|
Post by Admin on Apr 24, 2009 18:57:15 GMT -5
|
|
|
Post by Admin on Apr 24, 2009 19:33:10 GMT -5
Hướng đi mới của vũ khí điện từ Vũ khí điện từ đã được nói đến rất nhiều trong nhiều thập niên qua, nhưng gần như chưa bao giờ được triển khai trong thực tế. Khái niệm của nó là dùng xung điện từ để vô hiệu hóa các thiết bị điện điện tử của đối phương, từ hệ thống liên lạc, máy tính cho đến bộ đánh lửa trong xe cơ giới. Hiện nay, lục quân Mỹ đang theo hướng kết hợp giữa vũ khí thông thường với vũ khí điện từ. Loại đầu đạn lai này khi nổ sẽ tạo ra đồng thời cả xung điện từ cùng lúc với sức ép và mảnh đạn như với đầu đạn thường. Chìa khóa ở đây là nam châm bị kích nổ và tự khử từ, phóng thích ra năng lượng. Các thiết kế vũ khí điện từ trước đây dựa vào nguyên lý dùng sức nổ để tạo ra luồng từ trường nén. Nó dùng một loạt những lõi kim loại có dòng điện chạy qua, được cuộn chặt lại với nhau, và sẽ bị nén lại đột ngột khi một khối nổ mồi được kích hoạt. Công nghệ mới gọn nhẹ hơn nhiều. Nó dựa trên phát hiện rằng nhiều loại nam châm sẽ tự khử từ tính khi bị tác động bởi sóng xung lực. Vấn đề hiện nay là cần chế tạo loại antenna để dẫn hướng cho năng lượng được phóng thích ra. Antenna này phải nằm vừa trong đầu đạn nhưng phải đủ lớn cho năng lượng tạo ra. Một trong những giải pháp có thể là dùng một loại antenna gấp được. Nhưng theo hướng đi của lục quân Mỹ, họ sẽ tận dụng chính vụ nổ của đầu đạn như một antenna, hay chính xác hơn là sử dụng luồng plasma ion hóa từ vụ nổ. Từ hàng thế kỷ nay, con người đã biết rằng ngọn lửa cũng có thể dẫn điện. Do đó, thay vì dùng kim loại, người ta có thể tạo ra antenna bằng khí bị ion hóa. Loại đầu đạn lai này được áp dụng cho nhiều loại vũ khí khác nhau, gồm tên lửa chống tăng TOW, rocket 70mm của trực thăng hay pháo phản lực MLRS. Lí do thật sự khiến vũ khí điện từ vẫn chưa phổ biến hiện nay không phải ở khía cạnh kỹ thuật, mà là người Mỹ lo lắng rằng nếu công nghệ này được triển khai, nhiều khả năng nó sẽ lan rộng, và khi đó chính quân đội Mỹ lại dễ bị tổn thương nhất vì họ dựa rất nhiều vào các thiết bị điện tử. Không lực Mỹ sẵn sàng cho vũ khí điện từ Mặc dù không tiết lộ nhiều về các dự án vũ khí điện từ của mình, không lực Mỹ đang tổ chức đấu thầu chế tạo CHAMP (Dự án vũ khí vi sóng năng lượng cao chế áp điện tử). Cụ thể, họ muốn một loại tên lửa có thể phóng ra nhiều chùm vi sóng năng lượng cao cùng lúc tấn công nhiều mục tiêu. Chùm sóng này sẽ phá hủy các thiết bị điện tử trong tầm tác xạ của mình. Trong lúc đó, một cách lặng lẽ, không lực Mỹ đang trang bị các chiến đấu cơ của mình với vũ khí chùm tia. Chúng cũng sử dụng vi sóng năng lượng cao, được tạo ra từ radar AESA. Công nghệ radar AESA đã có mặt thời gian qua, nổi tiếng với khả năng theo dõi nhiều mục tiêu cùng lúc. Nhưng nó còn có khả năng tập trung năng lượng vào một luồng tia radar, mạnh đến mức có khả năng làm hư hỏng các thiết bị điện tử ở khoảng cách xa. Tất nhiên người ta không công bố con số chính xác liên quan đến các radar AESA trên các chiến đấu cơ hiện tại. Không lực Mỹ chỉ nói rằng AESA sẽ được trang bị trên máy bay tác chiến điện tử E-10 có thể làm hỏng thiết bị định hướng trên tên lửa hành trình cách đó 180 km.
|
|
|
Post by Admin on Apr 24, 2009 19:34:22 GMT -5
Công nghệ laser quân sự Một trong những nguyên chính khiến cho vũ khí laser cho tới giờ vẫn chủ yếu tồn tại trong truyện tranh và phim giả tưởng là việc năng lượng trong tia laser bị các phần tử bụi, hơi nước trong không khí hấp thụ và làm giảm đáng kể tầm hoạt động của nó. Để khắc phục, người ta phải làm sao điều chỉnh được bước sóng của tia laser phù hợp với điều kiện môi trường bên ngoài, khi đó hao phí năng lượng sẽ giảm. Bước sóng của tia laser phụ thuộc vào nguồn phát. Một số sử dụng tinh thể hồng ngọc, 1 số sử dụng các hợp chất hóa học. Vấn đề là mỗi nguồn phát chỉ cho ra một bước sóng nhất định. Công nghệ laser electron tự do, FEL, hứa hẹn sẽ giải quyết vấn đề này, vì nó không sử dụng 1 nguồn phát cụ thể nào. Nó sử dụng những luồng electron được gia tốc để kích thích quá trình phản ứng dây chuyền tạo ra tia laser. Nó có thể tạo ra tia laser ở nhiều bước sóng khác nhau trong 1 thời gian rất dài. Do đó mà FEL được gọi là chiếc chén thánh của công nghệ laser. Tiến trình nghiên cứu FEL mới ở bước đầu. Năm 2004, nó mới đạt mức công suất 10kW. Thứ hai tuần rồi, Hải quân Mỹ vừa ký một hợp đồng với Raytheon và Boeing để tạo ra thiết bị FEL cho mức công suất 100kW, được coi là mức chuẩn của laser dùng trong quân sự. Hải quân dự tính sử dụng FEL thay cho hệ thống phòng thủ Phalanx. ***************** Xung laser chống boongke Sử dụng xung laser cực nhanh để đốt cháy và ion hóa không khí phía trước vũ khí tạo thành một vùng không khí mật độ thấp, một 'đường hầm' gần như không có sức cản là một trong số các ý tưởng mới cho một loại vũ khí lý tưởng để tiêu diệt các boongke ngầm và các mục tiêu kiên cố khác. Phòng thí nghiệm AM&PM, Arizona, đã được sự đồng thuận của Không lực Mỹ tiếp tục theo đuổi ý tưởng dùng năng lượng định hướng để tạo ra một 'đường hầm' không có sức cản và do đó tăng tốc cho bom hay tên lửa. Các mô hình mô phỏng máy tính cho thấy sức cản có thể giảm đến 96% và mức năng lượng đẩy tương đương tiết kiệm được bằng 65 lần năng lượng bỏ ra. Thông thường khi tia laser ion hóa không khí, plasma tạo ra sẽ làm phân tán tia laser. Nhưng sử dụng laser với xung cực nhanh, khoảng từ 1 phần ngàn triệu triệu (14 số 0 sau dấu chấm thập phân) đến 1 phần triệu triệu giây (11 số 0) sẽ tạo ra một sự giãn nở cực nhanh của không khí tạo thành một khoảng không khí mật độ thấp kéo dài khoảng 2-3m phía trước vũ khí, triệt tiêu sóng cản và khiến không khí bị cuộn về phía sau. Do đó đồng thời giảm sức cản và tạo thành 1 'bức tường' không khí phía sau đề tạo thêm sức đẩy. Có rất nhiều minh chứng cho hạn chế của những vũ khí công phá boongke hiện có. Ngay tại Berlin, bạn vẫn có thể thấy phần còn lại của những boongke từ thời Thế chiến mặc dù người ta đã ra sức phá bỏ chúng. Ngay cả các boongke của Saddam ở Iraq vẫn gần như nguyên vẹn dù Không lực Mỹ đã dùng vũ khí chính xác đánh trúng. Được thiết kể bởi kỹ sư Đức Karl Esser, người ta cho rằng cần đến 16 tên lửa Tomahawk đánh trúng cùng 1 điểm để xuyên thủng nó, và đó là phải sau khi phá hủy được tòa dinh thự xây dựng phía trên. Bom phá boongke là một ưu tiên của BQP Mỹ. Sử dụng vũ khí hạt nhân mini từng được xem xét, nhưng đã bị hủy vì lo ngại về mưa phóng xạ. Lockheed Martin và BAE cũng đã đề xuất các phương án của mình. Phương án của LM sử dụng thiết kế đặc biệt của bom nhằm tận dụng các nguyên lý 'thổ động học' nhằm giảm thiểu sức cản và sóng xung lực khi quả bom xuyên qua đất đá. LM cho biết nó tăng khả năng xuyên phá lên 10 lần. BAE thiết kế một quả bom với 7 nòng súng ở phía trước, và chúng sẽ bắn phá đất đá trước khi bom tiếp xúc mặt đất. Một ý tưởng khác là dùng bọt kim loại để bao bọc cho đầu đạn khi nó xuyên qua lớp vỏ boongke. Hoặc một loại composite để sử dụng làm đầu xuyên trong đầu đạn nổ định hướng. Trong khi đó, loại vũ khí tốt nhất hiện có để phá boongke có lẽ là quả siêu bom xuyên MOP, nặng gần 15 tấn. ********** Đầu dò laser mới của Hellfire Loại đầu dò laser mới của tên lửa Hellfire (sử dụng trên trực thăng Apache hoặc UAV Predator) cho phép tăng tỷ lệ thành công lên hơn 90%. Điều này đơn giản đến từ việc tăng góc mà cảm biến có thể tiếp nhận được tia laser phản xạ lại từ 40 độ lên 180 độ. Nó cho phép Hellfire được bắn từ độ cao lớn hơn, hay thậm chí là khi máy bay đã bay ngang qua khu vực có mục tiêu.
|
|
|
Post by Admin on Apr 25, 2009 21:40:51 GMT -5
BOM BAY 2009 Boeing Phát triển loại bom bay có cánh loại 2,000-Pound JDAM ER Laser và vệ tinh
Israel đang mua loại bom thông minh mới LJDAM của Mỹ. Nó là một JDAM, bom định vị bằng vệ tinh, được gắn thêm một đầu dẫn đường bằng laser. Nói cách khác, LJDAM kết hợp 2 phương pháp dẫn đường thông dụng nhất cho bom thông minh là dùng hệ thống GPS và laser. Cả 2 có những ưu và nhược điểm riêng. Điều khiển bằng laser có độ chính xác rất cao, có thể đánh trúng mục tiêu trong khoảng từ 1 đến 2m, trong khi của JDAM là khoảng 10m. Nhưng tia laser có thể bị mưa, bụi, mây mù cản trở. LJDAM sẽ là một loại vũ khí kết hợp được ưu điểm của cả 2, và đặc biệt thích hợp khi tấn công các mục tiêu di động. Năm ngoái, Đức là khách hàng nước ngoài đầu tiên của LJDAM. LJDAM trên A-10 Máy bay A-10 vừa thả thành công loại bom LJDAM mới lần đầu tiên. LJDAM là sự kết hợp giữa bom điều khiển bằng laser và vệ tinh (JDAM), cho phép nó tấn công chính xác vào các mục tiêu di động. LJDAM có thể đánh trúng một chiếc xe đang chạy với vận tốc 60 km/h. Loại A-10 sử dụng LJDAM là A-10C, phiên bản mới nhất với các thiết bị điện tử được nâng cấp. A-10C bắt đầu tham chiến ở Iraq và Afghanistan năm ngoái. A-10 là loại máy bay được thiết kế để bay thấp, chậm và có thể chịu được hỏa lực mạnh từ mặt đất. A-10C được trang bị các thiết bị định vị mục tiêu và điều khiển hỏa lực giống như trên các loại phản lực cơ hiện đại nhất. Ngoài ra là các thiết bị thông tin liên lạc cho phép A-10 chia sẻ hình ảnh và video cho binh lính bên dưới. Cấn khoảng 4 năm để nâng cấp toàn bộ 350 A-10 hiện có. Ngoài ra, động cơ và kết cấu của loại máy bay từ những năm 70 này cũng sẽ được nâng cấp. Không quân Mỹ nhiều lần định cho về hưu chiếc máy bay đã 30 năm tuổi này. Nhưng nó chỉ đơn giản và quá hiệu quả và được binh lính tin tưởng hơn so với các loại máy bay khác. ***************** Tiểu JDAM Hãng General Dynamics vừa thử nghiệm thành công bộ điều khiển và định vị vệ tinh RCFC có thể gắn vào đạn cối 81mm thả từ máy bay. Độ chính xác là từ 5-10m. Một quả đạn cối 81mm nặng khoảng 4kg, với khoảng 2kg thuốc nổ. Bán kính sát thương là 20m. ************ JDAM tròn một con giáp Cho tới nay, Mỹ đã sản xuất hơn 200,000 bom JDAM (bom điều khiển bằng GPS). Khoảng 24,000 trái đã được sử dụng trong chiến đấu, và cũng chừng đó trong luyện tập. Chính xác thì JDAM gồm một bộ điều khiển được gắn một một quả bom thông thường. Có tất cả 5 model được sản xuất, trong đó loại mới nhất có trang bị thêm bộ dẫn đường bằng laser. Ngoài Không lực và Hải quân Mỹ, JDAM còn được xuất khẩu sang các nước đồng minh. Nga và TQ cũng sản xuất những mẫu của mình, nhưng không sản xuất và sử dụng nhiều. JDAM mới bắt đầu được sản xuất 12 năm trước với quy mô 750 quả 1 tháng trước khi tăng lên 2,000. Tới năm 2003, Không lực mới có 17,000 và muốn có một lượng dự trữ ít nhất 40,000. Hiện nay mức dự trữ mới đang được xây dựng. Các chỉ huy quân sự trên thế giới vẫn đang tiếp tục tìm hiểu những ảnh hưởng sâu sắc của JDAM lên cách thức tác chiến. Nước Mỹ hiện đang sở hữu phần lớn các loại vũ khí dùng định vị vệ tinh và có khả năng ngăn chặn các nước khác sử dụng vì hiện GPS là hệ thống vệ tinh định vị duy nhất hoạt động đầy đủ, bao phủ toàn bộ bề mặt trái đất. JDAM khiến cho hỏa lực của không quân chính xác hơn rất nhiều, cho phép giảm thiểu số bom cần thiết để tấn công một mục tiêu hàng chục lần, kéo theo đó là giảm số máy bay, số nhân lực cần thiết. Từ đó khiến cho lực lượng tác chiến trở nên gọn nhẹ, linh hoạt hơn. JDAM cũng làm giảm thương vong cho dân thường, và hỗ trợ tốt hơn cho bộ binh. Bom có điều khiển đã bắt đầu xuất hiện từ cuồi Thế chiến thứ 2, chúng chưa thật sự có tác động lớn cho tới khi bom dẫn bằng laser xuất hiện vào những năm 60. Một thập kỷ sau, bom điều khiển bằng TV ra đời. Nhưng những loại này rất đắt, có thể tới $100,000. Cho đến Chiến tranh Vùng Vịnh 1991, chỉ có 16% trong sồ 250,000 quả bom được thả là bom có điều khiển. Nhưng chúng lại chiếm tới 75% số thiệt hại gây ra cho đối phương. Nhưng vũ khí điều khiển bằng laser vẫn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, môi trường (sương mù, khói, mưa, bão cát). Người ta vẫn cần một giải pháp toàn diện. Vào năm 1991, hệ thống GPS mới bắt đầu hoạt động. Trước khi JDAM ra đời, đã có ý tưởng về loại vũ khí tương tự, nhưng không ai dám chắc nó có thể hoạt động không. Tới khi các kỹ sư thật sự bắt tay vào chế tạo, người ta mới thấy rằng nó không chỉ khả thi mà còn rẻ chưa bằng 1 nửa giá ước tính, $18,000 so với $40,000. Hiện nay giá là $26,000 do sử dụng công nghệ hiện đại hơn, độ tin cậy cao hơn. Vậy là năm 1996, JDAM bắt đầu được sản xuất. Và nó được sử dụng lần đầu vào năm 1999 tại Kosovo. Thật ngạc nhiên là tới 98% trong số 652 JDAM đánh trúng mục tiêu. Năm 2001, JDAM làn vũ khí lý tưởng để hỗ trợ cho vài trăm lính đặc nhiệm Mỹ ở Afghanistan. Tới tháng 1/2002, Mỹ đã thả một nửa, 10,000 JDAM, trong tổng số dự trữ của họ ở Afghanistan. 6500 JDAM được sử dụng trong chiến dịch Iraq năm 2003. Nhưng từ đó việc sử dụng JDAM không còn nhiều như trước, chủ yếu vì lục quân đã có những vũ khí định vị vệ tinh riêng của mình như pháo, rocket điều khiển. Hiện Mỹ sản xuất 3,000 JDAM một tháng với mục tiêu xây dựng mức dự trữ 200,000 đơn vị. TQ, Nga, và châu Âu vẫn đang ráo riết hoàn thiện hệ thống định vị vệ tinh của riêng mình. Boeing hợp tác với TAK để phát triển loại bom có cánh bay 2,000-Pound JDAM ER ST. LOUIS, March 31, 2009 -- Boeing [NYSE: BA] Hôm nay đã loan báo một thỏa thuận với Times Aerospace Korea, LLC (TAK) để cùng phát triển loại bom có cánh nặng 2,000-pound tấn kích đa phương ( Joint Direct Attack Munition Extended Range JDAM ER). " Đây là một thỏa thuận có tính cách chiến lược trong chương trình phát triển vũ khí của Boeing trong cố gắng phát triển vũ khí toàn cầu cho nhu cầu thị trường vũ khí " . Bom JDAM ER là một hệ thống hướng dẫn chi phí thấp thuộc thế hệ bom tinh khôn với sự hướng dẫn của bộ điều khiển đến mục tiêu,. Với bộ điều khiển ở đuôi gồm bộ định vị toàn cầu GPS và hệ Định vị (Global Positioning System/Inertial Navigation System ) kết hợp với thân bom có cánh bình phi ổn định củng như cất cánh . Trước đây bom JDAM được bán cho lực lượng Không và Hải quan Hoa Kỳ củng như 22 nước trên thế giới . Phòng thủ trước Iran AMRAAM Sparrow Các tiểu vương quốc A rập thống nhất (UAE) đang đặt mua 224 tên lửa không đối không dẫn đường bằng radar AMRAAM. Loại UAE mua là phiên bản mới nhất, C7, có khả năng chống nhiễu tốt hơn. Giá mỗi cái là 1 triệu dollar. UAE sẽ sử dụng nó trên máy bay F-16E, là phiên bản tiêm kích hiện đại nhất của F-16. AMRAAM chính thức được sử dụng từ 1992, hơn 30 năm sau khi loại tên lửa không đối không bằng radar đầu tiên ra đời, Sparrow. Kinh nghiệm thực tế từ Việt Nam cho thấy Sparrow không thể hiện tốt như mong đợi. Sau vài lần cải tiến, Sparrow có lần tham chiến thứ 2 trong chiến trang vùng Vịnh. 88 Sparrow được sử dụng, 28% trúng đích. AMRAAM được chế tạo để khắc phục những vấn đề của Sparrow. Không như Sparrow, vốn đòi hỏi phi công phải liên tục dùng radar của máy bay khóa vào mục tiêu, AMRAAM được trang bị một radar riêng cho phép nó tự động dò tìm mục tiêu trong giai đoạn cuối cùng. Từ khi ra đời đến nay, AMRAAM chỉ có một vài cơ hội được đem ra sử dụng, trong 13 lần phóng, 77% trúng đích. UAE cũng đặt hàng 9 khẩu đội Patriot, cùng với 288 tên lửa PAC-3, chuyên để chống tên lửa và 216 PAC-2. Một giàn phóng Patriot có thể chứa 4 PAC-2, tầm bắn 70km hoặc 16 PAC-3, tầm bắn 20km. JDAM vs. Al Qaeda 6 quả bom điều khiển bằng GPS (JDAM) biến một căn cứ của Al Qaeda tại Afghanistan thành tro bụi. Ở góc trên, bên phải, các bạn có thể thấy rõ hình ảnh của một quả bom đang rơi xuống mục tiêu. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 13:06:12 GMT -5
UAV + Trực thăng + Xạ thủ Và ta có ARSS, viết tắt của Hệ thống trực thăng xạ thủ tự động. Nó kết hợp một súng bắn tỉa, một hệ thống tự cân bằng và trực thăng không người lái Vigilante. Nó có thể bắn với tốc độ 7-10 viên/phút với độ chính xác gần như tuyệt đối. ARSS sử dụng súng trường bắn tỉa dùng loại đạn magnum 8.6mm, hiệu quả ngay ở tầm lên đến 1.6km. Nó hiệu quả gấp đôi cỡ 7.62 và gọn nhẹ hơn loại 12.7mm. Chìa khóa của ARSS là bệ súng tự cân bằng được thu nhỏ đủ để gắn trên UAV. Kính ngắm truyền hình ảnh trực tiếp về cho người điều khiển, sử dụng một bộ điều khiển Xbox cải tiến. Posted by Mili-Tec at 21:34 0 comments Labels: Bộ binh Tai nạn của Su-35 Hôm 26/4, một mẫu thử nghiệm Su-35 gặp tai nạn và bốc cháy khi đang di chuyển ra vị trí cất cánh. Đây là chiếc Su-35 thử nghiệm thứ 3, số hiệu 904. Phi công thoát ra an toàn. Chiếc thử nghiệm đầu tiên bay vào tháng 2/2008, chiếc thứ 2 vào 10/2008. Dự kiến Su-35 sẽ chính thức hoạt động vào 2011. Posted by Mili-Tec at 21:31 0 comments Labels: Chiến đấu cơ Thời điểm quan trọng của Mig Hồi đầu năm nay, Nga đã cho toàn bộ số máy bay Mig-29 của mình tạm thời ngừng hoạt động sau 2 vụ tai nạn liên tiếp năm ngoái và người ta phát hiện ra nhiều dấu hiệu của việc cấu trúc máy bay bị ăn mòn. Việc tạm dừng hoạt động như vậy là biện pháp an toàn cần thiết nếu như có dấu hiện cho thấy nguyê nhân tai nạn không phải là cá biệt và có thể lặp lại với những máy bay cùng loại. Không quân Mỹ cũng đã từng tạm dừng hoạt động của phi đội F-15C của mình vì lí do tương tự, chủ yếu vì đa số F-15C được sản xuất từ 20-30 năm trước và đã được sử dụng rất nhiều trong các cuộc chiến trước đây. Số giờ bay lớn như vậy tạo ra một số vết nứt Tuy vậy, đa số Mig-29 đều có số giờ bay rất ít, một số chỉ khoảng 150 giờ, chủ yếu vì sau khi LX sụp đổ, không quân Nga có rất ít tiền để thực hiện việc huấn luyện thường xuyên. Việc này càng làm trầm trọng thêm cơn khủng hoảng của nhà chế tạo máy bay nổi tiếng Mikoyan trong những năm gần đây, trong khi mà người anh em Sukhoi rất thành công với dòng Su-27/30. Nếu không nhờ chính phủ Nga nhiều lần ra tay giúp đỡ thì Mig đã phá sản từ lâu. Mig-29 chính thức vào biên chế từ 1983, như là một câu trả lời cho F-16. Cho tới nay, 1600 chiếc đã được chế tạo, 900 là cho xuất khẩu. Ban đầu nó được thiết kế với giới hạn 2500 giờ bay, hiện nay Nga đang chào hàng việc nâng cấp lên 4000 giờ bay. Tuy nhiên việc này sẽ không dễ dàng vì Mig-29 nổi tiếng kém tin cậy và hay hỏng hóc. Do đó, so sánh với F-16, Mig-29 có tỷ lệ sẵn sàng chiến đấu bằng khoảng 2/3. Mig-29 có 2 nhược điểm lớn là tầm bay ngắn và động cơ sinh ra rất nhiều khói, rất bất lợi trong không chiến. Trong thực tế chiến đấu, Mig-29 cũng có thành tích khá kém. Tuy vậy, đó một phần lớn là do nó phải chống lại đối phương mạnh hơn nhiều cả về trang bị và phi công. Sau khi LX sụp đổ, khối NATO có thực hiện những cuộc tập trận giữa Mig-29 của Đông Đức cũ với F-16 và một số chiến đấu cơ phương tây khác. Họ nhận thấy Mig-29 gần như không thể bị đánh bại trong không chiến ở tầm gần khi được trang bị tên lửa R-73 Archer Nga và hệ thống hiển thị - khóa mục tiêu trên ngay trên mũ phi công. Kết quả của những lần tập trận đó dẫn đến việc cả Mỹ và châu Âu phải đẩy mạnh việc nghiên cứu những tên lửa không-không tầm gần tương đương với Archer, gồm phiên bản X của Sidewinder (Mỹ), ASRAAM và IRTS-T của châu Âu. Ngoài ra, hệ thống hiển thị trực tiếp lên mũ phi công cũng trở thành trang bị tiêu chuẩn. Các phiên bản cải tiến Mig-29M/M2 sử dụng hợp kim nhôm-lithium để giảm trọng lượng, tăng lượng nhiên liệu mang theo, cải tiến động cơ, radar và hệ thống điện tử. Đồng thời nó cũng được trang bị thêm khả năng tấn công mục tiêu trên mặt đất, biến Mig-29 trở thành 1 máy bay đa năng thực thụ. Ngoài ra còn có Mig-29K sử dụng trên tàu sân bay. Hiện nay, niềm hy vọng lớn nhất cho sự hồi sinh của Mig là Mig-35, thực chất là Mig-29OVT. Nó hiện đang tham gia cạnh tranh ở MMRCA. Mig-35 có nhiều cải tiến về radar, điện tử cùng với việc được trang bị công nghệ lực đẩy vector, nghĩa là máy bay có thể điều khiển hướng của luồng phản lực từ động cơ, cho phép máy bay trở nên cực kỳ linh hoạt. Mig-35 trang bị động cơ RD-33K, ít thải khói hơn, nó có thêm khả năng thực hiện tiếp nhiên liệu trên không. Đặc biệt, Mig-35 là mẫu máy bay đầu tiên của Nga được trang bị công nghệ radar quét điện tử chủ động (AESA) là công nghệ radar tiên tiến nhất hiện nay. Cơ bản, AESA gần giống một tập hợp hàng ngàn radar nhỏ, có thể hoạt động độc lập với nhau. Mig-35 còn giới thiệu thiết bị quang điện tử mới, kết hợp giữa cảm biến hồng ngoại, cảm biến bức xạ nhiệt, camera và bộ phát laser. Nó được sử dụng cho cả trong không chiến và tấn công mục tiêu trên mặt đất. Buồng lái gồm 3 màn hình LCD lớn. Toàn bộ hệ thống điện tử được số hóa, sử dụng cáp quang. Hệ thống tác chiến điện tử có thêm tùy chọn sử dụng thiết bị gây nhiễu của Ý. Một số thông số chính: tốc độ tối đa 2550 km/h, tầm hoạt động 2000km, trần bay 19km, sức đẩy 2 x 10 tấn. Tải trọng tối đa 12 tấn. Có thể nói tương lai của Mig-35 và của cả Mikoyan phụ thuộc vào MMRCA. Tuy vậy, vấn đề là bản thân Mig-35 chưa thật sự 'tồn tại', vì nó vẫn chưa được đưa vào quá trình sản xuất hàng loạt. Ngay cả không quân Nga cũng chưa chắc chắn liệu có nên mua Mig-35. Ngoài ra, dòng máy bay Mig có lịch sử hoạt động rất không tốt trong không quân Ấn độ. Kể từ năm 1963 tới nay, trong tổng số 793 chiếc Mig mà Ấn độ mua thì có tới hơn 330 chiếc bị mất vì tai nạn. Tỷ lệ lớn khủng khiếp này còn vượt cả trực thăng và những mẫu phản lực cơ lên thẳng như Harrier, tới mức mà Mig-21 được người Ấn gọi là quan tài bay. Vấn đề của Mig là họ vẫn duy trì triết lý thiết kế máy bay tồn tại dưới thời LX, đó là chế tạo những mẫu máy bay giá rẻ, sử dụng cho những lực lượng không quân có trình độ phi công không quá cao, vì phương thức tác chiến trên không của LX và đồng minh dựa rất nhiều vào sự chỉ huy từ đài điều khiển mặt đất. Điều này có nghĩa là máy bay không cần có độ tin cậu quá cao, vì nó sẽ ít được dùng trong huấn luyện. Ví dụ như Mig-29 chỉ được thiết kế với mức 100 giờ bay mỗi năm. Nhưng một số khách hàng, ví dụ như Ấn độ, bay ở mức gấp đôi, điều này khiến cho Mig xuống cấp rất nhanh và gặp rất nhiều vấn đề kỹ thuật và hậu cần. Trong khi đó, Sukhoi, với Su-27, đã chuyển sang triết lý khác, họ thiết kế những máy bay với ý nghĩ trong đầu rằng nó sẽ được dành cho những phi công hạng nhất. KTCNQS trích dịch lại 1 phần bài phỏng vấn của một tạp chí quân sự với ông Vladimir Barkovskiy, Phó tổng giám đốc, Tổng công trình sư của Mig, trước đó đã từng làm việc cho…Sukhoi trong 18 năm, là người đứng đầu nhóm phát triển Su-30Mk1. Phóng viên (PV): Mig-35 khác Mig-29 ở điểm nào thưa ông? Barkovskiy (BK): chúng tôi gọi Mig-29 SMT là máy bay thế hệ thứ tư với hệ thống điện tử của thế hệ 4+. Mig-29K và M có khung máy bay của thế hệ 4+ và điện tử 4++. Còn Mig-35 có khung thế hệ 4+, còn điện tử của thế hệ 5, hay 5-. AESA không chỉ được sử dụng trong radar mà còn trong hệ thống gây nhiễu. Hệ thống quang điện tử lấy từ công nghệ không gian, hiệu quả gấp 3-4 lần. PV: công nghệ lực đẩy vector cho Mig-35 lợi thế như thế nào? BK: nó cho phép tăng khả năng cơ động đồng thời duy trì sự an toàn. Nếu không có công nghệ này, khi thực hiện những động tác xoay vòng nhanh ở vận tốc thấp, phi công dễ mất điều khiển. PV: Sukhoi đã được chọn cho dự án PAK-FA (dự án chế tạo chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 của Nga - tương đương F-22), điều này ảnh hưởng thế nào tới Mig? BK: đó là quyết định của không quân Nga. Về mặt nguyên tắc, tôi không nghĩa Mig sẽ bị đóng cửa. Dù sao thì tiềm năng của thế hệ thứ 5 vẫn còn rất nhiều. Thế hệ thứ 4 tồn tại trong hơn 30 năm. Tôi nghĩ thế hệ 5 sẽ tồn tại 40-50 năm. F-22 và F-35 mới chỉ là sự khởi đầu của thế hệ 5. Đôi khi việc đi theo sau người tiên phong cũng có những lợi thế riêng, nếu bạn không rớt lại quá xa. Nếu bạn vẫn còn nhìn thấy cái lưng của người đi trước, nghĩa là bạn vẫn còn cơ hội.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 13:19:38 GMT -5
SFW cho Ấn độ Ấn Độ đang mua 510 bom gắn cảm biến (SFW) CBU-105. Giá trung bình là 735,000 dollar, bao gồm cả phụ tùng, bảo trì, thiết bị huấn luyện và hỗ trợ kỹ thuật. Được sử dụng lần đầu ở Iraq 2003, CBU-105 là một loại bom chùm mà mỗi quả bom con được trang bị radar và máy tính điều khiển để truy tìm xe tăng bên dưới và tiêu diệt chúng. CBU-105 nặng nửa tấn, điều khiển bằng GPS và có 10 quả bom con. Mỗi quả sẽ dùng dù để giảm tốc độ sau khi được thả ra từ bom mẹ. Đồng thời radar sẽ hoạt động và tìm kiếm các mục tiêu thiết giáp bên dưới, và dùng một đầu nổ định hướng để xuyên thủng lớp giáp trên nóc xe tăng, là một trong những phần có lớp giáp mỏng nhất. Nếu không phát hiện được xe tăng, nó sẽ tấn công bất cứ phương tiên cơ giới nào trong bán kính 100m. Nếu vẫn không có, nó sẽ tự hủy trên mặt đất. ********************* Vật liệu tương tác Đầu đạn BatteAxe của Không lực Mỹ được cho sẽ là vũ khí đầu tiên sử dụng vật liệu tương tác trong đầu đạn. Vũ khí khi nổ sẽ tạo ra những mảnh bom làm từ vật liệu tương tác, khi va chạm chúng se tạo ra nhiệt, xung lực hoặc cả 2, tùy vào công thức. Vật liệu tương tác gồm 2 hay nhiều vật liệu không nổ, được gắn kết lại với nhau thành một chất rắn ổ định và an toàn trong điều kiện bình thường. Dưới điều kiện của sự va chạm mạnh, các thành phần vật liệu phản ứng với nhau, tạo thành hiệu ứng được quyết định bởi thành phần vật liệu vụ thể. Vũ khí sử dụng BattleAxe sẽ có năng lượng phá hủy cao hơn vũ khí có đầu đạn thông thường. Và không như bom chùm, BattleAxe không gây ra nguy cơ cho thường dân và lính đồng minh. BattleAxe có thể kết hợp cả 3 khả năng thường cần các loại đầu đạn riêng biệt là xuyên thép, sóng xung nhiệt và đạn mảnh, và dùng để chống loại nhiều loại mục tiêu. Vật liệu tương tác không thay thế thuốc nổ, nó chỉ thay thế cho mảnh đạn. Được phát minh từ 1784 bởi Henry Shrapnel, mảnh đạn cho tới nay vẫn không thay đổi nhiều, vẫn dựa vào động năng để gây thiệt hại. Nay với vật liệu tương tác, năng lượng không chỉ đến từ động năng và còn từ phản ứng hóa học. Một số loại vật liệu tương tác có thể tạo ra năng lượng lớn gấp đôi thuốc nổ có cùng khối lượng. Vì thuốc nổ được định nghĩa như một loại hợp chất không ổn định về mặt hóa học, do đó hỗn hợp vật liệu tương tác không được coi là thuốc nổ về mặt kỹ thuật, mà được coi là chất rắn dễ cháy. Có nhiều cách đề kết hợp vật liệu tương tác. Ví dụ như giữa kim loại và polymer. Cụ thể là bột nhôm trong một ma trận polytetraflouroetylen. Ngoài ra là kim loại với kim loại như nhôm với boron. Hay một hỗn hợp nhiệt nhôm đặc biệt gồm bột nhôm và oxit kim loại, sự khác biệt với hỗn hợp nhiệt nhôm thường là năng lượng mà nó phóng thích chỉ xảy ra trong một phần nhỏ của 1 giây
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 13:33:59 GMT -5
Đừng đuổi theo người Úc Lần đầu tiên trên thế giới, một chiếc F-18 của Không quân Hoàng gia Úc vừa thực hiện thành công việc dùng tên lửa không đối không bắn hạ một một tiêu đang bay phia sau của mình, trong một cuộc thử nghiệm. Loại vũ khí được sử dụng là ASRAAM, một loại tên lửa không đối không tầm gần dẫn đường bằng hồng ngoại. Cuộc thử nghiệm mô phỏng tình huống chiến đấu cơ bị đối phương truy đuổi, hay nói như thuật ngữ quân sự là 'ở hướng 6h'. Thành công trong việc tiêu diệt một mục tiêu đang đuổi theo ở phía sau là sự kết hợp giữa tính năng 'khóa mục tiêu sau khi phóng' của tên lửa và khả năng chỉ định mục tiêu từ phía sau của chính bản thân chiến đấu cơ, chỉ một vài có khả năng này, như F-18, Eurofighter hay F-35. ASRAAM là một dự án của người Anh. Nó có tầm bắn từ 300m đến 20km. Nó có khả năng cơ động cao, sử dụng chung bộ tầm nhiệt của AIM-9X, phiên bản mới nhất của tên lửa Sidewinder không quân Mỹ đang sử dụng. Nó có khả năng nhắm vào những điểm cụ thể của máy bay mục tiêu như động cơ, buồng lái. Ngoài ra, khả năng khóa mục tiêu sau khi phóng rất thích hợp cho những máy bay sử dụng khoang vũ khí kín như F-35 vì nó không cần phải 'nhìn thấy' mục tiêu trước khi phi công quyết định khai hỏa.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 14:33:35 GMT -5
Đạn thông minh Merkava I Quân đội Mỹ vừa thử nghiệm thành công loại đạn thông minh 120mm dành cho xe tăng. Nó có thể sử dụng chỉ thị bằng laser hoặc nhận diện hình ảnh bằng radar để dẫn đường. Trong cuộc thử nghiệm, mục tiêu được bắn trúng ở khoảng cách 8km. Nhưng khoảng cách tối đa được thiết kế cho loại đạn này, XM-111 MRM, là 12km. XM-111 sẽ tiếp cận mục tiêu ở tốc độ chậm, khi đã xác định được mục tiêu, nó sẽ khai hỏa một quả tên lửa nhỏ để xuyên thủng mục tiêu bằng một đầu xuyên làm bằng kim loại có khối lượng riêng lớn, như uranium làm nghèo, với tốc độ của một viên đạn. Còn có một phiên bản khác của XM-111, sử dụng đầu nổ định hướng thay vì động năng để xuyên thép. Tầm bắn khoảng 6km, phiên bản này được bắn đi với góc bắn cao và tiếp cận mục tiêu từ trên xuống, sử dụng radar để xác định mục tiêu. Loại vũ khí tương tự xuất hiện lần đầu khoảng 50 năm trước. Đó là MGM-51 Shillelagh, một loại tên lửa bắn ra từ nòng ngắn cỡ 152mm của xe tăng hạng nhẹ Sheridan và một số M-60. Tầm bắn 2km. Cơ chế dẫn đường khi ấy còn rất nguyên thủy, sử dụng tia hồng ngoại, và pháo thủ phải liên tục giữ cho tia hồng ngoại đó chiếu vào mục tiêu cho tới khi tên lửa chạm đích. Sau đó, khi nhận thấy loại đạn thông thường với tốc độ cao cỡ 105mm và 120mm hiệu quả hơn, người Mỹ đã loại bỏ Shillelagh. Tuy vậy, người Nga thì tiếp tục. Đến những năm 80, họ có loại tên lửa bắn từ nòng súng xe tăng (xe tăng Nga dùng cỡ nòng 125mm) với tầm 4km. Loại vũ khí này rất đắt, khoảng 3 quả là đã gần tương đương một chiếc xe tăng. Tuy vậy họ cũng xuất khẩu được một số, chủ yếu qua Trung Quốc, và bị nước này copy lại. Hiện Nga sử dụng 9M119M Reflek-M (AT-11), tầm bắn 5km, có thể xuyên thủng 75cm thép và sử dụng đầu đạn nổ định hướng và dẫn đường bằng laser. Israel sử dụng Lahat, tầm bắn 8km, và có khả năng tấn công từ trên xuống, đánh vào nóc xe tăng, nơi giáp mỏng nhất. Lahat còn có 1 phiên bản cho UAV, tầm bắn 13km. *************** Tháp súng tự động và gamer Kể từ khi được quân đội Mỹ đưa vào sử dụng cách đây 3 năm tháp súng tự động (điều khiển từ xa) đã thay đổi cách thức tác chiến một cách mạnh mẽ. Tới nay, họ đặt hàng tổng cộng 9000 CROWS, viết tắt của Bộ vũ khí điều khiển từ xa đa năng. Lợi ích chính là từ nay đối phương không còn có thề bắn hạ các xạ thủ trên tháp súng máy và nhờ đó giảm thiểu phần lớn uy lực của xe cơ giới được nữa. Không những thế, nó còn chính xác hơn. Do đó, khi kẻ thù nổ súng, chúng sẽ phải đối phó với hỏa lực bắn trả hiệu quả và có thể là thêm hơn nửa tá bộ binh trang bị hạng nặng từ trong xe thiết giáp đổ ra. Như đã được chứng minh thực tế trên chiến trường Iraq, quân phiến loạn gặp rất nhiều khó khăn với CROWS. Ý tưởng tương tự CROWS thì có từ nửa thế kỷ nay, nhưng tới gần đây công nghệ mới cho phép nó trở thành sự thật. CROWS thật sự là một thiết bị giúp cứu mạng sống của nhiều người lính, cũng như giảm sự căng thẳng, cho những đơn vị hành quân vào khu vực có quân phiến loạn. Thường thì những xạ thủ súng máy trên những chiếc Hummer hay xe bọc thép là những mục tiêu dễ bị hạ trước tiên. Với CROWS, việc đó đã chấm dứt. Người lính ngồi bên trong xe, điều khiển tháp súng máy, quan sát xung quanh qua một màn hình, có cả khả năng nhìn trong đêm và zoom. CROWS còn có một bộ đo khoảng cách bằng laser và thiết bị cân bằng tự động cho phép hỏa lực chính xác ngay cả khi xe di chuyển. CROWS giá khoảng 260,000 dollar và có thể gắn vào nhiều loại vũ khí khác nhau, súng máy 5.56mm, 7.62mm, 12.7mm hay súng phóng lựu 40mm. Việc CROWS được sử dụng thành công bao gồm một lí do ít ai nghĩ đến trước đó. Người lính hiện này phần lớn đã quá quen thuộc với video games, trong khi điều khiển CROWS cũng không khác khi chơi game, và cả 2 đòi hỏi những kỹ năng tương tự. Điều này khá quan trọng vì quan sát xung quanh bằng camera thông qua một màn hình vi tính khác nhiều so với trực tiếp quan sát bằng mắt thường. Một game thủ kinh nghiệm có thể nhanh chóng khắc phục những khác biệt đó. Với CROWS, binh lính bên trong xe bọc thép, ví dụ như Stryker, càng trở nên an toàn và thoải mái hơn, khi mà bản thân Stryker đã có sẵn máy điều hòa, các thiết bị điện tử và cả một hệ thống âm thanh mà người lính có thể gắn iPod của mình vào.
|
|
|
Post by vietnam on May 6, 2009 18:29:50 GMT -5
Võ khí mới của Hoa Kỳ Trong số tháng 5 năm 2009, tạp chí Khoa học Phổ Thông - Popular Science Hoa Kỳ , trình bày nhưng tiến triễn mới về “Trò chơi Chiến Tranh - War Games “ , những tiến bộ sẽ có vào năm 2011 và hoàn tất họạt động được tòan thể năm 2015, trong khuôn khổ chương trình có tên là Những Hệ thống Chiến Đấu Tương Iai - Future Combat Systems viết tắt là FCS, một cố gắng cận đại hóa tham vọng nhất của Lục Quân Hoa Kỳ, kể từ Thế Chiến Thứ II. Cái nhìn mới của FCS phối hợp những gì tốt đẹp nhất về đạn dược do laser hướng dẫn , khoa học robốt và Mặt sách - Facebook. Bấm chuột điều khiển hỏa tiễn , máy bay không người lái - drones, , máy computer phô bày vị trí các quân nhân như thể những hình tượng tiệm ăn trên một đơn vị GPS , những thông điệp bằng hình ảnh cho thấy những nơi lọan quân trú nấp và những trụ côt kêu líu lo cung cấp cập nhật tình báo. Thử tưởng tượng một trung đội 50 người lính dàn trải trên vài cây số, một số đi bộ, một số trên xe Humvee, vài người ở ngòai trời, vài người trong các nơi trú ẩn. Mỗi một người lính đều được nối kết với mọi người lính khác trong vùng.. Anh ta hay cô ta có thể nhận hình ảnh SUGV - Small Unmanned Ground Vehicle ( Xe Nhỏ Trên Đất Không Người Lái, một kiểu mẩu robot trinh sát ), tin tức tình báo từ một vị trí chỉ huy đóng quân, và thông tin, tỉ như rung động bánh xe tăng và dấu vết vũ khí sinh học từ các máy dò không ai theo dõi- unattended sensors. Mục đích là làm cho người lính xác định mục tiêu và tiêu diệt đối phương, khi anh nhắm đánh mục tiêu, thu lượm nối kết Web, hầu giảm bớt thiệt hại Mục tiêu FCS không có gì đáng trách cứ cả. Chỉ có thực thi mới dưới làn lữa đạn. Phí tổn FCS đã tăng lên ít nhất là 45 %, kể từ khi hệ thống được đề ra vào năm 2003, Lục Quân Hoa Kỳ tái tính tóan lại tốn 161 tỉ đô la và một duyệt xét độc lập của bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ ước lượng đến 234 tỉ . Dù theo ước tính nào đi nữa , FCS, món điểm tâm ngon lành cho 896 nhà thầu ở 45 bang Hoa Kỳ, là một chương trình vỏ khí tốn kém nhất trong lịch sử Lục Quân Hoa Kỳ . Tháng 3 / 2008 , Cơ quan (Xét) Trách Nhiệm Chánh Phủ - Governement Accountability Office GAO vcho biết là tiến bộ đến nay nữa đường thực hiện chương trình, rất bất cập, trên phương diện thời gian và ngân sách. và chỉ 2 trong số 44 kỷ thuật quan trọng đạt được giai đọan thành hình …đáng lý phải được chứng minh , ngay khi chương trình bắt đầu. . Kỷ thuật chưa được chứng minh , chính là mạng lưới, dựa trên một hế thống băng tần rông cao high-band width ra điô , vẫn chưa phát triễn. Không có mạng lưới, FCS sẽ sụp đổ như một nhà xây cổ bài tây . Vài kỷ thuật võ khí mới !- Spike, hỏa tiễn mini, dày đặc, chính xác và giết chết người hơn , thử nghiệm chế tạo ở phía bắc thành phố Los Angeles. Ngày 20 tháng tư năm 2009, nhật báo Los Angeles Times trình bày sơ lược một lọai hỏa tiễn chỉ nặng 5 cân Anh ( chừng 2kg ), kích thước ổ bánh mì baguette Pháp, sẽ được thử nghiệm, tháng 5/ 2009, ở sa mạc Mojave , tại Trung tâm Hải Không Quân China Lake ,gần các thị trấn Ridge Crest va Barstow , một trung tâm lớn có cở sở thử nghiệm võ khi của Hoa Kỳ tuyễn dụng 6600 nhân viên . Theo Steve Felix , xử lý dự án hỏa tiễn, Spike chỉ dài 60 cm , ¼ kích thước lọai hỏa tiễn hiên hửu nhỏ nhất thế giới. Trước iiên , hỏa tiễn dự định dành cho lục quân bắn xe tăng , nhưng nay các hỏa tiễn bé nhỏ được hướng dẫn này , được sửa lại để phóng đi từ các máy bay không người lái, hầu phá hủy các lọai xe nhỏ . Ở thử nghiệm , hỏa tiễn sẽ phóng nhờ máy bay trực thăng điều khiễn từ xa và nhắm vào một xe vận tải đón khách - pick up truck . Nếu thành công , đây là một cột mốc về phát triễn vỏ khí mới cho các máy bay không người lái , một lảnh vực đang vươn lên , thay thế các máy bay bà già , cánh quạt chong chóng cách đây một thế kỳ , thường bị súng máy liên thanh bán lũng đầy lỗ . Những tháng vừa qua, Hoa Kỳ đã sử dụng máy bay robot Predator , trang bị với các máy chụp hình viđêô ở những sứ nênh m tìm kiếm - và - hủy diệt chống lại các nơi ẩn trốn Al Qaeda tại Hồi Quốc-Pakistan và A Phú Hãn - Afghanistạn Hỏa tiễn mới này rất bé nhỏ so với hỏa tiễn cũ Hellfire, nặng 100 cân Anh ( trên 46 kilô ) đang được Hoa Kỳ sử dụng ở chiến trường Trung Á .Một chiếc Predator chỉ mang theo được 2 hay 3 Hellfires, sẽ có khả năng mang theo đến một tá Spikes . Những tháng vừa qua , máy bay Predator do chi nhánh Rancho Bernado hảng General Atomics Aeronautical Systems Inc. tọa lạc tại bang Ca Li chế tạo , đã được sử dung phóng đi chừng 3 tá hỏa tiễn chống các lảnh tụ Al Qaeda và Taliban ,theo tin tức quân sự Hoa Kỳ. Những máy bay không người lái này có tên là UAV được trang bị máy chụp hình video và các máy dò khác để xác định và theo dấu các mục tiêu tiềm thế; người điều khiển ngồi trong phòng điều hòa không khí diều khiển từ xa , cách chiến trận hàng ngàn dặm Anh ở một căn cứ ngòai thành phố Las Vegas ... Hỏa tiễn Spkes chỉ là một lọai trong số các vỏ khí mới cho các máy bay không người lái sử dụng nhỏ hơn , chính xác hơn . Gía một hỏa tiễn Spikes chỉ là 5000 đô la Mỹ, trong khi gía các hỏa tiễn điều khiển hiện hửu trên 100 000 đô la . Sở dĩ gía rẽ là nhờ các chuyên viên phát triễn vỏ khi rất trẻ áp dụng những tiên tiến mau lẹ ở lảnh vực máy computers và ngành điện tử đã thương mãi hóa rồi. 2- Hộp Hỏa tiễn - Ro cket Box . Lính chiến có thể cung cấp các tọa độ mục tiêu cho Hệ Thống Phóng Không Theo Đúng Tầm Nhìn.- Non Line of Sight launch System , và bắn các hỏa tĩễn điều khiển bằng GPS, có thể xoay 90 độ và ép vào các nẻo đường hẹp. 3 - Que Thông Minh - Smart sticks . Đó là những Máy Dò chiến thuật dưới đất không ai theo theo dõi- Tactical Unattended Ground Sensors, có thể cho biết là có bắn không hay có độc tố - toxins sót lại trong không khí không ; vài lọai còn có máy chụp hình … 4 - Bắn Lẹ. Đại bác không theo tầm nhìn - Non Line of Sight Cannon có thể bắn 6 viên đạn một phút , 3 lần mau lẹ hơn các sung cối - hiện hửu ,.nổ cùng lúc , khiến cho địch quân không còn cơ hội ẩn núp. khi viên đạn thứ nhất nổ tung ‘ GS Tôn Thất Trình ( Irvine , Ca Li 25 tháng 4 , năm 2009 )
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 14:05:17 GMT -5
ISIS - Siêu khinh khí cầu ISIS là một dự án tham vọng, với mục tiêu tích hợp một radar quét điện tử chủ động (AESA) khổng lồ với diện tích 6000 mét vuông vào trong một khinh khí cầu lơ lửng ở độ cao 20km ở tầng bình lưu trong hàng tháng, thậm chí hàng năm trời. Nó sẽ cung cấp một khả năng thám sát cả trên không và trên bộ chưa từng có. Được cung cấp năng lượng bằng các giàn pin mặt trời, radar trên ISIS có thể phát hiện tên lửa hành trình và UAV cỡ nhỏ từ 600km, và lính bộ binh trên mặt đất từ 300km. Một thử thách lớn là làm sao bảo đảm được radar phải có trọng lượng nhẹ. Theo như lời của nhà sản xuất, Raytheon, radar này có bề mặt lớn như một sân bóng, nhưng lại nhẹ hơn trọng lượng nhỏ hơn của 22 cầu thủ chơi trên đó. Mặc dù chứa tới hàng triệu module độc lập, bề dày của nó chỉ khoảng 1cm. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by votieugiap on Jun 15, 2009 15:01:53 GMT -5
MOP vs. bê tông siêu cứng Không quân Mỹ vừa quyết định đặt mua một số lượng chưa được tiết lộ MOP, hay Bom xuyên cực lớn. MOP nặng 13.6 tấn, chứa 5 tấn thuốc nổ. Tỷ lệ chất nổ tương đối ít là do các loại bom xuyên đòi hỏi có đầu xuyên và lớp vỏ rất cứng. Một số người tin rằng MOP có đầu xuyên bằng uranium làm nghèo, nhưng tin này không được kiểm chứng. MOP được cho là có thể xuyên qua 65m bê tông, nhưng không rõ ở độ cứng nào. MOP rõ ràng được thiết kế chủ yếu nhắm vào những nước như Iran hay Bắc Hàn, nơi có rất nhiều công trình ngầm. Và những nước này tất nhiên cũng không ngồi yên. Cách đây vài năm, Viện bê tông Mỹ tổ chức một cuộc thi cho các sinh viên đại học, với mục tiêu là chế tạo những khối be tông siêu cứng. Đội từ trường DH Teheran đã tạo ra những khối có độ cứng từ 50 - 60,000 psi, khi được đưa vào máy nén để đo độ cứng, những khối này đã 'phát nổ' khi bị nén đến giới hạn và làm hỏng máy. Bê tông thường có độ cứng khoảng 3000 psi, đá từ 10,000 psi được coi là cứng, đá hoa cương khoảng 30,000 psi. Một phương cách hiệu quả hơn để tiêu diệt các công trình ngầm và tấn công theo chiều ngang thay vì chiều thẳng đứng. Cụ thể là nhắm vào cửa hầm, điểm yếu của mọi công trình ngầm. Để làm được điều này, quả bom sẽ phải lướt đi thay vì rơi thẳng xuống. Đây là nguyên tắc mà người Anh đã dùng để tấn công các đập nước của Đức thời thế chiến thứ 2. Tuy nhiên, công nghệ này mới chỉ bắt đầu được nghiên cứu. Ngoài ra, còn có nhiều công nghệ tham vọng khác cùng tham gia, vì phá hủy công trình ngầm được coi là một trong những ưu tiên chính trong thời gian tới. Posted by Mili-Tec THAAD và hành trình 10 năm Ngày 10/6 vừa qua là kỷ niệm 10 năm ngày hệ thống THAAD lần đầu đánh chặn thành công mục tiêu của mình, một tên lửa đạn đạo. THAAD viết tắt cho Hệ thống phòng thủ tên lửa giai đoạn cuối tầm cao cho khu vực lớn. Đúng như tên gọi của nó, THAAD là hệ thống phòng không cơ động chuyên dùng để bắn chặn tên lửa đạn đạo tầm gần và tầm trung trong giai đoạn cuối của chúng. Như đã biết, tên lửa đạn đạo có 3 giai đoạn: giai đoạn đầu khi nó vừa rời bệ phóng, giai đoạn giữa khi tên lửa rời bầu khí quyển và di chuyển trong không gian và giai đoạn cuối khi tên lửa quay trở lại bầu khí quyển. Tuy vậy, THAAD khác với Patriot PAC-3 ở chỗ tuy chúng cùng bắn chặn tên lửa ở giai đoạn cuối, THAAD có tầm bắn xa hơn nhiều, lên tới 200km, so với 20km của PAC-3. Nó có thể bắn chặn tên lửa ngay từ bên ngoài bầu khí quyển. Do đó, THAAD dùng để bảo vệ một khu vực rộng lớn, còn PAC-3 bảo vệ một mục tiêu cụ thể. Cho tới này, THAAD là hệ thống phòng không duy nhất có thể tấn công mục tiêu cả bên trong và bên ngoài bầu khí quyển. Một hệ thống THAAD gồm radar băng tần X, trung tâm chỉ huy, giàn phóng di động và tên lửa. Radar của THAAD có thể phát hiện mục tiêu từ khoảng cách 1000km. Thông tin được chuyển đến trung tâm chỉ huy, đặt trên 1 chiếc Humvee. Nó có thể phối hợp hoạt động của THAAD với các hệ thống phòng không khác. Mỗi giàn phóng có thể chứa 10 tên lửa, và có thể được không vận bằng máy bay C-130. Thời gian để nạp lại tên lửa là 30 phút. Bản thân tên lửa dài 6.17m, nặng 900kg, trang bị đầu dò hồng ngoại. THAAD còn gắn với một công nghệ đặc biệt: tiêu diệt mục tiêu bằng động năng. Thông thường các tên lửa phòng không đều có một đầu đạn chứa thuốc nổ, khi đến gần mục tiêu, nó sẽ kích nổ và tiêu diệt hoặc làm hư hại mục tiêu. THAAD hoàn toàn không chứa chất nổ và tiêu diệt mục tiêu bằng cách lao thẳng vào nó. Điều này đòi hỏi một độ chính xác tuyệt đối, nhưng bù lại tên lửa sẽ rất gọn nhẹ, tiết kiệm được trọng lượng và không gian. Điều trùng hợp là ngày 10/6 cũng là kỷ niệm 25 năm ngày công nghệ này lần đầu thành công trong việc tiêu diệt một tên lửa đạn đạo, cũng do hãng Lockheed Martin, hãng chế tạo THAAD, thực hiện. Công nghệ tiêu diệt bằng động năng đã mở ra một chương mới trong khái niệm phòng thủ tên lửa. Sau buổi thuyết trình giới thiệu công nghệ này lần đầu, các tướng lĩnh đã trực tiếp đến gặp những kỹ sư để cảm ơn vì nếu không có nó, họ buộc phải dùng đầu đạn hạt nhân trong hệ thống phòng thủ tên lửa (như hệ thống SDI). Trong hình, tên lửa để lại một cuộn khói hình xoắn ốc là do tầm bắn của nó quá lớn so với căn cứ thử nghiệm vũ khí, do đó khi vừa rời giàn phóng, nó sẽ bay theo hình xoắn ốc như vậy trước để đốt bớt năng lượng và giảm nguy cơ nó rơi ra ngoài khu quân sự. Posted by Mili-Tec Thách thức cho công nghệ đánh chặn giai đoạn đầu Theo như bản đề nghị ngân sách quân sự cho năm tài khóa 2010 mới đây của bộ trưởng BQP Mỹ Robert Gates, chương trình phòng thủ tên lửa có tâm trạng vui buồn lẫn lộn. Theo đó, các hệ thống phụ trách việc đánh chặn trong giai đoạn giữa và giai đoạn cuối không bị ảnh hưởng. Nhưng các công nghệ thử nghiệm dùng trong việc tiêu diệt tên lửa trong giai đoạn đầu khi nó vừa phóng lên sẽ tạm dừng. Trong phòng thủ tên lửa, có 3 giai đoạn để đánh chặn: khi nó vừa phóng lên, trong giai đoạn giữa khi nó đang ở trong không gian và giai đoạn cuối khi đầu đạn quay trở lại bầu khí quyển. Hiện nay Mỹ đang có những hệ thống hiệu quả trong việc phòng ngự ở hai giai đoạn sau. Đảm nhận việc chống tên lửa trong giai đoạn giữa là hệ thống GMD và Aegis. GMD là tên gọi mới của hệ thống NMD trước đây, các tên lửa được đặt tại Alaska và California, trong tương lai có thể có thêm ở châu Âu. Còn hệ thống phòng thủ trên biển kết hợp tên lửa SM-3 và hệ thống phòng không Aegis. Cả 2 hệ thống này đều sử dụng cơ chế tiêu diệt bằng động năng. Nghĩa là đầu đạn không mang theo thuốc nổ mà nó sẽ lao thẳng vào mục tiêu. Hệ thống này sẽ được mở rộng với thêm 6 tàu chiến được trang bị Aegis. Phòng thủ giai đoạn cuối là công việc của tên lửa Patriot PAC-3 và THAAD, trong đó THAAD có tầm xa hơn, còn Patriot sẽ là lớp phòng thủ cuối cùng. Tuy vậy, hiện có hệ thống chuyên dùng trong giai đoạn đầu vẫn dừng ở mức công nghệ thử nghiệm. Theo lý thuyết, ở giai đoạn này, tên lửa đang bay lên, tốc độ chậm hơn 2 giai đoạn sau nên sẽ dễ đánh chặn hơn, và khi đó nó vẫn ở trong lãnh thổ đối phương. Tuy vậy, vì khoảng cách xa nên việc phát hiện kịp thời và phản ứng đủ nhanh không phải là chuyện dễ. Hai chương trình thử nghiệm là Hệ thống laser trên không ABL và KEI. ABL kết hợp một nguồn phát tia laser hóa học khổng lồ vào trong một máy bay Boeing 747. Tổ lái gồm 4 người, nó hoạt động ở độ cao khoảng 15km, 6 cảm biến hồng ngoại của nó, 1 ở phía trước, 1 phía sau và 2 cho mổi bên, sẽ tìm kiếm mục tiêu là các tên lửa khi nó vừa mới rời bệ phóng. Một khi mục tiêu bị phát hiện, ABL sẽ phát ra 3 tia laser để theo dầu mục tiêu, tính toán khoảng cách và hướng đi. Tia đầu tiên sẽ cung cấp thông tin để theo dấu tên lửa. Tia thứ 2 quyết định điểm nhắm bắn. Tia thứ 3 cung cấp thông tin về độ nhiễu loạn của vùng khí quyển quanh đó để máy tính xác định mức bù trừ. Cuối cùng, ABL sẽ phát ra tia laser hóa học năng lượng cao oxy iot (COIL) từ mũi máy bay. Sau khoảng 3-5 giây, lớp vỏ tên lửa sẽ bị thủng và tên lửa nổ tung. Một trong những lí do khiến chương trình bị trễ hạn và vượt ngân sách là vấn đề rung động của chiếc 747. Những rung động nhỏ gây ra bởi động cơ máy bay này trong điều kiện bình thường thì không đáng kể, nhưng khi trên máy bay là một nguồn phát laser lớn với yêu cầu rất cao về độ chính xác thì đó là vấn đề lớn. Ngoài ra, công nghệ cốt lõi của nó, laser hóa học, tuy có thể tạo ra năng lượng rất lớn, nhưng có nhược điểm là cồng kềnh, nguy hiểm và tốn kém. Công nghệ laser năng lượng điện hứa hẹn sẽ có nhiều tiềm năng hơn. KEI là bao gồm các tên lửa được trang bị trên các giàn phóng di động, giống như Patriot, có thể được chuyên chở bằng máy bay đến gần biên giới các quốc gia thù địch. Hoặc nó có thể gắn trên tàu chiến. Cần khoảng 3 giờ để triển khai một khẩu đội 5 giàn phóng với 10 tên lửa. KEI sử dụng tên lửa có sơ tốc rất lớn, 36,000km/h, gấp gần 3 lần các tên lửa thông thường. Đầu đạn của nó cũng kết hợp công nghệ của GMD và SM-3 dùng động năng của sự va chạm để tiêu diệt mục tiêu. Việc ngừng các chương trình ABL và KEI không có nghĩa là việc bắn chặn tên lửa trong giai đoạn đầu không được xem trọng nữa, vấn đề chỉ là cần có những công nghệ mới đáng tin cậy hơn. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by votieugiap on Jun 23, 2009 12:35:47 GMT -5
HAROP từ Israel Hãng IAI của Israel vừa ký hợp đồng trị giá 100 triệu dollar cho một khách hàng chưa được tiết lộ cung cấp hệ thống vũ khí HAROP. Đó là một loại vũ khí kết hợp giữa UAV và tên lửa hành trình. Nó có thể được phóng đi từ nhiều phương tiện khác nhau và bay đến khu vực mục tiêu. Tại đó, nó có thể lượn vòng trong một thời gian dài để tìm kiếm hoặc xác nhận mục tiêu, sử dụng những cảm biến của UAV như hồng ngoại, quang điện tử…Do đó, nó thích hợp cho cả những mục tiêu di động và cố định, những mục tiêu có giá trị cao đòi hỏi sự phối hợp chính xác về thời gian, vì nó có thể đợi cho thời điểm chín muồi nhất để tấn công. Thông tin từ HAROP có thể được truyền trực tiếp về sở chỉ huy để con người có thể can thiệp, ví dụ như hủy bỏ cuộc tấn công nếu nhận thấy nguy cơ thiệt hại cho dân thường lớn. HAROP có thể tấn công từ mọi hướng, mọi góc độ tùy mục tiêu, từ tấn công thẳng từ trên xuống (mục tiêu trong thành phố) hay theo phương ngang (miệng hầm). Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on Jun 24, 2009 14:53:06 GMT -5
M320 Sư đoàn không vận 82 là đơn vị đầu tiên được trang bị súng phóng lựu M320, thay thế thế M203, loại được gắn thêm vào dưới súng trường M4 và M16. M320 có thể được dùng như một loại vũ khí độc lập hoặc gắn vào súng trường như với M203. Nó có thể dùng với loại đạn (40mm) dài hơn so với loại dùng cho M203. Ngoài ra nó còn có một ray trượt để gắn thêm các phụ kiện như ống ngắm, kính hồng ngoại…và một báng súng xếp được. Tính năng nổi bật nhất có lẽ là hệ thống ngắm điện tử được tích hợp vào. Hệ thống quang học này có một điểm ngắm tự động cân bằng. Người lính xác định khoảng cách tới mục tiêu và nhập số liệu vào thiết bị. Hệ thống sẽ hiển thị cho biết người lính nó ngắm đúng hướng và góc bắn hay chưa. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on Jul 6, 2009 12:43:28 GMT -5
Robot chim ruồi
Những nhà nghiên cứu của Lầu năm góc đang phát triển loại robot mô phỏng phương thức bay của chim ruồi, được coi là một trong những 'phi công' xuất sắc nhất của thế giới động vật. Hiện mẫu phát triển mới chỉ bay được trong 20 giây, nhưng có thể thực hiện được mọi động tác bay cơ bản. Mục tiêu của chương trình là một thiết bị nặng khoảng 10g, có khả năng lơ lửng tại chỗ trong thời gian dài. Tốc độ tối đa 10m/s, chịu được gia tốc 2,5 m/s2 và được điều khiển từ cách xa 1km. Ngoài ra, nó không chỉ bay giống mà còn phải trong giống một con chim ruồi thật. Ngoài ra, còn có hướng nghiên cứu robot mô phỏng theo các loại côn trùng. Robot dạng côn trùng Các nhà nghiên cứu cho biết các thiết bị bay siêu nhỏ (MAV) trong tương lai sẽ mang hình dạng của côn trùng. Chúng được dùng chủ yếu ở khoảng cách gần, thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, theo dõi. Mô phỏng côn trùng được coi là một trong những hướng chính trong việc chế tạo MAV. Lí do quan trọng nhất là đối với những vật thể kích thước nhỏ, các định luật khí động học thay đổi và do đó bạn không thể đơn giản là thu nhỏ kích thước thiết bị. Vd như một chiếc trực thăng có kích thước của một con ong sẽ không thể bay được. Côn trùng tạo ra lực nâng chủ yếu từ những xoáy không khí ở đầu cánh, ở kích thước lớn thì hiệu ứng này tạo lực không đáng kể. Một trong những khái niệm quan trọng nhất của robot siêu nhỏ là khả năng hoạt động thành đàn. Nghĩa là một số lượng lớn robot hoạt động cùng nhau, có khả năng hợp tác, phân chia công việc với nhau mà không cần sự điều khiển từ bên ngoài. Mỗi robot sẽ có một công việc cụ thể khác nhau. Ví dụ như những robot dạng nhện sẽ bò quanh các bức tường, kẽ hở, trang bị các cảm biến âm thanh và địa chấn. Còn các MAV có dạng chuồn chuồn sẽ trang bị camera, hoặc đóng vai trò như trạm tiếp sóng, hay mang các cảm biến phát hiện vũ khí hóa sinh. Phát triển những phần mềm cho việc điều khiển đàn sẽ là một thách thức rất lớn. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on Jul 8, 2009 1:47:59 GMT -5
|
|
|
Post by vietnam on Jul 8, 2009 1:53:45 GMT -5
|
|
|
Post by vietnam on Jul 13, 2009 13:59:58 GMT -5
The He 5 và 6 Việc phát triển các chiến đấu cơ, đặc biệt là những mẫu hoàn toàn mới, mất rất nhiều thời gian. Do đó, chúng được phát triển theo chu kỳ khép kín. Ngay sau khi một thiết kế mới bắt đầu được chính thức đưa vào sản xuất hàng loạt thì việc phát triển cho thế hệ tiếp theo cũng sẽ bắt đầu. Việc chuyển tiếp từ thế hệ 5 sang 6 cũng không phải là ngoại lệ. Hiện nay, khi mà F-22 vẫn còn đang trong dây chuyền sản xuất và F-35 ở giai đoạn cuối của quá trình phát triển thì việc phát triển thế hệ thứ 6 cũng đi những bước đầu tiên, hiện chủ yếu ở dạng phác thảo ý tưởng. Boeing vừa giới thiệu một ý tưởng của mình về một chiến đấu cơ thế hệ thứ 6, sử dụng cho hải quân. Nó vẫn chưa được đặt tên chính thức mà chỉ được gọi là F/A -XX. Những công nghệ dự tính cho thế hệ 6 có thể bao gồm tùy chọn có người lái hoặc bay tự động (UAV), động cơ kép (kết hợp giữa động cơ turbo và ramjet hoặc scramjet), tàng hình với mắt thường, sử dụng nhiều hơn vật liệu tổng hợp và khả năng tấn công sử dụng vũ khí điện từ… Thực ra mẫu ý tưởng này là kết quả chỉnh sửa thì một mẫu ý tưởng hồi tháng 6/2008. Mẫu trước có thiết kế hoàn toàn dạng cánh bay. Những mẫu này cho thấy rằng không chiến là lãnh địa cuối cùng mà giới quân sự vẫn còn chưa có sự tin tưởng hoàn toàn vào công nghệ máy bay không người lái. Trong phần lớn các nhiệm vụ khác, việc UAV thay thế máy bay không người lái gần như đã là một xu hướng. Tuy nhiên, trong việc chiến đấu chống lại máy bay đối phương, UAV vẫn chưa được hoàn toàn tin tưởng sẽ thay thế con người. Do đó, yêu cầu đưa ra là tính năng tùy chọn giữa 2 chế độ có và không có người lái. Trong khi đó, việc phát triển PAK-FA hay T-50, máy bay thế hệ 5 đầu tiên của Nga vẫn hoàn toàn trong vòng bí mật. Chưa ai có bất kì thông tin gì, ít nhất là trông nó như thế nào. Những mẫu phác họa trên được công bố đều là những phỏng đoán. Tuy vậy, đa số đều trông khá giống…F-22, cũng là một việc dễ hiểu vì T-50 cũng được dự tính là một máy bay tàng hình. Và Nga dù sao cũng có lợi thế của người đi sau. Theo những công bố trước kia của Sukhoi thì T-50 sẽ bay chuyến đầu tiên vào cuối năm nay. Tuy nhiên, tại hội chợ hàng không Paris vừa qua, giám đốc Sukhoi là Pogosyan cho biết mốc này nhiều khả năng không thể đạt được. Ngoài ra, ông này cũng cho biết rằng sẽ không có một dự án JSK-ski, tức là mẫu tương ứng của F-35 như dự đoán trước đây. Thay vào đó, Su-35 và T-50 sẽ cùng tồn tại, trong ít nhất là một thập kỷ. Có thể nói thông tin này gây khá nhiều bối rối. Vì cả Su-35 và T-50 là những máy bay cùng loại, không được thiết kế để bổ sung cho nhau. Nhìn lại thế hệ thứ 4, cả Mỹ và LX có cơ cấu chiến đấu cơ tương đối giống nhau. Mỹ sử dụng cơ cấu 'hi-low', gồm một máy bay cỡ lớn, tính năng cao, giá thành đắt, số lượng ít, và chuyên về không chiến là F-15 và một mẫu đa năng hạng nhẹ, giá rẻ, số lượng nhiều là F-16. Sau này F-15 được nâng cấp để có thể đóng vai trò một máy bay ném bom (F-15E). LX đi sau 10 năm và cũng với cơ chế tương tự, với Su-27 tương ứng với F-15 và Mig-29 tương ứng với F-16. Những mẫu Su-30, 33, 35 thực chất vẫn thuộc dòng Su-27 nâng cấp lên. Khi lên thế hệ thứ 5, F-22 thay thế cho F-15 và F-35 thay thế cho F-16 (cùng một số mẫu khác nữa). Tương ứng, T-50 thay thế cho dòng Su-27 và là đối thủ trực tiếp của F-22. Như vậy Nga cần thêm một mẫu thế hệ thứ 5 đa năng, với tính năng và giá thấp hơn T-50 để bổ sung cho nó. Bản thân Su-35 trước giờ luôn được coi là giải pháp tạm thời, nhằm lấp khoảng trống khi mà T-50 chưa ra đời chứ không phải là sự bổ sung cho T-50 trong tương lai. Điều này có thể là do một số lí do sau. Bản thân việc phát triển Su-35 đến giờ vẫn chưa xong, và không quân Nga cũng không tỏ ra quyết tâm trong việc sẽ đặt mua nó. Vì nếu đúng với vai trò là giải pháp tạm thời, đáng lẽ Su-35 đã phải được sản xuất hàng loạt từ lâu. Tình hình hiện nay có thể đẩy không quân Nga vào tình thế khó xử là liệu có nên đổ tiền vào mua Su-35 khi mà họ cần tập trung cho T-50. Và nếu mua Su-35 với tư cách là một 'giải pháp tình thế' thì liệu có phải là một sự phí phạm khi mà có thể chúng sẽ được đưa vào sử dụng trước T-50 không đáng là bao vì đến nay chưa ai chắc chắn là bao giờ quá trình phát triển Su-35 sẽ hoàn tất. Do đó, giải pháp tốt nhất là gỡ cái mác 'giải pháp tình thế' và chấp nhận rằng cả 2 sẽ được sản xuất đồng thời. Ngoài ra, Pogosyan cũng cho biết rằng Sukhoi đang rất nóng lòng trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ hậu mãi, vốn là một điểm yếu cố hữu từ thời Liên Xô. Việc này cũng có nghĩa là Sukhoi sẽ dành nhiều nguồn lực hơn cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ cho các khách hàng nước ngoài, cũng đồng nghĩa với việc những dự án nghiên cứu mới sẽ bị rút bớt ngân sách. Trong thời buổi khó khăn hiện nay, rõ ràng Sukhoi cũng như mọi công ty khác phải dùng cách tiếp cận ít rủi ro nhất. Tuy vậy, nó minh họa rõ hơn một lần nữa một mối lo lớn của giới quân sự Nga. Đó là việc ngành công nghiệp quốc phòng nước này phụ thuộc quá nhiều vào việc xuất khẩu. Sukhoi là ví dụ điển hình nhất. Điều này đặc biệt khó khăn cho không quân vì Sukhoi giờ đây đã nắm độc quyền trong việc chế tạo chiến đấu cơ, Mig trên thực tế hầu như đã bị Sukhoi thôn tính. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on Jul 13, 2009 14:03:20 GMT -5
Làm sao ðể chế tạo một chiếc F-18 trong 3 phút 31 giây? 24 chiếc F-18F Super Hornet ðuợc chế tạo cho không quân Úc ðầu tiên
|
|
|
Post by tuhieu on Aug 11, 2009 20:17:58 GMT -5
Một vũ khí lọai tàng hình đang được thử nghiệm có thể vô hiệu hóa hệ thống canh phòng của địch Saturday, August 08, 2009 Hình 1 Hình 2 Hình 3 Ðối với kỹ thuật giao tranh quân sự trong thời đại mới, khi mà các nhiệm vụ cần được giải quyết đôi khi chỉ diễn ra trong vài phút đồng hồ thì một kẻ địch bị “bịt mắt” để không còn có thể nhìn ngang ngó ngửa gì nữa là coi như bại trận. Xung phóng điện từ -”electromagnetic pulse” - từ một vũ khí nguyên tử nổ chừng vài “miles” cách mặt đất đã có thể tiêu hủy các thiết bị canh phòng của một đạo quân, thế nhưng lại không tránh khỏi việc gây tổn thất phụ đới. Thay vì vậy thì một thiết bị mới tinh của lực lượng không quân sẽ đốt cháy các hệ thống điện tử của đối phương bằng cách sử dụng các sóng cực ngắn - “microwaves” - nhưng với nguồn điện cao thế được phát đi từ một máy bay không người lái. Không lực Hoa Kỳ vừa mới đây đã có được ngân khoản 40 triệu Mỹ Kim cho dự án nói trên, và trong khi người đứng đầu chương trình của dự án là Robert Torres sẵn sàng xác nhận các đợt thử nghiệm thành công trên đất liền và trên không đối với một thiết bị đã có trước đây thì ông lại không hé răng về những chi tiết của dự án mới mẻ nói đây. Edi Dchamiloglu, chuyên gia về sóng cực ngắn - “microwave” - với điện thế cao tại viện đại học University of New Mexico phỏng định là loại vũ khí mới này sẽ tập trung các sóng cực ngắn vào một mục tiêu nào đấy, nơi mà các sóng đó sẽ gây nên một sự gia tăng điện thế trong các đường dây không có vỏ bọc và sẽ cùng lúc tiêu hủy các mạch điện nơi những đĩa “satellite” để tiếp nhận tín hiệu từ vệ tinh hay các đài “radars”, hay bất cứ một thiết bị điện tử nào khác. Và như vậy là mở đường cho bộ binh hay các phi vụ oanh kích hoạt động, và vũ khí đó còn có khả năng tiêu diệt những bom đạn, vũ khí cất giấu trong các hầm hố ngầm. Một phi cơ loại như được nêu ở trên, tương tự như cái Phantom Ray của hãng Boeing mà địch không thể phát hiện ra được có thể sẽ là phương tiện tốt nhất để cõng theo loại vũ khí mới mẻ này vì nó có thể bay vào vùng địch mà không phải lo tổn thất sinh mạng một phi công nào hết. Nhưng điều đó có nghĩa phải đối phó với một thử thách lớn là làm sao tạo nguồn điện năng cho vũ khí đó, theo lời ông Schamiloglu. Mặc dù một phi cơ không người lái loại nhỏ có khả năng tạo nên một nguồn điện năng nào đấy thế nhưng nó phải đem theo loại bình điện có sức chứa điện thật mạnh để tạo nên được các xung phóng điện từ - “microwaves pulses” - hàng nghìn triệu “watts”. Ông Torres chỉ cho biết rằng ông dự kiến là một mẫu thử nghiệm sẽ sẵn sàng để cất cánh trong các phi vụ thử nghiệm vào năm 2012, mà chừng đó thì toán của ông sẽ điều chỉnh tia “microwaves” kia sao cho nó chỉ gây tổn thất cho mục tiêu được nhắm vào. Trang Nguyễn (Theo “Science Daily” 07/30/09)
|
|
|
Post by votieugiap on Aug 17, 2009 13:29:25 GMT -5
Ngư lôi hạng nặng Mk 48 Ngư lôi hạng nặng Mk 48 chứng tỏ uy lực trong một cuộc tập trận. Cũng như mọi ngư lôi hiện đại khác, nó được thiết kế để phát nổ phía dưới thân tàu thay vì chạm vào thành tàu. Sức nổ sẽ làm gãy sống tàu và 'bẻ' con tàu thành 2 mảnh, bảo đảm chắc chắn sẽ làm chìm nó. Ý tưởng này xuất hiện từ thế chiến thứ 2 và đã từng được sử dụng nhưng chưa bao giờ thành công, vì công nghệ chưa hoàn thiện. Kể từ sau thế chiến kết thúc tới nay, cũng chỉ có 2 lần ngư lôi được sử dụng thực tế, trong xung đột giữa Ấn độ và Pakistan, và trong cuộc chiến Falkland, tuy vậy trong cả 2 lần thì người ta vẫn sử dụng ngư lôi công nghệ cũ còn lại từ thế chiến. Do đó, những cảnh tượng như trên vẫn mới chỉ xuất hiện trong tập trận.
|
|
|
Post by vietnam on Sept 8, 2009 13:50:14 GMT -5
Kalakov thay cho Kalashnikov Gần đây, phóng viên tờ Guardian có 1 bài phỏng vấn với 1 tay lái súng ở Afghanistan. Từng chỉ là 1 chủ hiệu bình thường, Hekmat đã gầy dựng 1 gia tài nhờ việc buôn vũ khí từ các nước Trung Á cung cấp cho Taliban. Hekmat cho biết gần đây loại 'hàng' nóng nhất không còn là Ak-47 quen thuộc nữa mà là Ak-74 Kalakov vì khả năng xuyên giáp tốt hơn. Tuy vậy, giá nó cũng cao hơn, 1 khẩu Ak-74 ở Tajikistan có giá 700 dollar có thể lên tới 1250 khi bán lại ở Afghanistan.
Điểm khác biệt lớn nhất là việc Ak-74 sử dụng đạn 5.45mm thay vì 7.62mm của Ak-47. Liên xô phát triển loại đạn này chuyên để chống lại bộ binh Nato, những người luôn mặc giáp bảo vệ. Nó không những có sức xuyên tốt hơn so với loại 7.62mm truyền thống mà độ chính xác cũng tăng lên, vì loại 5.45mm, cũng như loại 5.56mm, thuộc loại đạn cỡ nhỏ với sơ tốc cao hơn so với 7.62, nhờ đó mà đường đạn phẳng hơn, tầm bắn tăng. Ngoài ra vì khối lượng đạn nhỏ, nên sức giật cũng giảm theo.
Những loại đạn cỡ nhỏ như 5.45 hay 5.56 khi đi vào cơ thề người sẽ rất mất ổn định, đi chệch so với hướng ban đầu và do đó tạo ra 1 vết thương rất lớn. Trong LX tham chiến ở Afghanistan (1980-1988), những chiến binh Afghanistan gọi 5.45 là đạn chứa thuốc độc vì sức tàn phá quá lớn so với kích thước nhỏ của chúng.
5.45 có 1 lõi thép mềm và phần đầu bằng chì. Phần vỏ đạn bằng đồng có 1 khoảng trống ở phần đầu. Khoảng trống này có 1 vài công dụng. Thứ nhất nó giúp chuyển trọng tâm của viên đạn ra phía sau, tăng sức 'nảy' của viên đạn khi đi qua cơ thể người. Nó cũng giúp làm giảm trọng lượng và do đó tăng vận tốc viên đạn. Cuối cùng, khi đi vào các mục tiêu mềm như các mô của cơ thể, khoảng trống sẽ vỡ ra và làm rộng thêm vết thương. Và cũng vì vậy mà có một số ý kiến cho rằng loại đạn này vi phạm các công ước chiến tranh, do chúng cấm việc quân đội sử dụng loại đạn rỗng trong chiến tranh.
Nó được cải tiến 1 lần vào 1987 với lõi thép cứng hơn, và thêm 1 lần nữa vào 1992. So với 7.62 của Ak-47, 5.45 có khả năng xuyên giáp mềm (giáp bằng sợi Kevlar) tốt hơn, nhưng không có tác dụng nếu có giáp cứng (bằng ceramic) được bổ sung. So với đạn cỡ 5.56 tiêu chuẩn của Nato, 5.45 ít có xu hướng vỡ vụn ra khi dùng ở cự li gần, còn khả năng nảy trong mục tiêu mềm thì tương đương.
Sự kiện này tăng thêm màu sắc cho cuộc tranh luận gần như vô tận khi so sánh về loại đạn chính mà LX (7.62mm) và Nato (5.56mm) sử dụng, cũng như khi so sánh giữa Ak-47 và M-16. Sự tranh cãi bắt đầu ngay sau khi người Mỹ giới thiệu loại đạn nhỏ 5.56mm trên loại súng trường tự động mới của mình (M-16) trong những năm 60. Và trong gần nửa thế kỷ nay, cuộc tranh cãi đó vẫn tiếp tục và không có dấu hiệu sẽ kết thúc sớm. Nhiều ý kiến cho rằng việc đem vào sử dụng cỡ đạn nhỏ như 5.56mm là 1 sai lầm vì chúng ko đủ sức mạnh để xuyên qua các vật cản dày cũng như hạ gục đối phương ngay lập tức.
Các ưu điểm của đạn 5.56 có thể kể ra gồm: kích thước và trọng lượng giảm, do đó người lính có thể mang gấp đôi cơ số đạn so với loại 7.62. Tầm bắn và độ chính xác cao (lí do tương tự như với 5.45). Ngược lại, khả năng xuyên qua vật cản của 5.56 kém hơn so với 7.62. Một phần chủ yếu vì nó quá nhẹ, ở cự li gần, kết hợp với tốc độ cao, ngay cả khi xuyên qua được, nó vẫn có xu hướng bị vỡ vụn ra và do đó không gây nhiều nguy hiểm cho người nấp sau vật cản. Thế nhưng chính xác thì loại đạn nào hiệu quả hơn trong việc hạ gục đối phương?
Một phương pháp đơn giản và dễ hiểu nhất để so sánh các loại đạn với nhau là quy về năng lượng (động năng) của chúng khi vừa rời nòng súng. 7.62 (loại của LX) có năng lượng tương đương 1890 joules còn 5.56 là 1780 joules. Tương tự, đạn cỡ 12.7 là gần 17000 joules, đạn cỡ 9mm dùng trong súng ngắn và tiểu liên là 583 joules.
Tuy vậy, con số trên không phản ánh toàn bộ vấn đề. Một khía cạnh khác là việc số năng lượng đó được truyền vào mục tiêu như thế nào. Trong chiến đấu, mối quan tâm không chỉ là liệu viên đạn đó gây ra tổn thương như thế nào cho đối phương mà còn là yếu tố thời gian. Nếu đối phương vẫn còn tỉnh táo và đứng vững trong 1 vài giây, thì trong thời gian ngắn ngủi đó, người lính vẫn có thể bị bắn trả. Nếu xét về yếu tố hạ gục đối phương ngay lập tức thì đạn cỡ lớn, cho dù với tốc độ chậm, có ưu thế hơn. Một viên đạn cỡ 7.62 có tiết diện lớn hơn 88% so với 5.56 sẽ truyền nhiều năng lượng cho mục tiêu hơn và hạ gục nó nhanh hơn.
Tuy nhiên 5.56 cũng có ưu thế riêng của mình. Đó là hiệu ứng khi di chuyển với tốc độ cao qua 1 vật liệu mềm như cơ thể người, nó sẽ tạo ra phía sau mình 1 lỗ hổng lớn, có thể tương đương với 1 quả bóng bầu dục. Tốc độ càng cao thì khoảng hổng càng lớn. Ngoài ra, 5.56 được thiết kế để tối đa hóa việc nó mất ổn định khi đi vào cơ thể, làm trầm trọng thêm vết thương. Biểu hiện rõ ràng nhất là lỗ đạn vào và ra của những vết thương gây ra bởi 5.56 có thể nằm ở bất kì vị trí nào. Trong giai đoạn phát triển ban đầu, người ta từng dùng xác heo để kiểm tra mức độ tàn phá của 5.56. Trong đó 1 viên đạn đi vào phần dưới bụng bên phải có thể thoát ra ở dưới vai trái của con vật. Như vậy cho dù 5.56 có thể không hạ gục đối phương ngay lập tức như 7.62, nhưng nạn nhân cũng sẽ chết không lâu sau đó do nội thương quá trầm trọng. Tuy nhiên cũng phải lưu ý rằng nếu cự li quá gần, viên đạn có thể chỉ xuyên thẳng qua mục tiêu, với lỗ vào và ra có kích thước nhỏ, do tốc độ quá lớn của viên đạn, khi đó hiệu quả sẽ khá thấp. Ngoài ra, không phải mọi loại đạn cùng cỡ 5.56 đều như nhau. Ví dụ có loại 5.56 nặng khoảng hơn 4g là loại tiêu chuẩn, ngoài ra còn có loại gần 5kg. Một số lính Mỹ tự bỏ tiền ra mua loại sau vì cho rằng nó hạ gục đối phương nhanh hơn.
Hiện nay có nhiều đề nghị về việc chuyển sang dùng đạn cỡ 6.5 hay 6.8mm, được cho là kết hợp được ưu điểm của cả 5.56 và 7.62. Cuộc tranh luận vẫn tiếp tục và chắc chắn 1 điều là ít nhất trong tương lai gần sẽ không có loại đạn nào hoàn hảo để có thể được tất cả mọi người sử dụng. Nhưng vấn đề chính là trong chiến đấu, kỹ năng người lính vẫn quan trọng hơn nhiều so với loại đạn hay súng nào được sử dụng. Một lính đặc nhiệm với 1 khẩu súng lục vẫn nguy hiểm gấp bội 1 tân binh mang súng trường tự động.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:50:56 GMT -5
Những loại vũ khí tối tân nhất của thế kỷ 21VIT- Hiện nay các lực lượng quân sự trên thế giới đang nghiên cứu và thử nghiệm hàng loạt các vũ khí hiện đại, có nhiều chức năng và tiêu diệt các mục tiêu một cách khủng khiếp và kỳ lạ. Chúng tôi xin giới thiệu 08 loại vũ khí được các giới quân sự cho là tối tân nhất của thế kỷ 21. Bom thông minh (Sensor Fuzed Bomb - CBU-97) Một quả bom mẹ CBU-97 chứa 40 quả bom con, được thả từ máy bay, bom được các phi công lập trình trước nên khi rơi tới một độ cao nhất định thì 40 quả bom con sẽ được phát tán, các bom con được gắn các sensor hồng ngoại, có chức năng rà nhiệt tự động tìm và tiêu diệt mục tiêu, 01 quả bom CBU-97 có thể tiêu diệt được 40 xe tăng. Bom CBU-97 đang được sử dụng trong không quân Mỹ. Bom thông minh Bom Thermobaric Là loại bom có sức công phá mạnh và toả ra nhiệt độ rất cao nhờ vào chất gây cháy, thiêu cháy các mục tiêu. Loại bom này đang được sử dụng trong lực lượng Không quân ném bom Mỹ. Bom Thermobaric Bom MOAB (GBU-43/B) Là loại bom có hoả lực cực mạnh, trọng lượng 9.5 tấn, chứa 8.4 tấn thuốc nổ H-6, có thể san bằng mọi mục tiêu trong bán kính 130 mét. Có biệt hiệu là “Mẹ của các loại bom”, bom được thiết kế để thả từ máy bay hạng nặng C-130. Bom được dẫn hướng bằng Hệ thống định vị toàn cầu. Đang được không quân Mỹ sử dụng. Bom MOAB Bom xung điện từ (EMP = Electromagnetic bomb) Là loại bom có khả năng tạo ra các xung điện từ và bức xạ sóng ngắn công suất lớn để vô hiệu hoá hệ thống chỉ huy, thông tin liên lạc, radar hệ thống điện tử của tất cả các loại vũ khí, kỹ thuật quân sự của đối phương. Nguyên lý hoạt động của loại bom này được dựa trên việc tạo ra trường điện từ trong phạm vi vài trăm mét tính từ vị trí bom nổ để tạo sức ép đột biến trong thời gian ngắn với xung điện cao hàng nghìn vôn vào các đường truyền dẫn, làm cho các trang thiết bị kỹ thuật của đối phương bị tê liệt hoàn toàn. Hiện nay, bom EMP được xem là bom nguyên tử thế hệ mới vì sức công phá của nó, mà lại không để lại phóng xạ. Loại bom này đang được sử dụng trong Không quân Mỹ. Bom xung điện từ Pháo tự hành Panzer Hotwizer 2000 Là loại pháo 155 mm, được đặt trên xe tăng, tầm bắn 29 km có thể bắn tới 50 km khi có thiết bị gia tốc. Xe tăng được thiết kế riêng cho loại pháo này, tốc độ di chuyển có thể đạt tới 50 km/h trên đường quốc lộ. Loại pháo này đang được sử dụng trong lực lượng bộ binh của Đức. Pháo tự hành Panzer Hotwizer 2000 Súng MetalStorm Là loại súng nạp đạn tự động, có thể bắn ra một loạt 2900 viên trong 01 giây, có thiết bị chống kẹt đạn. Súng này có tên gọi là “mưa kim loại”, hiện đang được sử dụng trong bộ binh mỹ, giới quân sự coi đây là loại súng mạnh nhất thế giới hiện nay. Súng MetalStorm Súng bắn góc Cornershot Là loại súng được gắn thiết bị Camera giúp các tay súng quan sát đối phương mà không cần đứng trực diện, nòng súng có thể xoay 63 độ với góc vuông 90 độ, súng được gắn thiết bị hồng ngoại để ngắm các mục tiêu trong bóng tối, súng có thể bắn đạn của M-16 và đạn 9 mm. Các tay súng đứng ở các góc tường, vị trí lồi lõm ở các hẻm đá nhưng vẫn có thể bắn các mục tiêu nhờ vào thiết bị Camera và nòng xoay góc. Súng bắn góc Cornershot Súng M107 Là loại súng hạng nặng, có tầm bắn 1500 mét, được trang bị ống nhòm Tele-10x, thiết bị bắn bán tự động loạt 10 viên, thiết bị chống giật. Súng có thể tiêu diệt các mục tiêu máy bay. Đang sử dụng trong bộ binh Mỹ. Súng M-107 HH (futurefirepower, globalsecurity
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:52:56 GMT -5
Tàu ngầm hạt nhân Typhoon Nga sẽ duy trì tàu ngầm hạt nhân lớp Typhoon đến năm 2019VIT - Các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân chiến lược lớp Typhoon (Type 941) của Nga vẫn sẽ tiếp tục phục vụ trong Hải quân cho đến năm 2019, Tư lệnh Hải quân nước này hôm 07/5 cho hay. Các tàu ngầm hạt nhân lớp Typhoon lớn nhất thế giới này đã bắt đầu được biên chế phục vụ tại Hải quân Liên Xô vào thập niên 1980. Hải quân Nga đã có tổng số 6 chiếc tàu ngầm lớp này, chiếc đầu tiên được đưa vào hoạt động năm 1981 là tàu ngầm TK 208, tiếp theo là tàu ngầm TK 202 năm 1983, tàu ngầm TK 12 năm 1984, tàu ngầm TK 13 năm 1985, tàu ngầm TK 17 năm 1987 và tàu ngầm TK 20 năm 1989. Các tàu ngầm này được biên chế cho Hạm đội Phương Bắc của Nga tại Litsa Guba. Ba trong 6 chiếc tàu ngầm lớp này đã được sản xuất vẫn đang hoạt động là tàu ngầm TK 17 và TK 20. Tàu ngầm TK 208 đã được tái hạ thuỷ vào năm 2002 sau khi được tân trang lại và đang được sử dụng làm tàu thử nghiệm. Hai chiếc TK 12 và TK 13 đã ngừng hoạt động và chờ để loại bỏ. "Chúng [các tàu ngầm hạt nhân lớp Typhoon] vẫn sẽ tiếp tục hoạt động cho đến năm 2019. Chúng có tiềm năng hiện đại hoá rất tốt," Đô đốc Vladimir Vysotsky cho biết. Tàu ngầm hạt nhân chiến lược Dmitry Donskoy đã được hiện đại hóa thành một bệ phóng thử cho tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm Bulava mới của Nga. Hai tàu ngầm dự trữ, tàu Arkhangelsk và tàu Severstal, đang chờ đại tu tại một căn cứ hải quân ở Severodvinsk thuộc miền bắc nước Nga. Chúng gần như chắc chắn sẽ được hiện đại hóa để mang tên lửa hành trình phóng trên biển thế hệ mới để đối chọi với tàu ngầm lớp Ohio của Mỹ. Các tàu ngầm lớp Typhoon có tải trọng rẽ nước tối đa 33.800 tấn và được sản xuất để mang 20 tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm nhiên liệu đẩy rắn SS-N-20 Sturgeon, tất cả số tên lửa này đều đã được đưa ra khỏi biên chế. Tàu có thể lặn sâu tối đa 400m, tốc độ đạt 12 hải lý khi nổi và 25 hải lý khi lặn. Tàu ngầm có thể hoạt động liên tục 120 ngày dưới biển. Trong tương lai, tàu ngầm hạt nhân Typhoon sẽ được thay thế bằng các tàu ngầm năng lượng hạt nhân chiến lược lớp Borey mới, sẽ được trang bị tên lửa Bulava. Linh Trang (Theo RIA
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:56:19 GMT -5
Nền tảng sức mạnh Không quân Mỹ VIT - Máy bay chiến đấu Mỹ tạo nên nền tảng sức mạnh tiến công của Lực lượng Không quân và hàng không của Hải quân Mỹ chính là “nhân vật chính” của số lượng lớn các nguồn thông tin trong thế giới vũ khí. Việc xoá sổ máy bay chiến đấu F-14, những trục trặc của F-15, nâng cấp F-16 và F-18, tiếp nhận làm vũ khí F-22, nghiên cứu F-35 – tất cả các vấn đề này đã và đang được đem ra thảo luận tích cực. F-22 - Tương lai đắt giá Vào giữa thập niên 70, Không quân Mỹ đã bắt đầu quan tâm đến tính năng tàng hình của máy bay. Rất nhiều đại đội tên lửa pháo cao xạ và máy bay chiến đấu của Lực lượng Không quân và các đơn vị phòng thủ tên lửa của Liên Xô buộc phải nghĩ ra phương pháp vượt qua tuyến phòng thủ của kẻ thù với tổn thất ít nhất có thể. F-22 Raptor (Chim ăn thịt) của Lockheed Martin là loại máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5 sử dụng kỹ thuật tàng hình thế hệ 4. Ban đầu nó được thiết kế để trở thành một máy bay chiến đấu giành ưu thế trên không trước Không quân Xô Viết, nhưng cũng được trang bị với nhiệm vụ tấn công mặt đất, chiến tranh điện tử và trinh sát tín hiệu. Chuyến bay thử nghiệm đầu tiên YF-22 diễn ra ngày 29/09/1990, sau đó 1 tháng YF-23 cũng cất cánh. Lockheed Martin là nhà thầu chính và chịu trách nhiệm chính về khung, các hệ thống vũ khí, và lắp ráp hoàn thành chiếc F-22. Boeing cung cấp cánh, khung đuôi và các hệ thống điện tử tích hợp. Việc Liên Xô tan rã và chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh đã dẫn đến sự cắt giảm đáng kể chi phí cho quốc phòng kết hợp với sự gia tăng nhanh chóng về giá máy bay chiến đấu tương lai khiến cho dự án sản xuất máy bay của Lockheed có nguy cơ bị “đóng băng”. Ban đầu, giá máy bay đưa ra là 32 triệu USD đã tăng lên gần 72 triệu USD trước năm 1995, sau đó lên đến gần 100 triệu USD, rồi gần 400 triệu USD và cuối cùng đã vượt quá mức giá 300 triệu USD. Kéo theo đó, số lượng máy bay của đơn đặt hàng cũng giảm dần – từ hơn 1000 chiếc xuống còn 750, 648, 339 và cuối cùng còn chưa đến 183 chiếc. Để tránh việc tăng giá hơn nữa, loại máy bay này buộc phải chấp nhận để "mất" hàng loạt các chương trình nâng cấp mới theo kế hoạch. Thời gian cung cấp máy bay này làm vũ khí cũng đã thay đổi từ năm 1996 sang năm 2000 sau đó là sang năm 2004. Cuối cùng, hàng không chiến thuật đầu tiên được trang bị F-22 mới sẵn sàng chiến đấu vào mùa thu năm 2007. Trước đó, mùa xuân năm 2007, F-22 lần đầu tiên vượt ra ngoài ranh giới nước Mỹ khi thực hiện chuyến bay đến Nhật Bản. Trước năm mới, ngày 29-30/12/2007, chiếc F-22 của phi đội thứ 90 tại Alaska đã khẩn cấp tham gia trực chiến trong hệ thống NORAD thay cho F-15. Lần đầu tiên, F-22 sóng đôi cùng Tu-95 khi máy bay này có chuyến thăm vùng trời trên vịnh Alaska. Hiện nay, Không quân Mỹ có khoảng 100 chiếc F-22 trong đó có gần 60 chiếc nằm trong các đơn vị chiến đấu. Bất chấp hàng loạt vấn đề về kỹ thuật, hiện nay F-22 vẫn là máy bay chiến đấu mạnh nhất trên thế giới. Chúng mang đặc điểm cơ động gần giống với máy bay thuộc dòng Su-27, còn tính tàng hình kết hợp với radar điện tử mới nhất mang lại cho F-22 những ưu điểm hơn hẳn. Vận tốc trung bình siêu thanh cũng là ưu điểm vượt trội khác của F-22. Với vận tốc này, máy bay có thể vượt ra ngoài ranh giới đánh chặn nhanh hơn bất kỳ loại máy bay chiến đấu hiện đại nào trừ máy bay đánh chặn MiG-31. Chiếc F-22A đầu tiên. Ảnh: Aviaexpo.net Thông số kỹ thuật của F-22A Raptor Biên độ cánh: 13,56m Chiều dài: 18,92m Cao: 5m Diện tích cánh: 78m² Trọng tải rỗng: 15 tấn Trọng tải cất cánh tối đa: 27,2 tấn Động cơ: 2 động cơ Pratt-Whitney F119-PW-100 Vận tốc tối đa trên không: 2000km/h Vận tốc tuần tiễu: hơn 1.500km/h Bán kính hoạt động: 1000-1.300km Trần bay thực tế: 18000m Quá tải trong sử dụng tối đa: 9g Ê-kíp: 1 người Vũ khí bên trong: khẩu đại bác Vulkan cỡ nòng 1x20mm; vũ khí treo được lắp đặt trên 3 khoang của thân máy bay. Có khả năng cũng sẽ lắp đặt vũ khí treo bên ngoài máy bay nhưng trong trường hợp đó máy bay sẽ mất khả năng tàng hình. Gia Linh (Theo Lenta)
|
|
|
Post by votieugiap on Jun 8, 2010 3:31:31 GMT -5
Súng M-4 Mỹ “tịt ngòi” trước AK-47 của Taliban (TT&VH) - Lục quân Mỹ tin rằng họ đang gặp phải một trong những sai lầm cơ bản trong cuộc chiến ở Afghanistan: Những khẩu súng của họ không đủ sức mạnh để đương đầu với các chiến binh Taliban và những khẩu AK- 47 vốn được đánh giá là “cổ lỗ sĩ” của họ. M-4 thiếu sức mạnh ngoài cự ly 300m Một nghiên cứu do Lục quân Mỹ tiến hành và rơi vào tay hãng tin AP cho thấy khẩu súng trường M-4, vũ khí cá nhân chính của nhiều lính Mỹ, đang đối diện với những lời phàn nàn về việc chúng không đủ sức mạnh để tiêu diệt tàn quân Taliban tại Afghanistan. Trong khi đó các chiến binh Taliban thường sử dụng những khẩu AK-47 với cỡ đạn 7,62mm để tổ chức phục kích quân đội NATO. Khẩu M-4 bị Lục quân Mỹ đánh giá là không đủ sức mạnh để tiêu diệt tàn quân Taliban Cần nhớ rằng phục kích là một trong những chiến thuật truyền thống của người Afghanistan. Trong cuộc chiến Anh - Afghanistan diễn ra hồi năm 1832-1842, quân Anh thấy rằng những khẩu súng hỏa mai Brown Bess của họ không thể hạ nổi các tay súng bắn tỉa của đối phương sử dụng súng kíp Jezzail với cỡ đạn lớn hơn. Tới những năm 1980, binh lính Liên Xô cũng phát hiện rằng các khẩu AK-47 của họ không thể đọ với những khẩu súng trường Lee-Enfield và Mauser nằm trong tay các chiến binh mujahideen. Giờ lại tới lượt quân Mỹ “nếm mùi” AK 47. Nghiên cứu cho biết đạn 7,62 mm của AK có tầm bắn hiệu quả hơn 400m. Và súng AK lại rất bền, giống như nhiều thương hiệu súng Kalashnikov khác. “Bạn có thể nhúng súng xuống sông, thả vào cát nhưng nó vẫn bắn được” - một nhà thầu quân sự Afghanistan giấu tên nói. Trong khi đó, khẩu M-4 bắn đạn 5,56mm nhẹ hơn và không bền bằng. Do cỡ đạn nhỏ hơn, tầm bắn của súng cũng trở nên hạn chế và thiếu hụt khả năng sát thương ở cự ly trên 300m. Cải tiến hay cải lùi? Cần biết rằng khẩu M-4 đã là súng tiêu chuẩn trong quân đội Mỹ suốt 40 năm qua. Trong những năm đầu của chiến tranh Việt Nam, súng tiêu chuẩn của quân đội Mỹ là khẩu M-14 sử dụng đạn 7,62mm. Tuy nhiên khẩu súng này giật và khó kiểm soát trong quá trình bắn tự động nên được đánh giá là không thích hợp trong các cuộc cận chiến trong rừng. Quân đội Mỹ đã cải thiện nhược điểm của M-14 để cho ra đời khẩu M-16 dùng đạn 5,56mm và theo sau là mẫu M-4 với nòng ngắn hơn, tiện cho binh lính xoay sở khi chiến đấu tại những địa hình chật hẹp. Việc đạn 5,56mm nhẹ hơn có nghĩa người lính mang được nhiều đạn hơn trong các cuộc tuần tra kéo dài trong rừng. Ít ai ngờ khẩu M-16 và đàn em M-4 đã bắt đầu một xu hướng sử dụng đạn nhỏ. Theo chân Mỹ, các khẩu FAMAS của Pháp và L85A1 của Anh cũng bắt đầu sử dụng cỡ đạn 5,56mm khiến loại đạn này trở thành tiêu chuẩn và được gọi là “5.56mm NATO”. “Viên đạn 5,56mm nguy hiểm hơn bởi người lính có thể bắn nhiều đạn vào mục tiêu” - đại tá Douglas Tamilio, giám đốc chương trình vũ khí Mỹ tại Kho vũ khí Picatinny, New Jersey, nhận xét - “Nhưng ở cự ly 500 - 600m, đạn này không còn lực sát thương do hệ thống vũ khí không được thiết kế để bắn xa tới vậy”. Việc Taliban áp dụng chiến thuật dùng súng sử dụng đạn cỡ lớn để bắn tỉa đã buộc Mỹ phải trang bị lính bắn tỉa tới các đại đội Loay hoay tìm giải pháp Khi tham chiến tại Afghanistan, binh lính Mỹ và NATO thường được trạng bị súng M-4 bởi loại vũ khí chiến đấu tầm gần này được đánh giá sẽ hữu dụng do giới chức quân đội dự đoán phần lớn các cuộc chiến sẽ diễn ra trong những địa hình chật hẹp, từ nhà này sang nhà khác. Thực tế khẩu M-4 hoạt động rất tốt ở Iraq, nơi phần lớn các cuộc chiến diễn ra ở cự ly gần, tại các thành phố như Ramadi và Fallujah. Nhưng ở Afghanistan, một số chiến binh Taliban có thể nổ súng ở cự ly gần cả một cây số. Lính bắn tỉa, thiện xạ Taliban thậm chí đã cầm chân thành công nhiều đợt tấn công của Thủy quân lục chiến Mỹ và quân đội Afghanistan, trong các chiến dịch của liên quân tấn công tỉnh miền trung Helmand hồi năm nay. Nhằm hạn chế nhược điểm của M-4, lục quân Mỹ đã đề xuất một số giải pháp như bổ sung 9 lính bắn tỉa cho mỗi đại đội bộ binh. Những người này sẽ sử dụng loại súng trường bắn tỉa M-110 kiểu mới, vốn bắn đạn 7,62 mm và có độ chính xác tới hơn 800m. Tuy nhiên ngay cả khi chủ trương này chưa được thông qua, các đại đội bộ binh Mỹ ở Afghanistnan đều đã được bổ sung thêm lính thiện xạ trang bị súng M-110 và các nhóm hỏa lực mạnh chuyên bắn súng phóng lựu và súng máy hạng nhẹ. Một ý tưởng khác được nhóm nghiên cứu đề ra là thiết kế một mẫu súng mới sử dụng đạn nặng hơn và lớn hơn loại M-4. Các khẩu súng loại này sẽ bắn xa và mạnh hơn, đổi lấy tốc độ bắn cao của khẩu M-4. Lẽ dĩ nhiên không phải ai cũng đồng tình với ý kiến của Lục quân Mỹ. Một số chuyên gia cho rằng nghiên cứu đã đánh giá thấp loại đạn 5,56mm. Họ cho rằng sự “yếu ớt” của mẫu M- 4 có nguyên nhân từ việc nòng súng quá ngắn. “Thật không may mắn, các kỹ sư vũ khí đã làm ngắn nòng khẩu M-4 xuống một kích cỡ phi lý” - Martin Fackler, một chuyên gia đạn đạo tuyên bố - “Súng (M-16) vốn được thiết kế để có nòng dài 51 cm. Tuy nhiên với việc cắt giảm chiều dài nòng súng xuống còn 37 (để tạo mẫu M- 4), người ta đã khiến súng mất rất nhiều sức mạnh”. Tường Linh
|
|