|
Post by tuhieu on May 21, 2009 19:37:15 GMT -5
Chiến Lược An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ & Thế Giới Thời Hậu Chiến Tranh Lạnh Nguyễn Trường 06/01/2009 Trong cuốn Bá Quyền hay Thượng Tồn, Sự Tìm Kiếm Vai Trò Khống Chế Toàn Cầu của Hoa Kỳ[1], Noam Chomsky, giáo sư ngữ học và triết lý Viện Đại Học Kỹ Thuật Massachusset (MIT), đã viết:"Lịch sử đầy dẫy những trường hợp các nhà lãnh đạo luôn sẵn sàng đe dọa hoặc dùng bạo lực khi đối diện với bất trắc đại họa. Nhưng ngày nay, cái giá phải trả thật quá cao. Sự lựa chọn giữa bá quyền và thượng tồn hiếm khi hay chưa hề được đặt ra rõ ràng như thế"[2]. Theo những tài liệu do Văn Khố An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ(National Security Archive) giải mật, liên quan đến Kế Hoạch Hành Động Hội Nhập Thống Nhất (Single Integrated Operational Plan-SIOP), ngày nay chúng ta được biết, cách đây hơn 40 năm, bộ tư lệnh quân sự tối cao Hoa Kỳ đã soạn thảo và đã được cấp lãnh đạo dân sự chấp thuận kế hoạch tấn công chặn đầu (first strike), nhằm phóng trên 3.200 đầu đạn nguyên tử đến 1.060 mục tiêu trong các xứ thuộc khối cộng sản. Theo con số chính thức, nếu được thực hiện, ít ra 130 thành phố có thể đã bị tiêu hủy, 285 triệu tử vong, 40 triệu người bị thương - và vài chuyên gia quân sự còn lo ngại những hậu quả thương vong lớn lao do phóng xạ ngay trên đất Mỹ. Trong một thế giới đầy những bí ẩn đế quốc, một cuộc tấn công như vậy có nghĩa: không phải vì lẽ sống còn mà vì tham vọng bá chủ. Trong thực tế, cho đến nay chúng ta luôn chung sống với một SIOP như vậy. Sức tàn phá của SIOP hiện nay kinh hoàng như thế nào vẫn còn là một bí mật tuyệt đối. I. CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA HOA KỲ: Trong cuốn Bá Quyền hay Thượng Tồn, Chomsky trở lại đề tài thống trị và số phận con người, điểm lại những phương cách theo đó chính quyền Bush đã nâng vũ lực lên hàng nguyên tắc bên trên mọi thứ, do đó, đã khiến khủng bố lan tràn, bạo lực gia tăng, và gây nguy cơ cho sự trường tồn của nhân loại. Colin Powell Condoleezza Rice Như Colin Powell đã giải thích Chiến Lược An Ninh Quốc Gia (National Security Strategy - NSS) của Hoa Kỳ trước một cử tọa đối nghịch tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới (World Economic Forum), Hoa Thịnh Đốn "có toàn quyền sử dụng vũ lực để tự vệ"[3]đối với các quốc gia sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) và hợp tác với khủng bố - những lý do chính thức để xâm lăng Iraq. Cho đến nay, như mọi người đều biết, các lý do đưa ra là hoàn toàn ngụy tạo. Tuy nhiên, rất ít ai lưu tâm đến hậu quả quan trọng nhất của nó: NSS đã được sửa đổi để hạ thấp tiêu chí tấn công gây chiến. Bằng cớ liên hệ với khủng bố không còn cần thiết nữa. Bush và phe nhóm còn tuyên bố quyền sử dụng vũ lực đối với một xứ dù không sở hữu WMD hay ngay cả không có chương trình khai triển loại vũ khí nầy. Chỉ cần xứ đó có "ý định và khả năng"(intent and ability) chế tạo là đủ. Đã hẳn, gần như bất cứ xứ nào cũng có khả năng nầy, và "ý định" thì ai muốn nói sao cũng được (in the eyes of the beholder). Tóm lại, theo NSS được sửa đổi, bất cứ xứ nào cũng có thể bị Hoa Kỳ tấn công. Colin Powell còn đi xa hơn trong việc tái thẩm định. Powell nói: "T T Bush đã đúng khi tấn công Iraq vì Saddam chẳng những có "ý định và khả năng", mà trong thực tế, đã sử dụng những vũ khí ghê tởm đó trong cuộc chiến Iran-Iraq và ngay cả với thần dân của chính ông", dĩ nhiên Powell đã cố tình không nhắc đến - "với sự đồng tình và liên tục hỗ trợ của chính Powell và các cộng sự". Condoleezza Rice cũng cùng chung lập luận. Trong khi lúng túng tìm cách biện minh, lý do xâm chiếm rõ ràng nhất mà chính quyền Bush luôn tìm cách che giấu: thiết lập những căn cứ quân sự an toàn trong một xứ chư hầu ngay trung tâm tài nguyên dầu khí lớn hàng đầu thế giới - loại tài nguyên đã được xem như nguồn quyền lực chiến lược lớn lao ngay từ Đệ Nhị Thế chiến, và ngày một quan trọng hơn trong tương lai. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi tin tức tiết lộ ra bên ngoài cho biết chính quyền Bush đã có chương trình tấn công Iraq trước cả biến cố 11-9, và đã xếp cuộc chiến chống khủng bố xuống hàng thứ yếu. Trong các cuộc thảo luận nội bộ, sự lẫn tránh không còn cần thiết. Ngay trước ngày dọn vào Tòa Bạch Ốc, Bush đã đồng ý: "nhu cầu một sự hiện diện quân sự hùng hậu ở Vùng Vịnh được dành ưu tiên cao hơn là vấn đề chế độ Saddam Hussein"[4]. Với những đổi thay trong chính sách từ ngày nhóm quan chức lãnh đạo hiện nay lần đầu tiên tham gia chính quyền vào năm 1981, một nguyên tắc hướng đạo luôn được giữ nguyên - dân Iraq không được quyền làm chủ Iraq Chiến Lược An Ninh Quốc Gia (NSS) 2002, và việc áp dụng chiến lược nầy vào Iraq được nhiều quan chức xem như một bước ngoặc trong quan hệ quốc tế. "Chiến lược mới mang tính cách mạng"(The new approach is revolutionary), Henry Kissinger viết, chấp thuận chủ thuyết mới với một vài dè dặt chiến thuật và một điều kiện căn bản: đây không thể là "một nguyên tắc phổ quát áp dụng cho mọi quốc gia"(...a universal principle available to every nation). Quyền xâm lăng chỉ dành riêng cho Hoa Kỳ và có lẽ một vài "đồng minh" do Hoa Kỳ lựa chọn. Hoa Kỳ phải loại bỏ yếu tố sơ đẳng nhất của chân lý đạo đức căn bản (moral truisms): nguyên tắc phổ quát - một lập trường thường được che giấu dưới những thuật ngữ "dụng ý tốt"(virtuous intent) và "vỏ pháp lý méo mó"(tortured legalisms). Arthur Schlesinger cũng đồng ý là chiến lược mới và cách thể hiện chiến lược nầy mang tính cách mạng, nhưng từ một góc độ hoàn toàn khác. Khi những quả bom đầu tiên rơi xuống Baghdad, Schlesinger nhớ lại lời nói của T T F.D.Roosevelt sau khi Trân Châu Cảng bị người Nhật tấn công: "một ngày sẽ sống mãi trong ô nhục"(a day which will live in infamy). Ngày nay, chính người Mỹ là người đang sống trong ô nhục , vì như Schlesinger viết, chính phủ Hoa Kỳ đang làm theo chính sách của đế quốc Nhật. Ông nói thêm, George Bush đã cải biến một làn sóng thông cảm toàn cầu ( a global wave of sympathy) dành cho Hoa Kỳ thành một làn sóng uất hận toàn cầu đối với thái độ kiêu căng và chính sách dựa trên vũ lực của Mỹ (a global wave of hatred of American arrogance and militarism) Năm năm sau, sự căm hờn người Mỹ và các chính sách của Mỹ đã ngày một gia tăng thay vì giảm bớt. Ngay ở Anh quốc, sự ủng hộ cuộc chiến cũng ngày một giảm bớt đi nhiều. Như nhiều người đã tiên liệu, cuộc chiến đã làm gia tăng hiểm họa khủng bố. Theo Fawaz Gerges, chuyên gia về Trung Đông, "thật là một điều khó tin khi cuộc chiến đã làm sống lại sức lôi cuốn của phong trào thánh chiến Hồi giáo toàn cầu, một phong trào đã thực sự yếu thế sau biến cố 11-9"[5]. Số thành viên trong mạng lưới Al Qaeda đã gia tăng; Iraq lần đầu tiên đã trở thành "nơi trú ẩn an toàn của khủng bố"(a terrorist haven). Các cuộc tấn công cảm tử - Iraq đã trải nghiệm lần đầu vào thế kỷ 13 - nay tái diễn ngày một nhiều hơn từ giữa năm 2003. Cuộc chiến cũng đã đưa đến tình trạng WMD ngày một lan tràn. Gần một năm sau 11-9, cảnh sát trang bị vũ khí tự động đã phải tuần tiểu ga xe lửa Grand Central Station ở New York, một phản ứng sau vụ xe lửa ở Madrid, Tây Ban Nha, bị nổ bom ngày 11-3-2004, gây một số thương vong trên 200 người trong một vụ khủng bố tồi tệ nhất Âu châu. Vài ngày sau, cử tri Tây Ban Nha đã bỏ phiếu thay đổi chính quyền đương nhiệm vì đã tham gia cuộc chiến trước sự chống đối của đại đa số dân chúng. Nhân dân Tây Ban Nha cũng bị buộc tội đã không đủ cương quyết trong cuộc chiến chống khủng bố khi bỏ phiếu quyết định rút quân khỏi Iraq mặc dù chưa có sự chấp thuận của LHQ, một lập trường tương đương với sự kiện 70% dân Hoa Kỳ đã kêu gọi LHQ phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo ở Iraq. Bush quả quyết với nhân dân Mỹ, "thế giới ngày nay đã an ninh hơn, vì ở Iraq , liên quân đã kết liễu một chế độ đã dung dưởng khủng bố và chế tạo WMD"[6]. Các cố vấn của Tổng Thống đều hiểu rõ lời nói đó hoàn toàn dối trá, nhưng họ cũng tin sự dối trá của Tổng Thống có thể trở thành "chân lý"(Truth) nếu cứ được kiên trì lặp đi lặp lại. Các chuyên gia đồng ý với nhau về những phương thức giảm thiểu nạn khủng bố cũng như những điều khiến nạn khủng bố ngày một trầm trọng hơn. Sự đồng tình nầy đã được Jason Burke diễn đạt một cách mạch lạc trong một công trình nghiên cứu về hiện tượng Al Qaeda - một cuộc điều tra tỉ mỉ và rỏ ràng về một tổ chức lỏng lẻo của các tín đồ Hồi giáo cực đoan. Đối với những tín đồ nầy, bin Laden chỉ là một biểu tượng - một biểu tượng hết sức nguy hiểm nếu bị giết, có thể trở thành một vị tử vì đạo, , do đó lôi cuốn được nhiều người khác gia nhập phong trào. Khi còn dưới trướng của Reagan, vai trò của số lãnh đạo hiện nay trong việc ra đời của mạng lưới Hồi giáo quá khích là một điều đã được nhiều người biết rõ. Điều ít người biết đến là việc họ đã để Pakistan dần dà trở thành một xứ Hồi giáo cực đoan và khai triển các vũ khí nguyên tử.do đó lôi cuốn được nhiều người khác gia nhập phong trào. Khi còn dưới trướng của Reagan, vai trò của số lãnh đạo hiện nay trong việc ra đời của mạng lưới Hồi giáo quá khích là một điều đã được nhiều người biết rõ. Điều ít người biết đến là việc họ đã để Pakistan dần dà trở thành một xứ Hồi giáo cực đoan và khai triển các vũ khí nguyên tử. Như Burke đã ghi lại, việc T T Clinton bỏ bom Sudan và Afghanistan năm 1998 đã giúp tạo ra bin Laden-biểu tượng, đưa đến sự liên kết chặt chẻ giữa ông ta và phong trào Taliban, làm gia tăng hậu thuẩn, tuyển mộ, và tài trợ cho Al Qaeda, một tổ chức cho đến thời điểm đó gần như chẳng ai biết. Một sự đóng góp kế tiếp cho sự lớn mạnh của Al Qaeda và danh tiếng của bin Laden là viêc George W. Bush oanh tạc Afghanistan sau biến cố 11-9 mà chẳng có một duyên cớ khả tín, như đã được kín đáo thú nhận sau đó. Cuộc xâm lăng Iraq cũng đã đưa đến những hậu quả tương tự. Đưa ra những bằng chứng cụ thể, Burke kết luận: "Mỗi lần dùng bạo lực là một dịp bin Laden có thêm một thắng lợi nhỏ"[7]. Ông ta đang thắng dù sống hay chết. Nhiều nhà phân tích, kể cả những người cầm đầu ngành tình báo Do Thái, cũng đồng tình như thế. Nhiều chuyên gia đã đồng ý một cách đại cương về phương thức thích hợp để đối phó với khủng bố . Phương thức gồm hai mủi nhọn: (1) Nhằm trực tiếp các đối tượng khủng bố; (2) nhằm các tiềm lực cung cấp hỗ trợ . Phương thức đối phó với khủng bố thích hợp nhất là các biện pháp cảnh sát, như nhiều nơi trên thế giới đã từng trải nghiệm. Điều quan trọng hơn là cơ sở quần chúng mà các tổ chức khủng bố - những người tự xem như đội tiền phong - đang tìm cách vận dụng, kể cả những ai ghét bỏ và kinh sợ họ nhưng vẫn tin họ đang chiến đấu vì chính nghĩa. Bằng bạo lực, chúng ta có thể vô tình tiếp tay cho các tổ chức nầy động viên các tiềm lực hỗ trợ vừa nói. Hoặc chúng ta có thể giúp giải quyết những bức xúc, bất bình, nhiều khi rất chính đáng, của quần chúng - thường là căn nguyên của thái độ đối kháng của khối Hồi giáo hiện nay. Điều đó có thể giúp làm giảm bớt nguy cơ khủng bố rất nhiều. Bạo lực có thể đưa đến thành công, nhưng thường với một giá rất đắt, như người Mỹ đã từng trải nghiệm qua lịch sử lập quốc khi xâm chiếm lãnh thổ và tàn sát dân da đỏ bản địa (Indians). Như một vòng lẩn quẩn, bạo lực thường đưa đến bạo lực. Khủng bố gia tăng cũng chỉ là một biểu hiện. Nhiều phản ứng khác còn nguy hại hơn nhiều. Tháng 2-2004, Liên Bang Nga đã tổ chức nhiều cuộc tập trận lớn nhất trong vòng hai thập kỷ, trình diễn nhiều WMD hiện đại. Các tướng lãnh Nga và Bộ trưởng Quốc Phòng Sergei Ivanov loan báo, nước Nga sẽ đáp ứng những kế hoạch của Hoa Thịnh Đốn nhằm dùng vũ khí nguyên tử làm phương tiện giải quyết các mục đích quân sự, kể cả việc khai triển các vũ khí nguyên tử mới có sức công phá thấp, một khuynh hướng cực kỳ nguy hiểm phương hại đến tình trạng ổn định khu vực và toàn cầu, ...hạ thấp tiêu chí sử dụng các vũ khí tối nguy hiểm nầy. Theo Bruce Blair, một nhà phân tích chiến lược, Nga hiểu rất rõ loại bom công phá các hầm trú ẩn "bunker busters" được thiết kế nhằm các hầm trú ẩn của các tư lệnh nguyên tử cao cấp có nhiệm vụ kiểm soát các kho vũ khí nguyên tử. Ivanov và các tướng lãnh Nga cho biết, để đáp lại sự leo thang của Mỹ, họ đang triển khai "loại hỏa tiễn hiện đại nhất thế giới", hầu như bất khả hủy diệt - một việc, theo nguyên Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, Phil Coyle, "rất đáng lo ngại đối với Ngũ Giác Đài"[8]. Các nhà phân tích Hoa Kỳ lo ngại Nga cũng có thể triển khai các hỏa tiễn siêu âm có khả năng tái nhập vào khí quyển từ thượng tầng không gian và mở các cuộc tấn công bất thần. Đó chính là một phần trong kế hoạch hiện nay của Hoa Kỳ, nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào các căn cứ ở hải ngoại hoặc vào việc thương thảo sử dụng không phận của các xứ đồng minh. Các nhà phân tích Mỹ ước tính chi tiêu quốc phòng của Nga đã gia tăng gấp ba trong nhiệm kỳ của hai Tổng Thống Bush-Putin, một phản ứng dễ hiểu đối với chính sách hiếu chiến của chính quyền Bush. Putin và Ivanov đã viện dẫn lý do chủ thuyết chiến tranh phòng ngừa hay đánh phủ đầu của Bush (Bush doctrine of preemptive strike), một chủ thuyết mới, mang tính cách mạng trong Chiến Lược An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ. Putin và Ivanov còn thêm một chi tiết then chốt: lực lượng quân sự có thể được sử dụng nếu có kế hoạch giới hạn quyền tiếp cận các khu vực thiết yếu cho sự trường tồn của Liên Bang Nga. Đây chính là một quyết định theo đúng chủ thuyết Clinton - Hoa Kỳ có quyền đơn phương sử dụng vũ lực để bảo đảm quyền tự do tiếp cận không hạn chế các thị trường then chốt, các nguồn cung cấp năng lượng và các tài nguyên chiến lược. Theo Fiona Hill ở Brookings Institution, thế giới ngày nay càng thiếu an ninh khi Nga đã quyết định theo cách ứng xử của Hoa Kỳ. Nhiều nước khác chắc cũng thế. Trong quá khứ, hệ thống trả đủa tự động của Nga, có lần chỉ còn vài phút trước khi khởi động tấn công nguyên tử, đã được chận đứng nhờ sự can thiệp kịp thời của người hữu trách. Ngày nay những hệ thống nầy không còn khả tín. Những hệ thống của Mỹ đáng tin cậy hơn, nhưng cũng cực kỳ bất bênh nguy hiểm. Những hệ thống nầy cũng chỉ cho người hữu trách ba phút để quyết định sau khi máy vi tính báo động sắp bị tấn công, một điều thường xẩy ra. Theo Bruce Blair, Ngủ Giác Đai đã khám phá nhiều khiếm khuyết, nhược điểm, trong các hệ thống an ninh vi tính - có thể bị các phần tử phá hoại (terrorist hackers) xâm nhập, kiểm soát, và mô phổng một cuộc tấn công - một bất trắc có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Tình hình càng bất trắc hơn với những lời răn đe, hăm dọa dùng vũ lực. Người ta được biết, tai họa không hề được giảm bớt khi gần đây nhiều vị Tổng Thống Hoa Kỳ thường nhận được những thông tin sai lạc về hậu quả của chiến tranh nguyên tử. Mức độ tàn phá đã được đánh giá quá thấp "vì thiếu vắng hệ thống giám sát các viên chức có trách nhiệm đánh giá và phân tích chiếntranh-nguyêntử-hạnchế-khảthắng" name="_ftnref9" title href="#_ftn9">[9], đưa đến những tầm nhìn thiển cận mang tính tai họa, trầm trọng hơn cả sự nhào nặn tin tức tình báo về Iraq trước đây. , đưa đến những tầm nhìn thiển cận mang tính tai họa, trầm trọng hơn cả sự nhào nặn tin tức tình báo về Iraq trước đây. Chính quyền Bush đã bắt đầu lên kế hoạch khai triển hệ thống hỏa tiễn phòng vệ (missile defense system) từ mùa hè 2004, một hành động hoàn toàn mang tính chính trị, sử dụng một kỷ thuật quá tốn kém và chưa được thử nghiệm đầy đủ. Điều nguy hiểm là hệ thống có vẻ khả dĩ vận hành ; và trong lô gic của chiến tranh nguyên tử, điều quan trọng là nhận thức (perception). Các nhà hoạch định Mỹ lẫn những mục tiêu khả dĩ, đều xem hệ thống hỏa tiễn phòng vệ như những khí giới nguyên tử mang tính tấn công ngăn chặn , nhằm đem lại sự tự do tấn công, kể cả tấn công nguyên tử. Họ hiểu rõ phương thức Hoa Kỳ đối phó với việc người Nga triển khai một hệ thống ABM hạn chế vào năm 1968: hướng các vũ khí nguyên tử vào hệ thống ABM Nga với mục đích khống chế ngay tức khắc (instantly overwhelmed). Các nhà phân tích cảnh cáo kế hoạch hiện nay của Hoa Kỳ cũng sẽ đưa đến những phản ứng tương tự từ Trung Quốc. Lịch sử và lô gic của chiến lược ngăn đe (deterrence) nhắc nhở chúng ta là các hệ thống hỏa tiễn phòng vệ là lực mạnh mẽ thúc đẩy việc hoạch định tấn công nguyên tử. Sáng kiến của Bush một lần nữa nâng cao sự đe dọa, bất trắc, bất ổn và bất an cho nhân dân Mỹ và nhân loại. Phản ứng của Trung Quốc sẽ có ảnh huởng như những đợt sóng dồn dập lan dần qua Ấn Độ, Pakistan và nhiều nước lân cận. Ở Tây Á, Hoa Thịnh Đốn đang gây thêm bất ổn với hiểm họa nguyên tử và WMD của Do Thái. Hoa Kỳ đã cung cấp cho Do Thái hơn 100 pháo đài phản lực hiện đại nhất cùng với lời loan báo các phản lực cơ nầy có tầm hoạt động bay đến Iran và trở về, cũng như các phi cơ loại hiện đại nhất trước đây Do Thái đã từng sử dụng để phá hủy một lò phản ứng nguyên tử của Iraq năm 1981. Báo chí Do thái cũng tung tin Hoa Kỳ đã cung cấp cho không lực Do Thái một "loại vũ khí đặc biệt"(special weaponry). Đã hẳn cơ quan tình báo và nhà cầm quyền Iran đã theo dõi sít sao và đã dự liệu những tình huống xấu nhất: những vũ khí nguyên tử. Việc tiết lộ thông tin và chuyển giao các loại phản lực cơ hình như nhằm khích động giới lãnh đạo Tehran, với hy vọng Iran có thể phản ứng thiếu tỉnh táo, đem lại cho Hoa Thịnh Đốn cái cớ để tấn công. Ngay sau khi loan báo Chiến Lược An Ninh Quốc Gia mới vào tháng 9-2002, Hoa Kỳ đã hành động nhằm chấm dứt mọi thương nghị một hiệp định vũ khí sinh hóa khả thi và chận đứng mọi nổ lực quốc tế nhằm ngăn cấm chiến tranh sinh học và quân sự hóa ngoại tầng không gian. Một năm sau, tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đã bỏ phiếu chống việc thực thi Hiệp Định Cấm Thử Nghiệm Toàn Diện (Comprehensive Test Ban Treaty), và cùng với đồng minh mới Ấn Độ chống lại mọi nổ lực loại bỏ vũ khí nguyên tử. Hoa Kỳ cũng là quốc gia duy nhất bỏ phiếu chống lại "sự tuân thủ các chuẩn mực môi sinh"(observance of environmental norms) trong những thỏa ước giải trừ và kiểm soát vũ khí (disarmament and arms control agreements); và cùng với Do Thái và Micronesia chống lại các nổ lực ngăn ngừa sự lan tràn vũ khí nguyên tử ở Trung Đông - một cái cớ để xâm chiếm Iraq. Cũng cần nhắc lại quyết nghị ngăn ngừa quân sự hóa không gian đã được chấp thuận, với 174 phiếu thuận và bốn phiếu trắng (abstentions): Hoa Kỳ, Do Thái, Micronesia, và Quần Đảo Marshall. Như đã biết, một phiếu trắng hay phủ quyết của Hoa Kỳ có nghĩa tương đương với phiếu phủ quyết kép (double veto): nghị quyết không những bị chận đứng mà mọi dấu vết đều bị xóa khỏi phúc trình và lịch sử. Các nhà hoạch định của chính quyền Bush hiểu rất rõ là việc sử dụng vũ lực sẽ làm gia tăng khủng bố; thái độ và các hành động quân sự gây hấn sẽ gây nhiều phản ứng và làm gia tăng bất trắc tai họa. Họ không ước muốn những hậu quả như thế, nhưng xếp những hiểm tai nầy thấp hơn các nghị trình đối nội và đối ngoại mà họ chẳng cần tìm cách che giấu.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 19:38:08 GMT -5
II. CHỦ NGHĨA DÙNG VŨ LỰC VÀ SỰ SUY SỤP CỦA CHÍNH QUYỀN HIẾN ĐỊNH: Trong cuốn Nemesis, Chalmers Johnson bắt đầu duyệt lại lịch sử thăng trầm của một số đế quốc tiêu biểu trong thế kỷ 20, song song với trạng huống hiện nay của Hoa Kỳ. Tác giả đã viện dẫn trường hợp Anh, Xô Viết, Đức Quốc Xã, Nhật, và Ottomans. Theo Johnson, cũng như các nước trên và La Mã trước Công nguyên, người Mỹ "đang tới gần bờ vực thẳm và sắp rơi xuống vực"[10]. Ông cũng trích dẫn nổi âu lo của sử gia Kevin Baker : Hoa kỳ đang kề cận một cách nguy hiểm thời điểm Quốc Hội - giống như Thượng Viện La Mã vào năm 27 BC - sẽ sử dụng quyền hạn của mình lần chót trước khi trao trọn quyền cho một nhà độc tài. Dựa trên những diễn biến trong sáu năm vừa qua, người ta có thể tin nước Mỹ hiện đang nằm trong tay một nhà độc tài dân sự.
Chính quyền Bush-Cheney đã đưa nước Mỹ vào tình cảnh khốn đốn hiện nay. Nhưng cuộc khủng hoảng không phải chỉ mới bắt đầu với Bush-Cheney. Nó đã khởi sự ngay từ khi Benjamin Franklin cảnh cáo: người Mỹ hiện có một nước Cộng Hòa nếu họ có thể giữ được nó. Cuộc khủng hoảng đã tăng dần nhưng chỉ gia tốc sau Đệ Nhị Thế Chiến khi chỉ có Hoa Kỳ là quốc gia hùng mạnh áp đảo duy nhất còn đứng vững và quyết tâm duy trì hiện trạng, để rồi phải đương đầu với những hối tiếc hiện nay - một Tổng Thống chế mang tính đế quốc; một cơ chế kiểm soát và quân bình và một cơ chế phân quyền bị xói mòn; và một nền văn hóa quân sự áp đảo không ai dám thách thức.
Các nhà lập quốc (Founders) tìm cách ngăn ngừa một thể chế thực dân chuyên chế như dưới thời đại đế George III. Họ đã nghĩ ra một hệ thống chính quyền cộng hòa hiến định với định chế liên bang san sẻ quyền lực với các tiểu bang; phân quyền giữa ba ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Hoa Thịnh Đốn khả dĩ kiểm soát và quân bình lẫn nhau, với quyền lực quan trọng nhất nằm trong tay Quốc Hội và tách khỏi tầm tay các Tổng Thống - quyền tuyên chiến. James Madison, Cha Đẻ của Hiến Pháp, đã nói rõ lý do: "Trong tất cả các kẻ thù của tự do, có lẽ chiến tranh là điều đáng sợ nhất, bởi lẽ nó hàm chứa và phát triển mầm móng của mọi thứ khác...(Trao) những thứ quyền đó (cho Tổng Thống) là điều không những làm rách nát cấu trúc của Hiến Pháp, mà ngay cả nền móng của mọi chính quyền được tổ chức và kiểm soát chặt chẻ"[11].
Lần cuối Quốc Hội sử dụng quyền duy nhất của mình là ngày 8-12-1941 sau khi người Nhật tấn công Trân Châu Cảng, và ngày 11-12-1941 sau khi Đức và Ý tuyên chiến với Hoa Kỳ.
Hơn hai thế kỷ sau, ngày nay, lời cảnh cáo của Benjamin Franklin lại ám ảnh dân Mỹ hơn bao giờ hết, bởi lẽ cấu trúc hiến pháp của các nhà lập quốc đã gần như tan rã. Tổng Thống có nhiều quyền hạn hơn cả đế vương. Cùng với quân lực, Tổng Thống còn có cả một đội quân riêng dưới hình thức một tổ chức CIA bí mật, kiểm soát tất cả 15 tổ chức tình báo ngoại-hiến-pháp (extraconstitutional intelligence organizations). Tất cả, kể cả quân lực, đều không chịu trách nhiệm trước bất cứ ai, ngay cả với Quốc Hội, vì tất cả đều hoạt động trong vòng bí mật, với những ngân sách không được tiết lộ (một phần ngân sách của Ngủ Giác Đai cũng thế). Luật pháp quốc gia cũng chỉ là những văn bản ngoại vi (an artifact), không đủ hiệu lực khống chế hay chi phối.
Trong tác phẩm Nemesis, Chalmers Johnson chỉ tập trung vào quyền lực của quân đội và một cơ quan tình báo duy nhất - CIA. Ngay từ đầu, ông viết:"Chúng ta sẽ không bao giờ còn biết được hòa bình, và có lẽ không thể tồn tại lâu dài như một quốc gia, trừ phi chúng ta hủy bỏ CIA, vãn hồi chức năng thu thập tình báo cho Bộ Ngoại Giao, tước bỏ mọi thứ ngoại trừ những chức năng thuần túy quân sự khỏi Ngũ Giác Đài"[12].
Ngay cả trong trường hợp nầy, Johnson tin là đã quá trể vì Hoa Kỳ, như một quốc gia từng được xem như một xứ dân chủ mẩu mực,"có thể đã bị tác hại đến mức vô phương cứu chữa, (và) may lắm cũng phải mất một thế hệ hay hơn thế nữa mới mong vượt khỏi hình ảnh một 'nước Mỹ tra tấn'[13] và một nhà nước ngoài vòng pháp luật, coi thường luật quốc tế, nhân quyền, và dân thường ở khắp nơi. Đó không phải là những gì các Nhà Lập Quốc quan niệm, cũng không phải những điều cần có trong một nhà nước dân chủ"của dân, do dân, vì dân..."[14]như Lincoln đã từng nói đến ở Gettysburg. Ngày nay, đó chỉ là những gì được dành cho giới ưu đải.
Điều đáng buồn là quyền lực làm hư hỏng những ai có quá nhiều quyền lực. Từ năm 1941, quyền lực đó đã gia tăng khi chuẩn bị chiến tranh, và từ đó nhà nước không ngừng vận dụng quyền lực. Cái giá phải trả là đánh mất dân chủ và tự do - những thứ không thể cộng sinh với chủ nghĩa đế quốc đang trên đường chinh phục và khống chế. Và nước Mỹ xinh đẹp (America the beautiful) đã trở thành một quốc gia đáng sợ và cũng đáng ghét. Nước Mỹ ra khỏi Đệ Nhị Thế Chiến kiêu hảnh và tự tin trong tư thế siêu cường kinh tế, chính trị, quân sự duy nhất, như ước muốn. Người Mỹ sẽ không từ bỏ uy thế đó, ngược lại, còn cố tận dụng thời co để ngự trị toàn cầu, không tha thứ một ai, và đòi hỏi tất cả các quốc gia khác phải thần phục và nghiêm trị nước nào tỏ ý cưởng lại.
Đệ Nhị Thế Chiến, thường được gọi sai là cuộc chiến tốt (good war), đã giúp người Mỹ phát động chính sách đế quốc tòan cầu, trên đường tìm kiếm một sự "khống chế trọn vẹn"[15], có nghĩa là một sự độc chiếm và kiểm soát toàn vũ trụ một cách tuyệt đối và không thể đối kháng - đất đai, mặt nổi và mặt chìm các đại dương, không phận, ngoại tầng không gian, toàn bộ sóng điện từ, và các hệ thống thông tin- tột cùng của tham vọng và không bao giờ chịu lùi bước.
Cái giá phải trả đã vô cùng lớn lao, với chi tiêu quân sự của Mỹ lớn hơn tổng số chi tiêu của toàn bộ thế giới bên ngoài gộp lại. Biến cố 11-9, được xem như một "Trân Châu Cảng Mới", đã được lợi dụng tối đã để nuôi dưỡng một bầu không khí sợ hải, cho phép chính quyền Mỹ củng cố mạng lưới kiểm soát quốc nội và phát động một loạt các cuộc chiến xâm lăng chống các nước người Mỹ gán cho cái nhãn thù nghịch. Dẫn đầu danh sách là các nước giàu năng lượng như Iraq, hoặc có vị trí địa dư chiến lược gần những khu vực giàu năng lượng như Afghanistan kế cận vùng Vịnh Caspian (Caspian Basin). Ngay cả một quốc gia dân chủ mẩu mực như Venezuela của Hugo Chavez cũng bị xếp vào hàng ngũ những xứ cần phải thay đổi chế độ - một nhắc nhở cho những ai quên rằng quyền tối thượng của nước Mỹ luôn ở trên quyền tối thượng của bất cứ xứ nào khác.
Và kẻ nào dám thách thức một sự thật hiển nhiên: "sức mạnh làm nên lẽ phải"[16]. Vì vậy, luật quốc tế, các chuẩn mực và hiệp định có giá trị như hiến pháp của các xứ thành viên, cũng không thể cản đường siêu cường duy nhất. Chúng chẳng có nghĩa gì với một đế quốc ngoài vòng pháp luật (rogue empire) đang trên đường bành trướng, và một Tổng Thống vững tin luật pháp chỉ là luật pháp do chính ông, là những gì ông gọi là luật pháp, an ninh quốc gia chỉ là một chiêu bài để tự do hành động, và hiến pháp cũng chỉ là "một mảnh giấy lộn"(just a goddamned piece of paper). Những gì Bush và các phụ tá thân cận thiếu về tế nhị, họ đã bù lại bằng sự táo bạo cực đoan. Và đó chính là thái độ dọn đường đến bờ vực thẳm.
Chalmers Johnson đã duyệt lại những chiến dịch chống Iraq từ cuộc chiến vùng Vịnh 1991. Chiến tranh Iraq 1991, các biện pháp cấm vận giết người suốt 12 năm tiếp đó, và cuộc chiến từ 2003, tất cả đều vi phạm luật quốc tế và là những việc làm rõ rệt mang tính tội phạm chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại. Nhưng quốc gia nào đủ vai vế để buộc tội siêu cường duy nhất của thế giới. Tổn thất gây ra cho nhân dân và xứ sở Iraq trong vòng 16 năm qua thật sự kinh hoàng. Chiến dịch của Mỹ đã hủy diệt một quốc gia từng phồn thịnh với một di sản vô giá, để lại đằng sau một vùng đất hoang tàn, những trại lính siêu thực vô luật pháp, thiếu vắng hoặc rất ít dịch vụ thiết yếu như điện, nước sạch, các cơ sở vệ sinh, y tế, năng lượng, và hầu hết mọi thứ cần thiết cho an sinh công cộng và trường tồn.
Johnson trích dẫn các chuyên viên về nạn hôi của tại Viện Bảo Tàng Quốc Gia Baghdad, nạn đốt phá Thư Viện và Văn Khố Quốc Gia, Thư Viện Korans thuộc Bộ Tôn Giáo, như những đại họa lớn lao nhất trong vòng 500 năm qua, nếu không nói được kể từ năm 1258 khi quân Mông Cổ chiếm đóng Baghdad. Donald Rumsfeld và Ngũ Giác Đai đã chú tâm bảo vệ Bộ Dầu Khí, nhưng không quan tâm gì đến những báu vật vô giá bị trộm cướp và đốt phá. Cả một "vũ trụ cổ vật" bị tiêu hủy, một điều không những người Iraq mà cả thế giới văn minh không bao giờ tha thứ.
Nói chung, cuộc chiến vùng Vịnh và các biện pháp cấm vận của Hoa Kỳ đã gây ra hơn 1.5 triệu tử vong tính đến tháng 3-2003, hơn 3.5 triệu người di tản lánh nạn bên trong cũng như bên ngoài Iraq. Thêm vào đó, theo kết quả nghiên cứu đã được công bố của tổ chức Lancet, cuộc xâm lăng Anh-Mỹ từ tháng 3-2003 đã làm hơn 655.000 tử vong tính đến giữa năm 2006, và còn cho biết con số thực sự có thể lên đến 900.000 bởi lẽ cán bộ đã không thể đến điều tra trong những vùng quá hổn loạn hay phỏng vấn hàng nghìn gia đinh đã bị tiêu diệt, hoàn toàn không còn dấu vết.
Cho đến nay, sự tàn phá do liên quân Anh-Mỹ gây ra cho nhân dân và xứ sở Iraq kể từ năm 1991 đã là một trong số tội phạm lớn lao nhất trong lịch sử nhân loại do chiến sự, chế tài, và chiếm đóng . Hậu quả còn tiếp tục gia tăng gấp bội, và chẳng có cách nào biết được con số thương, tử vong sẽ là bao nhiêu khi cuộc chiến chấm dứt. Một ngày nào đó cuộc chiến cũng sẽ chấm dứt vì lẽ người Iraq sẽ không ngừng chiến đấu cho đến khi giành lại được tự do cho chính mình. Trong khi chờ đợi, những thương vong, tàn phá của cuộc chiến không hề được các cơ quan truyền thông Hoa Kỳ phản ảnh; báo chí phương Tây cũng chẳng mấy quan tâm. Cho đến nay, chiến sự vẫn tiếp tục vì chính quyền Mỹ luôn theo đuổi mộng đế quốc, quân đội Mỹ chỉ chịu trách nhiệm trước các cấp chỉ huy trực tiếp tại mặt trận hoặc Ngũ Giác Đai, và khoảng 100.000 nhà thầu dân sự chỉ chịu trách nhiệm với chính họ.
Khía cạnh đen tối nhất của cuộc phiêu lưu là mạng lưới nhà tù quân sự Mỹ trên khắp thế giới, dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Bộ Truởng Quốc Phòng và Ngũ Giác Đài. Tại đây, sự tra tấn, cả tinh thần lẫn thể chất, đã và đang diễn ra mặc dầu chẳng mang lại một thông tin hữu ích nào. Trong thực tế, theo nhận định của Chalmers Johnson, đó chỉ là một phương tiện kiểm soát xã hội, trả thù, và là một chính sách hạ thấp phẩm giá những phần tử chính quyền Mỹ xem như thấp kém hơn con người bình thường vì họ là người Arập da-không-đủ-trắng hay người Afghanistan Hồi giáo[17] . Đó cũng là hành động phản ảnh sự khinh mạn siêu cường, coi thường cộng đồng quốc tế, thách thức tất cả mọi người. Luật lệ quốc tế căn cứ trên các Thỏa Ước Geneva và Thỏa Ước LHQ chống Tra Tấn và Đối Xử Tàn Nhẫn, Vô Nhân Đạo, hay Nhục Mạ, chẳng còn ý nghĩa gì đối với chúa tể của vũ trụ. Hoa Kỳ là một quốc gia thành viên của các Thỏa Ước vừa kể. Nhưng điều đó chẳng ăn nhằm gì đối với các luật sư khôn lanh, ranh mảnh , và các vị Bộ Trưởng Tư Pháp ngoài vòng pháp luật khi họ soạn thảo hay sửa đổi các quy luật tác chiến (rewrite the rules of engagement).
III. PAX AMERICANA TRONG THỜI HẬU CHIẾN TRANH LẠNH:
Chalmers Johnson đã phân tích hai nguyên do lịch sử đã đưa đến sự sụp đổ của Đế Quốc La Mã: chủ nghia đế quốc và chính sách dùng vũ lực (Imperialism and militarism). Tác giã ghi nhận, sau khi thảm bại trong tay kiện tướng thành Carthage, Hannibal, năm 216 BC, ngưới La Mã thề sẽ không bao giờ để một cường quốc Địa Trung Hải nào trổi dậy khả dĩ thách thức sự trường tồn của mình và quyết tâm dùng chiến tranh phòng ngừa chống lại bất cứ một quốc gia đối nghịch nào toan tính như thế.
Đó cũng là ý niệm của Paul Wolfowitz trong cương vị Phụ Tá Bộ Truởng Quốc Phòng trong chính quyền George H.W. Bush năm 1992, một ý niệm Wolfowitz đã đem ra thực thi trong cương vị Thứ Truởng Quốc Phòng năm 2001 và đã trở thành một phần của Chiến Lược An Ninh Quốc Gia 2002. Đó cũng là một viễn kiến hoang tuởng xa xưa của người La Mã, mệnh danh Pax Romana, và sau Đệ Nhị Thế Chiến đã trở thành Pax Americana, với ảo tuởng giữ địa vị bá chủ không cho phép bất cứ quốc gia nào cạnh tranh, và sẵn sàng dùng chiến tranh phòng ngừa để thành đạt mục tiêu mong muốn.
Johnson giải thích, sau khi Julius Caesar bị ám sát ngay giữa Thượng Viện La Mã năm 44 BC, người cháu nuôi Octavian lên thay thế. Sau khi được Thượng Viện La Mã trao toàn quyền và phong làm quốc vương, Octavian, với tước hiệu Augustus Caesar, đã biến Thượng Viện thành một câu lạc bộ quý tộc hữu danh vô thực, và thể chế Cộng Hòa La Mã cáo chung.
Trường hợp Đức Quốc Xã cũng tương tự. Ngày 30-01-1933, cơ quan lập pháp Đức Reichstag đã bầu Adolph Hitler làm Quốc Truởng - Reichschancellor. Ngày 23-3-1933, Quốc Hội thông qua Đạo Luật Cứu Chửa Tình Trạng Khốn Cùng của Nhân Dân (Enabling Act or Law to Remedy the Distress of the People). Từ đó, thể chế độc tài Quốc Xã ra đời và Cộng Hòa Weimar cáo chung. Hitler nắm trong tay quyền hành tuyệt đối, làm luật, sửa đổi hiến pháp. Quốc Hội trở thành bất lực, hửu danh vô thực. Một năm sau, Hitler trở thành một lãnh tụ độc tài trong suốt 12 năm sau đó.
Cũng như Đức Quốc Xã, La Mã đã không thích ứng được với những hậu quả bất ngờ của chủ nghia đế quốc, hình thức Chính quyền Cộng Hòa đã phải nhường chỗ cho thể chế độc tài. Dưới quyền trị vì của quốc vương, hiến pháp mất hết hiệu lực, người dân đánh mất nhân quyền cũng như quyền dân sự. Những thắng lợi quân sự đã đem lại giàu có cho giới lãnh đạo ngày một kiêu căng, dẫn đến tình trạng Chalmers Johnson mô tả: "trường hợp điển hình đầu tiên của điều mà ngày nay chúng ta gọi là dàn trải quá mỏng của đế quốc"[18]. Quân đội biến thành những lính nhà nghề ngày một lớn mạnh, trở thành một quốc gia trong một quốc gia, giống như Ngũ Giác Đài hiện nay. Tình trạng nầy đã đưa đến một văn hóa dựa trên vũ lực, dần dà trở thành một văn hóa mục rữa về đạo đức, đưa đến suy tàn và sụp đổ của đế quốc.
Cộng Hòa Hiệp Chủng Quốc chưa sụp đổ. Tuy nhiên, một Tổng Thống Chế mang tính đế quốc ngày nay đang đè nặng lên đất nước với một Ngũ Giác Đài áp đảo và một văn hóa thẩm thấu vũ lực đang làm suy yếu các định chế lập pháp, tư pháp, và các quyền dân sự. Kinh nghiệm Đế quốc La Mã trước đây chứng tỏ những nguyên tắc phân quyền, với mục đích kiểm soát và quân bình giữa ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, không thích ứng với chủ nghia đế quốc với một quân lực hùng mạnh đồng hành. Hoa Kỳ có thể đã vượt qua ranh giới Rubicon sau ngày 18-9-2001 với sự thông qua Nghị Quyết Cho Phép Sử Dụng Quân Lực[19] của Lưỡng Viện Quốc Hội, cho phép "sử dụng quân lực Hiệp Chủng Quốc chống lại những ai chịu trách nhiệm trong các cuộc tấn công gần đây chống lại Hiệp Chủng Quốc, và cho phép Tổng Thống quyền hiến định để hành động nhằm làm nản lòng và ngăn chặn các hành động khủng bố quốc tế chống lại Hiệp Chủng Quốc..."[20].
Với luật mới nầy, George Bush được Quốc Hội dành trọn quyền, không mấy khác một nhà độc tài, nhân danh an ninh quốc gia, không quan tâm đến hiến pháp và luật quốc tế, có thể khai chiến để bảo vệ quốc gia, và tìm cách thông qua luật lệ mang tính đàn áp, đe dọa quyền tự do của mọi công dân và nhiều người khác. Kế đến, vào tháng 10-2002, Quốc Hội lại biểu quyết dành cho Tổng Thống toàn quyền quyết định tiến chiếm Iraq để phòng ngừa (chiến tranh lựa chọn) khi nào ông tin thích hợp, nói một cách khác, quyền tự do khai chiến với Iraq hay bất cứ xứ nào khác xét như một mối đe dọa, sử dụng vũ khí nguyên tử nếu Tổng Thống thấy cần.
Đây không chỉ đơn thuần một thứ quyền vô giới hạn, mà còn là một quà tặng hổ trợ điên rồ của ngành lập pháp và tư pháp hữu phái. Việc làm nầy đã đưa Hoa Kỳ vào con đường tự quyết định số phận theo gót đế quốc La Mã trước Công Nguyên nếu không được kịp thời chận đứng hay đảo ngược. Đó cũng là cái giá phải trả không tránh khỏi của sự kiêu ngạo đế quốc, khiến các cấp lãnh đạo tự cho mình là bất khả tổn thương cho đến khi quá muộn.
Dựa vào kinh nghiệm của Vương quốc Anh, Chalmers Johnson nghĩ, Hoa Kỳ có thể còn cơ may lựa chọn. Người Anh đã biết hy sinh mộng đế quốc để kịp giữ lại thể chế dân chủ vì hiểu được rằng họ không thể đồng thời có được cả hai. Trước đó, họ đã tự nguyện đảm nhận "Gánh Nặng của Người Da Trắng"(White Man's Burden) trong tinh thần "Tốt"(Goodness) - điều mà ngày nay chúng ta gọi là"truyền bá dân chủ"(spreading democracy), với niềm tin người Anglo-Saxons xứng đáng để cai trị các xứ khác, đặc biệt là dân da mầu mà họ nghi là thấp kém hơn. Johnson giải thích một "chủ nghĩa đế quốc thành công đòi hỏi một xứ Cộng Hòa phải tự chuyển biến thành một xứ chuyên chế"[21]. Theo Johnson, La Mã và Anh quốc giúp cho người Mỹ nhận chân được vị trí của mình và những gì họ phải đối diện. La Mã chọn đế quốc , để rồi đánh mất thể chế Cộng Hòa và tất cả. Người Anh, ngược lại, đã lựa chọn dân chủ và từ bỏ đế quốc, mặc dù chính quyền Tony Blair sau biến cố 11-9, đã hành động bất cẩn, đáng trách, như một con chốt trong nước cờ phiêu lưu đế quốc của Hoa Thịnh Đốn. Hiện nay, vào một thời điểm muộn màng của cuộc phiêu lưu, người Mỹ phải lựa chọn một trong hai hướng đi: hoặc giữ chặt "chiếc bánh dân chủ" hoặc "ăn bánh" và hứng chịu hậu quả. Ngưới Mỹ không thể cùng lúc có cả hai.
Geoge W. Bush không phải là vị Tổng Thống đầu tiên lạm dụng quyền hạn của mình . Trước đây, nhiều Tổng Thống lừng danh cũng đã từng hành động như thế. Abraham Lincoln đã ngưng áp dụng quyền bảo vệ người dân trước pháp luật (habeas rights) trong cuộc nội chiến. Trong mặt trận đối nội, suốt chiều dài Đệ Nhị Thế Chiến, T T Franklin Delano Roosevelt đã đối xử với người Mỹ gốc Nhật, những công dân lương thiện đáng kính, như một hạng người thấp hèn, một thứ công dân bất xứng, không đáng được hưởng công lý, chỉ vì một tội duy nhất - tổ tiên và mầu da của họ . Trong thực tế, họ đã bị nhốt vào các trại tập trung trong suốt thời gian của cuộc chiến mà họ không hề dính dáng hay mong muốn, mặc dù những công dân Mỹ gốc Nhật ở trong quân đội đã chiến đấu chống lại Đức Quốc Xã một cách kiên cường xuất sắc.
Sự khác biệt giữa thời đó và ngày nay là sự hiện diện của guồng máy kiểm soát và quân bình lẫn nhau và cơ chế phân quyền, một cơ chế đã giúp kiềm chế các vị Tổng Thống tránh nạn lạm quyền. Sự thể đã hoàn toàn đổi khác khi năm vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện tự kiêu quyết định hủy bỏ kết quả bầu cử phổ thông, cho phép George Bush dành lấy ghế Tổng Thống khỏi tay Al Gore, ứng viên thắng phiếu, kể cả ở Bang Florida. Từ đó, tình hình tiếp tục xuống dốc giống hệt trường hợp La Mã ngày xưa khi thể chế cộng hòa đã nhường chỗ cho chủ nghia đế quốc mang tính áp bức. Tự do, dân chủ như những quyền bình thường của người Mỹ trước đây giờ đã trở thành một "chủng loại lâm nguy"(an endangered species) cần kíp một phương cách cứu cấp .
Trong tình huống hiện nay, Bush và Cheney đang ngự trị một nhà nước ngoài vòng pháp luật, hợp tác với một liên minh luỡng đảng mục rữa. Quốc Hội không khác gì một câu lạc bộ dành riêng cho giới truởng giả, cho phép chính quyền quản lý việc nước theo "lý thuyết hành pháp đơn điệu của một Tổng Thống Chế"(the unitary executive theory of the presidency).
Trong cuốn Nemesis, Johnson "đã cố gắng đưa ra những bằng chứng lịch sử, chính trị, kinh tế, và triết lý nêu rõ lối ứng xử hiện nay sẽ đưa nước Mỹ về đâu"[22]: tác giả tin con đường hiện nay sẽ đưa đến suy diệt, dưới hình thức vở nợ và độc tài chuyên chế, quân sự hoặc dân sự.
Theo tác giả, đã đến lúc người Mỹ phải lựa chọn: hoặc tiếp tục hướng đi hiện nay để cuối cùng phải đánh mất thể chế dân chủ, hoặc theo gương Anh quốc giữ thể chế dân chủ và hy sinh mộng đế quốc.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 19:38:44 GMT -5
IV. CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA VÀ CUỘC CHIẾN CHỐNG KHỦNG BỐ:
Xét cho cùng, Cuộc Chiến Chống Khủng Bố là trọng tâm của mọi điều George Bush và nhóm cận thần hy vọng cho một chính quyền quan niệm như một khối "hành pháp nhất trí"(unitary executive) không vướng bận bởi cơ chế kiểm soát và quân bình hổ tương với hai ngành lập pháp và tư pháp.
Chỉ năm ngày sau biến cố 11-9, trong một cuộc họp báo trên sân cỏ phía Nam Tòa Bạch Ốc, George Bush, vị Tổng Thống với một sứ mạng mới, một mục tiêu và cứu cánh mới, tuyên cáo với nhân dân Mỹ "mặc dầu ngày mai họ phải trở lại với việc làm" , họ phải hiểu ngay bây giờ họ đang đối mặt với một "thứ ác quỷ mới" . Ông nói tiếp: "Và chúng ta hiểu. Và nhân dân Mỹ bắt đầu hiểu. Cuộc thánh chiến nầy, cuộc chiến chống khủng bố nầy, sẽ phải mất nhiều thời gian"[23].
Trước đó hai ngày, tại Thánh Đường Quốc Gia ở Hoa Thịnh Đốn, T T Bush đã loan báo cuộc chiến sắp tới, khi ông nói với nhân dân Mỹ "trách nhiệm lịch sử của chúng ta đã rất rõ ràng: đáp lại những cuộc tấn công nầy và cứu thế giới khỏi bọn ác quỷ"[24]. Nếu không có "Cuộc Chiến Chống Khủng Bố" do Tổng Thống tự tuyên cáo, dĩ nhiên, Bush đã không thể viện cớ "chiến tranh", "không khí chiến tranh", hoặc "Tổng Thống thời chiến", để dồn ép Quốc Hội phải ủng hộ cuộc chiến tự chọn sau đó ở Iraq. Không có "chiến tranh" và "thời chiến", đâu có dễ thuyết phục dân Mỹ và dễ gì áp đặt "luật thời chiến"(war rules) từ trại tù ở Guantanamo (Cuba), đến căn cứ không quân Bagram Air Base (Afghanistan), đến Abu Ghraib (Iraq). Không có "chiến tranh" và "thời chiến", các viên chức và tư lệnh Hoa Kỳ đâu có thể xếp tù nhân của quân đội Mỹ ở Iraq vào loại "những người bị câu lưu vì lý do an ninh" (security detainees), một quyết đoán phi đạo đức và phổ thông trong cuộc chiến chống khủng bố; hay mô tả tù binh dưới danh hiệu "chiến binh bất hợp pháp" (illegal combatants), để từ chối không áp dụng quy chế tù binh theo Thỏa Ước Geneva, cũng như để giam giữ vô thời hạn, cô lập, bí mật, không được luật pháp che chở.
Mọi hy vọng về quyền lực tương lai của các quan chức trong chính quyền Bush đều gắn liền với Cuộc Chiến Chống Khủng Bố mở màn cho chiến tranh nhiều nơi khác.
Thử nhìn lại bản đồ của những nơi mà Nhóm Tân Bảo Thủ và phe ủng hộ chính quyền Bush, trong giai đoạn vàng son, thường gọi là "vòng cung bất ổn"(the arc of instability) - một vùng trải dài từ biên giới Trung Quốc và các Cộng Hòa nguyên thành viên của Liên Bang Xô Viết trước đây, xuyên qua Trung Đông, Bắc Phi, xuống tận vùng Sừng Phi Châu (Horn of Africa) - cũng là tâm điểm dầu khí của hành tinh. Cả một vùng bao la từ Afghanistan đến Somalia ngày nay đang hay có thể chìm ngập trong khói lửa.
Chính quyền Bush và các đồng minh trong khối NATO đang bị cầm chân trong cuộc chiến Afghanistan ngày một lan rộng và khốc liệt hơn. Quân đội Mỹ, được trang bị đầy đủ, sẵn sàng xung đột với Iran, đang lún ngày một sâu hơn trong vũng lầy chiếntranh-nộichiến-chiếmđóng-Iraq cũng như đương đầu với công luận ngày một gay gắt hơn, cả ở Hoa Kỳ lẫn Iraq, đòi hỏi quân Mỹ phải rút khỏi Iraq.
Mùa hè năm 2006, chính quyền Mỹ, khi trang bị và hổ trợ Do Thái trong cuộc tấn công vào Lebanon nhằm loại bỏ phe Hizbollah nhưng bất thành, cũng đã tung CIA vào giúp chính quyền Lebanon đang ngày một suy yếu đối phó với lực lượng Hizbollah ngày một táo bạo hơn. Bush cũng đề cao dân chủ ở Palestine cho đến khi người Palestine bầu phe Hamas vào chính quyền, từ đó tìm cách phá hoại và vô hiệu hóa kết quả bầu cử. Người Mỹ cũng đứng đang sau cuộc xâm lăng nước Hồi giáo Somalia của Ethiopia, một quốc gia với đa số theo công giáo. Chính quyền Bush cũng ra sức lôi kéo các xứ Hồi giáo dòng Sunni - Saudi Arabia, Egypt, Jordan, và những quốc gia bé nhỏ vùng Vịnh - vào một liên minh thực tế chống lại ảnh hưởng của Iran, Syria thuộc dòng Shiite....
Bush không còn phí thì giờ nhắc nhủ dân Mỹ về giáo lý hiếu hòa của Hồi giáo. Thay vào đó, ông thường nói đến ý thức hệ Hồigiáo-phátxít (Islamo-fascism), đến những phần tử "Hồi giáo cực đoan"(Islamic extremists) quyết xây dựng một Quốc Gia Hồi Giáo Caliphate, một "đế quốc Hồi giáo cực đoan"(a radical Islamic empire) từ Afghanistan đến Gibralta, vòng cung bất ổn - một bản đồ thánh chiến.
Tóm lại, hình như không một động thái nào của chính quyền Bush ở vùng Trung Đông nới rộng, từ Afghanistan đến Somalia, mà không mang lại bất ổn, loạn lạc, đổ máu, và làm suy giảm, lung lay quyền lực của chính Hoa Kỳ trong vùng. Điều đáng buồn nhất là người ta chẳng cần hiểu nhiều về Afghanistan, Pakistan, Iran hay Iraq, cũng có thể biết được mỗi một "thành công" trong chốc lát của phe Bush cũng đều mang sẵn mầm thất bại tiếp theo.
Trái với tường trình cuả tướng tư lệnh quân Mỹ ở Iraq, David Petreaus, vào đầu tháng 4-2008, một Iraq - "ít bạo loạn hơn", tiếp theo sau sự "thành công" của đợt tăng quân "surge" giữa năm 2007 - thực ra chỉ là tập hợp một số "thànhphố-quốcgia"(city states) riêng rẽ, hổn loạn, bạo động - một thùng thuốc nổ , với những nhóm dân quân (militias) lan tràn, những khu vực đối nghịch, những phe nhóm giáo phái ganh tị, hận thù, chống đối lẫn nhau, tất cả đều được vỏ trang đến tận răng (armed to the teeth). Tệ hại hơn nữa, dưới quyền lãnh đạo của Tướng David Petraeus và đại sứ Ryan Crocker, người Mỹ đã trở thành nguyên ủy của nạn vũ khí lan tràn và bạo loạn. Họ đã trang bị, tài trợ gần 100.000 dân quân Sunnis với quyết tâm một ngày nào đó sẽ đập nát "người Iran"(hay chính quyền Maliki). Họ cũng hổ trợ dân quân Shiite (còn có tên "quân đội Iraq").
Trong những cuộc tấn công vào đầu tháng 4-2008 ở Basra và Baghdad, người Mỹ còn chọn đứng về phía Maliki nhằm quậy lên cuộc nội chiến ngay bên trong nội bộ khối Shiite. Nhưng không may, theo phóng sự "Liệu Lính Iraq Có Thể Chiến Đấu?[25] của hai ký giã Stephen Farrell và James Glanz trên báo The New York Times, ít nhất cũng hơn 1.000 binh si và cảnh sát phe chính phủ - hay hơn 4% lực lượng gửi tới Basra - đã rời bỏ hàng ngũ (đào ngũ) trong khi chiến trận đang tiếp diễn, trong đó có đến hàng tá sĩ quan và ít nhất là hai tư lệnh chiến trường cao cấp.
Sau nhiều năm được các cố vấn Mỹ huấn luyện gấp rút với một phí tổn khổng lồ 22 tỉ mỹ kim, các phát ngôn nhân quân đội Mỹ một lần nữa phải lúng túng tìm cách biện minh cho một tai họa chiến lược khác, chỉ được thoát hiểm nhờ ở kết quả thương thảo giữa Muqtada al-Sadr và các cố vấn của Thủ Tướng Nouri al-Maliki, qua trung gian của tướng Iran Qassem Suleimani, một vị tướng có tên trong danh sách khủng bố cần theo dỏi của Bộ Ngân Khố Mỹ. Ngưới Mỹ gượng gạo giải thích:"Theo chỗ chúng tôi hiểu, phần lớn số đào ngũ là từ những nhóm binh si mới được huấn luyện căn bản xong và có lẽ đã được đẩy ra chiến trường quá sớm"[26].
Như Nir Rosen gần đây đã tóm tắt tình hình trong tạp chí The Nation Magazine, Baghdad ngày nay là "tập hợp một số bộ lạc dưới quyền các sứ quân và dân quân", điển hình cho toàn bộ xứ Iraq. Rosen viết tiếp "chính quyền Bush và giới quân sự không còn nhắc đến Iraq như một đề án xây dựng quốc gia lớn lao, và các cơ quan truyền thông Mỹ cũng răm rắp đi theo"[27].
Trong khi đó, theo Pepe Escobar của tờ Asia Times, ở phía Bắc Iraq ít ai lưu ý, cuộc nội chiến - giữa hai sắc dân Iraq gốc ARập và Kurdish tranh giành thành phố Kirkuk, có thể cả Mosul, giàu dầu hỏa - đang sôi sục và rất có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Quân đội Mỹ không hề được ai mời mọc vào chiếm đóng Iraq. Chính quyền Mỹ đã đơn phương xâm lăng Iraq với những lý do ngụy tạo trước sự chống đối của toàn thế giới. Trong hơn năm năm qua, sự can thiệp của người Mỹ đã làm tan nát cấu trúc xã hội Iraq. Sự thật lịch sử đó không ai có thể chối cãi dù chính quyền Mỹ luôn ngoan cố bám víu lấy huyền thoại quân đội Hoa Kỳ bao giờ cũng vẫn là lực lượng chiến đấu cho hòa bình và ổn định trong một thế giới hổn loạn. Vì quyền lợi của chính mình, Hoa Kỳ cần phải can đảm chấp nhận sự thật phủ phàng đó càng sớm càng tốt. Cuộc chiến càng kéo dài, hình ảnh đạo đức của Hoa Kỳ trên toàn cầu càng tơi tả. Rút khỏi Iraq, người Mỹ mới sớm có thể bắt đầu quá trình phục hồi khỏi thảm họa đạo đức, chưa nói gì đến hiểm họa phá sản tài chánh đang đe dọa hiện nay.
V. THAY LỜI KẾT LUẬN:
Một chính sách đối ngoại tưởng như mang tính thụ động trong thập kỷ dẫn tới Đệ Nhất thế chiến ngày nay đã lộ nguyên hình trong một chuổi can thiệp đầy bạo lực: tiến chiếm vùng kênh đào Panama từ Colombia, hải quân oanh tạc vào bờ biển Mexico, thủy quân lục chiến được gửi tới hầu hết các xứ Trung Mỹ, quân đội chiếm đóng Haiti và Cộng Hòa Dominicain. Như vị tướng nhiều huy chương Smedley Butler, người đã tham gia vào nhiều chiến dịch vừa kể, sau nầy đã viết: "Tôi đã hành động như một người làm việc vặt cho Wall Street"[28].
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã trở thành siêu cường lãnh đạo thế giới - một đế quốc. Kiên quyết duy trì và bành trướng độc quyền vũ khí nguyên tử, nước Mỹ đã chiếm một số đảo xa xôi nhỏ bé trên Thái Bình Dương, trục xuất tất cả thổ dân, và biến các đảo nầy thành những nơi thử nghiệm nguyên tử. Cùng với các cuộc thử nghiệm về sau trong các vùng sa mạc thuộc hai bang Utah và Nevada, tổng số đã vượt quá con số 1.000 vụ thử nghiệm .
Trong cuộc chiến Triều Tiên, theo tuần san của I.F.Stone, trái với lời biện minh chính thức, Hoa Kỳ đã can thiệp, không phải vì Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn, mà vì Hiệp Chủng Quốc đang cần một căn cứ vững chắc trên lục địa Á châu, nhất là Trung Quốc lúc đó đã lọt vào tay lãnh tụ cộng sản Mao Trạch Đông.
Nhiều năm sau, khi sự can thiệp thầm lặng của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã chuyển biến thành một cuộc xâm lăng bạo tàn và ồ ạt, bộ mặt đế quốc của Mỹ đã lộ rõ nguyên hình. Theo tài liệu Ngũ Giác Đài do Daniel Ellsberg phổ biến, các thông tư và biên bản ghi nhớ tối mật của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia cho thấy, khi giải thích quyền lợi của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, các thành viên của Hội Đồng đã trắng trợn nói thẳng: động lực của người Mỹ là tìm kiếm "kẻm, cao su, dầu khí" (tin, rubber,oil).
Không có một phong trào phản chiến nào trong lịch sử nước Mỹ - từ việc hàng loạt binh sĩ đào ngũ trong cuộc chiến Mexican (Mexican War), các thanh niên trong tuổi quân dịch nổi loạn trong cuộc Nội Chiến (Civil War), những nhóm chống chính sách đế quốc vào đầu thế kỷ 20, phong trào chống đối Đệ Nhất Thế Chiến - đạt đến tầm cở của làn sóng chống chiến tranh Việt Nam. Ít ra, một phần của sự chống đối nầy cũng phát xuất từ ý thức : cuộc chiến tàn bạo ở xứ sở nhỏ bé nầy là một phân bộ trong kế hoạch đế quốc lớn lao của Hoa Kỳ.
Những vụ can thiệp tiếp theo sau sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam hình như phản ảnh một như cầu bức thiết của một siêu cường đang ngự trị - ngay cả sau sự sụp đổ của địch thủ hùng mạnh, Liên Bang Xô Viết - để thiết lập quyền bá chủ rộng khắp (full spectrum dominance). Trong bối cảnh đó, thế giới đã chứng kiến cuộc xâm lăng Greneda năm 1982, oanh tạc và tấn công Panama năm 1989, chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991.
Can thiệp vào Vùng Vịnh, George Bush Sr không mấy quan tâm đến việc Saddam Hussein xâm lăng Kuwait; điều ông quan tâm chính là lợi dụng cơ hội để thiết lập một tiền đồn vững chắc ngay trong lòng Trung Đông giàu năng lượng, một mục tiêu ám ảnh Franklin Roosevelt từ năm 1945 khi ông thành công trong nổ lực thành đạt thỏa ước "đổi dầu lấy sự bảo vệ" (oil for protection agreement) với quốc vương Abdul Aziz Ibn Saud của Saudi Arabia, cũng như CIA đã lật đổ chính quyền dân cử Mohammad Mossadegh ở Iran năm 1953.
Các cuộc tấn công tàn bạo 11-9 - như Hội Đồng Chính Thức 9-11[29], đã xác nhận - bắt nguồn từ lòng căm hận sự bành trướng thế lực của Hoa Kỳ ở Trung Đông và nhiều nơi khác trên thế giới. Ngay từ trước biến cố nầy, theo Chalmers Johnson trong tác phẩm "Những Nổi Buồn của Đế Quốc" (The Sorrows of Empire), Bộ Quốc Phòng Mỹ đã công nhận đang duy trì hơn 700 căn cứ quân sự bên ngoài nước Mỹ.
Từ ngày đó, với sự phát động "cuộc chiến chống khủng bố", nhiều căn cứ mới đã được thiết lập hoặc bành trướng: ở Kurgyzstan, Afghanistan, vùng sa mạc Qatar, Vịnh Oman, vùng Sừng Phi châu, và bất cứ ở xứ nào chính quyền dễ bị mua chuộc hoặc cuởng ép.
Động lực bên sau chính sách quân sự vừa nói - như đã được Henry Luce, một triệu phú sở hữu chủ các tạp chí Time, Life, và Fortune, mô tả ngay từ năm 1941, như là biểu hiện sự đón chào bình minh của "Thế Kỷ của Hoa Kỳ". Luce nói: thời cơ đã đến "để Hoa Kỳ hành xử đầy đủ ảnh huởng của mình trên thế giới, thành đạt những mục tiêu và bằng các phương tiện chúng ta thấy thích hợp"[30].
Chúng ta không thể chờ đợi một lời tuyên cáo ý đồ đế quốc nào trắng trợn và rõ rệt hơn. Đó cũng là điều, trong mấy năm gần đây, nhóm trí thức cố vấn chính quyền Bush đã nhiều lần lặp lại, nhưng nhấn mạnh đây là "thứ ảnh huởng nhân hậu"(benign influence), những mục tiêu cao thượng (noble purposes), và đây là một chủ nghĩa đế quốc chính đáng và sáng suốt. Hay như chính George Bush đã nói trong diễn văn mở đầu nhiệm kỳ hai: "Phổ biến tự do ra khắp thế giới...là tiếng gọi của thời đại chúng ta"[31].
Như nhà sử học lừng danh Howard Zinn nhận định, Đế Quốc Hoa Kỳ luôn là một đề án lưỡng đảng - Dân Chủ và Cộng Hòa luôn thay phiên mở rộng đế quốc, ca tụng và cổ súy cho nó . T T Woodrow Wilson đã nói với các sĩ quan tốt nghiệp Hải Học Viện (Naval Academy), năm 1914 (năm ông cho oanh tạc Mexico), Hoa Kỳ "sử dụng hải quân và bộ binh của mình ...như những khí cụ truyền bá văn minh, không phải như khí cụ gây hấn"[32]. Và T T Bill Clinton, năm 1992, cũng đã nói với các sĩ quan tốt nghiệp West Point:"Các giá trị các bạn học được ở đây...sẽ có thể truyền bá khắp đất nước và ra khắp thế giới"[33].
Đối với nhân dân Hoa Kỳ , và nhân dân toàn thế giới, những lời xác quyết trên đây không sớm thì muộn sẽ được chứng minh hoàn toàn sai lầm. Những chiêu bài đó, thoạt nghe có vẻ thuyết phục, chẳng bao lâu sẽ bị phơi bày qua những cảnh tượng hải hùng không còn có thể che đậy: những xác người loang lỗ máu; những lính Mỹ thân thể bị xé nát, mất tay mất chân ; hàng triệu gia đinh mất nhà cửa, công ăn việc làm - ở Trung Đông, ở Đồng Bằng Mississipi, và ở nhiều nơi trên thế giới...
Theo Howard Zinn, những chiêu bài biện minh cho chính sách đế quốc đã thẩm thấu vào văn hóa Mỹ, đã tấn công đầu óc và sự hiểu biết của nhân dân Mỹ - chiến tranh là cần thiết để bảo đảm an ninh cho Mỹ, bành trướng thế lực là thiết yếu cho việc truyền bá văn minh..., đã bắt đầu mất dần hiệu lực. Phải chăng đã đến một thời điểm lịch sử, người Mỹ đã sẵn sàng chấp nhận một lối sống mới hài hòa cùng thế giới - bành trướng không phải thế lực quân sự mà tình đồng loại, tình người.
Nguyễn Trường
Irvine, California
20-4-2008
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Ira Chernus, Professor of Religious Studies at the University of Colorado, Monsters To Destroy: The Neoconservative War on Terror and Sin.
2. Noam Chomsky, Hegemony or Survival, America's Quest for Global Dominance, The American Empire Project, Metropolitan Books.
3. Patrick Corkburn, Muqtada: Muqtada al-Sadr, the Shia revival, and the Struggle for Iraq, Scribner, 2008.
4. Mark Danner, Professor at Bard College and Graduate School of Journalism, University of California, Berkeley, Torture and Truth: America, Abu Ghraib and the War on Terror, 2004; and The Secret Way to War: The Downing Street Memo and the Iraq War's Buried History, 2007, MarkDanner.com.
5. Chalmers Johnson, Professor Emeritus of the UC, San Diego and UC, Berkeley, Blowback Trilogy: Blowback (2000), The Sorrows of Empire (2004), Nemesis: The Last Days of the American Republic (2007) .
6. Howard Zinn, A People's History of the United States - 1492-Present, Harper Collins Publishers, New York,2005.
7. Magazines: The Economist, The Nation.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Hegemony or Survival, America's Quest for Global Dominance, Noam Chomsky.
[2]There is ample historical precedent for the willingness of leaders to threaten or resort to violence in the face of significant risk of catastrophe. But the stakes are far higher today. The choice between hegemony and survival has rarely, if ever, been so starkly posed.
[3] ...sovereign right to use force to defend ourselves.
[4] The need for a substantial American force presence in the Gulf transcends the issue of the regime of Saddam Hussein.
[5] ...simply unbelievable how the war has revived the appeal of a global jihadi Islam that was in real decline after 9-11.
[6] The world is safer today because, in Iraq, our coalition ended a regime that cultivated ties to terror while it built weapons of mass destruction.
[7] Every use of force is another small victory for bin Laden.
[8] ...would be very alarming to the Pentagon.
[9] ...lack of systematic oversight of the "insulated bureaucracies" that provide analyses of "limited and winnable nuclear war".
[10] ..are approaching the edge of a huge waterfall and are about to plunge over it.
[11] Of all the enemies to liberty, war is, perhaps, the most to be dreaded, because it comprises and develops the germ of every other.... (Delegating) such powers (to the president) would have struck, not only at the fabric of the Constitution, but at the foundation of all well organized and well checked governments.
[12] We will never again know peace, nor in all probability survive very long as a nation, unless we abolish the CIA, restore intelligence collecting to the State Department, and remove all but purely military functions from the Pentagon.
[13] ...may have been damaged beyond repair [and] it will take a generation or more [at best] to overcome the image of "America as Torturer".
[14] ...of the people, by the people, for the people...
[15] full-spectrum dominance.
[16] might makes right.
[17] ...it's used for social control, vengeance and a policy of degrading people regarded as sub-human because they happen to be less-than-white Arab or Afghan Muslims.
[18] The first case of what today we call imperial overstretch.
[19] Authorization for Use of Military Force - AUMF.
[20] ...the use of United States Armed Forces against those responsible for the recent attacks launched against the United States [and] giving the President ...authority under the Constitution to take action to deter and prevent acts of international terrorism against the United States....
[21] ...successful imperialism requires that a domestic republic change into a tyranny.
[22]Johnson "tried to present historical, political, economic, and philosophical evidence of where our current behavior is likely to lead".
[23] ...go back to work tomorrow... . ...a new kind of evil. And we understand. And the American people are beginning to understand. This crusade, this war on terrorism is going to take a while.
[24] Our responsibility to history is already clear: to answer these attacks and rid the world of evil.
[25] Can Iraq's Soldiers Fight?
[26] the bulk of these [deserters] were from fairly fresh troops who had gotten out of just basic training and were probably pushed into the fight too soon.
[27] ...a set of fiefdoms run by warlords and militiamen. ...The Bush administration and the US military have stopped talking of Iraq as a grand project of nation-building, and the U.S. media have dutifully done the same.
[28] I was an errand boy for Wall Street.
[29] The official 9-11 Commission.
[30] ...to exert upon the world the full impact of our influence, for such purposes as we see fit, and by such means as we see fit.
[31] Spreading liberty around the world ...is a calling of our time.
[32] The U.S. used "her navy and her army...as the instruments of civilization, not as the instruments of aggression.
[33] The values you learned here...will be able to spread throughout the country and throughout the world.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 19:51:56 GMT -5
Chính quyền Barack Obama và những thử thách đang chờ đợi Nguyễn Trường 17/12/2008 Diễn văn Barack Obama tại Chicago-Anh-Pháp-Việt Barack Obama đã đắc cử Tổng Thống với một đa số phiếu đầy ấn tượng. Không ai lấy làm ngạc nhiên khi cuộc bầu cử ngày 4-11-2008 đã được đa số các nhà quan sát xem như bước ngoặc trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ. Một biến chuyển như vậy đã hẳn rất hiếm hoi và đã diễn ra trong những trạng huống vượt quá tầm kiểm soát của những ai chủ trương phải thay đổi. Trong giai đoạn chuyển tiếp hiện nay, mọi người trên thế giới, đặc biệt là cử tri Mỹ, hy vọng đây là thời cơ để phục hưng chính trị ở Hoa Kỳ, đem lại một hình thái dân chủ nào đó trong tiến trình chấm dứt chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh triền miên, và phá sản, khởi đầu từ thời chiến tranh lạnh. Nhiều người còn xem kết quả tuyển cử vừa qua như một bản án đối với những lỗi lầm chính trị trong tám năm liền của chính quyền George W. Bush. Tuy nhiên, việc bầu đảng đối lập lên cầm quyền tự nó chưa hẳn có thể phục hồi một nước Mỹ xứng danh một siêu cường lãnh đạo thế giới đáng mong muốn. Thực vậy, trong hiện tình nước Mỹ, khó thể có một tổng thống đủ sức đương đầu với sức ép áp đảo của tập đoàn quân sự-kỹ nghệ, cũng như cộng đồng 16 cơ quan tình báo ngoại-hiến-pháp đại diện nhiều nhóm hậu thuẫn với quyền lực hùng hậu. Ảnh hưởng tai hại của một tổng thống chế mang tính đế quốc - sự lan tràn một bức màn bí mật chính thức, một mạng lưới cảnh sát, và quyền thám thính rình rập của nhà cầm quyền, sự định chế hóa một bộ quốc phòng thứ hai dưới tên gọi Bộ An Ninh Quốc Gia, và sự hiện diện của 761 căn cứ quân sự mang tính đế quốc trong 151 quốc gia trên thế giới tính tới năm 2008 - không dễ gì có thể đảo ngược qua quá trình vận hành bình thường của hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sự thắng cử của Barack Obama trong tháng 11 vừa qua hình như đã đánh dấu một thay đổi mới trong bản đồ cử tri của Hoa Kỳ tương tự như cuộc bầu cử năm 1932. Với sự đắc cử tổng thống của Franklin Roosevelt năm 1932, Hoa Kỳ đã bước vào một trong những giai đoạn thực sự dân chủ hiếm hoi. Thực vậy, trong cốt lõi của lý thuyết chính trị, dân chủ là những điều kiện, những trạng huống đem lại cho người dân cơ hội cải thiện đời sống qua sự thể hiện vai trò cử tri và áp đặt lên nhà cầm quyền trách nhiệm đáp ứng những hy vọng và nhu cầu của chính mình. Tuy nhiên, các nhà sáng lập ra nước Mỹ và hầu hết các vị lãnh đạo sau đó đều không mấy thiết tha với dân chủ hiểu theo nghĩa nầy. Họ đã ưa thích và lựa chọn thể chế cộng hòa với hệ thống chế ngự và quân bình (checks and balances) dưới quyền lãnh đạo của giới thượng lưu (elites) thay vì tập thể cử tri. Hệ thống chính trị Hoa Kỳ đã được khai sinh với khuyết tật nô lệ, vì vậy, không phải là thể chế dân chủ, hay đúng hơn, với một thiên kiến phản dân chủ. Trong bối cảnh đó, dân chủ đã luôn tiến triển chậm chạp, khó khăn và không trọn vẹn. Cộng hòa Hoa Kỳ phải mất ba phần tư thế kỷ mới chấm dứt chế độ nô lệ, mất thêm một trăm năm trước khi dân da đen được quyền đi bầu. Phải đợi đến thế kỷ 20, phụ nữ mới được quyền bầu cử và các nghiệp đoàn mới có quyền thương thuyết tập thể. Trong mọi trường hợp, những chiến thắng nầy chưa bao giờ được trọn vẹn: cho đến nay, phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng, kỳ thị chủng tộc vẫn còn dai dẳng, các nghiệp đoàn vẫn luôn là mục tiêu phá hoại trong chiến lược của các đại công ty. Dân chủ ở Hoa Kỳ không hề mang tính bẩm sinh, mà luôn phải phấn đấu để sống còn trong chính trật tự kinh tế xã hội của Mỹ. Chương trình New Deal của Franklin Roosevelt đã đem lại một giai đoạn ngắn tương đối dân chủ. Giai đoạn nầy đã chấm dứt với việc Hoa kỳ tham chiến chống lại phe trục Đức-Nhật-Ý trong Đệ Nhị Thế Chiến; và chương trình New Deal đã phải nhường chỗ cho kỹ nghệ sản xuất vũ khí và quân trang quân dụng. Chính nền kinh tế thời chiến - sản xuất để đáp ứng nhu cầu chiến tranh - cuối cùng đã giúp Hoa Kỳ vượt qua hệ lụy của cuộc kinh tế đại khủng hoảng và vãn hồi tình trạng toàn dụng. Kể từ đó, Hoa Kỳ đã bắt đầu thử nghiệm chính sách đồng thời duy trì một nền kinh tế quân sự bên cạnh một nền kinh tế dân sự. Qua thời gian, cuộc thử nghiệm đã đưa đến việc phân bố lệch lạc tài nguyên quý hiếm vào kỹ nghệ chiến tranh thay vì vào đầu tư và tiêu thụ thực sự, do đó, đã bào mòn khả năng cạnh tranh của kỹ nghệ Hoa kỳ trên thị trường quốc tế. Điều kiện kinh tế xã hội năm 2008 cũng không mấy khác năm 1932. Tỉ lệ thất nghiệp năm 1932 ở mức kỷ lục -33%. Mùa thu 2008, tỉ lệ thất nghiệp tuy ở một mức thấp hơn nhiều - 6.7%, nhưng áp lực kinh tế suy thoái rộng khắp: hàng loạt nhà mua trả góp bị thu hồi và phát mãi, nhiều ngân hàng và quỹ đầu tư vỡ nợ, giá cả thực phẩm và nhiên liệu tăng cao, ô nhiễm môi trường, cuộc chiến tốn kém ở Iraq và Afghanistan, thất bại trong chính sách đối ngoại (ở Georgia, Ukraine, Palestine, Lebanon, Iran, Pakistan,..), ngân sách ngày một khuy khiếm, cân thương mãi mất cân bằng trầm trọng. Chính trong bối cảnh đó, Barack Obama đã đắc cử Tổng Thống với một đa số phiếu quyết định, mặc dù đã phải đối đầu với Chiến Lược Miền Nam (Southern Strategy) của Đảng Cộng Hòa từ thời Richard Nixon (1968) nhằm khai thác chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong mấy thập niên cuối thế kỷ 20 và thập niên đầu của thế kỷ 21. Cuộc bầu cử 2008, vì vậy, có thể xem như một cuộc tuyển cử mang tính biến cải bản đồ cử tri nước Mỹ. Những Thử Thách Chờ Đợi Tổng Thống Tân CửTái cơ cấu hệ thống chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội của một quốc gia, nhất là của siêu cường Hoa Kỳ - một siêu cường đang tuột dốc - hay thiết lập một trật tự thế giới mới, là một công trình lâu dài đòi hỏi một viễn kiến lãnh đạo tích cực mang tính xây dựng và đạo đức, và sự đồng thuận của đa số các quốc gia đầy đủ chủ quyền trên thế giới. Nhiều nhà phân tích ở Mỹ cũng như từ nhiều nơi trên thế giới nhận thấy ở Tổng Thống đắc cử, Barack Obama, một lãnh đạo trẻ tuổi, năng động, thông minh, một chính trị gia sáng giá và tài ba, am hiểu tình hình thế giới. Vào ngày 20-01-2009 tới, Barack Obama sẽ thừa kế một thế giới khác xa thế giới George W. Bush tiếp quản vào tháng 01-2001. Obama đang đứng trước một tình thế ngày một cam go hơn và cùng lúc phải đối diện nhiều thử thách cấp tính và nghiêm trọng, hậu quả của các chính sách phiêu lưu, tai họa trong suốt tám năm cầm quyền của Bush. Khủng Hoảng Kinh Tế Tài Chánh Trong một bài viết đăng trên báo The New York Times, số ra ngày 18-11-2008, Henry M. Paulson thú nhận: Hoa Kỳ đang trải qua một cuộc khủng hoảng tài chánh nghiêm trọng và bất ngờ, hơn bất cứ cuộc khủng hoảng nào khác trong đời sống của thế hệ chúng ta...Vào tháng 9-2008, chính quyền đã phải đối đầu với một cuộc khủng hoảng trong toàn hệ thống . Chương Trình Cứu Cấp các Tích Sản Mất Giá (Troubled Asset Relief Program - TARP) của Paulson không mang lại ổn định cho hệ thống tài chánh, chẳng giúp được gì cho thị trường bất động sản hay giới nghèo không còn đủ khả năng trả nợ nhà hàng tháng, cũng như nền kinh tế đang bị lâm nguy. Cơn bão lốc tài chánh đã gây ra nhiều vấn nạn phi tài chánh hết sức quan trọng cho địa vị của siêu cường Hoa Kỳ trong tương lai. Ngay từ đầu, làn sóng âu lo đã biểu lộ một hình thức dàn trải quá mỏng mang tính đế quốc - một sự dàn trải quá mỏng của các xí nghiệp tài chánh khổng lồ của Wall Street. Đối với những xí nghiệp nầy, đó là hình thức những trái khoán dựa trên nguyên tắc đòn bẫy với điểm tựa thế chấp được đánh giá sai lầm, do đó, quá mong manh khập khiễng. Hay theo nhận định gần đây của John Grey trên báo British Guardian, sự hoảng sợ cũng bộc lộ một thứ dàn trải quá mỏng mang tính đế quốc khác - một sự dàn trải thế lực địa chiến lược của Hoa Kỳ, nêu lên vấn đề cần giải quyết: khoảng cách giữa những tài nguyên kinh tế, chính trị, quân sự đang suy yếu và những tham vọng lớn lao toàn cầu của Hoa Kỳ. Điều quan trọng là phải làm sáng tỏ những gì đang lâm nguy trên thế giới. Tùy theo cách nhìn của mỗi người, đây là một đề tài rất dễ được thổi phồng hay xem nhẹ. Rất ít ai trong giới truyền thông dòng chính chấp nhận ngay cả sự khả dĩ có những đổi thay lớn lao trong vị thế của Mỹ. Ngược lại, một số khác lại sẵn sàng dành một ý nghĩa cực lớn cho những gì đang xẩy ra, ngay cả trước khi tình hình lắng dịu. Như sử gia Andrew Bacevich đã có lời khuyên, tương lai chưa rõ ràng, và chưa có gì ngã ngũ. Dù sao, tưởng cũng cần tìm hiểu cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay cùng với sự suy yếu trong quyền lực cứng và mềm của Hoa Kỳ, và những yếu tố nầy sẽ làm thay đổi cảnh quan địa chính trị như thế nào trong những tháng năm sắp tới. Hậu Quả Của Cuộc Khủng Hoảng Tài ChánhCuộc khủng hoảng đã xẩy ra vì sự quản lý tín dụng và rủi ro sai lầm của toàn hệ thống tài chánh. Dụng cụ phức tạp credit-default swaps - CDS (gói trao đổi tín dụng-thiếu khả năng hoàn trái) được sáng tạo với mục đích giúp các định chế tín dụng giảm thiểu mức độ rủi ro không thu được nợ đầu cơ vào bất động sản, qua phương cách chia vụn các trái khoản để phân tán bất trắc giữa số đông các định chế tài chánh khác nhau. Cũng như các loại bảo hiểm khác, đây là phương cách trải mỏng rủi ro để tối thiểu hóa hậu quả của tai họa có thể xẩy đến. Trong thực tế, CDS chỉ khiến các nhà đầu tư bớt quan tâm đến nhu cầu phải lượng định trung thực các rủi ro bất trắc. Tệ hơn nữa, chính hành động phân tán rủi ro đã làm cho việc lượng định tính lành mạnh của mọi định chế khác vô cùng khó khăn. Điều nghịch lý là chính các dụng cụ giảm thiểu những hiểm tai bất trắc lại trở thành những dụng cụ làm rủi ro lan tràn. Rút cuộc, người ta không rõ, liệu sự sụp đổ của các thị trường trên toàn cầu là hậu quả của sự mất tin tưởng do nạn khô cạn thanh khoản hay vì các tích sản mất hết giá trị, một vấn đề mang tính căn bản hơn. Ngoại trừ một số nhỏ thành viên nòng cốt Cộng Hòa, đối với đa số các dân biểu, nghị sĩ trong Quốc Hội, sự phá sản và gần phá sản của Bear Stearns, Lehman Brothers, AIG, và nhiều công ty khác, đã đánh dấu sự phá sản của chính sách Alan Greenspan, nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, nhằm gỡ bỏ mọi giám sát đối với hệ thống tài chánh trong mấy thập kỷ vừa qua. Mô hình nầy đã lên đỉnh điểm trong hai nhiệm kỳ của TT George W. Bush, và nay đã đổ vỡ. Cuộc khủng hoảng tài chánh còn phơi bày những nhược điểm mang tính cơ cấu trong hệ thống chính trị của Mỹ - những nhược điểm đã đưa đến tình trạng một tổng thống vịt què nhiều tháng trước ngày mãn nhiệm kỳ. Quốc Hội cũng ở trong tình trạng tương tự, chẳng thể đưa ra một giải pháp thay thế nào. Nói một cách ngắn gọn, địa vị chính trị áp đảo của đảng Cộng Hòa cầm quyền đã chấm dứt khi phải đối diện với cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh, một cuộc khủng hoảng, dưới mắt cử tri, đã làm tiêu tan thẩm quyền và uy tín cũng như ý thức hệ thị trường tự do của đảng Cộng Hòa. Cuộc khủng hoảng đã xẩy ra trong giai đoạn chuyển tiếp hoàn toàn thiếu vắng một trung tâm quyền lực: chính quyền Bush sắp ra đi không còn được ai tin tưởng; chính quyền Obama sắp tới chưa có thực quyền; và hố cách biệt ý thức hệ quá sâu thẳm giữa hai bên ngăn cản mọi hành động phối hợp. Một vài hành động hữu ích - hai cơ quan Fannie Mae và Freddie Mac đã ra tuyên bố tạm ngưng các biện pháp thu-hồi-phát-mãi bất động sản (foreclosures); Quốc Hội đã thông qua biện pháp kéo dài thời gian được hưởng phụ cấp thất nghiệp - cũng chỉ mang tính vá víu tạm thời. Tất cả những sự kiện vừa nói đã diễn ra trước mắt một thế giới đầy âu lo kinh ngạc. Trong nhiều thập kỷ qua, ngạch số khuy khiếm (nhập siêu) trong cân thương mãi hữu hình của Hoa Kỳ luôn gia tăng- một thước đo mức độ thiếu nợ của Hoa Kỳ đối với các đối tác thương mãi, nay đã lên đến 6.700 tỉ kể từ năm 1982. Ngay cả trước khi cuộc khủng hoảng tài chánh bùng nổ vào giữa tháng 9-2008, thiện chí của các trái chủ quốc tế đối với tình hình tài chánh, thuế khóa, ngân sách quá mất thăng bằng của "siêu cường duy nhất" hình như đã tiêu tan nhanh chóng. Chẳng hạn, các nhà đầu tư Á châu đã nhanh chóng biểu lộ thái độ hoài nghi vô tiền khoáng hậu đối với hệ thống tài chánh của Hoa Kỳ trước khi cuộc khủng hoảng bắt đầu. Vào đầu năm 2008, các nguồn vốn dồi dào, với lợi tức từ dầu khí (petrodollars) của các xứ Trung Đông và Á châu, vẫn còn sẵn sàng đổ thêm tư bản vào các ngân hàng Mỹ, nhờ đó, đã giúp trì hoãn sự cố thanh khoản cạn kiệt. Tuy nhiên, từ tháng 9-2008, các quỹ nầy đã tỏ ra rất dè dặt e ngại trong việc tiếp sức cho các định chế tài chánh Mỹ, vì vậy, Hoa kỳ mất thêm một nguồn tài trợ khả dĩ đối phó với khủng hoảng thanh khoản và tín dụng. Đến một thời điểm nào đó, những điều kiện tín dụng toàn cầu chặt chẽ hơn chắc sẽ hạn chế đáng kể quyền tự do hành động của Hoa kỳ trên trường quốc tế. Xét cho cùng, các nhà đầu tư Trung Quốc và Đông Á hiện nay cũng đã đủ khả năng chế ngự, và ngay cả vô hiệu hóa, ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Dù muốn dù không, khủng hoảng tài chánh kinh tế không sớm thì muộn cũng dễ đưa đến khủng hoảng an ninh quốc gia. Trong những năm sắp đến, Tổng Thống mới Barack Obama rồi cũng phải giải quyết vấn đề mất quân bình ngày một quan trọng giữa vai trò bá chủ mang tính lịch sử của Hoa Kỳ trên thế giới và tiềm lực kinh tế tài chánh ngày một suy giảm của chính Hoa Kỳ. Nói một cách khác, Hoa Kỳ sẽ phải làm nhiều hơn với ít tài nguyên, phương tiện hơn, dù chỉ để duy trì thế lực chiến lược hiện nay. Và trạng huống mới sẽ ảnh hưởng như thế nào đến sự ổn định địa chính trị, đến những cuộc chiến toàn cầu lớn nhỏ, đến những vấn đề toàn cầu từ thay đổi khí hậu đến nhân quyền ..., là một điều còn phải chờ xem. Cuộc Chiến Chống Khủng Bố Toàn Cầu Tổng Thống Bush cũng đang để lại cho người kế nhiệm một cuộc chiến đã kéo dài hơn bảy năm và hiện đã hoàn toàn mất phương hướng. Đó là cuộc chiến chọn lựa và chỉ có lợi cho các nhà thầu quốc phòng, các tổ chức vận động hành lang, các viện nghiên cứu chiến lược, các tướng lãnh và sĩ quan đầy tham vọng... Đó chỉ là một tập hợp hư cấu, một trò chơi thiếu tính hệ thống, che đậy những hoạt động nghịch lý, phản tác dụng, hay ít nhất cũng chẳng có chủ đích đứng đắn. Cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố đối với các hoạt động khủng bố chẳng khác gì cuộc chiến chống nha phiến đối với tệ nạn lạm dụng và nghiện ngập hút sách. Tuyên bố một cuộc chiến thường trực chỉ có thể kéo dài một bi kịch, giả vờ đối phó với một vấn đề nghiêm trọng, trong khi các người làm chính sách chẳng quan tâm gì đến nguồn cội của vấn đề. Cuộc chiến chống ma túy là một sự lường gạt tốn kém. Cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố cũng thuộc loại nầy. Nhiều nhà quan sát đi tìm một ý niệm duy lý và mạch lạc có thể giải thích hành động của Hoa Kỳ ở Trung Đông và những vùng phụ cận, đều phải thất vọng. Trong đệ nhị thế chiến, T T Franklin Roosevelt liệt kê trước hết là "Đức" và kế đến là "đầu hàng vô điều kiện" như những nguyên tắc chính. Trong thời gian đầu của chiến tranh lạnh, chính quyền Truman đã đưa ra ý niệm ngăn bờ (containment) làm khung nguyên tắc hướng dẫn các nhà làm chính sách trong nhiều thập kỷ sau đó. Sau hơn bảy năm chiến tranh toàn cầu chống khủng bố, chính quyền Bush vẫn lẫn quẩn trong sa mạc không có lấy một địa bàn để tìm hướng đi. Nếu có một ý niệm chiến lược mơ hồ hiện hữu vào một thời điểm nào đó, như viễn kiến lố lăng của Phái Tân Bảo Thủ dùng sức mạnh của Hoa Kỳ để thay đổi thế giới Hồi giáo, những giả thuyết căn bản cho chiến lược nầy từ lâu cũng đã bị hủy hoại bởi các biến chuyển trong mấy năm qua. Ở Trung Đông và Nam Á, Hoa Kỳ hiện đang theo đuổi không phải một mà nhiều cuộc chiến.Cuộc chiến quan trọng nhất và cũng là di sản của Bush là cuộc chiến Iraq. Chính Bush luôn coi Iraq là mặt trận chính của cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Chuẩn bị bàn giao cho người kế nhiệm, Bush và một số ít tay chân thân cận còn lại, rêu rao đợt tăng quân năm 2007 cuối cùng đã đem lại viễn ảnh chiến thắng, khả dĩ chuộc lại những lỗi lầm trong cách điều hành cuộc chiến ngay từ đầu. Nếu TT Bush rời Bạch Ốc và có thể xác quyết cuối cùng ánh sáng cũng đã le lói ở cuối đường hầm Mesopotamian dài và đen tối, ông ta có thể nghĩ: ít ra chiến lược ông đang theo đuổi phần nào đã được biện minh. Trong trường hợp sau ngày 20-01-2009 sự việc không diễn ra như ý muốn, Bush vẫn có thể đổ lỗi cho người kế nhiệm. Kế đến là cuộc chiến Afghanistan, một cuộc chiến hiện đã bước vào năm thứ tám vẫn chưa có dấu hiệu dứt điểm. Bị sa lầy ở Iraq, các viên chức Hoa Kỳ không còn tâm trí dành cho Afghanistan mãi cho đến khi tình hình trở nên tồi tệ cả về chính trị lẫn quân sự. Al Qaeda vẫn kiên trì. Taliban ngày một táo bạo. Hy vọng vào sự trợ lực của NATO đã tỏ ra hảo huyền. Ngoài thành tích biến Afghanistan thành xứ sản xuất nha phiện số một của thế giới, những cố gắng bình định và canh tân Afghanistan của người Mỹ chẳng đi tới đâu. Trừ phi điều chỉnh lại mục tiêu theo đuổi, cuộc chiến chắc sẽ còn tốn kém về nhân lực và tài lực trong một thời gian rất lâu dài.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 19:56:23 GMT -5
Trong khi đó, còn có cuộc chiến được che dấu, đang diễn ra trước mắt mọi người, ở Pakistan. Tin tức về các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ từ không kích, nhất là bởi loại phi cơ không người lái có trang bị hỏa tiển, xẩy ra hàng ngày, đến các cuộc hành quân trên bộ, ít ra cũng một lần từ lãnh thổ Afghanistan vượt biên giới vào Pakistan. Mặc dù Tòa Bạch Ốc không hề gọi tên, cuộc chiến hao mòn Pakistan ngày một leo thang, gây thương vong cho một số khủng bố và nhiều dân lành. Điều tai hại là số khủng bố tử vong quá ít ỏi không đủ ảnh hưởng đến lực lượng Taliban, nhưng số thường dân thương vong lại khá nhiều đủ để giúp Taliban dễ dàng tuyển mộ tân binh thánh chiến.
Cuối cùng, tưởng phải nói đến cuộc chiến của Condoleezza Rice. Đây là cuộc chiến không có quân đội Hoa Kỳ trực tiếp tham dự, nhưng vẫn là cuộc chiến quan trọng hơn cả: cuộc xung đột đang tiếp diễn giữa Israel và Palestine. Sau nhiều năm gạt bỏ lập trường của thế giới Hồi giáo về số phận bi đát của người dân Palestine như một vấn đề tối hệ trọng, giờ đây, Ngoại Trưởng Rice thay đổi lập trường. Với sự nhiệt tình của một tân tòng, Condoleezza Rice quyết chí môi giới một thỏa ước chấm dứt cuộc xung đột trước ngày rời nhiệm sở vào tháng 1-2009.
Trong nhiều năm qua, Condoleezza Rice chẳng đưa ra được một sáng kiến đáng giá nào. Viễn ảnh thành công trong vai trò môi giới hòa bình của Rice không mấy sáng sủa. Cũng như di sản của Tổng Thống Bush gắn liền với Iraq, di sản của Ngoại Trưởng Condoleezza Rice phần lớn lệ thuộc vào cố gắng đem lại hòa bình cho Palestine. Nếu thất bại, lịch sử sẽ đánh giá bà như một bộ trưởng ngoại giao ít hiệu quả nhất từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Và Condoleezza Rice sẽ kết thúc nhiệm kỳ không để lại một thành tích đáng kể nào.
Không có gì bất thường hoặc sai trái khi đồng thời phải chiến đấu trên nhiều mặt trận khác nhau, chừng nào những sự tác chiến trên tất cả các mặt trận bổ túc cho nhau để đạt chiến thắng cuối cùng. Chẳng may, đây không phải trường hợp cuộc chiến toàn cầu chống khủng bố - một cuộc chiến hoàn toàn thiếu vắng mục tiêu chiến lược. Nói một cách khác, đó là một tai họa. Trong hơn bảy năm qua, Hoa kỳ đã phung phí một số tài nguyên kếch sù mà chẳng thu lượm được gì quý giá.
Cuộc chiến ngắn ngủi của Liên Bang Nga ở Georgia gần đây là một bằng chứng sinh động: lực lượng quân sự của siêu cường Hoa Kỳ đã dàn trải quá mỏng và đã đánh mất khả năng phản ứng đối với những biến động bất ngờ ở một nơi nào khác trên thế giới, ngay cả trước khi có cuộc khủng hoảng tài chánh kinh tế hiện nay. Ngoài những lời tố cáo vô bổ của Phó Tổng Thống Cheney, người Mỹ đã chẳng có, hay không thể có, một phản ứng ít nhiều hiệu quả đối với người Nga ở Georgia. Thực vậy, Tòa Bạch Ốc lúc đó đã nhận chân được vị thế suy nhược của mình, tương tự như các đồng minh Âu châu trước đây, chỉ có thể tự giới hạn trong những lời phản kháng phiền trách.
Tệ hơn nữa, chính quyền Bush rất có thể đã đồng tình với Georgia trong lỗi lầm chiến lược đưa đến khủng hoảng. Theo một số nhà phân tích quân sự, trước ngày xẩy ra biến động, Hoa Kỳ đã có sẵn 130 quan sát viên quân sự ở Georgia. Họ biết rõ các động thái điều động quân đội của Georgia, cũng như qua vệ tinh, có thể theo dõi quá trình Nga điều quân đến North Ossetia. Tuy vậy, Hoa Kỳ đã không can ngăn được đồng minh của họ tấn công vùng ly khai tự trị South Ossetia và thủ phủ Tskhinvali. Trong thực tế, rất có thể chính việc người Mỹ giúp huấn luyện và hổ trợ quân đội Georgia - để đổi lấy việc Georgia gửi quân tham gia liên minh tự nguyện ở Iraq - đã góp phần đem lại tin tưởng cho Saakashvili trong hành động xâm lăng phiêu lưu của mình.. Trong trường hợp nầy, chính quyền Bush đã thành công trong việc khuyến khích một đồng minh quan trọng bôi tro trát trấu vào mặt của chính mình.
Tình cảnh của người Mỹ ở Trung Đông cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Dù cho đợt tăng quân năm 2007 đã được xem như khá thành công trên sân khấu chính trị đảng phái quốc nội, sự thành công bền lâu, nếu có, cũng đã không giải quyết được sự bất ổn thù nghịch căn bản giữa các giáo phái Iraq, và cũng chẳng thay đổi được gì tình trạng mất quân bình ngày một trầm trọng trong khu vực, trong khi ảnh hưởng của Iran ngày một lớn lao hơn.
Khu vực đồi núi Pashtun dọc biên giới phía Đông Afghanistan và phía Tây Pakistan, ngược lại, đang trong tình trạng công khai nổi dậy chống lại tham vọng của Mỹ ở trong khu vực, trong khi chính quyền thân Bush ở Pakistan đã sụp đổ.
Người ta cũng đang viết điếu văn cho chế độ Karzai ở Afghanistan, một chế độ thực ra đã yểu tử ngay từ khi mới được khai sinh cách đây hơn 6 năm.
Sự suy giảm ảnh hưởng kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ cũng đã lôi kéo theo sự hao mòn trong "quyền lực mềm" của Hiệp Chủng Quốc. Chẳng hạn, trong tháng 9-2008, tại Liên Hiệp Quốc, chính quyền Bush đã phải đối mặt với làn sóng phiền trách về những lỗi lầm của Mỹ trong vai trò lèo lái kinh tế toàn cầu. Sự thất bại rõ ràng, trong một địa hạt người Mỹ thường rất tự hào, đã bào mòn khả năng thuyết phục và xây đắp đồng minh trong những vùng khác, như chống lại nạn tàn sát ở Dafur, tiểu trừ nạn cướp bể ở Vịnh Aden, hay chế ngự những toan tính của Liên Bang Nga trong những xứ sân sau mà họ thường gọi là những xứ "near abroad".
Uy tín đạo đức và vai trò lãnh đạo về nhân quyền của Hoa Kỳ cũng đã tiêu tan cùng với chính sách tra tấn, bí mật giam giữ và chuyên chở tù binh, với Guantanamo và nhiều nhà tù bí mật trên khắp thế giới...
Trong bối cảnh đó, Tổng Thống mới Barack Obama sẽ phải tìm cách lý giải nhiều câu hỏi gay cấn liên quan đến phương cách phục hồi uy tín và ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên thế giới.
Thử Thách Trong Đia Hạt Năng Lượng
Trong những thử thách đang chờ đợi Tổng Thống đắc cử Barack Obama vào tháng 1-2009, không gì quan trọng đối với tương lai Hoa Kỳ hơn là nguồn năng lượng. Xét cho cùng, chính sách năng lượng - hoàn toàn sai lầm trong suốt triều đại Bush-Cheney - đang hiện diện trong mọi thử thách chờ đợi Tân Tổng thống, kể cả kinh tế, môi trường, đối ngoại, và các cuộc chiến ở Trung Đông. Thực vậy, đây là một thử thách vô cùng lớn lao, bởi lẽ Hoa Kỳ đang đối diện một cuộc khủng hoảng năng lượng ngày một nghiêm trọng hơn.
Với 5% dân số thế giới, nước Mỹ tiêu thụ 25% hay 1/4 tổng số cung năng lượng toàn cầu. 40% con số nầy đến từ dầu hỏa: 20 triệu thùng hay 840 triệu gallons mỗi ngày. 23% đến từ than đá, và một bách phân tương đương từ hơi đốt thiên nhiên.
Cung cấp đủ số năng lượng đó, ngay cả khi kinh tế đang suy thoái, là một nhiệm vụ nặng nề, và sẽ còn nặng nề hơn nhiều trong những năm tháng sắp tới. Đó là chưa nói đến trách nhiệm giải quyết hậu quả khí thải nhà kính, gây ô nhiểm môi trường..., do quá trình tiêu thụ số năng lượng vừa nói.
Theo giáo sư Michael T. Klare, tác giả cuốn Rising Powers, Shrinking Planet: The New Geopolitics of Energy, sau ngày nhận chức, Tổng Thống Obama sẽ phải tìm cách giải quyết ba loại vấn đề then chốt trong địa hạt năng lượng liệt kê sau:
1. Hoa Kỳ đang lệ thuộc quá nhiều vào dầu hỏa để thỏa mãn nhu cầu năng lượng trong khi số cung dầu hỏa trong tương lai sẽ giảm sút và bấp bênh hơn.
2. Nguồn cung cấp nhiên liệu khá dồi dào của Mỹ là than đá, trong phương cách sử dụng hiện nay, luôn gây ra lượng khí thải nhà kính cao nhất (gấp đôi hơi đốt thiên nhiên, gấp rưởi dầu hỏa, để sản xuất cùng một số năng lượng).
3. Hiện nay không một nguồn năng lượng nào, kể cả hơi đốt thiên nhiên, năng lượng nguyên tử, nhiên liệu sinh học, năng lượng tái tạo như gió và năng lượng mặt trời, có thể hoàn toàn thay thế dầu hỏa và than, ngay cả khi có quyết định giảm bớt phân lượng của cả hai trong số năng lượng tổng hợp tiêu thụ ở Mỹ.
Trong hiện tình kinh tế suy thoái, giá dầu hỏa đã sụt giảm nhanh chóng, hơn 65% (xuống còn khoảng trên dưới 50 USD từ đỉnh điểm 147 USD/mỗi thùng trong năm 2007). Một lần nữa, những phương án đầu tư vào những nguồn năng lượng thay thế và tái tạo hình như không còn có lợi và không cần thiết, ngoại trừ lý do làm biến đổi khí hậu toàn cầu.
Tuy nhiên, phúc trình hàng năm sắp được phổ biến của Cơ Quan Năng Lượng Quốc Tế (International Energy Agency) lại cảnh cáo, giá dầu trong những năm sắp tới một lần nữa sẽ vượt mức 100 USD/một thùng, và sau năm 2030 hay sớm hơn, có thể lên tới 200 USD. Lý do là số cung dầu hỏa luôn hữu hạn và số cầu ngày một gia tăng, nhất là với sự trổi dậy của những đại cường tân kỹ nghệ hóa như Ấn Độ, Ba Tây, Trung Quốc.
Sự cạnh tranh tiếp cận các nguồn cung cấp năng lượng sẽ ngày một gay gắt hơn, có thể dẫn đến những cuộc chiến triền miên, vì năng lượng, nhất là phần lớn trữ lượng dầu hiện còn, đều tọa lạc trong những vùng bất ổn, đầy biến động. Giá dầu không sớm thì muộn sẽ gia tăng.
Nếu không chuẩn bị trước, nền kinh tế toàn cầu sẽ không tránh khỏi những xáo trộn mang tính địa chấn.
Đã hẳn, không thể nói thời điểm nào mới đúng lúc để đầu tư các tài nguyên khoa học, kỷ thuật, tài chánh vào một tương lai năng lượng thay thế an toàn, cần thiết cho nhân loại. Vì vậy, thiết tưởng đây là thử thách hàng đầu đối với chính quyền mới - một chính quyền có-thể-làm (a can-do administration) - theo lời của chính T T Obama.
Theo phần lớn các chuyên viên năng lượng, nhân loại đã sử dụng khoảng 50% tổng trữ lượng dầu hỏa nguyên thủy của địa cầu, và đang đến gần mức sản xuất tối đa. Không ai biết chắc mức sản xuất tối đa sẽ đến trong vòng 5, 10, 15 năm hay ít lâu sau đó, nhưng chắc không quá xa. Và mức đó cũng chỉ ở khoảng từ 90 đến 95 triệu thùng mỗi ngày thay vì 115-125 triệu thùng như Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ đã dự phóng.
Nhịp sụt giảm trong số sản xuất sau đó sẽ ngày một tăng tốc. Lý do là các mỏ dầu lớn, hiện đang sản xuất, đã đi vào khai thác cách đây từ 30 đến 60 năm, và nay đã gần cạn trữ lượng. Trước đây, người ta tin tỉ suất sụt giảm chỉ ở khoảng từ 4 đến 5% mỗi năm, nhưng theo kết quả khảo cứu công bố ngày 12-11-2008 của Cơ Quan Năng Lượng Quốc tế (IEA), thuộc Tổ Chức Hợp Tác Kinh Tế và Phát Triển (OECD - câu lạc bộ các nước kỹ nghệ giàu có), tỉ suất nầy sẽ vào khoảng 9%, một con số cao đáng ngạc nhiên. Với tỉ suất sụt giảm cao hơn, số trữ lượng của các mỏ dầu lớn đang sản xuất trên thế giới sẽ cạn kiệt nhanh chóng, và thế giới sẽ lệ thuộc những mỏ dầu nhỏ, ít trữ lượng, khó khai thác, hoặc tọa lạc trong những vùng bất ổn, cũng như những mỏ dầu mới có thể khai thác trong tương lai.
Mặc dù số tiền đầu tư vào việc tìm kiếm, thăm dò, gia tăng, các công ty dầu hiện nay đã không tìm được những mỏ dầu có kích cỡ lớn như các giếng dầu đã được khám phá trong những thập kỷ trước. Trong khoảng từ 1970 đến 1990, thế giới chỉ khám phá được hai khu dầu lớn, và một từ 1991 cho đến nay: khu dầu Kashagan ở Kazakstan trong vùng Biển Caspian. Trong thực tế, các công ty cũng đã khám phá được vài khu dầu khá lớn ở vùng biển sâu trong Vịnh Mexico và ngoài khơi bờ biển Angola và Brazil, nhưng cũng kém xa các khu dầu hiện đang sản xuất, và khó khai thác hơn nhiều. Trong mọi trường hợp, những khu dầu mới được khám phá cũng không thể giúp đảo ngược tỉ suất sụt giảm sắp tới trong số sản xuất toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, số cung dầu hỏa toàn cầu ắt sẽ bắt đầu sụt giảm trong một tương lai không xa, và sau khi số cung đã đạt mức đỉnh điểm, tỉ suất sụt giảm sẽ ở một mức cao hơn nhiều. Nạn suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay và sự sụt giảm bất thần trong giá dầu khí có thể tạm thời che mờ hiện tượng nầy, nhưng sẽ không làm thay đổi số cung một cách đáng kể.
Như đã nói trên đây, trong khi số cung dầu lửa trong tương lai sẽ sụt giảm, số cầu ngược lại sẽ gia tăng, do số tiêu thụ gia tăng ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ba Tây và các quốc gia đang phát triển.
Cho đến năm 1990, các quốc gia đang phát triển ở Á châu chỉ tiêu thụ khoảng 10% số dầu sản xuất trên toàn cầu. Tuy nhiên, với nhịp phát triển kinh tế nhanh trong gần hai thập kỷ vừa qua, tỉ suất nầy đã tăng lên đến 18%. Nếu số tiêu thụ tiếp tục gia tăng theo nhịp độ nầy, số dầu các xứ Á châu tiêu thụ sẽ lên đến 27% vào năm 2030, lần đầu tiên vượt mức tiêu thụ thuần của Bắc Mỹ. Điều nầy có nghĩa, nếu không có gì thay đổi trong thói quen tiêu thụ năng lượng hiện nay, Hoa Kỳ sẽ phải cạnh tranh, giành giựt với Trung Quốc và Ấn Độ từng thùng dầu khả dụng trong số cung trên thị trường thế giới, và giá dầu sẽ tăng vọt, phương hại cho nền kinh tế quá lệ thuộc vào dầu khí của Hoa Kỳ.
Tệ hại hơn nữa, số cung dầu hỏa trên thế giới sẽ ngày một tập trung nhiều hơn vào vùng Trung Đông, Trung Á, và sub-Sahara ở Phi châu, những vùng vì nhiều lý do lịch sử, hậu quả của chính sách thuộc địa trước đây, luôn bất ổn và đầy biến động. Ngày một lệ thuộc nhiều hơn vào nguồn cung cấp dầu hỏa từ những vùng nầy, Hoa Kỳ đã luôn dựa vào lực lượng quân sự để bảo đảm an ninh cho nguồn cung cấp năng lượng thiết yếu cho nền kinh tế, mặc dù không mấy hữu hiệu. Thực vậy, vùng Vịnh Ba Tư ngày nay cũng chẳng mấy ổn định hay hòa bình so với khi chủ thuyết Carter mới ra đời vào đầu thập kỷ 1980s.
Khi nói đến số cung năng lượng toàn cầu, người ta thường nghĩ đến một thiểu số quốc gia, có lẽ chỉ khoảng 12 xứ giàu tài nguyên năng lượng như dầu hỏa, hơi đốt, than đá, và uranium, không những đủ đáp ứng nhu cầu quốc nội mà còn một số thặng dư đáng kể để xuất khẩu. Các xứ nầy, do đó, không những đã xây dựng được một nền tài chánh phong phú, mà còn giành được một vị thế chính trị thuận lợi trong sinh hoạt địa chính trị toàn cầu.
Trong địa hạt dầu hỏa và hơi đốt thiên nhiên, các xứ thặng dư năng lượng có thể đếm được trên đầu ngón tay. Mười quốc gia giàu dầu hỏa sở hữu đến 82,2% trữ lượng khả dĩ khai thác trên toàn thế giới. Theo thứ tự tiệm giảm, đó là: Saudi Arabia, Iran, Iraq, Kuwait, United Arab Emirates, Venezuela, Russia, Libya, Kazakstan, và Nigeria. Số quốc gia giàu hơi đốt thiên nhiên còn ít hơn nhiều. Ba xứ Russia, Iran, và Qatar nắm khoảng 55,8% số cung toàn thế giới. Các quốc gia nầy giữ một địa vị ưu thế, có thể lợi dụng sự tăng giá năng lượng toàn cầu, và trong nhiều trạng huống, đã có lợi thế mặc cả và giành được nhiều nhượng bộ chính trị quan trọng.
Trong thế giới hiện nay, năng lượng chi phối đời sống hàng ngày của nhân loại, từ di chuyển, sưởi ấm, điều hòa nhiệt độ, du lịch, thức ăn, thậm chí đến cả chiến tranh và hòa bình. Vì vậy, thử thách lớn lao và cấp thiết đang chờ Tổng Thống và Quốc Hội sắp tới là tìm cách tốt nhất để tăng tốc quá trình chuyển đổi hệ thống năng lượng dựa trên dầu lửa, than đá hoặc hơi đốt thiên nhiên (a fossil-fuel-based energy system) qua hệ thống các năng lượng thay thế tái tạo và không thể tái tạo không tác hại đến môi trường.
Thay Lời kết luận
Nếu những lượng định trên đây là chính xác, Tổng Thống Obama sẽ phải đương đầu với nhiều thử thách cam go trong những tháng năm sắp tới. Nhận trách nhiệm vào một thời điểm đầy thử thách, Obama sẽ bị tràn ngập bởi nhiều cuộc khủng hoảng đang cùng lúc diễn tiến phức tạp, đòi hỏi nhiều tài nguyên: nhân, tài, vật lực. Cấp bách hơn hết là cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh toàn cầu; kế đến là cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, và khủng hoảng năng lượng.
Cố nhiên, ưu tiên số một phải là tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh. Đây cũng là đề tài đang được tranh luận sôi nổi hiện nay. Rất nhiều ý kiến đã được đưa ra trên báo chí và diễn đàn công luận. Điều quan trọng là không còn ai
tin tưởng cơ chế tự điều chỉnh của thị trường tự do. Ngược lại, mọi người đềù đặt hy vọng ở Tổng Thống và Quốc Hội mới, và chỉ còn tranh luận về trình độ quyết liệt của chính quyền trong hành động nhằm đảo ngược tình hình kinh tế tài chánh.
Một số đông kinh tế gia đã lên tiếng kêu gọi bành trướng chính sách thuế vụ-công trái (chấp nhận khuy khiếm ngân sách và gia tăng công trái) nhằm ngăn ngừa một sự sụp đổ kinh tế nhanh chóng. Một số khác lại âu lo gánh nặng khiếm hụt ngân sách đối với các thế hệ tương lai.
Trong hiện tình kinh tế tài chánh, tác dụng bù-trừ (trade-off) giữa hiệu quả đoản kỳ và trường kỳ không đáng lo ngại như nhóm bảo thủ nhấn mạnh. Ngược lại, một chính sách bành trướng thuế vụ-công trái, trong thực tế, có nhiều cơ may cải thiện kinh tế trong tương lai.
Luận cứ của nhóm bảo thủ cho rằng khiếm hụt ngân sách sẽ đưa đến suy yếu kinh tế trong trường kỳ, vì lẽ Nhà Nước vay mượn nhiều sẽ làm cạn nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân (crowd out private investment). Khi chính quyền phát hành nhiều công trái, lãi suất sẽ gia tăng, làm nản lòng khu vực tư nhân muốn đầu tư vào máy móc trang bị, do đó, giảm bớt tỉ suất phát triển trong trường kỳ. Trong trạng huống bình thường, lập luận nầy không phải không có giá trị.
Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong hoàn cảnh chẳng bình thường chút nào. Giả thiết chính quyền mới, thuận theo lập luận của nhóm bảo thủ, giảm thiểu chương trình bành trướng thuế vụ-công trái , liệu chính sách nầy trong năm tới có đưa đến một sự sụt giảm lãi suất ngắn hạn như họ chờ đợi ? Chắc hẳn là không. Cho đến nay, Cục Dự trữ Liên Bang đã giảm lãi suất xuống mức tối thiểu gần số không, và chắc chắn sẽ không thay đổi chính sách trừ phi có triệu chứng kinh tế trở nên quá nóng, một điều rất khó xẩy ra trong tương lai gần.
Riêng lãi suất dài hạn, hiện đang ở mức thấp nhất trong vòng nửa thế kỷ qua, cũng chỉ phản ảnh lãi suất ngắn hạn trong tương lai. Một chính sách khắc khổ có thể đẩy lãi suất ngắn hạn xuống thấp hơn - nhưng chỉ bằng cách tạo ra sự chờ đợi kinh tế tiếp tục suy thoái lâu dài và sâu đậm, một sự chờ đợi có thể làm suy giảm thay vì gia tăng đầu tư tư nhân.
Luận cứ chính sách thuế vụ-công trái khắc khổ khi kinh tế suy thoái trong thực tế chỉ làm giảm sút đầu tư tư nhân, không phải chỉ là một luận cứ mang tính lý thuyết. Điều nầy đã thực sự xẩy ra hai lần trong lịch sử thế giới gần đây.
Lần đầu vào năm 1937 khi Tổng Thống Franklin Roosevelt lỡ nghe theo lời khuyến cáo của các cố vấn quá âu lo về khiếm hụt ngân sách thời đó. Roosevelt đã giảm bớt công chi, nhất là cắt giảm 50% ngân sách Cơ Quan Works Progress Administration, và tăng thuế. Kết quả là kinh tế suy thoái trầm trọng, và đầu tư tư nhân sụp đổ.
Lần thứ hai đã xẩy ra 60 năm sau đó ở Nhật. Vào thời điểm 1996-97, chính phủ Nhật tìm cách quân bình ngân sách , cắt giảm công chi, và tăng thuế. Lập tức kinh tế suy thoái, lôi kéo theo suy sụp trầm trọng trong số đầu tư tư nhân.
Điều khiến chính sách thuế vụ khắc khổ thất bại ở Hoa Kỳ vào cuối thập kỷ 1930s và ở Nhật vào cuối thập kỷ 1990s là những trạng huống đặc biệt. Trong cả hai trường hợp, chính quyền đã chùn bước trước sự thắt chặt thanh khoản, một tình trạng trong đó nhà cầm quyền tiền tệ đã quyết định cắt lãi suất tối đa, tuy vậy, nền kinh tế vẫn không phục hồi.
Ngày nay, chúng ta cũng trong cùng cảnh ngộ và đang đối đầu với hiện tượng thiếu vắng chi tiêu trong khu vực tư. Giới tiêu thụ tái phát hiện lợi ích của hạn chế chi tiêu và tiết kiệm; giới kinh doanh, sau khi bị phỏng lửa vì quá tham lam liều lĩnh và bị trói tay bởi thảm họa trong hệ thống tài chánh, đã phải cắt giảm đầu tư. Đã hẳn, nạn thiếu hụt thanh khoản và tín dụng không sớm thì muộn sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi, các chi tiêu công của chính quyền phải điền vào chỗ thiếu vắng. Nếu không, đầu tư tư nhân và nền kinh tế nói chung sẽ suy sụp hơn nữa. Vì vậy, sự âu lo khuy khiếm ngân sách trong lúc nầy là việc làm không đúng lúc.
Hơn nữa, chính sách bành trướng thanh khoản và tín dụng trong thời điểm nầy sẽ đem lại một tương lai kinh tế tài chánh tốt đẹp hơn cho Hoa Kỳ, nếu phần lớn được dùng để tài trợ những công trình xây dựng hạ tầng cơ sở, đường sá, cầu cống, phát triển các công nghệ và kỷ thuật mới, và nhất là các nguồn năng lượng thay thế có thể và không thể tái tạo. Đây là một đề án với một tầm cỡ tương đương với Manhattan hay Apollo Moon Projects, nhưng mang tính thực tiển, xây dựng và hòa bình.
Trên đây là những mục tiêu được nhiều giới chuyên môn, chính khách, trí thức - ở Hoa Kỳ cũng như ở những nước ngoài - chia sẻ. Chỉ khi theo đuổi một nghị trình thể hiện những mục tiêu vừa kể, T T Obama mới có thể hy vọng vượt qua các khủng hoảng hiện đang đối diện siêu cường Hoa Kỳ. Ngoài ra, hướng hành động tốt nhất đối với giới lao động hiện nay cũng như con em của họ mai sau là phải làm tất cả những gì cần thiết để vực kinh tế trở lại con đường phục hồi càng sớm càng tốt.
Irvine, California
05-12-2009
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 20:52:35 GMT -5
Biệt lệ và thế kỷ của Hoa Kỳ: Một huyền thoại Nguyễn Trường 12/05/2009 Với sự tan rã của Liên Bang Xô Viết năm 1991, Hoa Kỳ đột nhiên được đẩy lên địa vị siêu cường duy nhất. Kỷ nguyên mới bắt đầu với tác phẩm The End of History and the Last Man (Chung cuộc của Lịch Sử và Người Cuối Cùng) của Francis Fukuyama xuất bản năm 1992, dọn đường cho sự ra đời của nhóm The Project For The New American Century năm 1997. Mười hai năm sau, vào đầu năm 2009, trong một bài báo trên tờ Washington Post, Richard Cohen viết: Điều Henry Luce gọi là "Thế Kỷ của Hoa Kỳ" đã đi vào dĩ vãng[1]. Cohen nói đúng. THẾ KỶ CỦA HOA KỲ RA ĐỜI Khi tạp chí Time-Life sáng tạo ra cụm từ lừng danh đó, ý định của tác giả là kêu gọi người Mỹ phải hành động. Xuất hiện trên tờ Life, số ra ngày 7-2-1941, bài The American Century đã được tung ra vào lúc thế giới đang lâm vào một cuộc khủng hoảng lớn lao. Cuộc chiến ở Âu châu đã bị chệch hướng một cách tai hại. Cuộc chiến thứ hai không kém nguy hiểm đang diễn ra ở Viễn Đông. Phe Trục hiếu chiến đang thắng thế. Với số phận của các quốc gia dân chủ đang lâm nguy, người Mỹ mãi chần chừ. Luce kêu gọi Hoa Kỳ nên "sốt sắng dấn thân chấp nhận nhiệm vụ và cơ hội của quốc gia hùng mạnh và nòng cốt nhất thế giới...để vận dụng toàn bộ ảnh hưởng của chúng ta trên thế giới nhằm thành đạt những mục tiêu chúng ta thấy thích hợp và bằng những phương tiện chúng ta thấy thích hợp".[2] Ngày nay nhìn lại, bài xã luận của Henry Luce, một pha trộn kỳ lạ thái độ ái quốc thái quá với tự tôn đến kiêu căng, không có đủ lý do để đứng vững. Tuy vậy, cụm từ "Thế Kỷ của Người Mỹ" đã được vồ vập và phổ biến nhanh chóng. Nó đã thượng tồn và giữ một vị trí trong kỷ nguyên đương đại tương tự như Thời Đại Victorian trong thế kỷ 19. Trong một cụm từ gẩy gọn, ý niệm nầy đã gói ghém được cốt lõi của một sự thật: nước Mỹ luôn sẵn sàng cứu rỗi và hỗ trợ, giữ vị trí tiên phong và hướng đạo trong lịch sử, và là nguồn cảm hứng cho nhân loại. Trong hình thức cổ điển, châm ngôn của "Thế Kỷ Hoa Kỳ" là Thiện thắng Ác, Chính thắng Tà. Hoa Kỳ, nhất là lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, bảo đảm sự đắc thắng của Thiện và Chính. Nhưng mãi đến khi được thúc đẩy lần chót ngày 7-12-1941, người Mỹ mới sẵn sàng chấp nhận nhiệm vụ lãnh đạo, nhờ đó, đã giúp thế giới thoát khỏi nhiều chế độ toàn trị tàn bạo kế tiếp. Và người Mỹ không những đã duy trì, mà còn trở thành mô hình, của tự do nhân bản. TỪ MẪU MỰC ĐẾN TỰ TÔN THÁI QUÁNguyên thủy của Thế Kỷ Của Hoa Kỳ, theo các tín đồ gốc Mỹ, là thế. Nhận thức nầy đặt ra hai vấn đề. Trước hết, các tín đồ Mỹ đã tự giành cho mình quá nhiều công trạng. Thứ đến, nhận thức quá chủ quan hay tự tâng bốc quá đáng đã loại ra ngoài, không quan tâm, hay quá coi thường nhiều sự kiện lịch sử. Hậu quả là người Mỹ đã nuôi dưỡng một loạt ảo tưởng - dù ít nhiều có giá trị trong nhiều thập kỷ trước đây - từ lâu không còn lợi ích thực tế. Nói một cách ngắn gọn, sự duy trì quá lâu dài một huyền thoại tự tôn đã khiến các tín đồ Mỹ đánh mất bản chất của chính mình, gây trở ngại cho chính nỗ lực lèo lái con thuyền quốc gia qua những thời kỳ sóng gió mãi cho đến ngày nay. Nói trắng ra, người Mỹ đã kéo dài cuộc sống trong huyền thoại, ngày một xa thực tế, và ngày nay đã biến thái thành một ung bướu ác tính. Mặc dù Richard Cohen có thể đã đúng khi tuyên bố Thế Kỷ của Người Mỹ đã cáo chung, dân Mỹ, nhất là giới lãnh đạo chính trị, vẫn còn chìm đắm trong huyền thoại tự tôn. Muốn rút tỉa những bài học quá khứ hữu ích cho hiện tại, người Mỹ phải biết sẵn sàng trả lại cho lịch sử những sự kiện Thế Kỷ Hoa Kỳ đã gạt bỏ ra ngoài. Chẳng hạn, trong chừng mức sự sụp đổ của các chế độ toàn trị xứng đáng được xem như một bài học lịch sử đương đại nổi trội, công đầu cho thành tích nầy rõ ràng thuộc về Liên Bang Xô Viết. Để đánh bại Đức Quốc Xã (Third Reich), Liên Xô đã phải gánh chịu đến 65% số thương vong của phe Đồng Minh trong Đệ Nhị Thế Chiến, so với 2% của Hoa Kỳ. Trước sự kiện lịch sử nầy, các cựu quân nhân lão thành Mỹ phục vụ trong thời Thế Chiến tưởng cần phải tỏ lời cám ơn với nguyên lãnh tụ Cộng sản Stalin. Việc Hoa Kỳ tự cho mình có công đầu trong quá trình triệt hạ Wehrmacht đâu khác gì hãng Toyota tự giành cho mình thành tích phát minh xe hơi. Người Mỹ trong thực tế đã nhập cuộc muộn màng, nhưng rồi nhanh nhẹn giành công đầu trong chiến thắng. Thế Hệ Vĩ Đại, thực sự, chính là thế hệ người Nga tự nguyện hy sinh hàng triệu đồng bào Xô Viết của họ để đổi lấy hàng triệu binh sĩ Đức Quốc Xã tử vong. Trong thời Chiến Tranh Lạnh tiếp theo sau Đệ Nhị Thế Chiến, hàng ngũ phe Đồng Minh trước đây đã biến thái thành những quốc gia đối lập cạnh tranh. Một lần nữa, Hoa Kỳ , sau nhiều thập kỷ tranh giành ảnh hưởng, đã nghiễm nhiên trở thành siêu cường duy nhất. Thành tích mới nầy đã phản ảnh rất ít vai trò xuất chúng của các chính khách Hoa Kỳ, trong thực tế, đã phản ảnh rất nhiều tình trạng bất lực của các vị cầm đầu Điện Cẩm Linh. Các lãnh đạo Nga, vụng về, khắt khe, độc đoán, đã phạm nhiều lỗi lầm trong vai trò lèo lái khối Xô Viết cho đến khi toàn bộ hệ thống tan vỡ, vĩnh viễn đánh mất uy tín của chũ nghĩa Marx-Lenin như một hệ ý thức thay thế, đối với chủ nghĩa tư bản dân chủ tự do. Con rồng Xô Viết đã tự hủy hoại. Các xứ Tây phương thật ra phải biết cám ơn các đồng chí Gueorgui Malenkov, Nikita Sergeyevich Khrushchev, Leonid Brezhnev, Yury Vladimirovich Andropov, Konstantin Ustinovich Chernenko và Mikhail Sergeyevich Gorbachev. Gueorgui Malenkov, Nikita Sergeyevich Khrushchev, Leonid Brezhnev Yury Vladimirovich Andropov, Konstantin Ustinovich Chernenko và Mikhail Sergeyevich Gorbachev LỖI LẦM VÀ TỘI ÁC Những gì các tín đồ của giáo phái "Thế Kỷ của Hoa Kỳ" đã gạt ra ngoài tự truyện huyền thoại, không những là phần đóng góp của phe "Ác-Tà", mà còn nhiều bước chệch đường, những lỗi lầm, những tội phạm của chính Hoa Kỳ - những nguyên nhân đưa đến những bi lụy của người Mỹ hiện nay. Những sai lầm và tội ác mang nhãn hiệu "made in Washington", nếu không thể xếp loại chung với nạn diệt chủng Armenian, cuộc cách mạng Bolshevik, thái độ cầu hòa với Adolf Hitler, hay Holocaust, cũng vẫn là những sự kiện lịch sử mang tính tai họa. Nếu được tính sổ một cách khách quan, các sự kiện nầy nhất thiết đã phải làm rúng động nhiều người, khiến khúc tự tình của giáo phái "Thế Kỷ của Hoa Kỳ"thêm phần chối tai chát chúa. Thử đơn cử một vài sự kiện quen thuộc, mặc dù hệ lụy của những sai lầm ngày nay chúng ta đang phải đối diện, luôn được cố tình che giấu. (1) CUBA: Năm 1898, Hoa Kỳ đã tuyên chiến với Tây Ban Nha dưới chiêu bài giải phóng khu vực được gọi là Hòn Ngọc Antilles (the Pearl of the Antilles). Khi cuộc chiến ngắn ngủi chấm dứt, Hoa Thịnh Đốn đã nuốt lời hứa. Nếu thực sự đã có một Thế Kỷ của Hoa Kỳ, thì đây là điểm khởi đầu, với chính phủ Mỹ đã chối bỏ một cam kết long trọng trong khi luôn tuyên bố trái ngược một cách sống sượng. Qua quyết định biến Cuba thành một xứ bảo hộ (protectorate), Hoa Kỳ đã khởi động một chuỗi dài các biến động cuối cùng đã đưa đến sự trỗi dậy của Fidel Castro, sự kiện Vịnh con Heo (Bay of Pigs), Chiến dịch Mongoose, vụ Khủng Hoảng Tên Lửa Cuban, và trại tù Guantanamo Bay hiện nay. Khúc tuyến nối liền các biến động vừa kể có thể không phải là một đường thẳng, với những bước ngoặc quanh co, nhưng luôn liên hệ chặt chẽ với nhau. (2) BOM HẠT NHÂN: Vũ khí hạt nhân thường trực đe dọa sự trường tồn của nhân loại. Được sử dụng bừa bải, loại vũ khí nầy có thể triệt tiêu mọi văn minh trần thế. Viễn tượng vài xứ tương đối nhỏ bé như Bắc Hàn, Iran, đang tìm cách thủ đắc vũ khí nguyên tử, cũng đủ gây căng thẳng cân não trên toàn thế giới. Tổng Thống mới Barack Obama, cũng như một số tổng thống Mỹ trước ông, đã tuyên bố: hủy bỏ loại vũ khí ghê rợn nầy là việc làm cấp thiết. Điều không một tổng thống nào muốn xác quyết là vai trò của Hoa Kỳ trong quá trình trùm phủ lên nhân loại hiểm họa nguyên tử tai ương nầy. Hoa Kỳ đã phát minh ra vũ khí hạt nhân. Hoa Kỳ - nước duy nhất trong câu lạc bộ hạt nhân - đã thực sự sử dụng bom nguyên tử như một vũ khí chiến tranh. Hoa Kỳ cũng là nước dẫn đầu trong việc xác quyết khả năng sử dụng vũ khí nguyên tử như tiêu chí quyền lực trong thế giới thời hậu chiến, khiến các cường quốc như Xô Viết, Anh, Pháp và Trung Quốc thi đua cố bắt kịp. Ngày nay, Hoa Kỳ vẫn duy trì sẵn sàng một kho vũ khí hạt nhân khổng lồ, và nhất quyết từ chối cam kết chính sách không-sử-dụng-trước (no-first-use policy), mặc dù luôn tỏ ra kinh tởm trước viễn tượng một nước nào đó lăm le noi gương Hoa Kỳ. (3) IRAN: Chìa tay trước cho Tehran, Tổng Thống Obama muốn mời gọi cấp lãnh đạo Cộng Hòa Hồi giáo buông lỏng nắm tay của mình (unclench their fists). Tuy vậy, nắm tay thù nghịch Iran phần lớn là tác phẩm của chính người Mỹ. Nhiều người Mỹ chỉ bắt đầu biết đến Iran từ cuộc khủng hoảng con tin năm 1979-81, khi một số sinh viên Iran chiếm tòa đại sứ Mỹ ở Tehran, giam giữ vài chục nhà ngoại giao và sĩ quan Mỹ, và áp đặt một bài-học-444-ngày-nhục-nhã lên chính quyền Jimmy Carter. Đối với đa số người Iran, câu chuyện quan hệ Mỹ-Iran đã khởi đầu sớm sủa hơn nhiều, đã thực sự bắt đầu từ năm 1953, khi một số nhân viên tình báo CIA, phối hợp với các đối tác người Anh, lật đổ chính quyền dân cử của Thủ Tướng Mohammed Mossadegh và phục hồi ngôi báu cho Shah of Iran. Âm mưu thành công. Quốc vương Iran, The Shah, giành lại ngôi báu. Người Mỹ được tưởng thưởng dầu khí cùng với một thị trường tiêu thụ vũ khí béo bở. Người dân Iran phải gánh chịu nhiều thua thiệt. Tự do, dân chủ không hề được phát huy. Thái độ thù nghịch năm 1979, với sự chiếm đóng tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Tehran, không phải không có lý do chính đáng. Jimmy Carter, Shah-Reza-Pahlavi (4) AFGHANISTAN: Tổng Thống Obama không phải phí nhiều thì giờ để biến cuộc chiến Afghanistan thành cuộc chiến của chính ông. Giống như người tiền nhiệm, Obama quyết chí đánh bại phe Taliban. Cũng như người tiền nhiệm, trước hết, Obama sẽ phải đối diện với vai trò của nước Mỹ trong việc khai sinh ra phe Taliban nguyên thủy. Hoa Thịnh Đốn, một thời, đã rất hãnh diện với sự thành công trong vai trò tiếp liệu vũ khí và viện trợ cho người Afghanistan cực đoan, trong cuộc thánh chiến chống quân chiếm đóng nước ngoài. Dưới thời Jimmy Carter và Ronald Reagan, thành tích nầy đã được xem như đỉnh cao của nghệ thuật trị quốc. Sự yểm trợ của Hoa Kỳ cho tổ chức Afghan Mujahideen đã gây rất nhiều nhức nhối, khó khăn cho người Xô Viết. Tuy nhiên, cùng lúc, đó cũng là đầu mối khai sinh ra ung nhọt ác tính để rồi lại gây ra nhiều tổn thất cho chính Hoa Kỳ - và quân lực Hoa Kỳ ngày nay đã sa lầy trong một cuộc chiến chưa thấy dứt điểm. Kaboul đổ nát HÀNH VI SẤM HỐINếu Hoa Kỳ trước đây đã hành động trái ngược, liệu Cuba đã có thể phát triển trở thành một nền dân chủ ổn định và thịnh vượng, một hải đăng hy vọng cho châu Mỹ La Tinh? Liệu thế giới đã tránh được hiểm họa vũ khí hạt nhân? Liệu Iran ngày nay đã có thể là một đồng minh của Mỹ, một hải đăng tự do trong thế giới Hồi giáo, thay vì một thành viên của trục ma quỹ? Liệu Afghanistan đã có thể là một xứ an lạc sống hòa bình với các nước láng giềng? Đã hẳn, không ai có thể đoan chắc điều gì đã có thể xẩy ra. Điều chúng ta biết chắc là các chính sách, do các chính khách kinh nghiệm, lừng danh, ở Hoa Thịnh Đốn, soạn thảo, ngày nay đã tỏ rõ cực kỳ sai quấy. Vậy người Mỹ nên xử lý như thế nào trước các chính sách rõ ràng thiếu sáng suốt nói trên? Nhiều người Mỹ có thái độ tiêu cực, thoải mái, và tự trấn an, tránh nhìn thẳng sự thật, nhờ đó, có thể duy trì tự truyện "Thế Kỷ của Hoa Kỳ". Đó là thái độ của phái Tân Bảo Thủ do nhóm Bush, Cheney, Rumsfeld, Condoleezza Rice, Wolfowitz...lãnh đạo. Bush, Cheney Rumsfeld, Condoleezza Rice, Wolfowitz Một số người Mỹ khác, tích cực hơn, lại nghĩ, nên tránh giải pháp dễ dàng đầy cám dỗ đó, và chấp nhận một thái độ hoàn toàn trái ngược: công khai thú nhận lãnh đạo chính trị trước đây đã sai lầm, người Mỹ đã làm hỏng mọi việc. Họ nghĩ chỉ có thái độ thẳng thắn, can đảm đó mới có thể giúp người Mỹ tránh lặp lại cùng những lỗi lầm. Có thể nói, Godfrey Hodgson, thuộc Đại Học Yale, và Andrew Bacevich, thuộc Boston University, là hai đại diện hùng hồn, mạch lạc nhất của nhóm nầy. Godfrey Hodgson, Andrew Bacevich Thực vậy, người Mỹ cần phải công khai nhận lỗi. Để tránh lặp lại sai lầm, người Mỹ cần một thái độ chân thành hối lỗi. Người Mỹ phải xin lỗi dân Cuba, vì đã làm vẩn đục quan hệ Mỹ-Cuba trong nhiều thập kỷ. Tổng Thống Obama nên đại diện nhân dân Mỹ xin lỗi người Nhật ở Hiroshima và Nagasaki. Tổng Thống Obama cũng nên tỏ rõ nổi hối tiếc sâu xa của nhân dân Mỹ với người Iran, người Afghanistan, và ngay cả với người Iraq, người Việt Nam..., về những tai họa gây ra do các chính sách can thiệp của Mỹ vào nội tình các xứ liên hệ. Theo nhóm thứ hai, Hoa kỳ nên làm những việc trên, và không nên chờ đợi một đáp ứng nào từ các xứ nạn nhân. Dù người Mỹ có nói gì, làm gì đi nữa, Fidel Castro cũng sẽ không thú nhận Cuba cũng có phần lỗi của mình. Người Nhật cũng sẽ không xếp Hiroshima chung với Pearl Harbor và xúy xóa. Các lãnh tụ Hồi giáo mullahs Iran, các lãnh tụ thánh chiến jihadists Afghanistan cũng sẽ không "let bygones be bygones"! 6/8/1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima giết 78 ngàn người ngay ngày đầu tiên... Người Mỹ phải xin lỗi họ, vì chính quyền lợi của nhân dân Mỹ - để tự gột rửa những kiêu căng "Thế Kỷ của Hoa Kỳ", và để xác nhận Hoa Kỳ đã tham gia vào các việc làm man rợ, điên cuồng, và thảm kịch của thời đại. Với những tội phạm đó, người Mỹ phải tự gánh lấy trách nhiệm. Để giải quyết những vấn đề trên, người Mỹ cần phải nhìn lại chính mình, để thấy rõ thực sự mình là ai. Muốn vậy, người Mỹ phải cùng lúc tự rủ bỏ mọi ảo tưởng trong huyền thoại "Thế Kỷ của Hoa Kỳ". HUYỀN THOẠI "BIỆT LỆ HOA KỲ"Những ai tin tưởng Hoa Kỳ có sứ mệnh đặc biệt - phát huy tự do, dân chủ, nhân quyền trên thế giới - hiện đang đứng trước một thời vận cực kỳ bất lợi. Hai cuộc chiến chưa thấy dứt điểm và sự sụp đổ của hệ thống tài chánh đang gieo rắc ấn tượng một siêu cường trên đà tuột dốc. Các lý tưởng của Hiệp Chủng Quốc, ngày một hoen ố dưới hai nhiệm kỳ tổng thống của George W. Bush, chỉ có thể được cải thiện bởi sự tái khẳng định tiềm năng của nước Mỹ qua tư cách của người kế nhiệm. Từ ngày khai sinh Cộng Hòa Hiệp Chủng Quốc, ý tưởng hứng khởi "thành phố trên đỉnh đồi"[3] luôn ẩn náu ở một nơi sâu thẳm trong tâm thức người Mỹ. Như Thomas Paine từng phát biểu, "Chính nghĩa của Hoa Kỳ phần lớn cũng là chính nghĩa của nhân loại"[4]. Nói một cách khác, Hoa Kỳ là biệt lệ, không chỉ hành động vì quyền lợi và tham vọng tranh giành đất đai và châu báu như bất cứ quốc gia nào, mà còn nung nấu bởi sứ mệnh, như lời của Lincoln, bảo đảm đem lại cho hành tinh ý niệm "chính quyền của dân, do dân, vì dân"[5]. Cốt lõi của ý niệm biệt lệ Hoa Kỳ (American exceptionalism) là một sứ mệnh , một niềm tin, của một quốc gia đang vâng theo tiếng gọi hướng thượng toàn cầu. Đây chính là ý niệm, Godfrey Hodgson - một tác giả người Anh rất thông hiểu Hoa Kỳ, đồng thời cũng là người tình đã vỡ mộng với Hoa Kỳ - đã mổ xẻ trong tác phẩm: "The Myth of American Exceptionalism"(Huyền Thoại về Biệt Lệ Hoa Kỳ). Như nhan đề đã gợi ý, Hodgson không bị thuyết phục bởi huyền thoại sứ mệnh toàn cầu của nước Mỹ. tác giả viết, Hoa Kỳ đã chỉ trở thành một trong những nước lớn nhưng thiếu hoàn hảo[6]. Không chỉ nghi ngờ, Hodgson còn giận dữ, thất vọng trước sự nhào nặn mang tính tôn giáo, tự tôn, và hữu khuynh, một ý tưởng vốn cao quí. Ông đưa ra luận cứ: Một tập hợp những niềm tin, trong cốt lõi mang tính tạo dựng tự do, đã bị thối rữa thui chột trong 30 năm qua bởi sự tự tin thái quá và quyền lợi riêng tư, nay đã biến thái thành một căn bản nguy hiểm cho chính sách quốc gia và hệ thống quốc tế [7]. Không ai có thể chối cãi hiện tượng "thối rửa, thui chột" vừa nói. Chính sách biệt lệ hung bạo đã biểu hiện rõ nét trong quá trình tranh cử trong năm rồi khi các đảng viên Cộng Hòa, một đảng chính trị với sức mạnh tinh thần cằn cổi, đã ra sức thu góp chút năng lượng chính trị còn leo lét từ ý niệm thiên mệnh cuồng nhiệt trong suốt 8 năm cầm quyền của đảng Cộng Hòa. Nhưng cử tri Mỹ không còn tha thiết với chiêu bài biệt lệ; họ chỉ vồ vập chương trình bảo hiểm y tế kiểu Âu châu. Vào thời điểm quyết định nầy, tác phẩm của Hodgson đã đem lại một sự thẩm duyệt điều mà tác giả gọi là tự truyện chắt lọc và biến dạng về đức tính biệt lệ của Hoa Kỳ[8]. Ngay từ đầu, Hodgson đã nói, Hoa kỳ thực ra ít "biệt lệ" hơn là họ tưởng tượng. Nếu đọc lại lịch sử, chúng ta hẳn biết: các nhà lập quốc là những hậu duệ tinh thần của Thời Đại Khai Sáng, tư tưởng chính trị cấp tiến của họ đã được un đúc bởi John Locke, David Hume, Charles Montesquieu và François Voltaire[9]. John Locke, David Hume Charles Montesquieu và François Voltaire Theo Hodgson, bên cạnh những dị biệt, Hoa Kỳ và Âu châu trong thế kỷ 19, trong cốt lõi, đều là thành tố của cùng một nền văn minh tư bản tự do, cấp tiến[10]. Tuy nhiên, Hodgson vẫn xác quyết, cuộc cách mạng Hoa Kỳ đã khai sinh một Cộng Hòa rộng lớn đầu tiên trên thế giới, và đã thay ý niệm quyền do thiên mệnh, thừa kế, và tính chính đáng tục thức với quyền hành tối thượng của người dân[11]. Điều đáng ngạc nhiên là tất cả những nét độc đáo đó đã được thể hiện ngay cả khi giới lãnh đạo đương quyền vẫn chấp nhận cái mà Hodgson gọi là dòng mạch đức tin tôn giáo vào số phận trong khuôn mẫu ái quốc của người Mỹ - thứ sở thích loại ngôn từ chuộc tội và cứu rỗi rất rõ nét từ Lincoln qua Woodrow Wilson cho đến Reagan và Bush[12]. Lincoln, Woodrow Wilson, Reagan Tác phẩm của Hodgson trải dài theo hai lối: con đường của một dân tộc, từ chủ nghĩa biệt lệ vươn tới chỗ quá-tầm-với và ngông cuồng, và con đường chính tác giả dõi theo, từ một phóng viên trẻ tuổi ở Hoa Thịnh Đốn tìm thấy cảm hứng trong "Đại Xã Hội với bình đẳng chủng tộc và sẻ chia thịnh vượng" đến vỡ mộng cay chua[13]. Đôi khi phần tự truyện của phóng viên hầu như lấn át phần tự truyện của cả một dân tộc. Chẳng hạn, Hodgson nói, biên giới mới dài rộng của Hoa Kỳ đã đem lại cho nước Mỹ một sắc thái khác với Âu châu, và đã giúp định hình những ý niệm riêng về tự do; nhưng tác giả đã không thể cưởng lại ý tưởng riêng nên đã phải viết tiếp: ký ức tập thể của người Mỹ đã đưa đến sự thẩm định thiếu sót về tầm mức ảnh hưởng của các biến cố trong lịch sử Âu châu đối với quá trình bành trướng về phía tây của chính Hoa Kỳ[14]. Đã hẳn, việc tậu mãi Louisiana là một giao dịch bất động sản kỳ diệu phương hại cho người Pháp, nhưng thử hỏi cử chỉ đó đã làm giảm thiểu tinh thần đặc thù cá nhân chủ nghĩa và doanh thương của người Mỹ như thế nào? Tác phẩm của Hodgson đăc biệt thuyết phục khi mô phỏng quá trình biến thái trong tư tưởng của người Mỹ trong những thập kỷ gần đây. Sự kiện Chiến Tranh Lạnh cáo chung đã để lại siêu cường duy nhất Hoa Kỳ với sứ mệnh toàn cầu được tăng cường mang tính định mệnh. Bắt đầu với phản ứng của phái bảo thủ trước cao trào phản văn hóa (counterculture) của thập kỷ 1960s, chính trị Mỹ đã rẽ lối qua phía hữu, vun quén huyền thoại uy lực Hoa Kỳ. Giới lao động lép vế trước các đại công ty chủ nhân và giới tài phiệt Wall Street được hoàn toàn buông lỏng tự tung tự tác trong khi chủ nghĩa tư bản giữ địa vị chủ nhân ông như một cánh của huyền thoại biệt lệ Hoa Kỳ ngang hàng với lý tưởng dân chủ. Chiến tranh văn hóa đã đưa đến sự trỗi dậy của cánh hữu tân cơ đốc quyết tâm bảo vệ hệ giá trị Mỹ, không những chống lại văn hóa tự do luyến ái của các đô thị duyên hải, mà cả văn hóa Canada và Âu châu đang miệt thị văn hóa tôn sùng hình phạt tử hình. Hậu quả, theo Hodgson, là một Hiệp Chủng Quốc biệt lệ không phải nhờ giá trị đạo đức mà vì các bất cập và hoang tưởng. Số phạm nhân cao giữ kỷ lục biệt lệ. Chất lượng các dịch vụ y tế tồi tệ đến mức biệt lệ. Cấp độ bất quân bình xã hội cũng sâu rộng biệt lệ. Giáo dục công lập cũng xuống cấp một cách biệt lệ. Xu hướng Mỹ hóa sự kiện Holocaust và ủng hộ Do Thái một cách mù quáng vô điều kiện đã chứng tỏ khả năng nhắm mắt trước các sự thật phủ phàng, kể cả thái độ thờ ơ của Mỹ trước nạn diệt chủng của Hitler khi đang tiếp diễn. Mọi chi tiết từ số phận hẩm hiu của sắc dân da dỏ bản địa đến tính keo kiệt trong ngạch số ngoại viện Hoa Kỳ đều được đơn cử như những nguyên do đáng phiền trách. Dù phải bỏ qua những tiểu tiết, cũng phải công nhận Hodgson đã nắm bắt được vấn đề. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá khắt khe để kết luận một Hoa Kỳ, không quá tự tôn, ôn hòa và trách nhiệm, chỉ nên ứng xử như bất cứ một thành viên nào khác trong cộng đồng quốc tế. Hoa Kỳ đã được khai sinh như một ý tưởng, vẫn có thể và nên theo đuổi lý tưởng của mình. Trên nhiều phương diện, Hoa kỳ vẫn còn có thể là thành trì ý thức hệ cuối cùng của hành tinh. Chúng ta đều biết Ấn Độ và Trung Quốc là những đại cường đang lên, nhưng vẫn chưa thể xác quyết họ đang và sẽ đại diện cho một hệ tư tưởng hay giá trị phổ quát nào. Một Hoa Kỳ hồi sinh và hoàn toàn đánh mất hình ảnh một quốc gia tiên phong theo đuổi lý tưởng tự do, dân chủ, pháp trị, và tự do kinh doanh, là một điều chưa hẳn đáng mong muốn. Bí quyết là bằng cách nào để thể hiện và phát huy những lý tưởng đó trong một thế giới liên kết hỗ tương với nhiều vấn đề đòi hỏi giải pháp chung. Cường điệu, kiêu căng, tham lam, bá quyền, kẻ cả ... không phải là con đường dẫn tới tiến bộ. Hòa hợp, tương kính, tương thân, tương trợ, tương nhượng ...có lẽ là lý tưởng với nhiều cơ may đem lại hòa bình, thịnh vượng, hạnh phúc cho thế giới ngày mai. Tổng Thống Obama cho biết ông tin ở biệt lệ Hoa Kỳ, một biệt lệ cơ sở trên giá trị nhân bản hơn là cường lực. Ông cũng đã bắt đầu điều chỉnh những sai lầm Hodgson liệt kê trên đây. Thách thức lớn nhất đối với Obama là bằng cách nào thể hiện được những cải cách thiết yếu mà không phương hại, tổn thương những lý tưởng cao đẹp nói trên của người Mỹ. Để thành công, có lẽ Obama cần chứng tỏ một thái độ ôn hòa vừa phải, cần chọn lựa những ngôn từ sám hối nhẹ nhàng khả dĩ đoàn kết toàn dân Mỹ trong niềm tin của Lincoln "hy vọng tốt đẹp nhất cuối cùng của hành tinh"[15]. Mong lắm thay! GS Nguyễn Trường Irvine, CA, USA 9-5-2009 SÁCH THAM KHẢO: (1) The Limits of Power: The End of American Exceptionalism, Andrew Bacevich, 2009, Amazon.com. (2) The Myth of American Exceptinalism, Godfrey Hodgson, Yale University Press, 2009.
|
|
|
Post by votieugiap on Jul 29, 2009 20:27:04 GMT -5
LÀM CÁCH GÌ ĐỂ BẢO VỆ TÍNH MẠNG TỔNG THỐNG MỸ?
Tâm sự của đoàn cận vệ cảm tử đem mạng sống của mình che chở cho nhà lãnh đạo Hoa Kỳ
30 triệu đô la để giữ an ninh cho một ứng cử viên tổng thống
Hà Ngọc
Câu chuyện dưới đây diễn ra ở Mỹ quốc nhưng cũng là một hoàn cảnh chung của một số quốc gia dân chủ tây phương. Nước càng tự do, nhà lãnh đạo càng phải đương đầu với nhiều bất trắc lớn lao không cứ về mặt chính trị mà riêng về bản thân cũng thường xuyên bị đặt trong tình trạng bất ổn. Nhà nguyên thủ luôn phải xê dịch, xuất hiện trước quần chúng, tiếp xúc và nói chuyện. Cứ mỗi lần như vậy, giữa rừng người tập trung hai bên đường hân hoan chào đón thì lại có biết bao âm mưu đen tối rình rập tìm cách sát hại ông. Vào thời khắc ấy, bộ máy an ninh báo động toàn diện, và đối với những nhân viên có trách nhiệm bảo vệ thì khỏi nói, thần kinh của họ bị căng thẳng hơn lúc nào hết.
Năm 2000 vừa qua là mùa tranh cử tổng thống Hoa Kỳ. Vì thế, ngoài việc bảo vệ đương kim tổng thống, cơ quan an ninh Mỹ còn phải là “cặp mắt thần” bàm sát che chở mạng sống của hai ứng cử viên thuộc về hai đảng Dân Chủ – Cộng Hòa trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc. Và đây cũng là lần đầu tiên người dân Mỹ Quốc và thế giới bên ngoài được nghe biết tường tận về mạng lưới bảo vệ “một tổng thống” gay cấn đến nhường nào qua những lời tiết lộ của Dennis Mc Carthy. Ông là người đóng vai trò chủ chốt trong liền 28 năm, ngày đêm giữ gìn an ninh cho 5 vị tổng thống tiền nhiệm mà mạng sống đứng vào hàng bậc nhất hoàn cầu, luôn như sợi chỉ mành treo chuông. Dennis Mc Carthy cùng với những cộng sự viên thân tín của ông đã tuyên thệ hy sinh đời mình để lo cho sinh mệnh Tổng Thống Mỹ trong bất kỳ trường hợp hiểm nghèo nào xẩy ra. Họ đã khổ công tập dượt, ứng phó trước mọi tình huống, nhất là khi đi bên cạnh tổng thống. Họ luôn luôn là những bình phong vô hình hoặc có lúc lại là những chiếc mộc sẵn sàng hứng đạn thay cho tổng thống. Nhưng vẫn chưa một ai trong bọn họ tìm được sự yên tâm cho dù kỹ thuật đề phòng tinh vi đến đâu, vì súng đạn vốn ... vô tình. Và lằn đạn đi, đâu có báo trước từ một hướng nào. Trong rừng người, ở một mái nhà cao vót, tại một góc đường êm ả ... chỗ nào chẳng là cứ điểm phát xuất tiếng nổ chết người, sát hại tổng thống. Bố trí, bảo vệ tuyệt hảo đến đâu vẫn không thể tự liệu được hết, trước những bất ngờ của hoàn cảnh thực tế. Cho nên, sứ mạng bảo đảm an toàn tuyệt đối mạng sống của nhân vật quyền lực bậc nhất thế giới tây phương là một ám ảnh ray rứt 24 trên 24 tiếng trong ngày đối với hệ thống an ninh Mỹ quốc ngày nay.
Dennis Mc Carthy thổ lộ: Lúc ban mai, khi vừa mở mắt đón những tia sáng bình minh, câu hỏi hãi hùng chứa chất đầu tiên đã hiện đến trong tôi là làm thế nào ngăn chận cho kỳ được một kẻ sát nhân (như lee Harvey Oswald, kẻ bắn cố TT Kenedy). Mối đe dọa ghê gớm kia đeo đuổi chúng tôi đến tận cùng buổi chiều tà nhường chỗ cho màn đêm bao phủ. Tóc xanh của bọn người chúng tôi sớm ngả mầu muối tiêu cũng là điều dễ hiểu. Hoa Kỳ há đã chẳng có một quá khứ lập quốc nặng nề sao, bắt nguồn từ cuộc “chinh phục miền Tây” với những năm tháng dài triền miên chìm đắm trong bạo lực, trong súng nổ máu rơi. Lịch sử này, cảnh tượng này làm gì có ở Âu Châu đâu? Chẳng những thế, vì nhiều nguyên nhân xã hội phức tạp, trên đất Mỹ có khá đông những con bệnh thần kinh (đâu chỉ có những âm mưu của phía địch bên ngoài). Họ trút tất cả trách nhiệm vào ông tổng thống. Không công ăn việc làm, gia đình gãy đổ, rồi ngay đến bệnh tật đau đầu nhức óc ...cũng tại tổng thống hết. Có nhiều trường hợp, họ kéo nhau trước Tòa Bạch Cung đòi gặp tổng thống chỉ vì những lý do không đâu vào đâu. Thật tình, hiện tuợng này ít thấy có ở một quốc gia nào khác ngoài Hoa Kỳ.
Cái khối người hành động vì những động cơ cá nhân này, có chừng 40.000 tản mác trên khắp các tiểu bang. Cơ quan an ninh Liên Bang đều nắm rõ lý lịch và địa chỉ của chúng. Trong số, phân loại, có rất nhiều kẻ “cuồng loạn”, “mê sảng”. Ngoài đường phố qua lại, chúng có vẻ bình thường, cho tới một giây phút bất chợt nào đấy, chúng nhìn thẳng vào... “mục tiêu” và nổ súng. Đến lúc đó thì không ai kịp đề phòng nữa. Giữa đám nguy hiểm này – bọn được nhận diện là “cực kỳ nguy hiểm” tình nghi sát hại tổng thống, có khoảng 200 tên. Cứ mỗi dịp tổng thống rời Tòa Bạch Cung đến thăm một nơi nào thì bộ máy an ninh mất ăn mất ngủ. Nhiều phương pháp đối phó được đem áp dụng, bao vây chúng. Chỉ cần có một hai kẻ di chuyển ra khỏi thành phố chúng cư ngụ là đạo quân an ninh bám sát ngay, thông báo cho nhau sát nút. Nhưng đứng trên tất cả vẫn là thiểu số “công dân” không thuộc vào các thành phần trên. Những phần tử này, ngoại hạng. Họ “hiền hòa” như bao triệu người khác, chưa hề gây sự lưu ý nào cho guồng máy an ninh, như Lee Oswald, thủ phạm giết TT Kenedy hoặc như John Hinckley, kẻ bắn TT Reagan vào năm 1981. Với các chuyên viên thượng thặng bảo vệ tổng thống thì đây là một ám ảnh khủng khiếp nhất- người ta mệnh danh hung thủ không khác nào những “trái bom nổ chậm”.
Để dẫn chứng, nhà chuyên viên từng “sống chết” với TT Reagan, ông Dennis Mc Carthy thuật lại câu chuyện nhiều năm về trước: “Hôm ấy, ngày 30/3/81 vừa kết thúc bài diễn văn trước một cử tọa đông đảo tại sảnh đường Hilton Hoa Thịnh Đốn, TT Reagan cáo biệt ra về Tòa Bạch Ốc. Tôi bước ra trước, đảo mắt nhìn quanh khắp lượt. Hoàn toàn không có gì khả nghi. Chỉ là một quang cảnh khá quen thuộc. Dân chúng tập trung vẫy tay hoan hô, chào mừng tổng thống. Nét vui tươi hiện rõ trên khuôn mặt từng người. Khi tổng thống chỉ còn cách chiếc xe hơi lộng lẫy bọc thép chống đạn độ 5m, bỗng tai tôi nghe như có một tiếng pháo nổ, tiếng nổ từ trái bong bóng của trẻ em thường thả bay lơ lửng thì đúng hơn. Rồi một tiếng thứ hai kế theo liền. Đúng là tiếng súng rồi! Và cùng lúc tôi nhìn thấy nòng súng đưa lên, phản ứng bén nhậy lẹ như tia chớp, tôi lao mình tới phía hung thủ. Mọi sự chỉ diễn ra trong một giây rưỡi đồng hồ nhưng đủ để cho kẻ sát nhân bắn ra 6 viên đạn. Tôi quật ngã y trong khoảnh khắc. Thời gian ấy, TT Reagan còn có thêm cố vấn Bạch Cung James Brady và một nhân viên bảo vệ bị trúng đạn. Quả thật cái điều chúng tôi nơm nớp lo ngại đã đến. Cả đời tôi tập dượt, chuẩn bị ứng phó hàng trăm lần trước những tình huống gay cấn như trên, thường được anh em chúng tôi mệnh danh tắt là “A.O.P” (Attack on the President). Tuy nhiên, tập gì thì tập, khi “tổng thống bị hung thủ ra tay ám hại”, tất cả chúng tôi hoàn toàn hành động theo phản ứng mà phản ứng thích nghi duy nhất là đem thân mình ra đỡ đạn. Chúng tôi triệt để chấp nhận điều này không hề bao giờ thắc mắc.”
Khi được hỏi về nguyên nhân thành lập cơ cấu bảo vệ tổng thống sao lại trao vào tay cơ quan Mật Vụ, và sứ mạng ấy có những siêu bí mật nào, Dennis Mc Carthu giải đáp: “Nếu có điều bí mật như dư luận muốn biết, chẳng qua chỉ bởi từ cái danh xưng của tổ chức ấy mà thôi. Khởi thủy, thật là một sự trớ trêu, vào năm 1865, cố TT Abraham Lincoln cho lệnh thành lập cơ quan Mật Vụ, và chỉ được ít ngày sau, lại chính TT bị ám sát! Đầu tiên, TT Lincoln muốn tạo ra nó để truy lùng và tiêu diệt bọn tứ chiếng giang hồ hoành hành ở miền Tây Hoa Kỳ. Thành tích bất hảo ở chúng là chuyên “làm bạc giả”. Chính phủ Liên Bang cần “cài” người của mình vào trong tổ chức của bọn vô chính phủ này. Nhưng phải đợi đến năm 1902, sau vụ ám sát thứ hai xẩy đến cho TT Mc Kinley, quốc hội mới bỏ phiếu chấp thuận đạo luật cho cơ quan Mật Vụ có sứ mạng bảo vệ trực tiếp TT Hoa Kỳ. Và, sở dĩ chọn như vậy cũng là vì ngẫu nhiên thôi, bởi vì cơ quan này ở kế cận Bạch Cung. Mỗi khi có chuyện cần, điều động nhân viên cũng thuận tiện hơn.
Trong thực tế, không phải vị TT nào cũng “muốn được bảo vệ”. Có vị khó chịu ra mặt. Nhưng luật là luật. Tỉ dụ,với TT Jimmy Carter. Ông không có vấn đề gì gay go đặt ra trong suốt nhiệm kỳ . Ông không có “kẻ thù”. Vì thế, ông bực bội khi thấy đoàn an ninh bao quanh. Có lúc, trong bọn chúng tôi đã phải nhã nhặn thốt ra: “Thưa tổng thống, chính Quốc Hội đã gửi chúng tôi đến đây. Chúng tôi phải làm tròn bổn phận...” Vai trò của sở Mật Vụ chỉ thực sự bước vào giai đoạn chủ yếu sau ngày cố TT Kenedy bị ám sát ở Dallas. Tình thế ngày lại sôi bỏng hơn. Trong hai thập niên gần đây đã càng rõ ràng thêm, qua các vụ sát hại TNS Robert Kenedy, lãnh tụ da đen Martin Lurther King và những tiếng súng mưu sát nhằm cào thống đốc Wallace, TNS Edward Kenedy. Ngày nay các vị tổng thống kế tục nhau đều đã chịu sử dụng xe bọc thép chống khủng bố mỗi lần xê dịch, và mặc áo lót chống đạn. Chúng tôi vẫn nhớ như in cơn nóng giận của cố TT Lyndon Johnson: Ngày 6.6.1968 sau vụ ứng cử viên Đảng DÂN CHỦ Robert Kenedy (đã có tất cả hy vọng được đề cử ra tranh ghế tổng thống) bị bắn gục, thì vào nửa đêm TT Johnson cho triệu giám đốc sở Mật Vụ Liên Bang đến Bạch Cung gay gắt hạ lệnh: “Các ông chỉ có từ giờ đến sáng mai để chuẩn bị. Tôi muốn các ứng cử viên phải được triệt để bảo vệ. Không thể có chuyện đáng tiếc nào xẩy đến nữa.”
Tính ra, đầu năm 1964, bộ phận an ninh tổng thống có 350 nhân viên. Nay con số lên tới 2000 và còn hơn nữa, trên toàn quốc. Ngân sách dùng vào việc là 850 triệu đô la mỗi năm. Trong mùa tranh cử 1988 trở đi, riêng về mục bảo vệ ứng cử viên TT không dưới 30 triệu Mỹ kim.
Thời TT Reagan, hàng ngày, mạng lưới an ninh bảo vệ tùy theo thời khóa biểu hoạt động của TT mà tăng giảm con số nhân viên đặc trách. Bình thường là 20. Cao hơn là 200 người. Khi TT đứng trước đám đông quần chúng, tầm mắt của chúng tôi luôn chú ý đến bọn người “tay đặt trong túi áo, túi quần” Chỉ khi nào họ đưa hai tay ra ánh sáng như mọi người khác, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Riêng về chúng tôi thì đôi tay của chúng tôi không bao giờ được vướng mắc vào vật gì cả. Nghiêm lệnh, là không được phụ giúp “Đệ Nhất Phu Nhân” ôm bó hoa hoặc giương cây dù che cho TT. Nếu trời đổ mưa, TT cứ phải chịu đội mưa, chịu ướt mà rời xe bước vào thềm nhà hay ngược lại. Mỗi lần xuất ngoại là cả một vấn đề âu lo đặt ra cho chúng tôi, dù trước đó chúng tôi đã liên hệ mật thiết với cơ quan an ninh của quốc gia đón tiếp, trao đổi kế hoạch. Nhưng có biết bao phức tạp kể không xiết. Xin đưa một hình ảnh cho dễ hiểu: Ngày TT Reagan sang thăm nước Áo, bộ máy bảo vệ tại địa phương có khoảng 2000 đặc vụ. Đoàn chúng tôi đi theo 200 người. Các nhân viên chìm của họ không đeo một sắc hiệu nào. Khi máy bay TT Reagan vừa hạ cánh, cả rừng an ninh ùa ra làm nhiệm vụ của họ. Thật là may, chứ nếu có ai trong bọn họ, vì một lý do nào đấy, đưa tay vào bọc rút súng ra ngoài thì chắc chắn anh em chúng tôi phải hạ sát ngay. Làm sao còn có thời giờ để phân biệt nữa. Theo kinh nghiệm riêng, tôi thấy rằng dễ phối hợp với cơ quan Mật Vụ Nga và Trung Cộng trong việc bảo vệ TT Mỹ khi đặt chân lên vùng đất của họ, vì họ có nhiều biện pháp nghiêm ngặt đối với quần chúng nước họ. Nhưng nói thế thôi, chỉ trừ phi máy bay TT đáp xuống phi trường Hoa Thịnh Đốn, và xe đưa về tận khuôn viên Bạch Cung rồi, lúc đó chúng tôi mới trút được cơn ác mộng.
Trách nhiệm của chúng tôi nặng nề và những ngày sống của chúng tôi luôn căng thẳng. Trường hợp thê thảm xẩy đến cho cố TT Kenedy ngày xưa còn đeo đẳng một số anh em chúng tôi đến mãi ngày nay. Hôm tai họa ào tới, tất cả bọn họ cảm thấy mình đều là kẻ có tội. Mặc dầu, trước đó, họ đã khẩn khoản đề nghị với TT Kenedy dùng mui xe bằng kính chắn đạn. Nhưng TT quyết liệt từ chối: “Tôi không muốn bị ngăn cách với dân chúng”, ông nói thế. Người ta đành xin được đứng sau chỗ ngồi của TT, ông khó chịu, trả lời: “ Tôi không muốn thấy một ai khác hơn trong xe của tôi!” Tất cả ngao ngán đành chịu, cho đến khi những phát súng oan nghiệt dội lên.
Chúng tôi làm hết sức mình để phục vụ mạng sống của vị TT Hoa Kỳ. Nhưng lại có những nguyên tắc “danh dự” đặt ra cho chúng tôi phải tự bảo vệ nhân phẩm của chúng tôi đến cùng. Tỉ dụ, một hôm TT Johnson muốn chúng tôi dắt con chó quý của ông ra vườn chơi. Đáng tiếc, không một ai trong chung tôi có thể làm việc này dầu biết rằng ông phật ý lắm. Thế rồi, với cái ông ngoại trưởng Kissinger kia cũng vậy. Nhiều lần ra vào toà Bạch Cung, vì vô tình hay cố ý chẳng biết, ông ta cứ quên cái cặp hồ sơ trên xe, và như muốn nhờ chúng tôi ‘xách dùm” cho ông. Lần nào cũng vậy, chúng tôi tế nhị từ khước: “Xin lỗi giáo sư Kissinger, ông còn bỏ quên chiếc cặp trên xe đấy.”
Chúng tôi rất gần gũi với vị TT và gia quyến ông. Nhưng vẫn có một khoảng cách, vào những lúc như đã nêu trên. Còn gì thân hơn, ngay vào giờ khắc mở quà Giáng Sinh, chúng tôi đâu có vắng mặt được? Chúng tôi biết rõ cá tính của từng vị. Chúng tôi duy nhất là những người chứng kiến TT Hoa Kỳ mặc “pyjama” kia mà. Vậy còn có gì xa lạ? Nhưng những điều chúng tôi nghe, thấy đều không dễ nhập vào chúng tôi! Chúng tôi trung thành với lời hứa là không bao giờ tiết lộ sự “riêng tư” thuộc về các vị ấy cả. các vị ấy đã tin cậy, tín nhiệm nơi chúng tôi. Chúng tôi không thể “bội ước”, vi phạm.
Về cá tính, tôi có thể nói thêm ít nhiều về TT Johnson. Ông nóng nẩy, thiếu tế nhị, thường quên đi, coi chúng tôi như những “gia nhân”. Vậy thì vào những lúc ấy, tôi cứ phải nhìn thẳng vào đôi mắt ông lạnh lùng mà nghiêm chỉnh, như để nhắc nhở ông phải rút lại lời nói, cách đối xử, nhất là không thể tiếp tục la lối.
Thỉnh thoảng tôi cũng có dịp chứng kiến một đôi nét buồn bã lộ ra nơi vị TT – tôi muốn nhắc đến trường hợp TT Nixon. Dạo ấy, vụ tai tiếng “Watergate” đang ầm lên. TT Nixon bước vào căn phòng bầu dục Tòa Bạch Ốc để ngỏ lời trước công luận , trên đài truyền hình. Lúc kết thúc, TT tiến đến bắt tay chào hỏi các chuyên viên kỹ thuật và ban phụ trách. Ông cũng lại trao đổi với họ đôi lời hài hước vui vẻ. Nhưng khi TT và tôi rời khỏi phòng ấy, bước vào dãy hành lang có nhiều cột đá lúc trời đã sẫm tối, bỗng nhiên ông dừng lại, dáng cách uể oải buồn chán. Không cần biết có tôi ở bên, TT Nixon tựa đầu vào cây cột, ũ rũ, mắt đẫm lệ. Đây là lần đầu, tôi được thấy tận mắt ông đau khổ đến thế. Tôi hết sức muốn lại gần ông, nói với ông rằng tôi cảm thông nỗi buồn của ông vô cùng. Nhưng lý trí lại không cho phép tôi làm thế. Bổn phận của tôi là phải cảnh giác từng giây, bảo vệ sinh mạng của ông. Tuy nhiên tôi vẫn nhòm chừng, chờ ông lấy lại sự bình tĩnh. Và giữa hai chúng tôi, không một ai thốt ra lời nào. Trong tôi, cho đến mãi về sau này, tôi phải nhìn nhận là tôi rất cảm mến TT Nixon.
Sứ mạng của chúng tôi đòi hỏi sự bén nhậy đến tối đa. Khi vị tổng thống cần đến, chỉ trong khoảnh khắc 2 giây đồng hồ là chúng tôi đã có mặt ở bên cạnh rồi. Anh em chúng tôi vẫn thường đùa, thường mệnh danh “khoảng cách” kia là “ một nhịp đập của trái tim”. Không được để chậm hơn.
Tại Tòa Bạch Ốc, những phòng riêng của TT và gia đình đều ở từng lầu trên. Tôn trọng khung cảnh ấm cúng riêng tư, chúng tôi không bước lên lầu, chỉ canh phòng ngay chân cầu thang và các lối đi về phía thang máy. Ngoại trừ, dưới thời TT Johnson, ông luôn có cảm nghĩ sợ sệt là bị chết bất thình lình vào đêm khuya, do đó, đã yêu cầu chúng tôi đứng gác ngay trước cửa phòng ông ngủ. Thông thường, việc canh phòng như thế này chỉ xẩy đến vào lúc TT Hoa Kỳ công du ở ngoại quôc mà thôi. Tôi còn nhớ một trường hợp khá buồn cười mà cũng thật “lên ruột”. Dạo ấy, TT Nixon đi viếng thăm chính thức các nước Âu Châu trong 13 ngày. Đến thủ đô Hung-Gia-Lợi là chặng chót, ông cảm thấy mệt mỏi nhiều. TT nghỉ đêm tại Sứ Quán Mỹ. Lúc đó vào 1 giờ sáng. TT Nixon liên lạc điện đàm với cố vấn Bạch Cung ở Hoa Thịnh Đốn. Bỗng nhiên câu chuyện chấm dứt. Thế nhưng, thật lâu sau phút ấy, điện thoại viên Bạch Cung cảm nhận được điều khác lạ, bất thường, vì tuy đường dây vẫn “bận”, chưa cúp, mà tiếng nói thì hoàn toàn vắng bặt. Nhân viên phụ trách điện thoại bèn vội báo cho cơ quan Mật Vụ. Nhiều giả thuyết được đặt ra như lằn chớp: TT bị ám sát chăng? Hay, bị chứng tim bất thình lình? Tôi có trách nhiệm bảo vệ kề cận TT, bèn “bay” lên lầu ngay. Sau phút quan sát hệ thống truyền hình kiểm soát toàn bộ quanh tòa nhà, không thấy gì khả nghi, tôi mở nhẹ cửa phòng. Đèn ngủ đầu giường vẫn bật sáng. TT Nixon đang an giấc ngon lành nhưng ống giây nói thì ...gác nơi vai ông. Thì ra lý do là vậy! Không muốn phá giấc ngủ ở ông, tôi nhẹ nhàng cúi xuống nhấc ống nói ra, TT Nixon giật mình choàng vậy, hoảng hốt, có lẽ lầm nghĩ là đang đối diện với hung thủ định xiết cổ ông. Chỉ một giây thôi, ông nhận ra tôi, ngỏ lời cám ơn.
Tưởng nên hiểu thêm vị TT Hoa Kỳ nào cũng ý thức được rằng sinh mạng mình như sợi chỉ mành. Vậy thì, giữa đêm khuya khoắt ở ngay vùng cộng sản mà có một bàn tay bí mật đang lần lần xiết vào cuống họng của mình thì sao nhỉ? ...
Mọi chuyện thuật trên đây dầu đã trôi qua nhưng những việc liên quan đến vấn đề bảo vệ vị nguyên thủ Mỹ quốc cùng các ứng cừ viên TT thì lúc nào cũng có chung một đáp số luôn luôn bất ngờ, căng thẳng. Tôi nhớ lại mùa tranh cử 1988 đã đặt cơ quan Mật Vụ trước một trọng trách nặng nề, phức tạp. Có thể nói rằng bộ máy ấy với 2000 nhân viên bị báo đông thường trực. Các ứng cử viênTT như Bush, Dukakisvà Jessie Jackson gặp nhiều sự đe dọa ghê gớm. Một vài âm mưu hạ sát Jackson được khám phá kịp thời, bị tiêu diệt từ trong trứng nước. May mắn hơn cả là đã phá vỡ kế hoạch của một cặp hung thủ “da trắng” quá khích có nhiệm vụ ám sát Jackson vào ngày 4/7/1988, chỉ cách vài hôm trước khi đại hội Đảng Dân Chủ chọn ứng cử viênđại diện chạy đua vào Tòa Bạch Ốc diễn ra.
Người ta thường thắc mắc tại sao những nhân viên an ninh nước Mỹ cứ hay choàng chiếc áo khoác dài màu xám tro muôn thuở kia, cùng với cặp mắt kính màu đen sậm che kín mắt. Chuyên viên mật vụ Dennis Mc Carthy không ngần ngại nói rõ ra một lần: “Chúng tôi không chủ trương dấu mặt. Chúng tôi không muốn rằng những kẻ chủ mưu cứ phải nhận ra chúng tôi tại “hiện trường”. Yếu tố tâm lý ấycó một ảnh hưởng sâu sắc. Khi nghĩ rằng chúng tôi đang nhìn y, hung thủ phải bận tâm đối phó – và dẽ bị để lộ ra những cử chỉ sơ hở. Còn về cặp gọng kính thì để bảo vệ đôi mắt của chúng tôi một khi thủ phạm hắt sơn hay định tạt ác-xít. Ngoài ra, cũng còn để cho hung thủ không thể biết chúng tôi đang nhìn y hay nhìn ai khác- trà trộn trong đám người ngay, kẻ gian sẽ mất đi phần nào sự bình tĩnh cần thiết.
Và, như muốn giãi bầy tâm sự của một người lấy nghề nghiệp làm lẽ sống, Dennis Mc Carthy say sưa nói: ngày đầu tiên tôi bước vào phục vụ ở Bạch Cung là dưới thời TT Johnson. Tôi vượt qua hàng rào cản với khẩu súng lên đạn sẵn nằm chình ình, trong túi áo tôi, tôi cảm nhận được lòng mình phơi phới: Không còn gì “bảnh” hơn thế! Tôi nhìn Tổng Thống không biết mỏi mắt. TT Johnson đang gằn giọng trước một nhà lãnh đạo Phi Châu. Từng lời lại từng lời của Tổng Thống lọt vào tai tôi. Tôi có cảm tưởng mình đang được biết tất cả bí mật của các vị thần của loài người trên thế gian này...
Hà Ngọc
|
|
|
Post by vietnam on Aug 1, 2009 12:35:32 GMT -5
Hoa Kỳ trở lạiThursday, July 30, 2009 Ngoại Trưởng Hillary Clinton phát biểu tại Hội Nghị Hợp Tác ASEAN ở Thái Lan hôm 22 Tháng Bảy, đánh dấu sự trở lại của Hoa Kỳ ở khu vực Ðông Nam Á. (Hình: AFP/Getty Images) Lê Duy Nhân (*) - Viết riêng cho Người Việt Trong Tháng Bảy, chính sách đối ngoại của chính quyền Obama tại vùng Ðông Á bất thình lình gây “sóng gió” trong dư luận thế giới sau hàng loạt động thái liên tiếp: - Cuộc điều trần tại Thượng Viện ngày 15 Tháng Bảy 2009 về chủ trương của Hoa Kỳ tại Ðông Á. - Ngoại Trưởng Hillary Clinton ký Hiệp Ước Bất Tương Xâm với khối ASEAN ngày 22 Tháng Bảy 2009 và Hội Nghị Hạ Nguồn sông Mekong với bốn nước Việt-Miên-Lào-Thái Lan. - Hội đàm không quân song phương Mỹ-Việt tại Hà Nội từ ngày 21 đến 24 Tháng Bảy với sự tham dự của Trung Tướng Chip Utterback , tư lệnh Không Ðoàn 13 Hoa Kỳ. Hoa Kỳ muốn gửi một tín hiệu gì cho các nước ở Ðông Á đang chịu sức ép bành trướng của Trung Quốc ở biển Ðông? Trước cuộc công du của Ngoại Trưởng Hillary Clinton tại Ðông Á, ban điều trần tại Thượng Viện Hoa Kỳ đã khẳng định rằng Hoa Kỳ sẽ đứng ngoài mối tranh chấp về chủ quyền, lãnh hải tại biển Ðông giữa các nước Ðông Á nhưng cương quyết bảo vệ quyền tự do di chuyển của tàu bè Mỹ, bảo vệ sự tôn trọng luật biển quốc tế ở vùng này. Tuyên bố “Hoa Kỳ trở lại Ðông Á” của bà Hillary Clinton được các nước trong khối ASEAN đón nhận như tín hiệu Hoa Kỳ sẽ hành động như một đối trọng với Trung Quốc tại Á Châu. Nhưng Hoa Kỳ sẽ đương đầu với Trung Quốc ở chừng mực nào? Cuộc thăm viếng của tư lệnh Không Ðoàn 13 Hoa Kỳ có ý nghĩa là bước mở đầu cho một liên minh quân sự Mỹ-Việt trong tương lai không? Tất cả còn tùy thuộc vào cán cân giữa quyền lợi của Hoa Kỳ với Trung Quốc và quyền lợi của Hoa Kỳ với các nước khác ở Ðông Á. Hiệp Ðịnh Bất Tương Xâm giữa Hoa Kỳ và khối ASEAN chỉ có giá trị biểu kiến nếu các nước trong khối này không thực sự liên kết với nhau chống lại bước chân xâm lược của Trung Quốc trên biển Ðông. Một liên minh quân sự song phương Mỹ-Việt không thể hình thành nếu Trung Quốc cương quyết phản đối. Trung Quốc, một mặt đưa vào quyền lợi kinh tế khổng lồ của Hoa Kỳ ở Trung Quốc, một mặt đưa vào thế chư hầu của Việt Nam để vô hiệu hóa mọi nỗ lực dựa vào Hoa Kỳ của Hà Nội. Một thỏa ước liên minh phòng thủ giữa Hoa Kỳ và khối ASEAN (gồm 10 quốc gia: Brunei, Cam-bốt, Nam Dương, Lào, Mã Lai Á, Miến Ðiện, Phi Luật Tân, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) mới có khả năng buộc Hoa Kỳ can thiệp khi Trung Quốc tấn công một trong các nước này. Liệu Trung Quốc có làm ngơ cho Hoa Kỳ ký kết một thỏa ước như vậy không. Ngày nay tuy đã phần nào thoát được cái “ách Iraq “ để rảnh tay đối phó với các biến động thế giới, Hoa Kỳ vẫn cần sự hợp tác của Trung Quốc để giải quyết các tranh chấp thế giới. Tuy hai nước Hoa Kỳ và Trung Quốc không thể đơn phương giải quyết các vấn nạn quốc tế nhưng mọi vấn nạn quốc tế lớn không được hai nước này can thiệp thì khó lòng giải quyết được. Những vấn nạn quốc tế nổi cộm hiện nay cần được hai nước hợp tác giải quyết gồm: - Mối đe dọa vũ khí nguyên tử từ Bắc Hàn và Iran - Môi trường xanh của thế giới - Khủng hoảng kinh tế Trong đó vấn nạn kinh tế vẫn là cốt lõi mà Hoa Kỳ và Trung Quốc là chiếc chìa khóa. Cho nên những ồn ào trong chuyến đi Thái Lan của Ngoại Trưởng Hillary Clinton đã nhanh chóng tan biến khi Mỹ-Trung họp bàn “Ðối Thoại Chiến Lược Kinh Tế” tại Hoa Thịnh Ðốn nhằm đưa đến một quan hệ Mỹ-Trung mới mà Tổng Thống Obama gọi là quan hệ “định hình thế kỷ 21”. Hoa Kỳ hiện mắc nợ Bắc Kinh tới 800 tỷ Mỹ kim. Nợ không chỉ là một khối u trong kinh tế Hoa Kỳ. Nếu kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục xuất huyết thì Trung Quốc cũng bị vạ lây. Trung Quốc đang lo ngại số tiền khổng lồ mà Hoa Kỳ bỏ ra để kích hoạt (stimulus) kinh tế sẽ làm đồng Mỹ kim mất giá mà hậu quả trực tiếp của nó là làm cho món nợ của Hoa Kỳ với Trung Quốc bị thu nhỏ lại. Trong khi Hoa Kỳ như con cá mắc vào câu sản phẩm rẻ mạt Trung Quốc thì nước này cũng bị suy thoái kinh tế Hoa Kỳ làm cho mất máu vì lượng hàng nhập cảng vào Mỹ sẽ giảm đi. Chính quyền Bush đã không thành công trong nỗ lực vận động Bắc Kinh nâng giá đồng Nhân Dân tệ và kích cầu thị trường nội địa để giảm áp lực cạnh tranh của Trung quốc đối với Hoa Kỳ. Trung Quốc đang leo dần lên địa vị thứ hai về siêu cường kinh tế - chỉ sau Hoa Kỳ - nên có nhiều khả năng Hoa Kỳ sẽ phải liên minh với Trung Quốc để tiến tới một G-2, nhằm chia quyền lực kinh tế với Trung Quốc trên toàn cầu. Chính quyền Obama hầu như đã đem hy vọng giải quyết kinh tế toàn cầu đặt vào tay Bắc Kinh. Nếu một G-2 Mỹ-Trung thành hình thì hy vọng dựa vào Hoa Kỳ để giải quyết cuộc tranh chấp ở biển Ðông của các nước trong khối ASEAN sẽ trở nên rất mong manh.. Tuy vậy Hoa Ky cũng không thể bỏ mặc Châu Á cho Trung Quốc múa gậy vườn hoang vì nếu thị trường của 10 nước này cũng không nhỏ. Nên Hoa Kỳ phải đi dây giữa Trung Quốc và các nước Ðông Nam Á. Trong bối cảnh tù mù này Viet Nam sẽ thoát khỏi áp lực Bắc Kinh bằng lối ra nào? Về đối ngoại Việt Nam phải liên kết với các nước trong ASEAN và mở rộng quan hệ chiến lược với Nhật Bản, Ấn Ðộ (vì cả hai nước cũng năm dưới sức ép của Trung Quốc), lợi dụng triệt để sự trở lại Châu Á của Hoa Ky để giảm nhẹ áp lực của Bắc Kinh. Nhưng không thể hoàn toàn trông cậy vào để thoát khỏi áp lực của Bắc Kinh, Việt Nam sẽ chỉ được một ảo tưởng. Vì trên chính trường quốc tế, chính sách đối ngoại làm gì có chính nghĩa, nó chỉ biết có chính quốc. Ðến như miền Nam Việt Nam mà Hoa Kỳ đã bỏ ra bao nhiêu xương máu và tiền bạc rốt cuộc còn bị bỏ rơi nữa là Việt Nam ngày nay. Ta khoanh tay nhìn Trung Quốc nuốt dần hay sao? Ta có cả một chiều dài lịch sử chống ách nô thuộc phương Bắc kia mà. Có điều đáng buồn là những người lãnh đạo đất nước hiện nay đã hoàn toàn mất hết khả năng và ý chí bảo vệ đất nước vì họ đã dựa vào Bắc Kinh để bảo vệ ngôi báu của mình thì làm sao mà chống “giặc Tàu” được. Mới đây (28 Tháng Sáu 09), mười “lão thành cách mạng” gửi Tâm Thư Ngỏ lên Bộ Chính Trị lên án “đã ngả vào vòng tay của Trung Quốc nên trong nhiều việc tỏ ra lung tung, hạ thấp mình, làm mất tư thế, mất quyền tự chủ độc lập của dân tộc” (nguyên văn Tâm Thư Ngỏ). Tuy đã coi Bộ Chính Trị Ðảng là tập đoàn bán nước cầu vinh nhưng các nhà “lão thành cách mạng này” lại khẳng định chỉ muốn cứu Ðảng và cứu chế độ. Ðã một dạ trung thành với đảng và chế độ thì làm sao mà chống lại lãnh đạo đảng , chống lại chế độ được vì chính chủ nghĩa Cộng Sản đã đẻ ra đảng bán nước này thì lại sẽ mọc ra tập đoàn lãnh đạo bán nước mới vì tất cả chỉ là sản phẩm của “cỗ máy” Cộng Sản. Cho nên chỉ có một con đường cứu nước duy nhất là xóa bỏ cơ chế độc tài toàn trị để dân chủ hóa đất nước, cho phép toàn bộ nhân dân yêu nước được dự phần vào công cuộc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Nếu câu nói của Lenin “chỉ có Ðảng (CS) mới phá được Ðảng” là một chân lý thì các đảng viên Cộng Sản hãy bắt tay ngay vào việc phá đảng để cứu nước.
|
|