đặc biệt là Việt Nam (“Sự đổ vỡ trong quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc sau năm 1975 và liên minh hiện tại của Việt Nam với Liên Xô có thể xuất phát từ sự phản kháng của Việt Nam trước sức ép của Trung Quốc đòi Việt Nam phải chọn một trong hai bên.” Ramesh Thaku and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin's Press, 1992), 287) – cũng được coi là các đồng minh tiềm năng trong một “mặt trận thống nhất” chống Liên Xô. Cuối cùng, ngày 26/3/1978, Bộ Ngoại giao Trung Quốc yêu cầu Mátxcơva, ben cạnh việc thừa nhận sự tồn tại của “các khu vực tranh chấp” dọc đường biên giới Xô-Trung, phải rút hoàn toàn quân đội của mình khỏi Cộng hòa Nhan dân Mông Cổ, cũng như rút khỏi đường biên giới Xô-Trung. Đáp lại trước những đòi hỏi của Trung Quốc, đầu tháng 4/1978 Tổng Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev đi thăm Siberia và thông báo rằng các thiết bị mới, tân tiến hơn đã được cung cấp cho các đơn bị tên lửa đóng dọc theo biên giới Xô-Trung. Theo Brezhnev, các vũ khí mới sẽ là phương tiện để “tự bảo vệ chúng tôi và những người bạn xã hội chủ nghĩa chống lại sự xâm lược có thể xảy ra từ bất cứ quốc gia nào.” Ngay sau đó, ngày 12/4/1978, Ulan Bator cũng công khai phản đối những đòi hỏi của Bắc Kinh, tuyên bố rằng Liên Xô đã bổ sung quân đội tới các bị trí dọc theo đường biên giới Mông Cổ-Ấn Độ theo đề nghị của Mông Cổ nhằm đối phó với việc Trung Quốc tăng quân ở vùng phía nam biên giới. Đúng như những gì mà các sự kiện này cho thấy một cách khá rõ ràng, đến năm 1978 những căng thẳng biên giới Xô-Trung đã tăng lên đáng kể, chủ yếu là do việc Liên Xô tăng cường điều quân đóng dọc theo biên giới Xô-Trung và tại Mông Cổ. Ở phạm vi lớn hơn, tình trạng này có thể được giải thích bằng những nỗ lực không ngừng của Mátxcơva nhằm ép Bắc Kinh không chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung 1950, điều đã diễn ra trong năm 1979, hoặc tốt hơn là đàm phán một hiệp ước mới với những nguyên tắc làm cơ sở cho quan hệ Xô-Trung trong tương lai. Tuyên bố của Brezhnev rằng ông có ý định sử dụng các lực lượng Xô Viết chống lại Trung Quốc vì “những người bạn xã hội chủ nghĩa” của Mátxcơva cũng là một lời cảnh báo tới Bắc Kinh để họ phải buông Mông Cổ cũng như các đồng minh của Mátxcơva ở Đông Nam Á. Trung Quốc không những không khuất phục dưới sức ép ngoại giao và quân sự của Liên Xô mà còn tìm cách gây áp lực ngoại giao lại với Mátxcơva bằng việc củng cố quan hệ với cả Mỹ và Nhật Bản. Có thể nói rằng chính sách của Bắc Kinh đã thành công hơn và kết quả là việc Bắc Kinh ký các thỏa thuận quan trọng với cả Oasinhtơn và Tôkiô. Đối với Mátxcơva, rõ ràng các thỏa thuận mới này của Trung Quốc là nhằm chống Liên Xô, do – ít nhất trong trường hợp hiệp ước Trung-Nhật - cả hai bên trực tiếp lên án “chủ nghĩa bá quyền”, thuật ngữ mà Trung Quốc thường dùng để chỉ sự bành trướng của Liên Xô. Đối sách của Liên Xô là tăng cường quan hệ ngoại giao với tất cả các nước Đông Nam Á có biên giới chung với Trung Quốc, trong đó quan trọng nhất là Việt Nam.
|
|
|
Post by vietnam on May 22, 2009 18:51:37 GMT -5
Quan hệ Xô-Trung và Việt Nam tháng 2/1979
Mặc dù Trung Quốc có thể không phải là một bên tham gia trong cuộc xung đột Việt Nam những năm 1960 và 1970, nhưng sự giúp đỡ về kinh tế và vật chất của Trung Quốc cho Việt Nam đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trung Quốc không chỉ cử binh lính sang giúp Việt Nam duy trì các đường tiếp tế, mà ước tính sự giúp đỡ về vật chất của Bắc Kinh cho Hà Nội từ năm 1950 đến 1978 đã vượt quá 20 tỉ USD (King C. Chen, China's War with Vietnam, 1979 (Stanford, CA, Hoover Institution Press, 1987), 27). Do vậy, không mấy khó hiểu tại sao Bắc Kinh cảm thấy phật ý trước quan hệ ngày càng gần gũi giữa Mátxcơva và Hà Nội cuối những năm 1970.
Điều này đặc biệt đúng sau khi hai nước ký một hiệp ước phòng thủ chung vào ngày 3/11/1978 mà rõ ràng nhằm vào Trung Quốc. Theo một học giả, liên minh Xô-Việt đã khiến Việt Nam trở thành chiếc “trục” trong “cỗ xe kiềm chế Trung Quốc” của Liên Xô. (Robert A. Scalapino, "The Political Influence of the USSR in Asia," in Donald S. Zagoria, ed., Soviet Policy in East Asia (New Haven, Yale University Press, 1982), 71) Do đó, dưới cách nhìn của Trung Quốc, nỗ lực của Mátxcơva nhằm bao vây Trung Quốc về mặt ngoại giao dường như đã sắp thành công. Nhận thức này đã dẫn đến việc Trung Quốc tấn công Việt Nam tháng 2/1979.
Mặc dù quan hệ ngoại giao giữa Bắc Kinh và Hà Nội trong những năm 1960 và đầu 1970 nhìn chung là tốt, nhưng những khác biệt về chính sách giữa Trung Quốc và Việt Nam trở nên lớn hơn sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ tháng 4/1975. Tháng 9 năm đó, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn đi Bắc Kinh và trong một loại các cuộc gặp trong chuyến đi đó, rõ ràng rằng Trung Quốc rất lo ngại về quan hệ gần gũi giữa Việt Nam với Liên Xô. Mặc dù quan hệ tiếp tục xấu đi trong những năm tiếp theo, nhưng bất đồng giữa Trung Quốc với Việt Nam chỉ trở nên rõ ràng khi hàng nghìn người Hoa bắt đầu rời Việt Nam vào mùa xuân và mùa hè năm 1978. Ngoài ra, những tranh chấp lãnh thổ đối với quần đảo Trường Sa, cũng như việc Việt Nam đánh Campuchia, cũng làm gia tăng căng thẳng Việt-Trung.
Trong khi đó, những dấu hiệu gia tăng về quan hệ hợp tác Xô-Việt cũng xuất hiện vào mùa hè năm 1978, khi Việt Nam tỏ ý muốn trở thành thành viên của khối COMECON. Bên cạnh đó, các nguồn tin của chính phủ Mỹ nói rằng đến tháng 8/1978 đã có tới 4,000 chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam. Tháng 9/1978, Liên Xô bắt đầu tăng cường các chuyến hàng chở vũ khí tới Việt Nam, cả bằng đường biển và đường không, bao gồm “máy bay, tên lửa, xe tăng và đạn dược.” Cuối cùng, tất cả các dấu hiệu của việc tăng cường quan hệ Việt-Xô lên đến đỉnh điểm ngày 3/11/1978 với việc Việt Nam và Liên Xô ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác. Rõ ràng hiệp ước này là nhằm vào Trung Quốc, bởi tại điều 6 nên rằng Việt Nam và Liên Xô sẽ “tham vấn nhau ngay lập tức” nếu một trong hai nước “bị tấn công hoặc đe dọa tấn công … nhằm loại bỏ mối đe dọa đó.” Có tin rằng hiệp ước này còn bao gồm một thỏa thuận bí mật cho phép lực lượng quân đội Liên Xô tiếp cận với các “sân bay và bến cảng” của Việt Nam (Ramesh Thaku and Carlyle Thayer, Soviet Relations with India and Vietnam (New York, St. Martin's Press, 1992), 61).
Mặc dù Việt Nam tuyên bố rằng việc ký hiệp ước này với Nga là nhằm ngăn chặn những hành động “phiêu lưu” của Trung Quốc, nhưng các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh rõ ràng coi đây là một phần trong các nỗ lực của Mátxcơva nhằm gây áp lực buộc Trung Quốc xuống nước và gia hạn các điều khoản bất bình đẳng của Hiệp ước Xô-Trung 1950. Nếu Liên Xô tạo được một chỗ đứng vững chắc ở Đông Nam Á thì có thể đe dọa Trung Quốc từ cả hai bên sườn phía bắc và phía nam. Nếu thành công, chính sách này sẽ tạo cho Mátxcơva sức mạnh đủ để buộc Bắc Kinh gia hạn, hoặc ít nhất là đàm phán lại, Hiệp ước Xô-Trung 1950 theo cách có lợi cho Mátxcơva. Một biểu hiện sớm của mối quan ngại từ Bắc Kinh về Hiệp ước Việt-Xô đã được Nhân dân Nhật báo lên tiếng, trong đó cảnh báo rằng Mátxcơva đang sử dụng Việt Nam để chống Trung Quốc như đã từng làm trước đây, và thất bại, là sử dụng Trung Quốc để gây áp lực với Mỹ. Bắc Kinh cũng cảnh báo rằng mục tiêu cuối cùng của Mátxcơva là “kiểm soát toàn bộ Đông Dương.”
Với việc ký hiệp ước phòng thù Việt-Xô ngày 3/11/1978, Liên Xô hy vọng sẽ sử dụng mối quan hệ với Việt Nam để giành ưu thế chiến thuật và thọc sườn Trung Quốc. Mối lo ngại chính của Trung Quốc là nếu các chính sách của Liên Xô ở Việt Nam thành công thì chính quyền Xô Viết có thể đạt được sự kiểm soát chặt chẽ về chiến lược và quân sự đối với Trung Quốc. Từ khi diễn ra sự bất hòa giữa Trung Quốc và Liên Xô, đặc biệt là khi xảy ra những xung đột biên giới Xô-Trung cuối những năm 1960, mục tiêu chính của Bắc Kinh là xây dựng tiềm lực quân sự nhằm đối phó với Hồng Quân Liên Xô, điều mà Bắc Kinh đã hầu như đạt được trong khoảng giữa đến cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970, khi Trung Quốc có trong tay 3,6 triệu quân theo như báo cáo. Về mặt ngoại giao, Bắc Kinh tiếp tục tìm cách gây sức ép với Mátxcơva bằng việc chính thức bình thường hóa quan hệ với Oasinhtơn ngày 1/1/1979. Ramser Amer kết luận rằng các liên minh mới của Liên Xô và Trung Quốc có mối liên hệ chặt chẽ với nhau: “Vậy là hai liên minh chiến lược đã được thành lập vào những tháng cuối của năm 1978, một liên minh Việt-Xô và một liên minh Trung-Mỹ, và các liên minh này duy trì trong khoảng một thập kỷ.”
Do việc nối lại quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ đầu năm 1979, Liên Xô ngày càng lo ngại về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với các lực lượng NATO do Mỹ đứng đầu ở phía tây và các lực lượng Trung Quốc ở phía đông. Điều này có thể đã thuyết phục Mátxcơva tăng cường sự ủng hộ đối với cuộc tấn công Campuchia của Việt nam đang diễn ra, một sự kiện mà Robert Ross đã liên hệ chặt chẽ với cuộc tấn công Việt Nam sau đó của Trung Quốc khi ông lập luận rằng việc lật đổ đồng minh thân cận của Trung Quốc ở Campuchia làm Bắc Kinh đặc biệt lo ngại. Trong khi Bắc Kinh không muốn can thiệp trực tiếp vào Campuchia để chặn đứng cuộc tấn công của Việt Nam, cuộc tấn công bằng quân sự của Trung Quốc vào vùng lãnh thổ tranh chấp Việt-Trung có một “mối liên hệ hữu cơ”, khi mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc cảnh bảo Việt Nam không nên nghĩ sai lầm rằng Trung Quốc đang “yếu và dễ bị bắt nạt.”
Tuy nhiên, trong phân tích cuối cùng, Việt Nam là một quốc gia khá nhỏ kể cả về dân số và sức mạnh quân sự, và có lẽ sự gia tăng đột ngột số lượng chuyên gia Liên Xô đến Việt Nam - khoảng 5,000 đến 8,000 vào giữa năm 1979 - và việc cung cấp số lượng lớn các phương tiện quân sự là một cảnh báo nguy hiểm đối với an ninh chiến lược trực tiếp của Trung Quốc. Vì vậy, theo King C. Chen: “Nếu không có liên minh Việt-Xô, cuộc chiến tranh mười sáu ngày giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể đã không xảy ra.” Trong một lần thừa nhận rõ ràng rằng hợp tác quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam đã làm Trung Quốc lo ngại sâu sắc, Đặng Tiểu Bình công khai thừa nhận rằng “liên minh quân sự” mới giữa Liên Xô và Việt Nam thực chất là một phần trong mục tiêu lâu dài của Liên Xô muốn “bao vây Trung Quốc”.
Sau khi ký Hiệp ước Việt-Xô ngày 3/11/1978, Bắc Kinh phải tìm ra phương sách để phá vỡ âm mưu bao vây Trung Quốc này của Liên Xô. Do vậy, chính nỗi lo bị Mátxcơva đánh thọc sườn đã đẩy Trung Quốc vào thế phải hành động. Rõ ràng, bước đi đầu tiên của Trung Quốc là thử thách mức độ quyết tâm của Liên Xô xem nước này sẽ đứng bên Việt Nam theo đúng tinh thần hiệp ước hay sẽ xuống nước và chấp nhận thất bại. Thậm chí còn có tin nói rằng Đặng Tiểu Bình nói với Tổng thống Mỹ Carter vào tháng 1/1979 rằng một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ “phá vỡ những tính toán chiến lược của Liên Xô…” Do đó, thậm chí Ross còn kết luận rằng trong bối cảnh Việt Nam đã đánh chiếm thành công Campuchia, chính “việc Liên Xô bao vây Trung Quốc như một hệ quả” dẫn tới sự cần thiết phải có một cuộc tấn công hạn chế nhằm vào Việt Nam.”
Chiến tranh Trung-Việt 1979
Các lực lượng Trung Quốc tấn công Việt Nam ngày 17/2/1979. Mặc dù các động cơ chính xác phía sau cuộc tấn công của Trung Quốc vẫn còn bỏ ngỏ cho mọi sự diễn giải, nhưng mối lo ngại của Bắc Kinh rằng hiệp ước phòng thủ có giá trị 25 năm của Mátxcơva với Hà Nội có thể dẫn đến việc quân sự hóa của Liên Xô đối với đường biên giới Việt-Trung hiển nhiên là một nhân tố chính. Mátxcơva cũng có thể đã hy vọng rằng hiệp ước ký với Hà Nội sẽ khiến Trung Quốc phải điều bớt quân khỏi phía bắc, do đó làm yếu sự phòng thủ quân sự của Trung Quốc dọc theo biên giới Xô-Trung.
Tuy nhiên, những hy vọng của Mátxcơva đã đổ vỡ khi Trung Quốc quyết định tấn công Việt Nam. Chỉ sau ba tuần đánh nhau, Trung Quốc rút quân và những tranh chấp biên giới Việt-Trung vẫn chưa được giải quyết. Đối với hầu hết những người quan sát từ bên ngoài, hành động quân sự của Bắc Kinh có vẻ như là một thất bại. Nhưng nếu mục tiêu thực sự đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc là nhằm để cho mọi người thấy việc đảm bảo giúp đỡ về quân sự của Liên Xô đối với Việt Nam chỉ là dối trá, thì việc Liên Xô từ chối can thiệp đã chấm dứt trên thực tế hiệp ước phòng thủ Việt-Xô. Do vậy, Bắc Kinh đã đạt được một chiến thắng chiến lược rõ ràng với việc phá vỡ vòng vây của Liên Xô và loại bỏ mối đe dọa của Liên Xô về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận.
Vào ngày 15/2/1979, không chỉ là ngày đánh dấu 29 năm thỏa thuận giữa Mao và Stalin về Mông Cổ mà còn là ngày đầu tiên Trung Quốc có thể chính thức tuyên bố chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương Trợ Xô-Trung, Đặng Tiểu Bình tuyên bố rằng Trung Quốc có kế hoạch thực hiện một cuộc tấn công hạn chế vào Việt Nam. Nhằm ngăn chặn sự can thiệp của Liên Xô hòng giúp Việt Nam, Đặng cảnh báo Mátxcơva ngày hôm sau rằng Trung Quốc đã chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh tổng lực với Liên Xô. Để chuẩn bị cho cuộc xung đột này, Trung Quốc đã đặt tất cả quân đội dọc theo biên giới Xô-Trung trong tình trạng báo động khẩn cấp, thiết lập một bộ chỉ huy quân sự mới ở Tân Cương, và thậm chí còn sơ tán khoảng 300,000 dân thường khỏi vùng biên giới Xô-Trung. (Chang Pao-min, Kampuchea Between China and Vietnam (Singapore, Singapore University Press, 1985), 88-89.)
Ngoài ra, phần lớn các lực lượng chiến đấu của Trung Quốc (lên tới khoảng một triệu rưỡi quân) được triển khai dọc theo các đường biên giới với Nga. (Robert A. Scalapino "Asia in a Global Context: Strategic Issue for the Soviet Union," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA. , Auburn House Publishing Company, 1986), 28)
Như đã báo trước, cuộc tấn công quân sự của Trung Quốc nhằm vào Việt Nam bắt đầu ngày 17/2/1979, chỉ trong vòng ba ngày sau dấu mốc 29 năm Hiệp ước Xô-Trung 1950. Đúng như Đặng tuyên bố ngay từ đầu, Trung Quốc thực hiện một hành động hạn chế đối với Việt Nam. Không chỉ các lực lượng tinh nhuệ nhất của Trung Quốc được triển khai dọc theo biên giới Trung-Việt, Bắc kinh còn quyết định không sử dụng khoảng 500 máy bay tiêm kích và ném bom đã đóng tại khu vực này trước đó. Phản ứng trước cuộc tấn công của Trung Quốc, Liên Xô đưa nhiều tàu hải quân và thiết lập một cầu không vận chuyển vũ khí cho Việt Nam. Ngày 22/2/1979, đại tá N. A. Trarkov, tùy viên quân sự Liên Xô tại Hà Nội, thậm chí còn đe dọa Liên Xô sẽ “thực hiện nghĩa vụ theo hiệp ước Việt-Xô”; tuy nhiên các nhà ngoại giao Xô Viết ở những nơi khác lại thể hiện rõ rằng Liên Xô sẽ không can thiệp chừng nào cuộc xung đột vẫn còn hạn chế. (John Blodgett, "Vietnam: Soviet Pawn or Regional Power?" in Rodney W. Jones and Steven A. Hildreth, eds., Emerging Powers Defense and Security in the Third World (New York, Praeger Publishers, 1986), 98). Liên Xô rõ ràng không có ý định mạo hiểm với một cuộc chiến tổng lực với Trung Quốc vì Việt Nam.
Sau ba tuần giao tranh căng thẳng, Trung Quốc có thể tuyên bố đã chiếm được ba trong số sáu thủ phủ cấp tỉnh của Việt Nam – Cao Bằng, Lạng Sơn và Lào Cai – có biên giới chung với Trung Quốc. Mặc dù các lực lượng Trung Quốc có hơn 250 nghìn quân, phía Việt Nam vẫn sử dụng chiến thuật đánh du kích để Trung Quốc không có được một chiến thắng nhanh chóng. Do vậy, khi Bắc Kinh thông báo ý định rút quân vào ngày 5/3/1979, có vẻ như các mục tiêu cơ bản của cuộc tấn công này vẫn chưa đạt được; cụ thể là tiềm lực quân sự của Việt Nam vẫn chưa bị tổn hại nghiêm trọng bởi Trung Quốc. Sau đó, biên giới Việt-Trung tiếp tục căng thẳng khi Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam sau ba tuần giao tranh.
Đối với nhiều nhà quan sát bên ngoài, cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam là một thất bại hoàn toàn. Tuy nhiên, như Banning Garrett nhận xét chính xác, “người Trung Quốc chứng tỏ rằng họ có thể tấn công một đồng minh của Liên Xô mà không bị trả đũa từ ‘con gấu giấy’. (Banning Garrett, "The Strategic Triangle and the Indochina Crisis," in David W. P. Elliott, ed., The Third Indochina Conflict, (Boulder, CO, Westview Press, 1981), 212.)
Trên thực tế, với việc chứng tỏ rằng Liên Xô sẽ không can thiệp tích cực vì Việt Nam, Trung Quốc tin rằng việc chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung 1950 cũng sẽ không dẫn đến chiến tranh. Kết quả là ngày 3/4/1979, Bắc Kinh thông báo ý định chấm dứt Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Xô-Trung năm 1950. Sau đó, mặc dù các cuộc đàm phán Xô-Trung được mở chính thức vào tháng 10/1979, việc Liên Xô đưa quân vào Afghanistan đã tạo cho Trung Quốc lý do để dừng lại các cuộc gặp trong tương lai, và do đó xóa đi bất cứ sự cần thiết nào cho việc đàm phán một hiệp ước ngoại giao mới giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Do các động cơ thực sự phía sau cuộc tấn công năm 1979 của Trung Quốc nhằm vào Việt Nam vẫn còn chưa rõ ràng, các học giả nghiên cứu về cuộc xung đột này đã đưa ra nhiều giả thuyết ấn tượng. Có lẽ giả thuyết thường thấy nhất là Trung Quốc muốn “trừng phạt” Việt Nam vì đưa quân vào Campuchia, nơi trước đó được coi là một quốc gia chư hầu của đế chế Trung Hoa. Các vấn đề khác trong quan hệ Việt-Trung, như tranh chấp lãnh thổ ở quần đảo Trường Sa hay việc di tản ồ ạt người Hoa khỏi Việt Nam, cũng được coi là đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, thuyết phục nhất là một số nhỏ học giả cho rằng quyết định của Việt Nam đi gần hơn với Liên Xô mới là lý do chính đằng sau cuộc tấn công của Trung Quốc.
Trong số các học giả có quan điểm cho rằng những hành động của Trung Quốc là để đối phó với hiệp ước phòng thủ Xô-Việt ngày 3/11/1979, có nhiều cách diễn giải xung quanh việc chính sách của Trung Quốc là thành công hay thất bại. Thí dụ, theo Gerald Segal, chính sách của Trung Quốc đã thất bại vì không đặt được hiệp ước phòng thủ Xô-Việt tới “thử thách cao nhất.” Robert Ross cũng kết luận rằng chính sách của Trung Quốc là một thất bại, mặc dù ông tích cực hơn Segal ở chỗ cho rằng cuộc chiến tranh Trung-Việt là lần đầu tiên kể từ năm 1949 Trung Quốc sử dụng vũ lực khi lãnh thổ không trực tiếp bị đe dọa, và do đó chứng tỏ Trung Quốc nay có khả năng “hành động như một cường quốc khu vực với những quyền lợi khu vực.” Cuối cùng, Banning Garrett và Nayan Chanda tích cực hơn, ít nhất cũng thừa nhận tuyên bố của Trung Quốc rằng cuộc chiến tranh hạn chế Trung-Việt là một thành công vì đã chứng tỏ rằng Liên Xô là một “con gấu giấy” bởi Mátxcơva đã từ chối thực hiện nghĩa vụ theo hiệp ước phải can thiệp vì Hà Nội.
Có lẽ quan điểm tích cực nhất về cuộc xung đột Trung-Việt là của Chang Pao-min. Theo Chang, nếu nhìn nhận cuộc xung đột từ quan điểm của Bắc Kinh thì hiệp ước phòng thủ Việt-Xô năm 1978 là một mối đe dọa rõ ràng đối với an ninh của Trung Quốc. Không chỉ Liên Xô hy vọng sử dụng hiệp ước này để thiết lập một “Hệ thống An ninh Tập thể Châu Á” nhằm vào Trung Quốc, mà quan hệ quân sự của Liên Xô với Việt Nam còn được coi là một nỗ lực nhằm “đe dọa và âm mưu bóp nghẹt Trung Quốc từ phía nam.” Dưới góc độ này, Việt Nam sau này được tả trong các tuyên bố của Trung Quốc là “con dao của Liên bang Xô Viết đặt sau lưng Trung Quốc.” Do đó, đúng như Chang nhận xét, cuộc xung đột Trung-Việt phải được coi là một phản ứng trước nỗ lực của Liên Xô nhằm sử dụng Việt Nam để “kiềm chế và bao vây Trung Quốc ở Đông Nam Á … [do đó tạo ra] một mối đe dọa nghiêm trọng ở sườn phía nam của Trung Quốc.”
Các lập luận đưa ra trong bài viết này có xu hướng ủng hộ quan điểm rằng cuộc chiến tranh Trung-Việt tháng 2/1979 là một thành công. Một khi Bắc Kinh tin rằng Mátxcơva sẽ không can thiệp vì Hà Nội, việc này sẽ khuyến khích Bắc Kinh dứt hẳn với Mátxcơva. Việc này thể hiện rõ nhất trong tuyên bố ngày 3/4/1979 của Bắc Kinh rằng họ muốn chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung năm 1950. Nêu ra bằng chứng cuối cùng rằng các chính sách của Trung Quốc ở Việt Nam có mối liên hệ chặt chẽ với Liên Xô, Amers đã nhận xét chính xác rằng quyết định năm 1988 của Trung Quốc không gắn quan hệ biên giới với Việt Nam với vấn đề Campuchia đã tương hợp gần như chính xác với các nỗ lực của Gorbachev nhằm bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và cải thiện quan hệ của Liên Xô với các quốc gia ASEAN. Do vậy, bằng việc phá vỡ vòng vây của Liên Xô và loại bỏ mối đe dọa của Mátxcơva về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận, Trung Quốc đã đạt được một chiến thắng chiến lược quan trọng trước Liên Xô.
|
|
|
Post by vietnam on May 22, 2009 18:52:24 GMT -5
Liên Xô phải chăng là “gấu giấy”?
Hầu hết các học giả phương Tây đều có một kết luận chung rằng cuộc tấn công Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc là một thất bại. Thí dụ, theo Gerald Segal, “cuộc chiến Trung-Việt năm 1979 là thất bại quan trọng nhất về chính sách đối ngoại của Trung Quốc kể từ năm 1949.” Ở một phạm vi rộng, Robert Ross đồng tình và cho rằng: “Thất bại trong chính sách của Trung Quốc cho thấy rõ vai trò không rõ ràng của cường quốc khu vực này trong chính trị quốc tế đương đại.” Gần đây nhất, Ellis Joffe, một chuyên gia về PLA tại đại học Hebrew University of Jerusalem, kết luận rằng: “Trung Quốc đã chuốc vạ bởi các biện pháp hạn chế chống Việt Nam năm 1979. Trung Quốc định dạy cho Việt Nam một bài học, nhưng Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học." ("Strait of Uncertainty Taiwan braves increased pressure from China," Far Eastern Economic Review, 8 February 1996, 20-21.)
Các đánh giá tiêu cực này của phương Tây ngược lại hoàn toàn với tuyên bố của Bắc Kinh rằng cuộc chiến chống Việt Nam năm 1979 là một thành công, do quyết định không can thiệp của Mátxcơva đã chứng tỏ rằng Liên Xô chỉ là một “con gấu giấy”. Bắc Kinh có lẽ sẵn sàng chứng tỏ tuyên bố này bằng hành động, khi họ không chỉ công bố việc chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung năm 1950 mà sau đó còn đặt ra cho Mátxcơva ba điều kiện để cải thiện quan hệ Xô-Trung. Ba điều kiện này bao gồm: 1) rút quân đội Liên Xô khỏi biên giới Xô-Trung và Mông Cổ; 2) rút quân đội Liên Xô khỏi Afghanistan; 3) chấm dứt sự ủng hộ của Liên Xô đối với việc Việt Nam chiếm đóng Campuchia. (Yao Wengin, "Soviet Military Deployments in the Asia-Pacific Region: Implications for China's Security," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 103.)
Do đó, bên cạnh việc thể hiện một tư thế cứng rắn hơn trong quan hệ với Liên Xô, các nước láng giềng ở phía nam cũng phải cư xử với Trung Quốc một cách tôn trọng hơn. Theo một báo cáo năm 1986, do Hà Nội đã thua trong ván bạc năm 1979 khi cho rằng Bắc Kinh sẽ không bao giờ tấn công, Việt Nam, “với kinh nghiệm của năm 1979, đã triển khai 700,000 quân ở phía bắc.” (Karl D. Jackson, "Indochina, 1982-1985: Peace Yields to War," in Richard H. Solomon and Masataka Kosaka, eds., The Soviet Far East Military Buildup (Dover, MA., Auburn House Publishing Company, 1986), 206.)
Vai trò có tính chất khẳng định hơn của Trung Quốc ở châu Á trong những năm 1980 cho thây Bắc Kinh thực sự tin rằng họ đã giành chiến thắng trong cuộc chiến Trung-Việt năm 1979. Vì thế, mặc dù Nayan Chanda và những người khác đã cnảh báo rằng những tuyên bố của Trung Quốc rằng Liên Xô chỉ là “con gấu giấy” có thể chỉ là luận điệu tuyên truyền, nhưng những hành động của chính Bắc Kinh cho thấy rằng họ tin chắc vào quan điểm này. Chính vì lý do này mà các cuộc tranh luận gần đây xung quanh thời điểm Chiến tranh Lạnh thực sự kết thúc có vẻ như liên quan trực tiếp tới tuyên bố của Trung Quốc năm 1979 rằng Liên Xô đã quá yếu và không thể tham chiến. Thực tế, theo quan điểm của Trung Quốc, việc Liên Xô không can thiệp để giúp Việt Nam năm 1979 là bằng chứng chứng tỏ Mátxcơva không còn ý định tham gia một cuộc chiến tranh lớn. Nói cách khác, thời kỳ nguy hiểm nhất của Chiến tranh Lạnh đã qua đi.
Cho tới nay, cuộc tranh luận thường thấy về việc liệu Chiến tranh Lạnh có kết thúc trên thực tế trước khi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 hay không đã diễn ra xung quanh những tuyên bố của tướng bốn sao về hưu của Liên Xô là Anatoly Gribkov, nguyên tham mưu trưởng của khối Hiệp ước Warsaw trong đầu những năm 1980. Gribkov lập luận dựa trên việc đến tháng 12/1981, Bộ Chính trị Liên Xô rõ ràng đã mất ý chí chính trị sử dụng vũ lực để duy trì đế chế mở rộng của họ trong vòng kiểm soát. Đánh giá này dựa trên việc Bộ Chính trị từ chối gửi quân tới Ba Lan để ngăn chặn một cuộc thay đổi dân chủ, một dấu hiệu của sự suy yếu mà Gribkov coi là bằng chứng cho thấy Liên Xô thực sự đã “thua” trong cuộc Chiến tranh Lạnh ngay từ năm 1981.("The Two Trillion Dollar Mistake," Worth, (February 1996), 78-83/128-129. )
Các biên bản được giải mật gần đây của một cuộc họp Bộ Chính trị Xô Viết ngày 10/12/1981 có xu hướng chứng tỏ cho các luận điểm của Gribkov, vì chúng cho thấy rằng lựa chọn gửi quân chống lại đảng “Đoàn kết” của Ba Lan đã bị Mátxcơva bác bỏ với sự đồng thuận rằng rủi ro là quá lớn. (Cold War International History Project Bulletin, Issue 5 (Spring 1995), 135-137) Ngoài ra, các biên bản này còn cho thấy Bộ Chính trị Liên Xô đã cân nhắc một cách nghiêm túc việc nhượng bộ ở Viễn Đông bằng việc ra lệnh rút quân khỏi Mông Cổ; nếu Mátxcơva thực hiện kế hoạch này trên thực tế thì coi như đã chấp nhận một trong ba điều kiện tiên quyết của Bắc Kinh cho việc cải thiện quan hệ Xô-Trung.
Các tài liệu này của Liên Xô, cũng như các tài liệu khác giống như thế, dường như chứng tỏ cho luận điểm của Gribkov rằng đến năm 1981, giới lãnh đạo Liên Xô đã mất khả năng sử dụng vũ lực nhằm củng cố lại đế chế Liên Xô đang lung lay. Cách suy luận này cũng có thể áp dụng cho cuộc xung đột Trung-Việt năm 1979, do việc Trung Quốc tấn công Việt Nam rõ ràng tạo ra một mối đe dọa thực tế đối với an ninh và ổn định cho không gian ảnh hưởng của Liên Xô ở Đông Nam Á. Chính việc Bộ Chính trị Liên Xô từ chối thực hiện các nghĩa vụ theo hiệp ước đối với Việt Nam và không can thiệp chống Trung Quốc cho thấy lập luận của Gribkov rằng Bộ Chính trị Liên Xô đã mất ý chí chính trị để củng cố đế chế của mình bằng vũ lực có thể được áp dụng tương đương - nếu không tốt hơn – cho kết quả của cuộc chiến Trung-Việt năm 1979.
Sự sụp đổ của Bức tường Berlin năm 1989 và sự sụp đổ bất ngờ của Liên Xô năm 1991 đòi hỏi phải có một đánh giá khác về tác động của mối quan hệ Xô-Trung đối với cuộc xung đột Trung-Việt tháng 2/1979. Một khía cạnh cần có trong đánh giá này là xem xét liệu tuyên bố năm 1979 của Trung Quốc rằng Liên Xô chỉ là “gấu giấy” là có căn cứ hơn hay không nếu xét việc Liên Xô tan rã sau đó. Mặc dù khẳng định của Gribkov rằng Chiến tranh Lạnh đã kết thúc từ năm 1981 có thể sớm hơn rất nhiều so với thời điểm mà hầu hết các học giả phương Tây có thể chấp nhận, nhưng vẫn còn muộn hơn mấy năm so với quan điểm của Trung Quốc. Do đó, khẳng định về thời điểm của Trung Quốc không những có vẻ hợp lý, mà đối với các học giả sau này thì năm 1979 một ngày nào đó sẽ chứng tỏ còn chính xác hơn năm 1981. Nếu như vậy, Bắc Kinh phải được đánh giá đúng vì đã xác định chính xác những dấu hiệu ở Viễn Đông về sự yếu kém trong nội bộ Mátxcơva từ hơn hai năm trước khi những dấu hiệu tương tự trở nên rõ ràng ở phương Tây. Điều này sẽ lại làm xuất hiện câu hỏi liệu “sự bắt đầu kết thúc” của Chiến tranh Lạnh có phải đã thực sự diễn ra vào năm 1979 hay không, do việc Mátxcơva đã không đương đầu với thách thức rắn mặt của Bắc Kinh đối với sự thống trị quân sự của Liên Xô ở Viễn Đông.
Kết luận
Các nghiên cứu trước đây về cuộc xung đột Trung-Việt ngày 17/2/1979 nhìn chung đều coi những hành động của Trung Quốc là một thất bại hoàn toàn. Ngược lại, bài viết này đã cố gắng đánh giá lại cuộc chiến Trung-Việt từ góc độ quan hệ Xô-Trung bằng việc liên hệ cuộc xung đột này với dấu mốc 29 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ 14/2/1950. Như một kết quả trực tiếp từ quyết định của Liên Xô không can thiệp giúp Việt Nam, Trung Quốc tin rằng Liên Xô không có đủ ý chí chính trị để dùng chiến tranh nhằm duy trì không gian ảnh hưởng của mình ở châu Á. Kết luận này đã khiến Bắc Kinh thông báo cho Mátxcơva ngày 3/4/1979 rằng Trung Quốc muốn chấm dứt Hiệp ước Xô-Trung năm 1950 khi hết thời hạn 30 năm vào năm 1980.
Từ 1950 đến 1979, Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ là nền móng cho quan hệ Xô-Trung. Mặc dù phần được phổ biến của hiệp ước này đã được công khai từ lâu, nhưng nội dung chính xác của các thỏa thuận bí mật đi cùng với hiệp ước này vẫn hầu như chưa được biết đến. Tuy nhiên, một điều khá rõ là các thỏa thuận bí mật này có liên quan đến các tranh chấp lãnh thổ Xô-Trung và trong những năm 1950, 1960, các cuộc tranh chấp biên giới thường xuyên giữa Liên Xô và Trung Quốc phản ánh mức độ căng thẳng mà các thỏa thuận bí mật này đưa đến. Mặc dù các xung đột biên giới Xô-Trung đều không được phép leo thang thành chiến tranh tổng lực, nhưng Bắc Kinh đã liên tục thử thách quyết tâm của Liên Xô xem có sẵn sàng sử dụng vũ lực để duy trì Hiệp ước Xô-Trung 1950 hay không. Do vậy, từ quan điểm của Bắc Kinh, Hiệp ước Xô-Trung 1950 là một công cụ chính cho Mátxcơva áp đặt “bá quyền” đối với Trung Quốc và phần còn lại của châu Á.
Ngược lại, Mátxcơva rõ ràng lo ngại điều gì có thể xảy ra khi Hiệp ước Xô-Trung kết thúc thời hạn 30 năm. Bắt đầu từ năm 1969, Liên Xô thường xuyên thúc giục Trung Quốc thay thế hiệp ước này bằng một thỏa ước mới. Để buộc Bắc Kinh phải xuống nước, Mátxcơva không những củng cố các đường biên giới Liên Xô-Trung Quốc và Mông Cổ-Trung Quốc, mà còn gây áp lực đối với Trung Quốc từ phía nam, bằng việc ký một hiệp ước liên minh với Việt Nam. Do vậy, việc cải thiện mối quan hệ Việt-Xô, đỉnh điểm là việc ký hiệp ước phòng thủ Việt-Xô ngày 3/11/1978, có thể được liên hệ trực tiếp tới mối quan hệ đang xấu đi giữa Trung Quốc với Liên Xô vào cuối những năm 1970. Tuy nhiên, thay vì xuống nước, Trung Quốc đã tấn công Việt Nam ngày 17/2/1979, chỉ ba ngày sau dấu mốc 29 năm ngày ký Hiệp ước Xô-Trung 1950. Khi Mátxcơva từ chối can thiệp giúp Hà Nội, Bắc Kinh quyết định rằng Bộ Chính trị Liên Xô sẽ không sử dụng chiến tranh để buộc Trung Quốc tiếp tục Hiệp ước Xô-Trung 1950 và củng cố quyết tâm để thông báo ngày 3/4/1979 ý định chấm dứt hiệp định này.
Một trong những mục tiêu chính của Bắc Kinh khi tấn công Việt Nam là để đảm bảo rằng Trung Quốc không bị bao vây cả ở phía bắc và phía nam bởi các lực lượng Liên Xô. Cuộc tấn công Việt Nam năm 1979 của Trung Quốc, với tất cả những khiếm khuyết rõ ràng của nó, đã thực sự đạt được mục tiêu chiến lược này do việc Liên Xô từ chối can thiệp giúp Việt Nam đã làm mất đi mối đe dọa về một cuộc chiến tranh trên hai mặt trận với Liên Xô và Việt Nam. Về mặt ngoại giao, Trung Quốc cũng giành được một chiến thắng rõ ràng trước các nỗ lực của Liên Xô muốn gây sức ép buộc Trung Quốc ký một hiệp ước mới thay thế hoặc củng cố Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Xô-Trung ngày 14/2/1950. Cuối cùng, nhìn lại, khẳng định của Trung Quốc rằng Liên Xô chỉ là “gấu giấy” có vẻ như khác chính xác, và do đó cho thấy có lẽ là dấu hiệu đầu tiên từ bên ngoài rằng đế chế Liên Xô đang bị đe dọa bởi sự sụp đổ từ bên trong, một sự sụp đổ phải mười năm sau mới diễn ra với sự kiện bức tường Berlin năm 1989 và sự tan rã của Liên Xô năm 1991.
|
|
|
Post by vietnam on May 29, 2009 9:16:47 GMT -5
Những suy niệm chính trị của Triệu Tử Dương: Trích dịch từ Người tù của nhà nuớc Trần Thiện Huy Chia sẻ với bạn bè♦ 0 bình luận ♦ 25.05.2009 LTS: Trong 16 năm bị quản thúc tại gia cho đến ngày ông mất vào tháng Giêng năm 2005 vì bệnh viêm phổi, Triệu Tử Dương đã dùng nhiều thì giờ suy nghiệm về khuynh huớng chính trị của ông cũng như những cải tổ mà ông đã thi hành hoặc dự định cho Trung Quốc trước biến cố Thiên An Môn. Những tư tưởng này đuợc ông bí mật thu âm vào 30 cuộn băng cassettes trong hai năm 1999-2000, đã được xuất bản với tên Người Tù của Nhà Nước (Prisoner of the State) (chủ biên Adi Ignatius cùng dịch giả Bao Pu và Renée Chiang). Người Tù của Nhà Nước được nhà xuất bản Simon & Schuster phát hành tại Hoa Kỳ ngày 19 tháng 5 vừa qua để đánh dấu ngày này 20 năm về trước ông Triệu đã xuất hiện ở Thiên An Môn với loa kêu gọi các sinh viên nên chấm dứt tuyệt thực và giải tán cuộc biểu tình vì ông đã phản đối nhưng biết rằng chính quyền đã quyết tâm dùng sức mạnh quân đội để đàn áp nếu sinh viên không tự giải tán. Ngày 19 tháng 5 năm 1989 vì thế là thời điểm chuyển hướng đời Triệu Tử Dương và cũng là lần cuối ông được quần chúng biết tới với cương vị Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Để biết thêm về ký ức Thiên An Môn từ quan điểm của những sinh viên đã tham dự, cùng dư luận quần chúng và phản ứng của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngay sau khi Triệu Tử Dương qua đời vào mùa Đông năm 2005, xin bạn đọc vui lòng bấm vào tựa Out of Mao’s Shadow (Thoát Khỏi Hình Bóng Mao) (tác giả Philip Pan, dịch giả Phương Quỳnh và Đinh Từ Bích Thúy, xuất hiện ở mục Trên Kệ Sách Da Màu tháng 8 năm 2008). Nếu muốn nghe những đoạn thu âm giọng nói tiếng Trung Hoa của Triệụ Tử Dương, hay đọc bản sao bằng tiếng Hoa hoặc đã chuyển ngữ sang tiếng Anh của những đoạn trích dịch dưới đây, xin vui lòng bấm vào bài, Excerpts from Zhao Ziyang’s ‘Prisoner of State’ (Những Đoạn Trích Từ Quyển ‘Người Tù của Nhà Nước) đăng trên tờ New York Times ngày 15 tháng 5 năm 2009. Hình bìa quyển Người Tù của Nhà Nước, với Dương Thượng Côn (trái), Triệu Tử Dương (giữa), và Đặng Tiểu Bình (phải) Phần 4, Chương 4: ‘Sửa Soạn cho một Diễn Biến Quan Trọng (tr. 205-206): Dù sao đi nữa, chúng ta cũng đã thực hiện nền chủ nghĩa xã hội hơn ba mươi năm nay. Với những người chủ trương tuân thủ những nguyên tắc xã hội chính thống, chúng ta giải thích việc này cho họ thế nào? Có thể giải nghĩa rằng chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập quá sớm, và chúng ta cần phải thu hẹp và tái khởi sự nền dân chủ. Một cách khác là Trung Quốc đã thiết lập chủ nghĩa xã hội mà không trải qua chủ nghĩa tư bản trước, nên cần phải tái du nhập một liều lượng chủ nghĩa tư bản. Cả hai cách lập luận ấy đều không phải là hoàn toàn vô lý, nhưng chúng có khả năng làm dấy lên những tranh cãi nghiêm trọng về lý luận, và dẫn đến hỗn loạn. Ngoài ra, những lập luận như thế này sẽ không bao giờ được chấp thuận về mặt chính trị. Trong trường hợp xấu nhất, chúng còn có thể làm cho cuộc cải cách bị bóp chết từ trứng nước. Trong thời gian chuẩn bị cho báo cáo trước Đại hội Đảng thứ 13, tôi đã bỏ rất nhiều thời gian suy nghĩ về vấn đề này. Cuối cùng tôi cho rằng khái niệm “giai đoạn sơ khởi của chủ nghĩa xã hội” là ý hướng tốt nhất, và không phải chỉ vì nó chấp nhận và diễn tả quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội suốt mấy thập kỷ qua của chúng ta dưới ánh sáng tích cực nhất; cùng lúc, nhờ cách định nghĩa hoàn cảnh của chúng ta là “giai đoạn sơ khởi”, chúng ta vượt ra khỏi những ràng buộc của các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa chính thống. Nhờ đó, chúng ta có thể đi ngược lại vị thế trước đây và tiến hành những chính sách cải tổ thích hợp hơn với Trung Quốc. Phần 3, Chuơng 4: “Tìm Kiếm Một Đường Lối Mới (tr. 112-113): Lý do tôi để tâm sâu xa đến chuyện cải tổ kinh tế và dành hết nỗ lực vào việc tìm cách thực hiện công cuộc cải tổ này là vì tôi đã quyết tâm phải xóa bỏ căn bệnh trầm kha của kinh tế Trung Quốc từ gốc rễ. Nếu không hiểu biết rõ về những khuyết điểm của hệ thống kinh tế này, tôi đã không tha thiết mạnh mẽ như vậy với chuyện cải tổ. Dĩ nhiên, cái nhìn ban đầu của tôi về phương cách xúc tiến cải tổ vẫn còn nông cạn và mơ hồ. Rất nhiều những đường hướng mà tôi đề đạt chỉ có tác dụng giảm nhẹ các triệu chứng; chúng không đả động gì được đến những vấn đề căn bản. Nhận định quan trọng nhất tôi có được về việc trừ bỏ những khuyết điểm của kinh tế Trung Quốc chính là toàn hệ thống phải chuyển hướng sang thành kinh tế thị trường, và vấn đề với tư hữu phải được giải quyết. Nhận định đó được đi đến qua kinh nghiệm thực tiễn, sau khi đã phải trải qua một chuỗi dài những bước tiến rồi lùi. Nhưng vấn đề căn bản thật ra là gì? Đầu tiên, tôi không nhìn thấy rõ lắm, chỉ cảm nhận đại khái là cần phải làm sao chấn chỉnh hiệu suất. Sau khi tới Bắc Kinh, nguyên tắc chủ đạo của tôi không phải là chuyên chú theo đuổi những số liệu sản xuất, hay tốc độ phát triển kinh tế, mà là tìm cách nào cho người dân Trung Quốc nhận được những thu hoạch cụ thể, rõ rệt từ lao động của họ. Đó chính là điểm khởi đầu của tôi. Chỉ số phát triển 2-3 phần trăm ở các nước tư bản phát triển thì đã được coi là tuyệt vời, nhưng trong khi kinh tế nước ta phát triển với chỉ số 10%, mức sống của người dân vẫn chưa tiến triển gì hơn. Còn về việc làm thế nào định nghĩa đường hướng mới này, tôi cũng không có một mô hình hay tư tưởng hệ thống nào định sẵn trong đầu. Tôi bắt đầu chỉ với ước nguyện muốn cải tiến hiệu suất kinh tế. Điều xác tín này vô cùng quan trọng. Điểm khởi đầu là từ hiệu suất cao hơn, và cho người dân được thấy những lợi ích thiết thực. Lấy đó làm mục tiêu, cuối cùng rồi một con đường thích hợp cũng phải tìm ra được, sau khi phải lần dò nhiều. Lần lần, chúng ta đã vạch ra con đường đúng. Phần 3, Chương 7: “Đi Mỗi Lần Mỗi Bước” (trang 236) Để tóm lược, có hai yếu tố: một là khu vực thị trường nằm ngoài hệ thống kế hoạch trung ương, và cái kia là khu vực kinh tế theo chỉ đạo kế hoạch. Khi chúng ta mở rộng khu vực kinh tế thị trường, chúng ta cắt giảm đi từ khu vực theo chỉ đạo. Khi cả hai khu vực cùng tồn tại, không thể tránh khỏi chuyện bên này lớn lên thì bên kia rút lại. Cùng với việc khu vực chỉ đạo thu nhỏ lại và yếu đi, khu vực thị trường khuếch trương và mạnh hơn lên. Vào thời điểm đó, những thành phần chính của khu vực thị trường gồm có nông nghiệp, sản phẩm thôn quê, công nghệ nhẹ, vải vóc, và các sản phẩm tiêu thụ. Những sản phẩm liên quan đến phương tiện sản xuất đa phần đều bị kiểm soát trong tay những cơ sở quốc doanh. Nếu những cơ sở kiểm soát phương tiện sản xuất không bị suy yếu đi hay thu giảm lại, nếu một phần không bị cắt ra để nuôi khu vực thị trường, phát triển kinh tế sẽ không thể cứ tiếp tục cho khu vực này. Nếu không có gì trong số phương tiện sản xuất được phép bán trực tiếp trên thị trường tự do; ví dụ, nếu những cơ sở nhỏ sản xuất than hay bêtông đều nằm dưới sự kiểm soát từ trung ương, khu vực thị trường đang phát triển sẽ gặp nhiều vấn đề khó khăn vì thiếu vật tư và nguyên liệu. Do đó, trong hơn mười năm trời, mặc dù không có thay đổi gì căn bản đến hệ thống kinh tế tập trung chỉ đạo và hệ thống cơ sở quốc doanh, những thay đổi ngày càng lớn trong quá trình chuyển biến từ kinh tế tập trung sang thị trường đã đem lại những tác động tích cực. Phần 6, chương 5 “Con Đường Đi Tới’ (trang 270) Dĩ nhiên, trong tương lai, một hệ thống chính trị cấp tiến hơn nền dân chủ đại nghị sẽ có thể xuất hiện. Nhưng đó là chuyện tương lai. Hiện tại bây giờ, không có hệ thống nào được như vậy cả. Dựa trên điều đó, ta có thể nói rằng nếu một quốc gia muốn hiện đại hóa, không những nó phải thiết lập một nền kinh tế thị trường, nó còn phải áp dụng nền dân chủ hiến pháp vào thành hệ thống chính trị của mình. Nếu không, quốc gia đó sẽ không thể có một nền kinh tế thị trường lành mạnh và hiện đại, mà cũng không thành được một xã hội hiện đại pháp trị. Thay vào đó, nó sẽ sa vào những tình cảnh đã xảy ra ở vô số những quốc gia đang phát triển, bao gồm Trung Quốc: nạn thương mại hoá quyền hành, tham nhũng lan tràn, một xã hội bị phân cực giữa giàu và nghèo. Phần 3, chương 3: Đau Lòng Mở Cửa Ra Thế Giới (trang 107) Nhìn lại, không phải là dễ dàng mà Trung Quốc thực hiện được công cuộc cải cách và mở cửa. Bất cứ khi nào có vấn đề về những liên hệ với người ngoại quốc, dân chúng đều e sợ, và có nhiều lời cáo buộc nhắm vào những người cải cách: dân chúng sợ bị bóc lột, chủ quyền bị chèn ép, hay quốc gia bị sỉ nhục. Tôi đã nêu ra điều khi nước ngoài đầu tư tiền vào Trung Quốc, thì họ mới sợ chính sách của Trung Quốc sẽ thay đổi. Nhưng chúng ta thì có gì để sợ?
|
|
|
Post by vietnam on Jun 3, 2009 16:55:50 GMT -5
Triệu Tử Dương: con tằm hóa bướm Đinh Từ Bích Thúy Chia sẻ với bạn bè♦ 3 bình luận ♦ 25.05.2009 Triệu Tử Dương tham khảo với Đặng Tiểu Bình trong một buổi họp ngày 21 tháng 10 năm 1987, vào dịp Đại Hội Đảng thứ 13 (ảnh Getty). Vào mùa thu năm 2006, trước khi quyển Triệu Tử Dương nhuyễn cấm trung đích đàm thoại (Những câu chuyện của Triệu Tử Dương khi bị giam lỏng) của Tôn Phượng Minh được xuất bản, các bạn của ông, như Lý Nhuệ và Bào Đồng, quan tâm về chuyện chính quyền Bắc Kinh đang ra lệnh cấm và kiểm duyệt các sách báo chống nhà nước, đồng thời vì ông Tôn lúc đó bị bệnh tim sắp phải đi mổ, khuyên ông nên hoãn lại chuyện xuất bản quyển sách này trong một thời gian. Ông Tôn không chịu. Sinh sau Triệu Tử Dương 3 tháng và là bạn thân của ông Triệu cùng xuất thân ở Hà Nam và cùng tham gia trong cuộc kháng chiến Nhật trong Đệ Nhị Thế Chiến, lúc đó ông Tôn đã 86 tuổi. Ông không sợ ai làm gì ông nữa. Quyển sách—thành quả của những cuộc mật thoại giữa ông với Triệu Tử Dương trong những lúc hai người tập khí công trước sân nhà ông Triệu (để tránh chuyện điệp viên nhà nước nghe lén), đuợc ông Tôn nhớ thuộc lòng và viết xuống giấy sau khi ông về nhà. Quyển sách trở thành một bản tuyên ngôn độc lập của Tôn Phượng Minh, và cũng là cách ông muốn ghi khắc vai trò lịch sử của người bạn cùng quê quán vì lúc đó ông không hề biết rằng ông Triệu cũng đã bí mật thu băng hồi ký của mình trước khi qua đời vào tháng Giêng năm 2005. Lúc đó, để đáp lại sự quan tâm của các bạn ông về an ninh và sức khỏe cá nhân ông, Tôn Phượng Minh gửi cho mọi nguời một bài thơ: Nhả Phắt Nó Ra (về sự quan tâm của các bạn đã dành cho tôi) Tôi là con tằm nhả tơ. Tôi chỉ phun, nhả, đón mừng sự thật, thúc đẩy quá trình của công lý và hy vọng mình nhả những sợi tơ tinh khiết. Tôi cũng là một con bướm đêm vừa được giải thoát ra khỏi cái kén, hồn gần với Phật, thư thái, trinh nguyên, vững vàng.[1] (Ông Tôn đi mổ tim vào tháng 3 năm 2007 và hiện đã bình phục. Năm nay ông 89 tuổi và vẫn tập luyện khí công hàng ngày.) Điều thú vị là bài thơ “Nhả Phắt Nó Ra” của Tôn Phượng Minh cũng có thể áp dụng cho Triệu Tử Dương, người đã công khai tuyên bố vào năm 1989, “Tôi từ chối [vai trò] Tổng Bí Thư huy động quân đội đàn áp các sinh viên.” Vào ngày 19 tháng 5, 2009, hai năm sau khi Những câu chuyện của Triệu Tử Dương khi bị giam lỏng của ông Tôn xuất hiện ở Hồng Kông (nxb Kai Fang (Khai Phóng), quyển hồi ký Người Tù của Nhà Nước (Prisoner of the State) của Triệu Tử Dương được nhà xuất bản Hoa Kỳ Simon & Schuster phổ biến để tưởng niệm 20 năm biến cố Thiên An Môn. Người Tù của Nhà Nước được dựa trên 30 băng cassettes mà ông Triệu đã thu tại gia vào năm 1999-2000. Những người trong gia đình của ông nói họ hoàn toàn không được biết về chuyện này. Mỗi cuốn băng dài độ 60 phút, là những cuộn băng cassettes rẻ tiền, lúc trước đã thu những tuồng hát bội Bắc Kinh hoặc những bài hát nhi đồng của các cháu ông. Triệu Tử Dương sắp xết thứ tự thời gian những cuộn tape này bằng cách dùng bút chì đánh dấu. Ông không viết xuống tựa đề hay bất cứ một ghi chú nào khác. Một vài băng cassettes ở đoạn đầu, lúc ông thảo luận việc ông bị Đảng kết tội là đâm sau lưng Hồ Diệu Bang (khi họ Hồ bị truất phế vào năm 1987), có vẻ như được thu với dự hiện diện của một vài người bạn trong phòng vì người ta có thể nghe đuợc dư âm của những giọng nói khác ngoài giọng của ông Triệu, nhưng đã được ông Triệu cắt xóa để bảo vệ lý lịch và chuyện an ninh cho những người này và gia đình của họ.[2] Vào khoảng năm 2002, hai năm sau khi Triệu Tử Dương đã hoàn thành công trình thu âm 30 cuộn băng, ông kiếm cách truyền cho các thân hữu của ông. Mỗi người chỉ giữ một vài cuộn băng, để tránh trường hợp băng bị mất hay thất lạc. Sau đó, người ta cũng đã kiếm thấy toàn bộ những cuộn băng—có lẽ đây là bộ chính–để lẫn lộn trong đám đồ chơi của các cháu ông trong nhà.[3] Người Tù của Nhà Nước phản ảnh gần hết những điều ông Triệu đã thu lại trên băng. Nội dung của quyển sách cũng không khác những gì ông Triệu đã thổ lộ và được ông Tôn Phượng Minh ghi lại trước đây trong quyển Những câu chuyện của Triệu Tử Dương khi bị giam lỏng, hay đã được đề cập trong quyển Tài Liệu Thiên An Môn (Tiananmen Papers—bộ sưu tập những tài liệu mật của chính quyền Công sản về Thiên An Môn—lấy từ computer disks của một nguồn nặc danh và xuất bản ngoài luồng kiểm duyệt năm 2001.) [4] Nhưng điểm đặc biệt nhất về Người Tù của Nhà Nước là giọng tường thuật thân mật, thẳng thắn—đã được chứng minh—là của ông Triệu Tử Dương. Triệu Tử Dương và Bào Đồng vào thập niên 1980. Bào Đồng giữ chức Giám Đốc Văn Phòng Cải Cách Chính Trị của Ủy Ban Trung Ương Đảng và cũng là Bí thư Kế hoạch dưới quyền ông Triệu. Ông giúp Triệu Tử Dương trong việc dùng băng cassettes thu âm hồi ký trong thời điểm 1999-2000. Nhờ Bào Đồng, những cuộn băng này được mang ra khỏi Trung Hoa và xuất bản ở Hoa Kỳ. Hiện ông Bào Đồng cũng bị quản thúc tại gia. Tuy ông Triệu không để lại những chi tiết hướng dẫn về cách các tài liệu thu âm của ông nên được xuất bản hay xử dụng ra sao, hoặc lúc nào chúng nên được xuất bản, ông rõ ràng mong muốn câu chuyện của ông được người đời biết đến. Đây là lời của ông ở đoạn mở đầu Phần I, bao gồm những dữ kiện đưa đến vụ thảm sát Thiên An Môn ngày 4 tháng 6 năm 1989: Tôi viết xuống những chi tiết về các biến chuyển chung quanh vụ 4 tháng 6 vì tôi lo rằng tôi sẽ quên đi nhiều sự kiện tỉ mỉ. Tôi hy vọng [những điều tôi ghi xuống] sẽ được dùng như một tài liệu lịch sử về sau. Trong bản in tiếng Anh được chuyển dịch từ những băng thu âm, Người Tù của Nhà Nước không theo sát thứ tự kể chuyện trong băng của ông Triệu, vì có nhiều đoạn đã được sắp xếp lại, hay biên tập để làm cho rõ nghĩa hơn. Ban biên tập và dịch thuật của quyển sách (bao gồm Bao Pu, con trai ông Bào Đồng (người trước đây làm phụ tá dưới quyền Triệu Tử Dương), vợ ông Bao Pu–dịch giả Renée Chiang– cùng với chủ biên Adi Ignatius), đã mở đầu quyển sách với những cuộc biểu tình của sinh viên và sự đàn áp của chính quyền ở Thiên An Môn, đến những năm ông Triệu bị quản thúc tại gia, rồi mới đi ngược thời gian dàn lại bối cảnh kinh tế và chính trị ở Trung Hoa vào những năm 1987, 1988 và 1989, cùng những quan niệm về vấn đề cải cách của Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương. Trong quá trình biên tập cũng có những đoạn đã được ban biên tập quyển sách cắt xén vì đã được ông Triệu lập lại nhiều lần. Ngoài ra, ban biên tập sách cũng mở đầu từng chương với lời giới thiệu và tóm tắt (in chữ nghiêng); cùng thêm vào những chú thích và những đoạn trong ngoặc đứng để giúp các độc giả không biết rõ về những sự kiện chung quanh biến cố Thiên An Môn được hiểu thêm về bối cảnh lịch sử lúc đó.[5] Cấu trúc chính trị của Đảng Công sản Trung Hoa, qua lời tường thuật của Triệu Tử Dương, là một cấu trúc nhiều mâu thuẫn và hỗn loạn. Đặng Tiểu Bình được phác họa vừa như một “bố già” nham hiểm, vừa như một con người thiếu tự tin và dễ bị lung lạc bởi các phe tranh thủ quyền lợi. Ông Triệu đề cập chuyện Đặng Tiểu Bình bị phật lòng vì lời tuyên bố của ông Triệu với Mikhail Gorbachev (trong cuộc viếng thăm Trung Quốc tháng 5 năm 1989). Theo ông Triệu, ý của ông, khi nói với Gorbachev rằng, “Về tất cả mọi vấn đề quan trọng, [người trong Đảng] chúng tôi vẫn cần đến sự quyết định của Đặng Tiểu Bình,” là muốn nhấn mạnh với thế giới bên ngoài là vẫn có sự đoàn kết trong nội bộ, và Đặng Tiểu Bình—người đế xướng nền kinh tế thị trường trong khuôn khổ xã hội chủ nghĩa—vẫn là một vị lãnh tụ, tuy không giữ chức vị chính thức, luôn luôn được người trong Đảng nể trọng. Nhưng lời nói của Triệu Tử Dương với Gorbachev đã bị hiểu lầm, và được dùng như bằng chứng kết tội ông về việc “trốn tránh trách nhiệm” là Tổng Bí Thư Đảng qua cách “đổ tội” cho Đặng Tiểu Bình. Ông Triệu, quá quen thuộc với những mánh lới giật dây trong bóng tối, đã chua chát nhận xét, “Cho đến lúc này, tôi vẫn chưa biết ai là người đã bôi xấu, hoặc đã dùng những thủ đoạn nào, để ông Đặng hiểu sai ý tôi.”[6] Quảng trường Thiên An Môn (qua lăng chụp 180 độ) nhìn từ cửa Thiên An Môn hướng về phía Nam. Trong lúc nội bộ Đảng có những rạn nứt, thì những lãnh tụ Đảng cũng có vẻ xa cách với đời sống của thường dân. Nếu người trong Đảng càng tinh tế trong cách dự đoán ý đồ của kẻ thù, thì họ lại càng có vẻ lơ mơ về những tin tức liên hệ đến dư luận thông tin bên ngoài. Ông Triệu, tuy tinh tường về mặt thông tin hơn các lãnh tụ khác trong Đảng, đã tưởng rằng “những bà già và trẻ con ngủ la liệt trên những đường phố” Bắc Kinh để ngăn chặn sự tiến hành của đám lính theo lệnh thiết quân luật. Người dân Bắc Kinh quả thực đã dùng nhiều sáng kiến chắn đường, nhưng không có bà già nào đã phải ngủ trên các đường phố. Tương tự, Triệu Tử Dương than vãn chuyện nhà vật lý thiên văn học Phuơng Lệ Chi đã gia tăng sự căng thẳng của bầu không khí chính trị vì ông Phương, “lúc đó tuy ở ngoại quốc, đã đích danh miệt thị cá nhân Đặng Tiểu Bình.” Nhưng thật ra lúc đó ông Phương Lệ Chi không ở ngoài nuớc; ông đang cư ngụ ờ vùng ngoại ô Bắc Kinh và đã quyết tâm duy trì sự im lặng. Bức hình nổi tiếng Tank Man (Người chống xe tăng) được phóng viên nhiếp ảnh Jeff Widener của Associated Press chụp ngày 5 tháng 6 năm 1989 từ tầng thứ 6 của khách sạn Bắc Kinh. Hình chụp người đàn ông đứng chắn một đoàn xe tăng của quân đội đang hướng về phía Đông gần quảng trường Thiên An Môn trên đại lộ Trường An. Độc giả của quyển Người Tù của Nhà Nước không rõ nếu ông Triệu thực sự nghĩ rằng những cuộc biểu tình chính ra bắt nguồn từ những ảnh hưởng Tây Phương và nạn lạm phát của năm 1988 chứ không phải do chuyện người dân đã nhờm tởm nạn tham nhũng, những đặc quyền và sự mất tác dụng của các quy chế xã hội chủ nghĩa mà Đảng Cộng Sản Trung Hoa đã áp đặt lên đất nước.[7] Ở Phần I, Chuơng 4 trong Người Tù của Nhà Nước, Triệu Tử Dương nhận xét về động cơ thúc đẩy nhóm sinh viên biểu tình ở Thiên An Môn trước vụ thảm sát ngày 6 tháng 4 năm 1989 như sau: Người ta bảo rằng diễn biến [Thiên An Môn] mang mục đích lật đổ chính quyền Trung Quốc và Đảng Công sản. Nhưng bằng chứng là ở đâu? Tôi đã nói lúc đó rằng phần đông nhân dân chỉ [biểu tình] yêu cầu chúng ta sửa đổi những lỗi lầm, chứ không phải họ chủ ý muốn lật đổ cơ cấu chính trị của chúng ta. Sau bao nhiêu năm, bằng chứng nào đã được thu thập qua những lần tra hỏi? ….Nhiều những nhà tranh đấu cho dân chủ hiện sống ở nước ngoài nói rằng trước thảm kịch mùng 4 tháng 6, người ta vẫn tin tuởng rằng Đảng Cộng Sản vẫn có cơ hội sửa đổi để trở nên tốt đẹp hơn, nhưng sau ngày mùng 4 tháng 6 thì họ thấy rằng Đảng Cộng Sản đã trở thành vô phương cứu chữa, và chỉ sau thời điểm [mùng 4 tháng 6] họ mới thực sự chống lại Đảng. Trong thời gian biểu tình [trước ngày mùng 4 tháng 6], nhóm sinh viên đề xướng nhiều khẩu hiệu và yêu sách, nhưng họ cố tình không nêu lên tệ trạng lạm phát, mặc dù tệ trạng này là chuyện có thể khai thác hữu hiệu và làm bùng nổ toàn diện cơ cấu xã hội hồi đó. Nếu đám sinh viên đã thật sự muốn chống lại Đảng Cộng sản lúc đó, tại sao họ đã không khai thác đề tài nhạy cảm này? Nếu họ đã có mục đích muốn huy động đám đông làm loạn, thì có lẽ họ đã đề cập chuyện lạm phát? Nhìn lại, tôi thấy rõ ràng là nhóm sinh viên không muốn nêu lên vấn đề lạm phát vì họ biết chuyện này liên quan đến chính sách cải cách, và nếu dùng đề tài lạm phát để cố tình khuyến khích chuyện nổi loạn, thì họ đã biết rằng điều này không nên, vì nó sẽ làm thiệt hại quá trình cải cách.[8] Vào mùa Xuân năm 1989, như chính ông Triệu thuật lại ở phần trên, ông đã cố thuyết phục các lãnh tụ trong đảng tham dự vào những cuộc đối thoại cởi mở với nhóm sinh viên. Ông luôn luôn tuyên bố rằng, “nhóm sinh viên không bao giờ chống lại những cơ cấu căn bản của chủ nghĩa Cộng Sản,” mà chỉ “mong muốn rằng chúng ta sửa đổi những khiếm khuyết.” Theo lời giáo sư Perrry Link, hiệu trưởng ngành Giáo Huấn Liên Khoa ở đại học California (Riverside), sự nhận xét của ông Triệu–nhằm bênh vực nhóm sinh viên–có lẽ đã đơn giản hóa vấn đề. Tuy nhóm sinh viên không tuyên bố thẳng thừng chuyện chống chính quyền –vì như vậy là một hành động hết sức nguy hiểm—nhưng nếu nói họ chỉ chú trọng “vào những khiếm khuyết” của Đảng thì e rằng đó là một cách nói cho nhẹ đi.[9] Khi có những điều mà nhóm sinh viên không thể nói thẳng, họ đã “lách” ý qua cách hát vang bài quốc ca Trung Cộng (sáng tác năm 1935, trước đây được biết đến với tên gọi “Cuộc hành quân của những người tình nguyện,” bài quốc ca gợi lại thời kỳ nhân dân Trung Quốc đoàn kết để kháng chiến quân Nhật): “Hãy đứng lên, hỡi đám người không muốn thành nô lệ …. Nỗi nguy cơ của nước non đang cận kề.” Táo bạo hơn là cách hát châm biếm những lời từ bài ca của thập niên 1950, “Không có Đảng thì không có một Trung Quốc Mới”—khi người hát cố tình lấp lửng ý sau câu “Trung Quốc Mới.” Dương Thiệu Minh, con trai của Dương Thượng Côn và là một người bạn của gia đình ông Triệu, đã chụp tấm hình này trong một buổi họp ở nhà Đặng Tiểu Bình vào mùa hè năm 1989, sau khi quân đội đã dùng sức mạnh trấn áp nhóm sinh viên biểu tình ở quảng trường Thiên An Môn. Đây là hình ảnh duy nhất ghi lại bối cảnh nơi Đặng Tiểu Bình đã ra quyết định đàn áp sinh viên. Cho dù Triệu Tử Dương đã cố ý hay vô tình làm nhẹ đi “ý đồ lật đổ chính quyền” của nhóm sinh viên trước thảm kịch Thiên An Môn, rõ ràng nước Trung Hoa mà ông phác họa trong Người Tù của Nhà Nước không phải là một triều đại xa xôi, mà là một Trung Hoa của ngày hôm nay—một quốc gia đã chấp nhận nền kinh tế thị trường nhưng vẫn tiếp tục đàn áp và bắt bớ bất cứ mọi ai lên tiếng cổ võ chuyện cải cách đường lối chính trị. Trái với điều mọi người vẫn nghĩ là chuyện ra lệnh cho quân đội đàn áp nhóm sinh viên trong mùa Xuân 1989 đã có phiếu bầu của Ủy Ban Thường vụ trong Bộ Chính trị, ông Triệu khẳng định rằng không có một phiếu bầu nào hết.[10] Đối với ông Triệu, đó là một điều hết sức quan trọng. Phiếu bầu, nếu đã có, mới có thể chứng minh chuyện Đảng—như một tập thể– chịu trách nhiệm cho quyết định đàn áp sinh viên. Không có phiếu bầu thì vẫn phải có người làm “vật tế thần” chịu tội. Triệu Tử Dương đã chống lại chính sách mà ông cho là vô trách nhiệm này khi tuyên bố, “Tôi từ chối [vai trò] Tổng Bí Thư huy động quân đội đàn áp các sinh viên.” Tương tự, trong lúc bị quản thúc tại gia, ông vẫn chống đối lại những cách Đảng Cộng sản đã hạn chế tự do của ông qua những lệnh “vô căn cứ” không bao giờ được viết xuống giấy tờ, như cấm ông không được ra khỏi nhà để đi chơi golf bằng cách ra lệnh cho tài xế, dù đã đến đợi ngoài cổng, không được mở máy xe đưa ông đi (ông dọa sẽ đi xe buýt công cộng), hoặc chỉ cho phép ông xuất hiện ở nơi nào “không đông người” nhưng cũng không được “quá ít người.” Nếu sự phản kháng của ông trong thời gian bị quản thúc mang tính chất bi hài kịch, dù sao đối với ông nó biểu tượng cho một niềm tin vào những nguyên tắc và luật lệ vượt lên trên những sự nhỏ mọn của nhóm người đã áp chế ông.[11] Mặc dù phần lớn những diễn viên chính trong câu chuyện của ông Triệu đã rời bỏ sân khấu, cơ cấu chính trị của Đảng Công sản Trung Quốc và những lề thói của nó vẫn không thay đổi. Cuối năm 2008, những nhà tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền ở Trung Hoa, nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày Tuyên Ngôn Hoàn Vũ Nhân Quyền, đã cùng ký vào Hiến chương 08, kêu gọi Đảng cải cách đường lối chính trị, khuyến khích quyền tự do phát biểu và sự thành lập một Bộ Tư Pháp độc lập. Bắc kinh phản ứng về chuyện này như bao nhiêu lần trong quá khứ: tra hỏi những người có chữ ký trong bản Hiến chương và bắt bớ những người khác, trong số đó có nhà văn đối lập Lưu Hiểu Ba.[12]
|
|
|
Post by vietnam on Jun 3, 2009 17:01:13 GMT -5
Người Tù của Nhà Nước không phải là một hồi ký ghi lại toàn diện cuộc đời của Triệu Tử Dương. Nó không chú trọng vào sự nghiệp lâu dài và nhiều thành quả của ông, mà chỉ nói về ba năm (1987, 1988, 1989) nhiều xáo trộn trước khi ông Triệu bị trục xuất ra khỏi guồng máy cầm quyền của Đảng Cộng sản. Thiết tưởng khi nhớ đến ông, chúng ta cũng nên nói sơ qua về sự nghiệp đặc sắc và nhiều thăng trầm của ông. Triệu Tử Dương vào năm 1948, trước thời kỳ Đảng Cộng sản Trung Hoa thắng cuộc nội chiến. Lúc đó ông đã là một viên chức huyện với nhiều thành tích trong việc cải cách ruộng đất. Ít lâu sau ông được cử đến Quảng Đông và trở thành Tổng bí thư ở vùng tỉnh lỵ miền duyên hải. Triệu Tử Dương, tên khai sinh là Triệu Tu Nghiệp, đổi thành Tử Dương khi ông còn học trung học Đệ Nhất cấp. Sinh ngày 17 tháng 10 năm 1919, ông là con trai một địa chủ giàu có tại Hoạt huyện, tỉnh Hà Nam, Trung phần Trung Hoa, ông gia nhập Liên đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1932 và hoạt động ngầm với tư cách một thành viên Đảng Cộng sản trong Chiến Tranh Trung-Nhật (1937-1945) và cuộc Nội chiến Trung Quốc sau đó. Cha ông đã bị các thành viên của đảng giết hại vào cuối thập niên 1940. Ông trở thành một nhân vật nổi bật của Đảng ở Quảng Đông từ năm 1951 với nhiều biện pháp cải cách nông nghiệp thành công. Năm 1962, Triệu Tử Dương bắt đầu giải tán hệ thống hợp tác xã nhằm khuyến khích sự tư hữu ruộng đất trong khi vẫn quy định các hợp đồng sản xuất cho từng hộ gia đình. Ông cũng chỉ đạo một cuộc thanh trừng cứng rắn các cán bộ bị buộc tội tham nhũng hay có quan hệ với Quốc Dân Đảng. Vào năm 1965, trong lúc mới 46 tuổi, Triệu Tử Dương đã là bí thư Đảng tỉnh Quảng Đông, dù chưa là thành viên của Ủy ban Trung Ương Đảng. Hai năm sau, vì là người ủng hộ những biện pháp cải cách của Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, ông bị cách chức bí thư đảng Quảng Đông trong cuộc Cách mạng Văn hoá, bị giải đi trên các đường phố Quảng Châu với chiếc mũ giấy trên đầu và bị gọi là “một tàn tích thối tha của tầng lớp địa chủ.”[13] Ông phải sống bốn năm làm thợ ráp máy tại một xưởng máy ở Hà Nam. Trong thời gian này, gia đình ông (với vợ ông, bốn người con trai và một người con gái) sống chen chúc trong một căn hộ nhỏ gần xưởng máy, với vỏn vẹn một chiếc va-li để ở giữa phòng khách làm bàn ăn.[14] Việc Triệu Tử Dương được trở lại với sinh hoạt chính trị sau bốn năm bị đày ải chứng tỏ rằng các lãnh tụ Bắc Kinh vẫn nhớ đến những thành quả nông nghiệp của ông trước thời điểm cuộc Cách Mạng Văn hóa. Theo lời kể lại của ông Triệu với các bạn bè, vào tháng 4 năm 1971, gia đình ông bị đánh thức dậy nửa đêm bởi một tiếng đập cửa thật lớn. Ông được lệnh phải đi ngay đến phi trường Trường Sa rồi từ đó đáp máy bay đến Bắc Kinh gặp các lãnh tụ Đảng. Đến nơi, trước khi gặp Chu Ân Lai để nhậm chức Phó Thủ Trưởng Đảng vùng Nội Mông, ông được ngủ qua đêm ở khách sạn Bắc Kinh. Ông nói rằng ông đã thức suốt đêm vì sau hơn bốn năm sống cực khổ, ông không còn quen với nệm giường quá dầy và êm.[15] Ít lâu sau ông Triệu mới biết rằng người có trách nhiệm khôi phục sự nghiệp của ông chính là Mao Trạch Đông. Một ngày bỗng chợt Mao Trạch Đông hỏi người cận vệ, “Chuyện gì đã xảy ra cho Triệu Tử Dương?” Khi được cho biết rằng ông Triệu đã bị thanh trừng và đầy ải đến một vùng quê làm dân lao động, Mao tỏ vẻ buồn bực vì những hậu quả cực đoan chính cuộc Cách mạng Văn hóa của ông đã gây ra, “Thanh trừng hết mọi người sao? Tôi đâu có muốn điều đó ….” Cũng nhờ lời nói của Mao, Triệu Tự Dương được trở lại diễn đàn chính trị.[16] Vào những năm sau đó, Triệu Tử Dương giữ nhiều chức vụ quan trọng ở Quảng Đông và Tứ Xuyên rồi được cử vào Ủy Ban Trung Ương Đảng. Ông cũng được phong làm đệ nhất bí thư Đảng vùng Tứ Xuyên—một tỉnh lớn nhất Trung Quốc–vào năm 1975. Về mặt kinh tế, Tứ Xuyên đã bị tàn phá sau chiến dịch Đại Nhẩy Vọt và Cách mạng Văn hóa nối tiếp. Triệu Tử Dương đề xướng những cải cách nông nghiệp cho Tứ Xuyên với nhiều thành công, dẫn tới tăng trưởng sản xuất công nghiệp tới 81% và sản lượng nông nghiệp 25% trong vòng ba năm. Đặng Tiểu Bình coi “Kinh nghiệm Tứ Xuyên” là mô hình cho công trình cải cách kinh tế Trung Quốc. Người địa phương vì thế thường tán tụng Triệu Tử Dương với câu yếu ngật lương, trảo Tử Dương (yao chi liang, zhao Ziyang). Cách chơi chữ theo tên ông, dịch thoát có nghĩa là “nếu bạn muốn kiếm sống, hãy theo Tử Dương.” Triệu Tử Dương được Đảng Cộng sản cử đi thăm viếng Âu Châu vào năm 1979. Trong chuyến đi này (mà ông Triệu thuật lại trong Người Tù của Nhà Nước), ông có dịp quan sát các nông trại ở Anh và Pháp được trồng trọt và sản xuất theo những yếu tố thích hợp với thiên nhiên và địa lý. Những vùng đất khô của Pháp trồng nho và những loại cây thích hợp với khí hậu khô. Vùng đất duyên hải nhiều mưa ở phía Tây nuớc Anh chỉ có thể nuôi bò sữa vì có nhiều cỏ tốt, nhưng không thể trồng lúa vì quá ít nắng so với miền duyên hải ở phía Đông nước Anh, nơi trồng nhiều lúa mì. Ông Triệu nhận xét rằng người nông dân của các nước Tây Phương không theo đường lối “cổ” của Trung Hoa là “thay đổi chiều hướng của đất trời” bằng cách ép môi trường thiên nhiên phải theo kế hoạch nông nghiệp của nhà nuớc mà trái lại, đã đi theo luật thiên nhiên để phát triển kinh tế.[17] Sự nhận xét thực tiễn của Triệu Tử Dương về “luật thiên nhiên” của người nông dân Âu Châu sau này cũng được ông áp dụng vào những suy nghĩ chính trị. Triệu Tử Dương vào đầu tháng 9 năm 1980, sau khi được chính thức phong chức Thủ Tướng. (Ảnh Keystone/Getty) Triệu Tử Dương được bầu làm thành viên chính thức của Bộ Chính Trị năm 1979 và Phó Thủ tướng Trung Hoa đầu năm 1980. Nhờ thế lực của Đặng Tiểu Bình, ông được thăng chức Thủ Tướng vào tháng 9 năm 1980 thay thế Hoa Quốc Phong, người đã bị họ Đặng loại trừ vì không chịu từ bỏ chính sách cũ của Mao. Trong thập niên 1980, Triệu Tử Dương đắc lực áp dụng “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” của Đặng Tiểu Bình—đây là khuynh hướng cổ võ chuyện thử nghiệm những mô hình xã hội và kinh tế đương đại tuy vẫn duy trì khuôn khổ Mác-xít, cũng được gọi là “chủ nghĩa [Mác-xít] xét lại.” Triệu Tử Dương song bước với Tổng Thống Reagan vào ngày 10 tháng Giêng năm 1984, vào dịp ông thăm viếng tòa Bạch Ốc. Vào tháng Giêng năm 1987, Đặng Tiểu Bình buộc nhà lãnh đạo phe cải cách Hồ Diệu Bang từ chức Tổng Bí thư Đảng. Triệu Tử Dương được lên thay thế họ Hồ, và ghế Thủ tướng về tay Lý Bằng. Trong khi Tổng bí thư Triệu Tử Dương nới lỏng sự kiểm soát của chính quyền trong lĩnh vực công nghiệp và tạo lập các vùng tự do kinh doanh ở các tỉnh ven biển, Thủ tướng Lý Bằng, một lãnh tụ bảo thủ, muốn áp dụng kế hoạch hóa trung ương và quản lý từ bên trên. Trong Đại hội Đảng năm 1987, Triệu Tử Dương tuyên bố Trung Quốc đang ở trong “một giai đoạn sơ khai của chủ nghĩa xã hội” có thể kéo dài đến 100 năm. Theo khuynh hướng này, ông tuyên bố rằng Trung Quốc cần thử nghiệm nhiều hệ thống kinh tế nhằm kích thích nỗ lực sản xuất. Triệu Tử Dương cũng đề nghị nên tách biệt vai trò của đảng và nhà nước, một đề nghị mà về sau trở nên chuyện cấm kỵ. Có thể nói, hai năm làm Tổng bí thư của Triệu Tử Dương là thời gian mở cửa nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại—nhiều hạn chế về tự do ngôn luận và tự do báo chí đã được nới lỏng, cho phép giới trí thức đề xướng các giải pháp cải thiện cho đất nước. Vào tháng 5 năm 1988, kế hoạch của Triệu Tử Dương chuyển thị trường với giá cố định thành thị trường với những giá di chuyển trở nên một đề tài sôi nổi. Nhóm bảo thủ phàn nàn rằng thử nghiệm kinh tế của ông Triệu đã gây ra nạn lạm phát siêu tốc trên toàn quốc và họ đòi hỏi chuyện trung ương hóa các biện pháp quản lý kinh tế và thông tin để ngăn chặn những ảnh hưởng tư bản từ phương Tây. Cuộc tranh luận chính trị kéo dài từ mùa đông năm 1988 tới mùa xuân 1989. Vắng bóng Hồ Diệu Bang—“người đã đứng mũi chịu sào” về những cải cách chính trị trong khi Triệu Tử Dương lo chuyện kinh tế–thế lực của Triệu Tử Dương bị thử thách trầm trọng trong thời điểm này. xxx Để hiểu rõ những biến loạn trong lịch sử hiện đại, nhóm trí thức Trung Hoa thường chơi trò suy đoán những phản dữ kiện. Hậu quả sẽ như thế nào nếu một biến cố lịch sử đã xảy ra cách khác? Bao thập niên qua người Trung Hoa đã chơi trò chơi “nếu Lỗ Tấn đã sống.” Nếu nhà văn Lỗ Tấn—người mà Mao Trạch Đông đã tôn dương là “nhà văn can đảm và chính trực nhất của Trung Hoa” không bị chết vì bệnh ho lao năm 1936 mà hưởng thọ qua năm 1949, thì chuyện gì sẽ xảy ra, liệu ông có thể sống còn dưới chế độ Mao? Người ta kết luận Lỗ Tấn chỉ có thể sống sót thêm 8 năm sau năm 1949, vì cuộc “Vận động chống cánh hữu” năm 1957 sẽ làm ông khốn đốn. Ngay cả Mao Trạch Đông cũng đã tham dự vào trò chơi phản dữ kiện. Vào tháng 7 năm 1957, trong một buổi nói chuyện với nhóm văn bút Thượng Hải, Mao đã nói như phớt tỉnh, “Lỗ Tấn ấy à? Hắn mà còn sống lúc này thì chỉ có viết văn trong tù hay câm như hến thôi.” Dĩ nhiên, sau lưng Mao, nguời ta cũng chơi trò “nếu Mao đã không sinh ra.” Tuy nhiên, không ai biết vận mệnh của Trung Hoa sẽ như thế nào trong hậu bán thế kỷ 20 nếu bố Mao Trạch Đông, ông Mao Di Xương, và mẹ, bà Văn Thất Muội—một người đàn bà mù chữ và thích tu Phật—đã không chung sống với nhau vào mùa xuân năm 1893—lúc Mao được thụ thai.[18] Vào tháng 8 năm 1991, khi Boris Yeltsin leo lên xe tăng ở Moscow chống lại nhóm Cộng sản cứng rắn muốn lật đổ Gorbachev và kéo được sự ủng hộ của toàn dân về phía ông để chống phe đảo chánh, có nhiều nhóm trí thức Trung Hoa cũng chất vấn tại sao Triệu Tử Dương đã không làm được như Yeltsin vào mùa xuân 1989. Hơn một triệu người đã ở trong quảng trường Thiên An Môn vào ngày 17 tháng 5 của 20 năm trước, và hầu hết mọi nguời đều cùng quan điểm như ông Triệu. Một phóng viên tờ New York Times đã nghe một viên quân cảnh reo hò, “Cao trào sinh viên thật tuyệt vời. Nếu chính quyền đàn áp sinh viên, tôi có theo lệnh trên không? Không, tôi sẽ chống cật lực.” Hàng ngàn đám đông biểu tình, ở cùng khắp các thành đô của những tỉnh lớn Trung Hoa đều biểu lộ tinh thần phản kháng này.[19] Nhưng có lẽ sự thực cũng không thể nào khác. Triệu Tử Dương có tính khí ôn hòa, cẩn trọng, khó có thể so sánh ông với Yeltsin. Cũng không thể nào tin rằng quân đội Trung Hoa, dưới sự lãnh đạo của Dương Thượng Côn –người chịu nhiều ân huệ chính trị của Đặng Tiểu Bình—lại có thể theo Triệu Tử Dương chống lại lệnh Đảng. Tuy vậy, không hiểu chúng ta có cứu vớt được điều gì giả thử nhóm sinh viên biểu tình đã nghe lời nhà báo Đái Tình và nhóm đại biểu ủng hộ cao trào dân chủ của bà vào ngày 14 tháng 5 kêu gọi họ tuyên bố chiến thắng (dù chỉ được một phần) và giải tán ngay sau đó? Nếu nhóm sinh viên đã giải tán cuộc biểu tình và quay về nhà, liệu cuộc khủng hoảng chính trị có êm dịu xuống, và Triệu Tử Dương sẽ không bị truất phế? Hay là, cho dù đám sinh viên vẫn khăng khăng hiện diện ở quảng trường Thiên An Môn, liệu ông Triệu có thể thương lượng với Đặng Tiểu Bình để duy trì thế lực chính trị của mình? Liệu ông có chuyển được chiều lăn của bánh xe lịch sử? Câu hỏi trên phải được “bóc ra” từng lớp, như cách ta bóc một củ hành. Để phỏng đoán những thành quả sau này của ông Triệu nếu ông đã không bị loại ra khỏi guồng máy chính quyền, người ta cần theo dõi những tiến triển trong khuynh hướng chính trị của ông trong 16 năm bị quản thúc tại gia. Trước năm 1987, khuynh hướng chính trị của ông Triệu không gây nhiều quan tâm. Tuy ông đề xướng những nỗ lực “tư bản” như chuyện khôi phục tư hữu nông nghiệp, thị trường tự do cho một vài sản phẩm nông nghiệp, và một phần tự quản cho các cơ sở kinh doanh kỹ nghệ, ông coi những cải tiến này được nằm trong khuôn khổ Mác-xít, và tuyên bố rằng “những giai đoạn đầu của Mác-xít” cần bao gồm yếu tố tư bản. Theo ông Triệu, lập luận của Marx khi đòi hỏi sự chấm dứt của mọi tầng lớp tư bản để bắt đầu xã hội chủ nghĩa đã không nhận ra điều thiết yếu của kinh doanh tư bản như một cách mở đường cho xã hội chủ nghĩa. Ông Triệu nghĩ rằng Stalin và Mao đã gây ra những lỗi lầm lớn khi tưởng rằng một thiên đường xã hội chủ nghĩa có thể nẩy nở trực tiếp từ một xã hội nông dân. Giai đoạn tư bản vì thế không thể bị bỏ qua. Do đó, ông Triệu suy luận, Trung Quốc cần phải đi ngược thời gian để “tạo nên tầng lớp [tư bản] này.” Nhưng nó sẽ là “chế độ tư bản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” và chỉ là một giai đoạn nhất thời. Trong đầu thập niên 1980, Triệu Tử Dương không có vấn đề gì với công thức, “tư bản và chính quyền Độc Đảng.” Tuy nhiên, trong khoảng từ 1987 cho đến năm 1989, ông Triệu bắt đầu thấy rằng công thức này đã nẩy sinh ra tệ trạng tham nhũng. Những cải cách kinh tế vẫn chưa đủ để chuyển hướng xã hội đến nền kinh tế thị trường tự do. Tuy những công ty và kỹ nghệ được dịp tranh đua trên thị trường, quyền lực vẫn được tập trung ở các cơ cấu chính quyền. Nhiều đặc tính từ thời kinh tế trung ương hóa vẫn chưa bị xóa bỏ trong thời kỳ cải cách. Nếu một vài công ty tham gia vào thị trường biết hối lộ hay nhận được những đặc ân từ các cục bộ nhà nước, những công ty này sẽ thu hoạch lợi lộc vượt xa các công ty cạnh tranh khác. Dần dà, Triệu Tử Dương hiểu rằng kế hoạch dân chủ hóa sẽ là giải pháp tốt nhất để chống tham nhũng vì đà tiến bộ của xã hội hiện đại không cho phép người dân trở về thời đại tranh đấu giai cấp “để hành quyết các phần tử xấu xa.” Trở về kế hoạch trung ương hóa cũng không còn hợp thời hay hợp lý trong lúc này, vì theo ông như vậy “cũng chẳng khác gì chuyện nhịn đói để khỏi bị nghẹn.”[20] Thay vào đó, một vấn nạn xã hội như chuyện tham nhũng có thể được dùng như xúc tác để huy động người dân trong việc thiết lập những cơ sở dân chủ. Đây là một nhận xét khá sâu sắc của ông Triệu. Nhân dân Trung Hoa trong thời điểm này đã phẫn nộ trước những hành động tham nhũng của viên chức cầm quyền, và nếu những cơ sở dựa trên quy luật và trách nhiệm như một tờ báo tự do, một guồng máy chấp hành sáng suốt, và thủ tục luật pháp được giới thiệu như những dụng cụ để bài trừ tham nhũng, thì sẽ nhận được ngay sự ủng hộ của quần chúng. Triệu Tử Dương sẽ tiến hóa như thế nào trong quan điểm của ông, nếu ông còn nắm quyền hành sau 1989? Nên nhớ rằng ông là một nhà lãnh đạo, tuy nhìn xa trông rộng, nhưng thực tiễn và thận trọng trong cách thi hành đường lối chính trị. Ông luôn luôn tin rằng, đối với Trung Quốc, những thay đổi phải đến từ từ, và đi từng giai đoạn. Ông dùng mô hình Hồng Kông để chứng minh rằng đó là một xã hội có nhân quyền mà không cần áp dụng nền dân chủ bỏ phiếu. Trung Hoa có thể bắt đầu tương tự: nới lỏng việc kiểm duyệt ngôn luận và báo chí, đồng thời khuyến khích những cơ cấu độc lập. Gia tăng quyền hành ở địa phương, giảm quyền ở trung ương. Đưa ra những giải pháp để độc lập hóa ngành tư pháp. Sau đó thúc đẩy đường lối dân chủ, với những quy luật rõ ràng, trong những sinh hoạt nội bộ của Đảng Cộng sản. Sau cùng mới là bước tiến đến dân chủ với những cuộc bầu cử toàn quốc. Triệu Tử Dương tin rằng quá trình chuyển qua thể chế dân chủ vẫn có thể xảy ra dưới một lãnh tụ độc tài vì ông đã nhìn thấy nó xảy ra tại Đài Loan. Ông Triệu rất ái mộ Tưởng Kinh Quốc (con trai của Tưởng Giới Thạch): Tưởng Kinh Quốc là một người kỳ diệu: nguời ta cần học hỏi nhiều điều từ ông. Ông theo đà tiến triển của thế giới và tự mình thúc đẩy những cải cách dân chủ. Ông được huấn luyện theo chính sách độc đảng của Quốc Dân Đảng, và trong nhiều năm sống ở Nga theo truyền thống Cộng Sản của Liên-Xô. Chuyện ông biết từ bỏ những cách suy nghĩ cổ lỗ quả là điều đáng khâm phục. Bị quản thúc tại gia vào mùa hè năm 1993, Triệu Tử Dương nghĩ ra cách chơi golf–môn thể thao mà ông rất thích–bằng cách đánh trái banh golf vào lưới căng ở góc sân trước nhà. Triệu Tử Dương bị các viên chức Cộng sản làm khó dễ khi ông tỏ ý muốn đến chơi golf ở những sân golf công cộng. Trong thời gian bị quản thúc tại gia trong thập niên 1990, Triệu Tử Dương đã có nhiều thì giờ để suy ngẫm. Không còn định nghĩa mọi sự việc qua lăng kính “giai đoạn lịch sử” Mác-xít, ông bắt đầu khai phá những yếu tố khác để đo lường đà tiến hóa của một xã hội, như tiêu chuẩn sinh sống, tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục, sự cách biệt giữa tầng lớp lao động chuyên môn và không chuyên môn, giữa nếp sống nông thôn và thành thị. Từ năm 1992, ông đã lo lắng nhiều về môi trường thiên nhiên của Trung Hoa—nếu sự phát triển kinh tế không được thi hành đúng nguyên tắc, môi truờng thiên nhiên sẽ bị tàn phá.[21] Triệu Tử Dương tại gia ngày 7 tháng 2 năm 1992. Mọi người trong nhà phải đợi cơm trong lúc ông Triệu đánh cờ tướng với vợ. Dù sao, Người Tù của Nhà Nước (và Những câu chuyện của Triệu Tử Dương khi bị giam lỏng) cũng chỉ là những sơ đồ. Chúng ta vẫn chơi trò suy đoán qua phản dữ kiện. Khó có thể quả quyết rằng Triệu Tử Dương có thể chuyển Đảng Cộng sản sang nền dân chủ có bầu cử nếu ông còn giữ chức Tổng Bí thư sau mùa Xuân 1989. Người ta đã thấy rằng các lãnh tụ Cộng sản, qua những hồi ký viết sau khi về hưu, thường tỏ ra dung hòa hay phóng khoáng trong khuynh hướng chính trị hơn là trong lúc họ còn làm việc tại nội bộ chính quyền. Thời gian bị quản thúc có lẽ cũng tạo cơ hội để ông Triệu không còn bị chi phối bởi những vấn đề thực tiễn, cho nên ta không nên suy rằng điều ông suy nghĩ tại gia cũng sẽ là điều ông sẽ thi hành như một vị lãnh đạo Cộng sản. Hơn nữa, cũng khó có thể nói ông sẽ vẫn giữ vững quyền thế sau mùa Xuân 1989. Theo giáo sư Perry Link, những đối thoại của Triệu Tử Dương với Tôn Phượng Minh trong Những câu chuyện của Triệu Tử Dương khi bị giam lỏng cho ta thấy trong suốt thập niên 1980 ông và Hồ Diệu Bang là hai nhân vật “ngoài sân khấu” của Đặng Tiểu Bình. Quyền lực thật ra nằm trong tay “hai ông già” là Đặng Tiểu Bình và Trần Vân, mỗi người giữ một phe phái chính trị, nhưng với phần đông thiên về ông Đặng. Ủy ban Thường vụ của Đảng Chính trị không được họ Đặng coi ra gì. Đặng Tiểu Bình ví nó như “cái xe thổ mộ kéo bởi nhiều đầu ngựa” và nghĩ những buổi họp nội các chỉ là chuyện phí thì giờ. Đặng Tiểu Bình cũng có lần gửi một lá thư cho Trần Vân, cảnh cáo họ Trần rằng “Đảng chỉ có một bà nội.” Triệu Tử Dương chỉ có thể tồn tại trong môi trường này nếu ông chịu hèn hay phải hết sức cẩn thận. Ông đã tâm sự với Tôn Phượng Minh: “Là Tổng bí thư, tôi có thay thế giám đốc Bộ Tổ Chức hay Bộ Thông Tin được không? Tôi khó làm chuyện này nếu có ai ủng hộ những người này trong bóng tối.” Để hiểu rõ tình cảnh của Triệu Tử Dương, ta phải hỏi tại sao Đặng Tiểu Bình phải cần đến “những nhân vật ngoài sân khấu”? Tại sao họ Đặng không hiển nhiên độc diễn vì như vậy có lẽ dễ thở hơn cho các thành viên khác trong Đảng? Theo giáo sư Perry Link, quyền lực chính trị trong Đảng Cộng sản Trung Hoa tùy thuộc vào những ân huệ phân phát từ xếp trên, thay vì những ý kiến đưa lên từ người dưới, nhưng có một ngoại lệ đặc biệt ở thượng tầng khi một lãnh đạo không còn có ai ở trên họ. Vì vậy, ý kiến của đám người ở chức vị duới thượng tầng một bực sẽ gây ảnh hưởng mạnh. Nếu lãnh tụ tượng tầng làm lỗi, sẽ có cớ để những đối thủ đứng ngay phía dưới trục xuất họ. Ngay cả Mao Trạch Đông cũng bị ảnh hưởng bởi động lực này. Khi chiến dịch Đại Nhẩy Vọt vào thập niên 1950 của Mao gây ra nạn đói giết hại hàng triệu người, những “lỗi lầm” của Mao làm thế lực chính trị của ông bị bấp bênh. Chuyện Mao đề xướng Cách Mạng Văn Hóa những năm sau đó được coi là cách ông trả thù những kẻ đã lên tiếng buộc tội ông về thảm họa Đại Nhẩy Vọt. Đặng Tiểu Bình nắm quyền hành vào cuối thập niên 1970 với một nhận thức sâu xa về vai trò của những lỗi lầm chính trị. Họ Đặng lúc đó đang mở một con đường hoàn toàn mới cho nền kinh tế Trung Hoa và ông biết rằng chuyện ông làm có thể mang đến nhiều hiểm họa chính trị. Nếu không thành công ông sẽ bị mất hết quyền hành. Qua cách phô diễn “những nhân vật ngoài sân khấu” như Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, họ Đặng vừa có hai ủy viên đắc lực cho kế hoạch cải cách của ông vừa được hai mạng người giơ đầu chịu báng trong trường hợp kế hoạch của ông bị thất bại. Dĩ nhiên, kẻ được ông thăng lên chức vị “ngoài sân khấu” lúc nào cũng phải nhớ rằng họ Đặng là người giật dây, và trong năm 1986 Hồ Diệu Bang có lẽ đã quên điều này. Vào năm đó khi họ Đặng đề nghị với Hồ Diệu Bang ông sẽ từ chức Quân Ủy Hội, có lẽ ông nghĩ rằng Hồ Diệu Bang sẽ khuyên ông đừng từ chức, nhưng họ Hồ đã “sơ ý” chấp thuận lời đề nghị này. Đặng Tiểu Bình từ lúc đó coi Hồ Diệu Bang như kẻ lấn quyền và 9 tháng sau, vào năm 1987, họ Hồ đã bị truất phế vì mắc tội “tự do hóa theo kiểu tư sản.”[22] Hai năm sau, Triệu Tử Dương bắt đầu cảm thấy bó buộc bởi vai trò “ngoài sân khấu” của ông. Cũng theo giáo sư Perry Link, vào tháng 5 năm 1988, Đặng Tiểu Bình, không phải Triệu Tử Dương, là người đã quyết định rằng nền kinh tế giá cả cố định của Trung Hoa cần được hủy bỏ trong một thời gian thử nghiệm. Thay vì tham khảo trước với Triệu Tử Dương, họ Đặng bắt đầu tuyên bố cho các viên chức ngoại giao rằng Trung Hoa đang trong thời kỳ cải tiến giá cả, và ông Triệu không còn lựa chọn nào khác ngoài việc thi hành lời tuyên bố của Đặng Tiểu Bình. Vào mùa hè 1988, khi chuyện lạm phát siêu tốc gây khủng hoảng kinh tế và xã hội, và ai ai cũng thấy rằng chuyện thay đổi giá cả thị trường là chuyện “sai lầm,” Triệu Tử Dương, trên cương vị là Tổng Bí thư Đảng, phải hứng chịu trách nhiệm. Vào tháng 9 năm 1988, đại diện Trung Ương Đảng, ông Triệu xuất bản một lá thơ xin lỗi. Người ngoài tưởng rằng ông Triệu là tác giả của kế hoạch “chết yểu” này, và họ bắt đầu mất niềm tin ở ông. Những người thân cận với ông nghĩ rằng thế lực của ông Triệu đã suy yếu trầm trọng vào đầu năm 1989, và có lẽ ông cũng không thể tồn tại cho dù không có một cuộc biểu tình nào ở Thiên An Môn. Hơn nữa, nếu Triệu Tử Dương muốn giữ chức sau năm 1989, những thương lượng “nhỏ” với Đặng Tiểu Bình và nhóm bảo thủ chưa chắc đã đủ. Ông sẽ phải hoàn toàn theo đường lối của họ Đặng, bao gồm quyết định dùng sức mạnh quân đội để đàn áp nhóm sinh viên biểu tình. Như ta đã thấy, đến lúc này ông Triệu đã cực lực từ chối chuyện “giơ đầu giữ báng.” Ông nhất định không muốn đi vào lịch sử trong vai “Tổng Bí thư huy động quân đội đàn áp nhóm sinh viên.” Theo giáo sư Perry Link, những nghi vấn về quyền tối cao của Đặng Tiểu Bình đã bị xua tan vào năm 1992, khi họ Đặng truất phế Dương Thuợng Côn về tội “muốn lấn quyền Giang Trạch Dân làm lãnh tụ Đảng.” Khi đã loại trừ Dương Thượng Côn, quyền lực Đảng trong lúc này được chia ra thành ban phần, giữa Tổng bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, và Chủ tịch Quốc Hội Nhân Dân Kiều Thạch. Vì ba người này không tin hay ưa gì nhau, Đặng Tiểu Bình, ở vị trí thượng đỉnh, vẫn có thể lèo lái họ.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 3, 2009 17:02:30 GMT -5
Triệu Tử Dương, qua những tài liệu, không phải là người nham hiểm về mặt chính trị. Nếu ông không bị loại trừ, ông cũng khó có thể thi hành những cải cách chính trị để đi song song với sự nới lỏng về mặt kinh tế khi các phe nhóm trong Đảng vẫn chưa muốn từ bỏ chế độ toàn quyền. Tuy vậy, thành tích của ông trong ba năm làm Tổng bí thư Đảng vẫn được công nhận là xuất sắc. Điểm đáng khâm phục nhất là ông đã làm được nhiều việc trong vị trí tương đối độc lập và được sự ủng hộ/dấn thân toàn diện của những viên chức cùng ý chí cải cách như ông (như Bào Đồng là người cho đến hôm nay vẫn bị quản thúc tại gia.) Ông Triệu không hề nao núng trong chuyện đi thuyết phục, hay nếu cần, giao chiến với Lý Bằng và chính khách cao niên Diệu Y Lâm khi chính sách kinh tế của ông bị họ thách thức. Ông cũng đi tham quan nhiều nơi để tiếp xúc và tranh cãi với các viên chức Cộng sản ở giai tầng tỉnh, quận–nhóm người mà ngay từ trước cuộc Cách Mạng Văn Hóa chưa bao giờ dám dấn thân với những tư tưởng mới. Trong suốt sự nghiệp chính trị của ông, ông vừa là một nhà lãnh đạo thực tiễn, vừa là một nhà trí thức theo đúng nghĩa “trí thức”: ông không ngừng suy xét, chất vấn, thảo luận và tranh cãi về những bước tiến sắp đến của quốc gia. Đặng Tiểu Bình đã biết chọn đúng người. Triệu Tử Dương chính là kiến trúc sư của kế hoạch cải cách.[23] Nói cho cùng, trò chơi suy đoán về một quá khứ phản dữ kiện cũng bấp bênh như chuyện tiên đoán tương lai. Tuy ta khó hình dung chuyện Triệu Tử Dương leo lên xe tăng tuyên dương nền Cộng Hòa Dân Chủ cho Trung Hoa trong mùa Xuân gần như xa xưa ấy, không có gì huyễn hoặc hay siêu thực về tính chất phổ quát của cuộc nổi dậy ở Thiên An Môn, sự sợ hãi của chính quyền Cộng sản về tiềm năng của nó, hay hình ảnh Triệu Tử Dương đã vĩnh viễn đi liền với cao trào tranh đấu đó. Chính Đặng Tiểu Bình, vào năm 1992, đã công nhận, Các đế quốc đang thúc đẩy ‘diễn biến hòa bình’ hướng về chủ nghĩa tư bản ớ Trung quốc, hiện đặt nhiều hy vọng vào những thế hệ sẽ tiếp sau chúng ta. Đồng chí Giang Trạch Dân và đồng sự có thể coi là thế hệ thứ ba và sau đó là thế hệ thứ bốn, năm. Các thế lực đối lập nhận thức rằng chừng nào thế hệ cao niên của chúng ta còn sinh tồn và vẫn có ảnh hưởng mạnh thì không có gì thay đổi. Nhưng một khi chúng ta chết đi, ai có thể bảo đảm rằng sẽ không có một ‘diễn biến hòa bình’ [đến chủ nghĩa tư bản]? [24] Gần đây hơn, sự ra đời của Hiến Chương 08 được coi là một thành tích đáng kể của nhân dân Trung Quốc. Theo giáo sư Perry Link, người đã dịch Hiến chương 08 sang tiếng Anh, hơn 2000 công dân ký tên vào bản Hiến chương 08 bao gồm những viên chức trong chính quyền lẫn người dân, không chỉ các nhà đối lập nổi tiếng và giới trí thức mà còn cả các cán bộ trung cấp và nhóm lãnh đạo ở nông thôn. Họ chọn ngày 10 tháng 12–dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày công bố bản Tuyên Ngôn Hoàn Vũ Nhân quyền–là ngày để họ bày tỏ các ý kiến chính trị và phác thảo viễn kiến của họ về một nước Trung Hoa dân chủ và hợp hiến. Những người ký tên mong muốn rằng Hiến chương 08 sẽ được dùng như một bản thiết kế cho những thay đổi chính trị cơ bản ở Trung Quốc trong nhiều năm sắp đến.[25] Giáo sư Vương Di của Đại học Thành Đô ở Tứ Xuyên cho biết sự phổ biến của Hiến Chương 08 đã tạo ra một áp lực lớn mà chính phủ Trung Quốc không thể né tránh. Ông Vương phát biểu: Chúng tôi công bố hiến chương này vì đảng Cộng Sản Trung Quốc không nói rõ là kế hoạch cải cách của họ sẽ đưa đất nước đi tới đâu. Lâu nay trong dân chúng đã có nhiều người nói tới vấn đề cải cách dân chủ, nhưng chưa có một sự trình bày hoàn chỉnh. Giờ đây, sau khi Hiến chương 08 ra đời, mọi người đã có được một khái niệm rất rõ ràng về con đường cho tương lai của Trung Quốc. Đây là một cuộc vận động trong dân chúng và hiến chương này mang lại sự đồng thuận và là chất keo nối kết mọi người với nhau.[26] xxx Ông Triệu trong phòng làm việc tại gia, nơi ông đã thu âm hồi ký của mình mà không ai trong nhà biết. Một bộ tape đã được khám phá sau khi ông mất, “dấu” hiển nhiên trong đám đồ chơi của các cháu ông. Trong lúc bị quản thúc tại gia, dưới sự rình rập không ngơi nghỉ của đám canh tù, Triệu Tử Dương, với sự trợ giúp và sáng kiến của Bào Đồng, đã thành công trong nỗ lực bảo tồn di sản chính trị của ông bằng chuyện thu âm 30 cuộn băng để đời. Tuy Đảng Cộng sản cố bôi xóa những thành tích của ông ra khỏi ký ức quần chúng, Triệu Tử Dương có lẽ đã hiểu rằng–qua quá trình cải cách mà ông đề xuất từ hơn 20 năm trước như những chặng mở đường cho các thế hệ sau–tương lai, không phải là quá khứ hay hiện tại, sẽ xét xử sự nghiệp của ông. Nhờ quyển Người Tù của Nhà Nước, bao gồm những đoạn trích từ sách cũng như những đoạn thu âm chuyển qua mạng thông tin internet, cùng với những tài liệu đã được xuất bản về bi kịch Thiên An Môn từ trước, tiếng nói của Triệu Tử Dương đã, đang và sẽ vượt biên giới địa lý, ngôn ngữ, vận mệnh. Từ cõi chết, ông Triệu chứng minh rằng nguyện ước hướng đến dân chủ và tự do là một nguyện ước nhân bản, hoàn cầu và vĩnh cửu. -------------------------------------------------------------------------------- [1] Theo Perry Link, He Would Have Changed China (Giá Như Ông Đã Thay Đổi Trung Quốc) (điểm sách Triệu Tử Dương nhuyễn cấm trung đích đàm thoại), New York Review of Books, Vol. 55 (April 3, 2008). Nguyên văn tiếng Anh: I’m a silkworm , I just expectorate Cheer for the truth, nudge justice along, And hope to leave some pure strands behind. But I’m a free moth, too. Broken out of the cocoon, like a Buddha-spirit Floating aloft, untouched, untouchable. [2] Adi Ignatius, Preface (Lời Tựa) cho quyển Prisoner of the State (Người Tù của Nhà Nước. (nxb Simon & Schuster: 2009), tr. x. [3] Như trên, tr. xi. [4] Perry Link, From the Inside, Out: Zhao Ziyang Continues his Fight Post-Mortem (Từ Trong ra Ngoài: Triệu Tử Dương Tiếp Tục Cuộc Tranh Đấu Sau Cái Chết), www.washingtonpost.com/wp-dyn/content/article/2009/05/13/AR2009051302392.html (Sunday, May 17, 2009). [5] Adi Ignatius, Lời Tựa, tr. xi. [6] Như trên, tr. xii. [7] Perry Link, From the Inside, Out. (xem chú thích 7). [8] Triệu Tử Dương, Prisoner of the State (Người Tù của Nhà Nước), Phần I, Chương 4 (The Tiananmen Massacre: The Crackdown), tr. 34. (Đinh Từ Bích Thúy trích dịch). [9] Perry Link, From the Inside: Out. [10] Adi Ignatius, Lời Tựa, tr. xii [11] Triệu Tử Dương, Người Tù của Nhà Nuớc, Phần II, chương 1 (House Arrest: Zhao Becomes a Prisoner), tr. 60-62. [12] Adi Ignatius, Lời Tựa, tr. xii. [13] Tóm lược Tiểu sử Triệu Tử Dương, vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BB%87u_T%E1%BB%AD_D%C6%B0%C6%A1ng[14] Adi Ignatius, Lời Tựa, xii. [15] Như trên. [16] Như trên. [17] Triệu Tử Dương, Người Tù của Nhà Nuớc, Phần III, chương 9 (The Roots of China’s Economic Boom: The Magic of Free Trade), tr. 133-137. [18] Perry Link, Giá Như Ông Đã Thay Đổi Trung Quốc. [19] Như trên. [20] Triệu Tử Dương, Người Tù của Nhà Nuớc, Phần III, chương 12 (The Roots of China’s Economic Boom: Coping with Corruption), tr. 156-157. [21] Perry Link, Giá Như Ông Đã Thay Đổi Trung Quốc. [22] Như trên. [23] Roderick MacFarquhar, Foreword (Lời Nói Đầu) cho quyển Người Tù của Nhà Nước, tr. xx-xxi. [24] (Đặng Tiểu Bình ám chỉ chính sách ‘diễn biến hòa bình’ (peaceful evolution) của Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ John Foster Dulles, người đã tuyên bố vào năm 1953 rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm lật đổ những chế độ Cộng sản, trong đó có Trung Quốc, nhưng kế hoạch lật đổ không cần phải đưa đến chiến tranh, mà có thể qua chính sách “diễn biến hòa bình” bằng những chiến dịch tự do hóa và bất bạo động bắt nguồn từ trong nước. Ông Dulles cũng tiên đoán rằng đến thế hệ thứ tư hay thứ năm của xã hội chủ nghĩa, những lãnh tụ Cộng sản sẽ thay đổi khuynh hướng và trở nên ôn hòa, cởi mở hơn). Xem Frank Ching, China Will Achieve ‘Peaceful Evolution’ on its own Terms, archives.starbulletin.com/2002/01/06/editorial/gathering.html. [25] Perry Link (dịch giả), Lời Giới Thiệu cho bản Hiến Chuơng 08 (Linh Bát Hiến Chương), www.nybooks.com/articles/22210 . (Bản tiếng Việt của lời giới thiệu, và Lời Tựa của Adi Ignatius cho quyển Người Tù của Nhà Nước đều cho biết chỉ có hơn 300 người ký vào Hiến Chương 08, nhưng bản tiếng Anh của Lời Giới Thiệu, www.nybooks.com/articles/22210, nói rằng có hơn 2000 người đã ký tên. Bài viết dựa vào bản tiếng Anh). [26] ‘Hiến chương 08′: Tín hiệu hy vọng cho dân chủ Trung Quốc, Đài Tiếng Nói Tự Do (VOA) (29/12/2008), www.voanews.com/vietnamese/archive/2008-12/2008-12-29-voa35.cfm.
|
|
|
Post by vietnam on Sept 8, 2009 1:59:52 GMT -5
|
|