|
Post by tuhieu on May 13, 2009 18:45:25 GMT -5
Đảng Cộng sản Trung Quốc, company Ltd. -------------------------------------------------------------------------------- Nhìn ra thế giới Maciej Kuźmicz, Polityka Bản tiếng Việt © Lê Diễn Đức 14.04.2009 Lời người dịch: Vì mưu giữ độc quyền và lợi ích riêng kếch sù, tập đoàn lãnh đạo Ba Đình đang cam phận làm kiếp chư hầu cho Trung Nam Hải. Sự đàn áp, dập tắt tiếng nói yêu nước của quần chúng qua các sự kiện Hoàng Sa, Trường Sa, rước đuốc Olimpic Bắc Kinh 2008, khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên, v.v… chứng minh hùng hồn cho kết luận này. Vì thế, những gì đang xảy ra tại Trung Quốc luôn có thể làm hệ quy chiếu cho bản photocopy thu nhỏ của nó là Việt Nam dưới thời cai quản bởi đảng cộng sản Việt Nam. Tác giả Maciej Kuźmicz tốt nghiệp khoa chính trị-kinh tế quốc tế trường đại học thương mại Ba Lan SGH, Columnist của nhật báo lớn nhất Ba Lan Gazeta Wyborcza và Reporter của tuần báo tài chính Ba Lan Gazeta Finansowa. Bài được dịch từ tiếng Ba Lan, đăng trên Polityka, tuần báo uy tín và có số lượng phát hành đứng đầu Ba Lan, số 14 (2699), ngày 04/04/2009. Gao Zhimou, 40 tuổi, với đôi tay làm việc mệt mỏi, nói một cách thuyết phục: “Đảng là chỗ dựa. Đảng giúp đỡ và quan tâm tới chúng tôi. Nhờ đảng mà hôm nay tôi có chỗ để ở, có cái để ăn“. Zhimou là một nông dân mộc mạc từ vùng Tứ Xuyên (Sichuan), chỉ mới tốt nghiệp tiểu học trường làng. Hôm nay ông ngồi trên chiếc ghế nhựa trước đống bê-tông ngổn ngang thay cho nhà ở. Trong vụ động đất năm ngoái, ông ta và cả gia đình đã mất tất cả. Giờ đây họ đang sống trong khu vực đang được xây dựng với tốc độ kỷ lục cho hàng ngàn cư dân. Toàn đảng được lãnh đạo bởi một nhóm 9 người, đó là Thường trực Bộ chính trị với chủ tịch Hồ Cẩm Đào, người kiêm chức chủ tịch Hội đồng quân uỷ Trung ương. Chính nhóm các nhà kỹ trị tinh tuý hàng đầu này quyết định điều chỉnh mọi hướng đi mà Trung Quốc và đảng tiến tới. Trên đống bê-tông nổi bật hàng chữ: “Mỗi người tự dựng lại ngôi nhà của mình, Đảng cộng sản Trung Quốc định hướng tái thiết”. Bên cạnh treo chân dung Mao Trạch Đông. Những đống bê-tông như thế trong trại cư dân ngoài thị trấn Dujiangyan ở Tứ Xuyên có tới hàng ngàn. Trên mỗi đống đều cắm cọc. Trên mỗi cái cọc là cờ Trung Quốc và cờ đảng: búa liềm vàng, nền đỏ. “Tôi là người cộng sản. Ở chỗ chúng tôi, đảng là sự tiến bộ. Anh hãy nhìn họ xây dựng nhà tạm thế nhanh như thế nào. Chủ tịch Mao chắc hẳn mãn nguyện với chúng tôi” - Gao Zhimou nói. Bộ veston và cặp da Có thể ông ta hài lòng ở Tứ Xuyên nhưng không nhất thiết ở Bắc Kinh, cụ thể là trong ngày 12 tháng 10 năm ngoái. Gao Zhimou có thể sẽ không thích cái hướng mà cuộc cách mạng của ông nhắm tới. Ngày hôm ấy, những vị lãnh đạo của đảng trong những bộ veston cắt may không thể chê được, đã ra quyết định thay đổi luật đất đai. Họ phán quyết rằng, sau bao năm phụ thuộc hoàn toàn vào nhà nước, nông dân Trung Quốc có thể thuê lại đất - nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế. Đảng cộng sản (ĐCS) Trung Quốc mà Mao đã đưa lên đài quyền lực bằng họng súng, từ bỏ thành luỹ tiếp theo của chủ nghĩa cộng sản. Những người đang kéo co hôm nay ở Bắc Kinh trông khác hẳn với những người đã tham dự cuộc Vạn lý Trường chinh và xây dựng thiên đường của chủ nghĩa cộng sản trên sông Yangzi. Mới đây thôi, thời gian khởi đầu cải cách trong thập niên 80, lãnh tụ đảng Đặng Tiểu Bình vẫn còn mặc đại cán truyền thống có nút cài sát cổ và đội mũ giải phóng quân, vậy mà giờ đây không một công chức trung thành nào của bộ máy xuất hiện trước công chúng lại ăn vận khác với thời trang của veston sang trọng và cặp da đắt tiền. Người ta không còn đi họp bằng xe đạp. Veston và xe hơi mới chỉ là thay đổi bề mặt của một đảng phái lớn nhất thế giới. ĐCS Trung Quốc đang tiến hoá, từ chủ nghĩa cộng sản không còn lại bao nhiêu. Thực tế chỉ nhìn thấy trên quảng cáo - những nhà nghiên cứu Hán học nghiên cứu về chính trị Trung Quốc nhận định như vậy. Khó có thể đưa ra luận điểm khác, chỉ cần lướt qua đường phố của bất cứ thành phố Trung Quốc nào. Những ngôi nhà cao tầng ngợp mắt và những cửa hàng với thương hiệu đắt tiền đứng bên cạnh các cơ quan của đảng mà trước mặt tiền của nó lá cờ búa liềm bình thản tung bay. Đây là kết quả của cách mạng Trung Quốc. Và của sự tiến hoá của đảng. Nếu trong năm 2001, Mao Trạch Đông nghe Giang Trạch Dân, chủ tịch Ban chấp hành Trung ương ĐCS Trung Quốc, khen ngợi những nhà tư bản - có lẽ ông ta không tin vào chính tai mình. Không có điều gì cản trở Giang khi ông tuyên bố trước công luận về thuyết Ba Thành Phần. Trong những lời nói hoa mỹ có một điều rõ ràng: những nhà tư bản cũng có thể là những viên chức ủng hộ xã hội chủ nghĩa mang đặc tính Trung Quốc. Và họ có thể gia nhập đảng. Giang không nói thẳng thừng nhưng các đại biểu hiểu ông đang nghĩ gì. - “Đảng biết rất rõ rằng, sự tăng trưởng nhịp nhàng sẽ không khả thi nếu không hội nhập vào tiến trình này của kinh doanh. Ngày hôm nay, giới trung lưu, sáng kiến cá nhân và các nhà chuyên môn là một trong những nguồn động lực to lớn, thúc đẩy nhà nước Trung Nam Hải tiến tới” - giáo sư Jan Rowinski của Viện nghiên cứu Quốc tế, Warsaw University, nói. Cho nên, việc thâu nạp thêm doanh nghiệp cá thể không có gì ngạc nhiên. Đây là một quyết định thực dụng, một bước tiếp của chặng đường phát triển. Nó là yếu tố cần thiết và đảng thực hiện chẳng cần phải ngó ngàng tới tên gọi của nó là “cộng sản” hay không. Cần cù như trâu Khi Giang Trạch Dân đọc diễn văn, kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng suốt hơn một thập niên. Tổng thu nhập quốc dân mỗi năm tăng bình quân 10%, những nhà máy mọc lên trong các đặc khu kinh tế, nơi cung cấp cho thế giới tất cả những gì họ muốn đặt hàng. Công bố của Giang sẽ không hiện thực nếu không có bước ngoặt mà Trung Quốc đã trải qua dưới sự lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình. Chính Đặng, sau nhiều năm cách mạng, đã mở cửa cho đất nước hơn một tỷ người đi ra với thế giới và nền sản xuất. Một con người được đào tạo tại nước Pháp đã vứt bỏ những tín điều của đảng. Nhờ điều này mà ông ta đã có thể thuyết phục về một chủ nghĩa xã hội với đặc tính Trung Quốc và đưa vào chương trình cộng sản bốn hiện đại hoá: nông nghiệp, công nghiệp, khoa học và quân đội. Cũng vì thế vốn kéo đến từ Đài Loan (Taiwan), Hương Cảng (Hongkong) - chính sách thực dụng đã kết trái với hơn 700 tỷ đôla đầu tư nước ngoài đối với nhà nước Trung Nam Hải. “Không quan trọng mèo trắng hay mèo đen, con nào cũng tốt nếu bắt được chuột”, Đặng đã nói như vậy, và ra lệnh đối mặt với sự phát triển, chứ không phải ý thức hệ. - “Nhờ đảng mà chúng tôi có trường học mới, đường đi mới vào làng. Từ 20 năm nay, mỗi năm mỗi khá hơn. Khi nào thích tôi có thể mua xe gắn máy. Giống như khi cần, tôi có thể mua nồi niêu vậy. Con gái tôi đã đi học ở Thành Đô (Chéngdu)” - Gao Zhinzou từ Tứ Xuyên giải thích. Đây là bí quyết của sự ủng hộ không thay đổi với đảng từ nhiều năm qua: sự tăng trưởng kinh tế không ngừng. Chính vì vậy, những cái đầu cả quyết của đảng hôm nay đang làm việc trên vấn đề làm sao giữ được mức hơn 8%. Thấp hơn có thể gây nên những xáo trộn cho an ninh xã hội. Ôn Gia Bảo đã từng nói rằng, gói ứng cứu cho giai đoạn khủng hoảng sẽ là 585 tỷ đôla cho hai năm gần nhất. Số tiền này sẽ sử dụng cho xây dựng đường xá, sân bay, các công viên công nghệ. Chính phủ, tức là đảng, muốn tạo ra 9 triệu việc làm mới trong năm nay. Đảng đã cũng thay đổi lối khoa trương - từ những lời nói hoan hỉ sau olimpic chẳng còn lại bao nhiêu - trong các tờ báo quốc doanh người ta kêu gọi làm việc nỗ lực và miệt mài trong năm Sửu. ĐCS Trung Quốc nhìn thấy cơ hội cho sự phát triển quay lại: ĐCS muốn tận dụng cuộc khủng hoảng toàn cầu, nướng hai con mồi trên một ngọn lửa. Thứ nhất, đảng hy vọng rằng, có thể thành công trong việc được nói đến từ lâu: chuyển một phần nhà máy từ khu vực giàu có vùng ven biển đến vùng khá nghèo khó nằm sâu trong Trung Quốc, nơi có nhân công rẻ hơn. Các giới chức địa phương còn quyến rũ thêm bằng nhân công rẻ và hỗ trợ tài chính. Intel đã quyết định chuyển các nhà máy của mình từ Thiên Tân (Tianjin)) và Thượng Hải (Shanghai) đến thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Sau họ là những người kế tiếp. Mục đích thứ hai nhằm tạo thuận lợi hơn để đạt được những kết quả trong cuộc khủng hoảng là hiện đại hoá các nhà máy vùng ven biển. Chúng tôi không chỉ muốn rẻ nhất mà còn tân tiến nhất - các chính quyền địa phương vùng ven biển như Thâm Quyến (Shezen), Thượng Hải nói như vậy. Khẩu hiệu của đảng trong cuộc khủng hoảng là “Rửa lồng, thay chim”. Chúng ta hãy chuyển sang công nghệ mới và nền sản xuất với chất lượng cao. Đảng hiểu rõ rằng, kế hoạch phải thành công. Bởi vì nó là điều kiện để giữ quyền lực. Chính vì thế, những nhà lãnh đạo cộng sản lo ngại nhất sự bất bình đẳng, là cái điều đồng hành với sự tăng trưởng nhanh. Tài liệu nội bộ của đảng được công bố trong các bản tường trình của Trường Đảng báo động: Tại Trung Quốc đang có sự phân hoá mạnh mẽ về quyền sở hữu. Các tỉnh ven biển và các thành phố lớn vươn lên, trong khi các tỉnh bên trong và nông thôn tiếp tục nghèo đói. Cách biệt này như thùng thuốc nổ cung cấp cho những người chống đối chính sách thị trường của đảng. Trong đại hội đảng lần thứ XVII, sau phát biểu của chủ tịch Hồ cẩm Đào, trên Internet ngày càng xuất hiện dư luận rằng, đảng của hôm nay giống như một tập đoàn kinh doanh, còn hội nghị Ban chấp hành Trung ương ĐCS Trung Quốc là cuộc họp của Hội đồng quản trị. “Với họ chỉ làm sao để giữ ổn định phát triển, phần còn lại tự nó sẽ lo liệu lấy! Thế còn chủ nghĩa cộng sản với tư tưởng của Chủ tịch Mao ở đâu?” - các bloger đặt câu hỏi. Thể chế chính trị - vâng, tha hoá - không Mặt khác, thậm chí nếu đã thay đổi cách nhìn đối với kinh doanh, thì trong các cuộc họp đảng, đa số các quyết định được đưa ra trong phòng kín và các chỉ dẫn đều được ban từ trên xuống. ĐCS Trung Quốc tiếp tục tin vào sự kiểm soát và vì vậy cương quyết bảo vệ độc quyền lãnh đạo, định hướng văn hóa, kiểm duyệt truyền thông cùng với Internet và sẵn sàng dùng cánh tay thép đè bẹp mọi phản kháng. Điều này chính nhân vật tiến bộ Đặng Tiểu Bình đã không hề do dự cách đây 20 năm khi tung quân đội ra quảng trường Thiên An Môn chống lại sinh viên đòi dân chủ hoá. Không ai biết cụ thể bao nhiêu người ở lứa tuổi đôi mươi đã chết dưới xích xe tăng. Cũng chính đảng này đã kiến tạo vành đai thị trường tự do trên vùng ven biển và cùng lúc đàn áp và bỏ tù các thành viên của tổ chức nguy hiểm Pháp Luân Công và tất cả những ai đòi hỏi nhân quyền tại Tây Tạng hay Nội Mông (Inner Mongolia). Vì muốn kiểm soát nên đảng mở từ từ. Mặc dù người ta nói rất nhiều đến việc sử dụng những người có tài nhất trong bộ máy nhà nước, chỉ từ hai năm nay mới có các bộ trưởng không phải là đảng viên. Giáo sư Chen Zhu giữ chức bộ trưởng y tế, đã học ở Pháp, còn Wan Gang giữ chức bộ trưởng khoa học và công nghệ, đã tốt nghiệp đại học tại Đức và từng làm việc cho Ấn Độ. Đảng CS Trung Quốc vẫn tuyệt đối độc quyền: kiểm soát quân đội, một quốc hội trưng diễn, chính phủ và toà án bù nhìn. Qua các bộ, đảng cũng chỉ đạo chặt chẽ các công ty quốc doanh chiến lược. Toàn đảng được lãnh đạo bởi một nhóm 9 người, đó là Thường trực Bộ chính trị với chủ tịch Hồ Cẩm Đào, người kiêm chức chủ tịch Hội đồng quân uỷ Trung ương. Chính nhóm các nhà kỹ trị tinh tuý hàng đầu này quyết định điều chỉnh mọi hướng đi mà Trung Quốc và đảng tiến tới. Ít nhất như vậy về mặt lý thuyết. Càng xa Bắc Kinh bao nhiêu, các bí thư đảng địa phương càng ít lệ thuộc. Công việc kinh doanh cũng như công chúng địa phương biết đòi hỏi quyết liệt quyền lợi cho mình, càng có ảnh hưởng lớn hơn với họ. Nhất là hiện nay, trong bối cảnh khủng hoảng, mỗi ngày trên đất Trung Quốc bùng nổ hàng trăm cuộc nổi loạn. Tham nhũng là một trong những cái phanh kìm hãm phát triển của Trung Nam Hải: rút ruột tổng thu nhập thậm chí 5%. Các vụ tham nhũng được nói tới nhiều nhất trong những năm gần đây chính là các bí thư đảng móc ngoặc với giới kinh doanh - giải quyết giấy phép xây dựng nhà máy trong các công viên công cộng, xuất cảng những sản phẩm bị cấm, nhận hối lộ thay thế cho các quyết định có lợi cho đối tác. Hiện thời đảng chưa lo sợ lắm: những cuộc nổi loạn, thậm chí có tới mười mấy ngàn người, chưa vượt ra ngoài một thành phố hay cao nhất, một khu vực. Nhà cầm quyền trước hết tìm thoả hiệp, nhưng nếu không có hiệu quả, các cuộc chống đối sẽ bị lập lại trật tự. Đây là vấn đề của chính quyền địa phương, còn những người Trung Quốc chống đối không muốn tổ chức lan rộng ra ở mức độ lớn hơn. Lý do? Họ nổi giận với các bí thư đảng địa phương tham nhũng, nhét tiền vào túi riêng và những doanh nghiệp móc ngoặc với quan chức nhà nước lừa gạt họ. Còn với thể chế chính trị nói chung thì họ hài lòng. Cái thể chế này nói cho cùng đang cho phép họ làm giàu. Chính vì thế, chủ tịch Hồ Cẩm Đào rất lưu tâm theo sát vấn đề: trừng phạt sự tha hoá, nhưng không thay đổi thể chế chính trị. Các nhà lãnh đạo hiểu rõ rằng, chẳng thể nào mang lại cân bằng cho người nghèo trong ngữ cảnh giàu có của giới cầm quyền. Cho nên có thể chờ đợi rằng, ngày càng khó khăn làm ăn tay trái và kỷ luật sẽ nghiêm khắc hơn. Vì vậy, các đồng chí đảng viên sẽ sợ hãi khi nhận các bao thơ đầy tiền. Bao thơ khốn nạn Theo tính toán của tiến sĩ Minxin Pei của Carnegie Endowment for Internationl Peace, tham nhũng là một trong những cái phanh kìm hãm phát triển của Trung Nam Hải: rút ruột tổng thu nhập thậm chí 5%. Các vụ tham nhũng được nói tới nhiều nhất trong những năm gần đây chính là các bí thư đảng móc ngoặc với giới kinh doanh - giải quyết giấy phép xây dựng nhà máy trong các công viên công cộng, xuất cảng những sản phẩm bị cấm, nhận hối lộ thay thế cho các quyết định có lợi cho đối tác. Tham nhũng trở thành hiện tượng phổ cập: tại tỉnh An Huy (Anhui), ở thành phố Phụ Dương (Fuyang) với chín triệu người, các lãnh đạo địa phương đã có những liên kết ngầm với giới kinh doanh, đến mức các báo trên toàn Trung Quốc viết về họ như những tên maphia. Ba lãnh đạo đảng bị đưa ra toà và nhận án tử hình. Tại tỉnh phía Bắc Hắc Long Giang (Heilongjiang), toàn bộ chóp bu của đảng bị tống giam vì tham nhũng. Tương tự như thế ở tỉnh Quý Châu (Guizhou). Xì-căng-đan ầm ĩ nhất về tham nhũng trong những năm qua không xảy ra nơi những vùng biên cương của đế chế mà ngay trong lòng Thượng Hải. Chen Liangyu, sếp của đảng nhận hối lộ một phần tư triệu đôla (người ta chỉ chứng minh được ngần ấy). Tại Trung Quốc, nhận hối lộ trên 100 ngàn tệ (juan) có thể nhận án tử hình và chủ tịch Hồ Cẩm Đào nhấn mạnh rằng sẽ áp dụng triệt để. Có một điều là, khi giàu có lên, người Trung Quốc cho thấy rằng, họ không chỉ nhìn tay mình được chính quyền ban bố cho cái gì mà muốn được đồng quyết định. Ở Ôn Châu (Wenzhou), một trong những thành phố ven biển (tỉnh Chiết Giang) có tiếng về kinh doanh, các doanh nhân tập hợp trong một tổ chức thương mại và đảng chẳng có ảnh hưởng trực tiếp nào lên các chức vụ của họ. Trong một số làng phụ cận, chính quyền địa phương thử nghiệm cho truy cập công khai thông tin về ngân sách, kế hoạch đầu tư. Mặc dù đây là điều mới mẻ, chưa lan rộng ở mức độ lớn, nhưng đảng đang rất chú ý đến thử nghiệm này. Nếu thành công, họ sẽ nhân ra cả nước. - “Mục đích quan trọng nhất, idée fixe, của Mao Trạch Đông là tái xây dựng tiềm lực của Trung Quốc” - Rowinski, nhà Hán học giải thích. Sau nhiều năm lệ thuộc và mất thể diện, chủ nghĩa cộng sản đưa ra hình tượng Mao như là công cụ hữu hiệu cho việc đạt tới mục đích. Chẳng phải ông ta đã nhìn thấy bước phát triển nhanh chóng mà Liên Xô đã thực hiện đó sao. Cái giá mà công chúng phải trả chẳng cần quan tâm. - “Những người kế nhiệm Mao tiếp tục tái thiết một Trung Quốc vĩ đại. Từ đó chẳng nên ngạc nhiên về chủ nghĩa thực dụng của đảng cộng sản Trung Quốc, mà hôm nay tôi xác định rằng, mang tính quốc gia hơn là cộng sản” - nhà Hán học nói thêm. Ngày nay tại Trung Quốc can dự vào thành phần lãnh đạo đã có thế hệ thứ năm của đảng. Đó là những người trẻ hơn chủ tịch Hồ Cẩm Đào và họ không chỉ nhìn thấy thế giới bên ngoài mà còn học tập ở đó, đã sống trong các ký túc xá đại học. Nơi đó họ đã có thể so sánh khác biệt giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, giữa Bắc Kinh và Luân Đôn (London). Họ không quá liên hệ với tính từ “cộng sản” trong tên gọi các viện nghiên cứu, nơi tạo cơ hội cho họ quản lý một đất nước đông dân nhất thế giới. Thay vì đó, họ ràng buộc mình với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. - “Rất có thể một ngày nào đó cho thấy rằng, một trong những nhà lãnh đạo sẽ nói: thưa quý vị, đã quá đủ với đảng cộng sản rồi. Chỉ cần chúng ta đặt tên là Đảng Nhân dân Trung Hoa… Khó nói được, đảng sẽ tiến theo hướng nào. Nhưng chắc chắn rằng, cái hướng đảm bảo cho sự phát triển” - Giáo sư Rowinski nói. Nguồn: Ledienduc’s Blog ledienduc.wordpress.com/---------------------------------- Chú thích: Trong bài, người dịch sử dụng những từ Hán đã biết thông dụng trong Việt ngữ như Bắc Kinh, Thượng Hải, Giang Trạch Dân, Ôn Gia Bảo, Tứ Xuyên, v.v…Do không am tường Hán-Việt nên một số tên các nhân vật như Gao Zhimou, Chen Zhu, Wan Gang… và các địa danh như Dujiangyan (都江堰), Yangzi (揚子江) còn lại, người dịch không thể phiên âm ra Việt ngữ mà để tiếng Anh.
|
|
|
Post by tuhieu on May 13, 2009 18:47:33 GMT -5
Bản sắc bá quyền -------------------------------------------------------------------------------- Nhìn ra thế giới Thanh Trang, Lê Diễn Đức's Blog 11.05.2009 Tháng 5/2009, gần tròn 20 năm sau sự biến Thiên An Môn… Quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh những ngày này vẫn vậy: Cổng Thiên An với bức ảnh lớn của Mao Trạch Đông quay mặt về hướng nam, nhìn thẳng ra tượng đài tưởng niệm các anh hùng nhân dân và lăng Mao Trạch Đông. Điều lạ duy nhất là ở trước tượng đài kỷ niệm các anh hùng nhân dân, người ta đặt một tấm ảnh rất lớn của Tôn Trung Sơn. Ảnh Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn) với thanh niên Trung Quốc - Ảnh: Google Từ xưa tới nay không thấy như vậy, nay không hiểu vì lý do gì người ta lại cho hai ông Mao Trạch Đông và Tôn Trung Sơn quay mặt nhìn nhau giữa quảng trường. Ông Tôn Trung Sơn có còn sống chắc chắn không hài lòng khi nhìn thấy đất nước Trung Quốc dưới thời ông Mao. Ngay cả Trung Quốc đổi mới ngày nay có lẽ cũng khác so với hình dung của Tôn tiên sinh về chính trị. Tôn Trung Sơn là người chủ trương xây dựng chính thể cộng hòa, ông bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phương Tây. Cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 do ông lãnh đạo đã lật đổ chế độ phong kiến nhà Thanh để thành lập Trung Hoa Dân Quốc – nền cộng hòa lâu đời nhất ở Đông Á. Tiếc là nỗ lực xây dựng nền cộng hòa thực sự của ông đã không được hiện thực hóa trên đất nước Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch, người thay thế ông lãnh đạo Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1925, đã chỉ lo lắng tới việc điều binh khiển tướng để tiêu diệt đảng Cộng sản của Mao Trạch Đông nhằm thống nhất Trung Quốc, hơn là cố gắng xây dựng một chính thể cộng hòa giữa thời buổi loạn lạc. Mao Trạch Đông thống nhất Trung Quốc vào năm 1949, thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tuy vậy, nền cộng hòa của Mao Trạch Đông khác với ý niệm cộng hòa mà ông Tôn Trung Sơn đã hình dung. Thực chất, cho tới nay, đã 60 năm trôi qua, đó là nền chính trị cộng sản do gần như một đảng duy nhất lãnh đạo. Năm 2009 này là kỷ niệm 60 năm lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, cũng đồng thời là năm kỷ niệm nhiều ký ức không mấy vui vẻ với chính quyền Bắc Kinh. 60 năm Đài Loan bị chia tách vẫn chưa về với đất mẹ (1949), 50 năm cuộc nổi dậy bị đàn áp của người Tây Tạng (1959), 20 năm cuộc biểu tình đòi dân chủ lịch sử của sinh viên ở Thiên An Môn (1989) và 10 năm sự kiện Pháp Luân Công (1999). Để duy trì quyền lực tập trung và lãnh thổ, chính quyền đã có những biện pháp mạnh tay với tất cả những hiện tượng đòi ly khai, độc lập và dân chủ như vậy trong suốt 60 năm qua. * Nền cộng hòa tư sản theo tinh thần cách mạng Pháp chưa bao giờ thực sự tồn tại ở Trung Quốc. Ông Tôn Trung Sơn nếu muốn nhìn thấy một Trung Quốc như vậy thì dưới suối vàng, ông đã phải thất vọng. Nền cộng hòa mà Tôn Trung Sơn nhen nhóm từ đầu thế kỷ 20 tại sao không thể kéo dài thành công ở Trung Quốc? Tại sao ngay từ khi cách mạng Tân Hợi mới thành lập, đã xuất hiện một Viên Thế Khải âm ưu tự phong mình là hoàng đế hơn là hài lòng với chức vị tổng thống của nền cộng hòa? Gần 100 năm từ cách mạng Tân Hợi, 60 năm CHND Trung Hoa, Trung Quốc vẫn được lãnh đạo bởi chế độ tập quyền phảng phất nét phong kiến với những vị “hoàng đế” đầy quyền lực nối tiếp nhau “kế vị”. Cho dù tên gọi có thể khác, cho dù tính chất đã bị giảm nhẹ nhưng tinh thần của một nhà nước đế chế vẫn còn đó, chưa khác đi và vẫn chưa thể khác đi. Phương Tây phê phán Trung Quốc mất dân chủ, nhân quyền. Trung Quốc nói mỗi quốc gia có bối cảnh riêng, Trung Quốc chọn con đường mang “màu sắc Trung Quốc”. Với những người coi tự do dân chủ là những khái niệm phổ quát mang tính toàn cầu thì Trung Quốc đang ngụy biện. Nhưng nhìn sâu vào một Trung Quốc trong lịch sử thì nhà cầm quyền Trung Quốc không phải là không có lý của họ. * Khu vực thành Bắc Kinh có một bố cục hoàn hảo về mặt phong thủy. Trục thẳng xuyên từ bắc tới nam thành phố nằm trên một đường long mạch dài 17km, người Trung Quốc gọi đó là đường trung trục vĩ đại. Đường thẳng này đi xuyên qua toàn bộ những kiến trúc quan trọng nhất của thành Bắc Kinh từ cổng thành phía bắc (nay là lầu Phong Thủy) cho tới Tử Cấm Thành, Thiên An Môn, lăng Mao Trạch Đông… và cả sân vận động Tổ Chim hiện đại. Tất cả những di tích quan trọng về chính trị đều nằm trên một đường thẳng chính là đường long mạch của Bắc Kinh. Cấu trúc này mang hình dáng một con rồng – biểu tượng của chế độ quân chủ chuyên chế hơn 2.000 năm từ khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Tượng đài tưởng niệm các anh hùng nhân dân là một cột bê tông lớn cắm thẳng xuống đường long mạch đó và nhìn thẳng về phía Tử Cấm Thành. Nguồn tin phi chính thống nói rằng việc cắm một cột bê tông xuống đất như vậy không chỉ nhằm mục đích tưởng niệm các anh hùng mà còn để “thiến rồng”, không để cho chế độ quân chủ phong kiến ngóc đầu dậy. Việc phá hẳn một cổng thành ngay trước Thiên An Môn để đặt lăng Mao Trạch Đông ở đó cũng có ý nghĩa quan trọng về mặt phong thủy. Quảng trường Thiên An Môn - Ảnh: Google Tuy vậy, anh linh của các anh hùng dân tộc mà tấm bê tông kia tưởng niệm chỉ khiến cho con rồng quân chủ không thể ngóc đầu dậy về mặt hình thức. Xét về bản chất, hơi hướng của nền quân chủ tập quyền vẫn còn ngay trong thời đại ngày nay. Nói cách khác, tập quyền có cơ sở văn hóa lâu dài trong đời sống chính trị và văn hóa chính trị của Trung Quốc. Khởi điểm là vào năm 221 trước Công nguyên, khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc sau một giai đoạn các quốc gia hỗn chiến. Lần đầu tiên, một nhà nước phong kiến tập quyền mạnh cai trị trên một vùng lãnh thổ rộng lớn. Tần Thủy Hoàng bị không ít người phê phán là bạo tàn khi cai trị dân tộc một cách khắc nghiệt. Ông bắt dân xây Vạn Lý Trường Thành, đem quân đội mở mang bờ cõi làm cả triệu người bỏ mạng. Tuy vậy, nhà Tần ra đời là một bước ngoặt, đem lại những thay đổi lớn lao cho Trung Quốc. Quan trọng nhất là kể từ đó, Trung Quốc định hình mình như một đế chế chung với bờ cõi mênh mông chứ không còn là tập hợp những tiểu quốc luôn tìm cách thôn tính lẫn nhau. Ai đã xem bộ phim nổi tiếng Anh hùng của đạo diễn Trương Nghệ Mưu mới thấu hiểu tinh thần này của Trung Quốc. Bộ phim kể về những thích khách đi ám sát Tần vương với những tình tiết bất ngờ. Bất ngờ nhất là khi Tần Vương hiểu ra sự thực rằng thích khách Tàn Kiếm đã có cơ hội giết mình nhưng đã không làm vậy. Khi được hỏi tại sao, Tàn Kiếm đã viết lên cát hai chữ: THIÊN HẠ. Thống nhất được thiên hạ quan trọng hơn số phận của những cá nhân; để thống nhất cần một chính thể tập quyền. Tập quyền, chuyên chế chưa chắc đã dễ chịu với nhiều cá nhân nhưng nó đóng vai trò quan trọng để duy trì Trung Quốc như một Đại Quốc. Xuyên suốt cả một lịch sử “tan rồi lại hợp, hợp rồi lại tan”, người Trung Quốc, đặc biệt là giới tinh hoa chính trị, có lý do để lo sợ sự đổ vỡ thành từng phân mảnh của một nước Trung Hoa lớn, họ phải tìm cách giữ lấy và bành trướng hơn nữa đất nước Trung Quốc bằng cách duy trì quyền lực tập trung. Bắc Kinh đã thực hiện nhiều động thái rất quyết liệt trước tất cả những diễn biến đòi tự do, dân chủ, ly khai của một bộ phận trong nước cũng như những tranh chấp biên giới lãnh hải với nhiều quốc gia láng giềng. Trung Quốc phải bá quyền để duy trì một nước Trung Hoa lớn. * Đi khắp đất nước Trung Quốc, lại càng thấy có vẻ như bá quyền đã trở thành một cái gì đó thuộc về bản sắc của đất nước hơn một tỷ dân này. Nơi nơi từ Vạn Lý Trường Thành tới Tử Cấm Thành, Trung Quốc bao giờ cũng thể hiện ra cho thế giới thấy sự vĩ đại, to lớn và vượt trội của nó. Một điển hình là các tòa nhà lớn, di tích lớn của Trung Quốc, từ cổ chí kim rất hay có hai con sư tử đứng canh hai bên cổng. Theo phong thủy, một con đè chân lên một quả cầu thể hiện tinh thần BÁ QUYỀN THIÊN HẠ, còn con kia đè chân lên một con sư tử con thể hiện tinh thần MẪU NGHI THIÊN HẠ. Sư tử theo phong thủy phát ra bá khí, và Trung Quốc vẫn khao khát duy trì bản sắc bá quyền. Trương Nghệ Mưu đã mất ba năm để viết kịch bản cho bộ phim Anh hùng. Bộ phim đã thành công vang dội không chỉ bởi nghệ thuật mà còn bởi thông điệp mang tính tư tưởng của nó. Trương Nghệ Mưu đã thay mặt rất nhiều người Trung Quốc nói lên tham vọng nhất thống thiên hạ của một cường quốc. Tham vọng bá quyền đã trở thành một truyền thống văn hóa hay nói chính xác hơn là một ý thức hệ của dân tộc Trung Hoa. Jet Li trong "Hero", một bộ phim mà các nhà bình luận cho rằng qua nó Trương Nghệ Mưu muốn ủng hộ thể chế Trung Quốc hiện nay - Ảnh: Google Xóa bỏ một chính thể đã khó, xóa bỏ một ý thức hệ còn khó hơn nhiều. Ngay kể cả khi chính thể thay đổi nhưng ý thức hệ vẫn thế thì về bản chất, mọi thứ vẫn ở trạng thái nguyên trạng. Trong lịch sử, Mao Trạch Đông đã thực hiện cuộc cách mạng văn hóa phá bỏ hết mọi tàn tích phong kiến để nhanh chóng tiến lên thế giới đại đồng. Nhưng ngay chính cái quyết định phá bỏ mọi tàn tích phong kiến đã thể hiện bản chất bá quyền một cách rất phong kiến của chính quyền thời đó. Nếu như người ta nói rằng nước Nga man rợ không thể tồn tại nếu thiếu ngọn roi hung bạo của Pie Đại Đế thì cũng có thể nói rằng Trung Hoa mênh mông không thể tồn tại nếu thiếu thanh gươm bá quyền của Tần Thủy Hoàng. Nước Nga đã tìm thấy cho mình một sa hoàng mới thì Trung Quốc vẫn phải tìm kiếm những hoàng đế mới. Trong não trạng của đa số người dân, Trung Hoa phải tồn tại như vậy, không thể khác được. Con đường tới một xã hội dân sự mạnh với quyền lực được phân chia còn rất dài ở Trung Quốc. Không phải học giả và chính trị gia Trung Quốc không hiểu tự do dân chủ kiểu Tây phương là thế nào, họ thừa sức để thấu hiểu. Nhưng thể chế chính trị hiện tại phải tồn tại để bảo vệ chính nó và không chỉ thế, phản ánh một phần bản sắc và não trạng của một dân tộc. E rằng, mọi cố gắng đấu tranh dân chủ kiểu Thiên An Môn năm 1989 hay Hiến chương 2008 vừa rồi của nhiều trí thức Trung Quốc sẽ chỉ như con sư tử con nằm bẹp dưới đôi chân khổng lồ của con sư tử mẹ là chính quyền Trung Quốc, với bệ đỡ là 2.000 năm văn hóa tập quyền. Nguồn: Bài do tác giả gửi từ trong nước – Lê Diễn Đức minh họa ảnh.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 17:49:06 GMT -5
Hồi ký bí mật của Triệu Tử Dương ra đờiNguyên Hân – Tổng hợp Hồi ký bí mật của Triệu Tử Dương ra đời BẮC KINH – Hai thập kỷ kể từ ngày ông bị thất sủng và bốn năm sau ngày ông qua đời, nhà lãnh đạo Trung Quốc có đầu óc canh tân đã đánh tan sự im lặng của nhà nước về chuyện trấn áp ở quảng trường Thiên An Môn năm 1989, lên tiếng tố cáo chuyện thảm sát những người biểu tình ở Thiên An Môn là một “tấn thảm kịch”. Trong hồi ký được thâu lại qua băng một cách bí mật trong thời gian ông Triệu Tử Dương bị quản chế tại gia, ông đã thách thức những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện thời, đầy cẩn trọng ngay trước ngày đánh dấu lần thứ 20 ngày 4 tháng Sáu, là ngày quân đội Trung Quốc nghiến nát những người biểu tình đòi hỏi dân chủ ở quảng trường Thiên An Môn Bắc Kinh. Ông ca ngợi nền dân chủ phương Tây và lên án chuyện trấn áp người biểu tình bằng vũ lực, khi xe tăng và quân đội tràn xuống đại lộ Chang’an bắn thẳng tay người biểu tình lẫn người đi xem năm 1989. “Vào đêm 3 tháng Sáu đó, trong lúc ngồi ngoài sân với gia đình, tôi nghe tiếng súng bắn dồn dập, dữ dội,” ông Dương nói. “Một thảm kịch làm chấn động thế giới đã không thể nào ngăn chận được.” Ông Dương, tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc dạo đó năm 1989, phủ nhận chuyện nhà nước Trung Quốc lên án những sinh viên biểu tình là một phần của một âm mưu chống đảng Cộng sản. “Tôi đã từng nói dạo đó là hầu hết người ta chỉ đòi hỏi chúng ta sửa những lỗi lầm, chứ không phải họ cố lật đổ hệ thống chính trị của chúng ta,” ông Dương nói trong cuốn sách “Tù Nhân Của Nhà Nước”, sẽ được xuất bản bởi nhà xuất bản Simon and Schuster bằng tiếng Anh trong tháng này. Trái: Triệu Tử Dương đang nói chuyện với sinh viên biểu tình đòi dân chủ và cải cách. Phải: hình chụp 10 năm sau ngày ông Dương bị thanh trừng và bị quản chế tại gia năm 1990. Nguồn: Reuters -------------------------------------------------------------------------------- Cuốn hồi ký dài 306 trang, ghi lại từ khoảng chừng 30 cuốn băng đã được thâu, đã được trao cho ba người bạn tín cẩn và chuyển lậu ra khỏi Trung Quốc. Hãng thông tấn Reuters đã có được một bản thảo. Câu chuyện kể lại của ông Dương về chuyện những nhà lãnh đạo kỳ cựu thời đó đã trục xuất ông ra khỏi quyền lực đã hắt một ánh đèn hiếm hoi lên chuyện phe cánh chính trị đằng sau chuyện biểu tình đã làm chấn động Trung Quốc 20 năm về trước, lên tới cực điểm qua chuyện khai trừ ông và đi kèm với chuyện trấn áp bằng bạo lực làm chết hằng trăm người trên đường phố Bắc Kinh. Ông Triệu Tử Dương đã thu băng một cách bí mật hồi ký của mình trong những năm ông bị quản chế tại gia suốt 15 năm kể từ khi bị khai trừ cho đến khi ông qua đời vào tháng Một năm 2005. Trong đó, ông công khai chỉ trích những gì mà ông cho là con đường bảo thủ sai lầm được đảng Cộng sản Trung Quốc chọn đi và ông muốn thuyết phục một sự chuyển hướng dần dần về nền dân chủ kiểu phương Tây. “Nếu chúng ta không đi về hướng này, nó sẽ là bất khả để giải quyết những điều kiện bất bình thường trong nền kinh tế thị trường của Trung Quốc,” ông nói. Một trong những biên tập viên chính của cuốn hồi ký này là ông Bao Pu, con của ông Bao Tong - là người phụ tá cao cấp nhất của ông Dương - nói rằng ông Dương rõ ràng có ý muốn trình bày những sự cố này dưới cái nhìn của ông để thách đố sự lên án chính thức của đảng Cộng sản Trung Quốc dành cho những người biểu tình phản đối ở Thiên An Môn năm 1989 và cũng như sự cầm quyền độc đảng. Trái: Sinh viên biểu tình đòi dân chủ và cải cách. Phải: Quân đội Nhân dân tràn vào Thiên An Môn "bắn thẳng tay Nhân dân" năm 1989. Nguồn: DCVOnline tổng hợp -------------------------------------------------------------------------------- Cuốn hồi ký này “sẽ đưa về lại cho lịch sử những gì đã bị người ta cố tình xóa bỏ hoặc bóp méo.” “Ông Dương đã không để lại chỉ thị gì… nhưng rõ ràng là ông muốn cuốn hồi ký của ông được tồn tại,” ông Bao nói, công ty xuất bản New Century Press của ông đang tiến hành xuất bản cuốn hồi ký này bằng tiếng Hoa. Khi được hỏi liệu cuốn hồi ký này sẽ gây nên tác động gì, ông Bao Tong, cho đến nay vẫn sống ở Bắc Kinh dưới sự canh chừng của công an nhưng được cho phép tiếp xúc với nhà báo ngoại quốc, đã nói với Reuters: “Tôi nghĩ nó sẽ làm cho đảng viên suy ngẫm lại chuyện này một cách sâu sắc.” Ông nói ông chắc chắn 100 phần trăm giọng nói trong băng là của ông Triệu Tử Dương sau khi được nghe một vài đoạn. Mạch văn chính xuyên suốt hồi ký của ông Triệu Tử Dương là mối quan hệ đắng cay với ông Đặng Tiểu Bình, người lèo lái Trung Quốc đến với cải cách thị trường nhưng bác bỏ – sau rốt là với vũ lực - những lời kêu gọi cho một sự thay đổi dân chủ. Ông Đặng Tiểu Bình được vinh danh bởi Trung Quốc như là người tiên phuông đằng sau những thành tựu kinh tế, và ông Triệu Tử Dương như người đi hàng hai và phản bội dưới trào ông Đặng có lẽ làm khó chịu những nhà lãnh đạo đương thời của Trung Quốc. Ông Dương bác bỏ ý niệm cho rằng ông Đặng Tiểu Bình có khuynh hướng nới lỏng chính trị theo bản năng nhưng bị dẫn đi lạc đường bởi những người bảo thủ. Những ý niệm về dân chủ của ông Đặng “không gì hơn là những lời nói rỗng tuyếch,” theo ông Dương. Ông Dương nói rằng để trục ông ra khỏi quyền lực, ông Đặng Tiểu Bình, cùng ông thủ tướng dạo đó là Lý Bằng và những người bảo thủ trong đảng đã chà đạp những luật lệ nhắm vào chuyện ngăn chận sự trở lại những năm tháng khi mà quyền lực tập trung vào trong tay một người, và chuyên quyền độc đoán dưới thời Mao Trạch Đông. Phương cách cứu chữa những vấn nạn của Trung Quốc, ông Triệu Tử Dương nói, nằm trong sự vận động thay đổi từ từ nhưng không ngừng nghỉ hướng về nền dân chủ. “Tôi tin rằng thời cơ đã đến cho chúng ta để đối diện và giải quyết vấn đề này một cách nghiêm chỉnh,” ông kết luận. “Một thảm kịch làm chấn động thế giới đã không thể nào ngăn chận được,”, theo ông Triệu Tử Dương. Nguồn: Reuters -------------------------------------------------------------------------------- Được biết, ông Triệu Tử Dương đã là Thủ tướng CHND Trung Quốc trong tám năm từ 1980 đến 1987, trước khi trở thành tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc trong năm 1987-1989. Ông được ghi nhận là có công lớn trong việc thúc đẩy Trung Quốc cải cách kinh tế theo chiều hướng kinh tế thị trường, gia tăng sản xuất và ngăn chận tình trạng quan liêu cũng như tham nhũng vô phương cứu chữa ở Trung Quốc trong thời gian đó. Đã từng được xem như là người kế vị Đặng Tiểu Bình, nhưng ông Triệu Tử Dương đã bị thanh trừng và hạ bệ sau biến cố Thiên An Môn vì ông có cảm tình với những sinh viên biểu tình này. Ông nói rằng nhà nước lên án những cuộc biểu tình này là một phần âm mưu lật đổ đảng và nhà nước. Nhưng nhà nước thất bại trong việc trưng bằng chứng. Trong cuốn hồi ký này, ông có kể lại về một buổi họp mật của Bộ Chính trị, và ông nói "Ở lúc đó tôi cực kỳ phẫn nộ. Tôi tự nói với mình là bất luận chuyện gì xảy ra, tôi từ chối là người Tổng bí thư đảng huy động quân đội để trấn áp sinh viên." Ông Triệu Tử Dương đã bị quản chế tại gia trong suốt 15 năm cho đến khi ông qua đời. Cuốn hồi ký của ông cũng có đề cập đến những năm tháng cô đơn khị bị lưu vong trên chính quê hương của ông, và bị cô lập bởi những người đã một thời là đồng chí của ông: “Lối vào nhà tôi là một chốn hoang tàn đổ nát, và lạnh lẽo.” Một vài trích đoạn trong hồi ký của Triệu Tử Dương VỀ CUỘC ĐÀN ÁP ĐẪM MÁU Ở THIÊN AN MÔN NĂM 1989 … “Vào đêm 3 tháng Sáu đó, trong lúc ngồi ngoài sân với gia đình, tôi nghe tiếng súng bắn dồn dập, dữ dội. Một thảm kịch làm chấn động thế giới đã không thể nào ngăn chận được và cuối cùng rồi cũng đã xảy ra...” …“Người ta xác định phong trào sinh viên này là một âm mưu có tính toán, có lãnh đạo nhằm chống đảng, chống nhà nước. Bây giờ, chúng ta phải hỏi, ai là người lãnh đạo phong trào này? Họ có kế hoạch gì? Những bằng cớ nào để xác minh điều này?...” …“Người ta nói rằng sự cố này nhằm mục đích lật đổ đảng Cộng sản và nhà nước Cộng hòa Nhân dân. Bằng chứng đâu? Tôi đã từng nói dạo đó là hầu hết người ta chỉ đòi hỏi chúng ta sửa những lỗi lầm, chứ không phải họ cố lật đổ hệ thống chính trị của chúng ta.”… VỀ HỆ THỐNG LẬP PHÁP CỦA PHƯƠNG TÂY “… Hệ thống dân chủ với ngành lập pháp của phương Tây đã chứng tỏ sự tồn tại lâu dài nhất (vì tính hiệu qủa của nó). Hệ thống này hiện hay nhất từ xưa đến nay. Nó có khả năng biểu thị tinh thần dân chủ và thỏa mãn được những đòi hỏi của một xã hội hiện đại ngày nay… … Nếu một đất nước mong muốn canh tân, thì không những chỉ có áp dụng nền kinh tế thị trường là đủ, nhưng cũng cần đi kèm theo đó là chọn và thực hiện một nền dân chủ lập pháp (parliamentary democracy) như là hệ thống chính trị cho mình. Còn không, đất nước này sẽ không thể có một nền kinh tế thị trường hiện đại và sung túc, mà nó cũng không có khả năng trở thành một xã hội hiện đại với cơ chế pháp quyền.” VỀ CẢI CÁCH CHÍNH TRỊ “Nếu chúng ta không đi về hướng này, nó sẽ là bất khả để giải quyết những điều kiện bất bình thường trong nền kinh tế thị trường của Trung Quốc: Những vấn đề như một thị trường không lành mạnh, lợi dụng quyền lực, tham nhũng phổ biến tràn lan và khoảng cách lớn lao giữa người giàu có và kẻ nghèo khó. Một cơ chế pháp quyền khó mà trở thành hiện thực.”
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 19:30:14 GMT -5
Siêu cường Trung Quốc: Triển vọng và thách thức Nguyễn Trường 19/05/2009
Ngay giữa lúc kinh tế đang suy thoái tồi tệ nhất kể từ sau cuộc kinh tế đại khủng hoảng 1929-33, một trật tự thế giới mới bắt đầu lộ diện với tâm điểm dịch về phía Trung Quốc (TQ). Chỉ cần lướt qua các con số thống kê cũng đủ rõ. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) dự báo tỉ suất tăng trưởng GDP của thế giới sẽ sụt giảm xuống mức đáng ngại, 1,3% trong năm 2009. Tuy nhiên, trái với xu hướng toàn cầu, tỉ suất tăng trưởng của TQ được ước tính ở khoảng từ 6,5% đến 8,5% năm nay. Trong quý đầu của năm 2009, các thị trường chứng khoán hàng đầu thế giới sụt giảm 4,5%. Ngược lại, chỉ số thị trường chứng khoán Thượng Hải đã gia tăng với tỉ suất choáng ngợp 38%. Trong tháng 3-2009, số xe hơi bán ra ở TQ đã đạt mức kỷ lục 1,1 triệu, vượt qua Hoa kỳ trong 3 tháng liên tiếp.
Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào cho biết, mặc dù tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế, cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay cũng tạo cơ hội cho TQ 1 . Thực vậy, người ta có thể nói tai nạn sóng thần tài chánh đã đem lại cho TQ cơ may gỡ bỏ các nguyên tắc điều hướng của các lãnh đạo cải cách tiên phong. "Che giấu khả năng và chờ thời"2 , như lời dạy của nguyên lãnh tụ Đảng Cộng Sản Đặng Tiểu Bình. Thời đó đã trôi qua.
Nay cờ đã đến tay, Bắc Kinh quyết định sẽ giữ vai trò can thiệp tích cực trên diễn đàn tài chánh quốc tế. Với 2.000 tỉ ngoại tệ dự trữ trong tay, các doanh nhân TQ đã tung tiền đi tậu mãi khắp hoàn cầu, từ Phi châu, châu Mỹ La Tinh, đến Liên Bang Nga và Kazakhstan, để bảo đảm nguồn cung năng lượng cho nền kinh tế đói dầu của chính mình. Trong quốc nội, chính quyền đã đầu tư ồ ạt không những vào những công trình hạ tầng cơ sở lớn, mà cả vào mạng lưới an sinh xã hội trước đây bị bỏ quên, hệ thống bảo hiểm y tế, và các dự án phát triển nông thôn từ lâu không được chú ý - một phần để giảm bớt hố cách biệt ngày một sâu rộng trong mực sống giữa thành thị và thôn quê.
Trong giới quan sát ấn tượng với những bước tiến lớn lao của Bắc Kinh từ khi TQ tung ra gói kích cầu 585 tỉ trong tháng 9-2008, người ta đặc biệt quan tâm đến chính quyền Obama. Hoa Thịnh Đốn xem đà gia tăng liên tục trong GDP của TQ như biện pháp cứu chữa hữu hiệu đối với sự sụt giảm trong GDP của hầu hết các nền kinh tế lớn trên toàn cầu, ngoại trừ Ấn Độ. Do đó, Hoa Kỳ đã quyết định từ bỏ luận cứ: khi đánh giá thấp đơn vị tiền tệ của mình - đồng yuan, TQ đang duy trì giá hàng xuất khẩu ở mức quá thấp, do đó, đặt hàng xuất khẩu của Mỹ vào vị trí bất lợi trên các thị trường quốc tế.
BÍ QUYẾT THÀNH CÔNG CỦA TRUNG QUỐC
Câu hỏi được đặt ra là bí quyết nào đã giúp TQ tiếp tục thành công trong khi kinh tế toàn cầu đang gặp suy thoái nghiêm trọng hiện nay?
Trước hết, hệ thống ngân hàng TQ - do Nhà Nước kiểm soát và đầy ắp tiền mặt - đã tung tiền ra cho vay, trong khi tín dụng ngân hàng ở Mỹ và Liên Hiệp Âu châu vẫn còn cạn kiệt và tắc nghẽn. Vì vậy, chi tiêu của giới tiêu thụ và đầu tư ở TQ vẫn tăng nhanh.
Dưới sự lãnh đạo của cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, ngay từ khi bắt đầu chính sách cởi trói kinh tế năm 1978, TQ đã trải nghiệm nhiều thăng trầm, kể cả lạm phát, giảm phát, thoái trào, phát triển không đồng đều giữa các địa phương, và hố cách biệt giàu nghèo cũng như giữa thành thị và nông thôn ngày một sâu rộng - những nét đặc trưng dính liền với chủ nghĩa tư bản.
Khi các lãnh tụ Cộng Sản TQ, để đối phó với suy thoái, đã sử dụng cùng một số lợi khí tiền tệ, thuế khóa, tài chánh quen thuộc, như điều chỉnh lãi suất và khối tiền tệ lưu hành, họ đã gặt hái được kết quả mong muốn nhanh hơn các đối tác tư bản. Lý do chính là nhờ ở hệ thống ngân hàng, do Nhà Nước kiểm soát, đã ứng xử như những định chế nhận tiền ký thác từ số tiết kiệm cưỡng bách của mọi công nhân viên.
Thêm vào đó, luật mỗi cặp vợ chồng, một đứa con (one couple, one child), ban hành năm 1980, để kiểm soát nạn dân số bùng nổ ở TQ, cùng với sự sụt giảm nhanh chóng trong mạng lưới trợ cấp xã hội cho các công nhân viên các xí nghiệp quốc doanh, đã buộc các bậc cha mẹ phải tiết kiệm. Ngoài ra, cũng phải kể đến sự sụp đổ của chương trình bảo hiểm y tế hợp tác xã nông thôn và các công xã trước đó, cũng như nhiều phụ huynh TQ không còn được bảo đảm săn sóc y tế trong tuổi già. Tất cả những bất trắc đó đã cấu thành những động lực mới thúc đẩy nhu cầu tiết kiệm. Kết quả chung cuộc là các ngân hàng đầy ngập tiền ký thác nhờ ở số tiết kiệm gia tăng.
Quan trọng không kém là sự kiện TQ gia nhập Tổ Chức Thương Mãi Quốc Tế (WTO) năm 2001, đưa đến xuất khẩu tăng vọt. Và tỉ suất tăng trưởng trung bình 12%/năm đã trở thành chuẩn mực.
Khi sự sụp đổ tín dụng ở Bắc Mỹ và Liên Hiệp Âu châu đưa đến sự sụt giảm nghiêm trọng trong ngạch số xuất khẩu của TQ, gây thất nghiệp cho hàng triệu nhân công du cư trong các đô thị kỹ nghệ duyên hải, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã tập trung vào việc kiểm soát tỉ lệ thất nghiệp và duy trì mức lương cho các công nhân viên đang có việc làm. TQ ước tính tỉ suất thất nghiệp trong khu vực đô thị chỉ ở mức 4,2%, bởi lẽ số đông công nhân viên trong các công xưởng bị sa thải đã quay về các làng quê. Số còn ở lại thành phố đã được khuyến khích ghi danh vào các chương trình tái huấn luyện do chính quyền bảo trợ, khả dĩ thu thập các kỷ năng cao chuẩn bị cho những việc làm tốt hơn trong tương lai.
Trong khi đa số các lãnh đạo Tây phương chẳng thể làm được gì khác hơn là khiển trách giới quản trị ngân hàng tiếp tục bỏ túi những số tiền thưởng kếch sù mặc dù đối chiếu biểu các công ty do họ quản lý bị thâm thủng nặng nề, nhà cầm quyền TQ đã bắt buộc các cấp lãnh đạo cao cấp trong các xí nghiệp quốc doanh nòng cốt phải chấp nhận một mức lương thấp hơn, khoảng từ 15% đến 40%, trước khi được phép đụng đến mức thù đáp của công nhân.
Để duy trì tỉ suất tăng trưởng nhanh chóng của nền kinh tế, thường trực tiếp lệ thuộc vào mức tiêu thụ năng lượng của toàn quốc, giới lãnh đạo TQ đã ký nhiều hợp đồng bảo đảm các nguồn cung dầu khí và hơi đốt thiên nhiên với các công ty ngoại quốc.
AN NINH NĂNG LƯỢNG
Từ khi bắt đầu nhập khẩu dầu khí năm 1993, TQ luôn tỏ ra rất đói dầu. Cứ mỗi ba năm, số dầu nhập khẩu lại tăng gấp đôi. Vì vậy, TQ rất dễ bị thương tổn bởi các chao đảo trên thị trường dầu khí quốc tế. Dầu khí, do đó, đã được xem như sản phẩm chiến lược thuộc chính sách ngoại giao. TQ quyết định tích cực tham gia vào việc thăm dò tìm kiếm hydrocarbon và các dự án sản xuất năng lượng hải ngoại cũng như xây dựng những tuyến dẫn dầu xuyên quốc gia. Ngày nay, việc tiếp cận nhiều nguồn cung cấp và vận chuyển năng lượng khác nhau đã trở thành một chính sách thiết yếu thuộc Bộ Ngoại Giao.
Ý thức được tình trạng bất ổn ở Trung Đông, nguồn cung cấp dầu khí chính yếu, TQ đã thăm dò, tìm kiếm trữ lượng dầu và hơi đốt thiên nhiên, cùng với nhiều khoáng sản cần thiết cho các ngành công kỹ nghệ và xây cất, khắp Phi châu, Úc châu, và châu Mỹ La Tinh. Ở Phi châu, TQ tập trung vào Angola, Congo, Nigeria, và Sudan. Năm 2004, dầu nhập khẩu từ các xứ nầy chiếm khoảng 3/5 số lượng nhập khẩu từ vùng Vịnh Ba Tư.
Trong các vùng lân cận, TQ đã bắt đầu ký hợp đồng mua năng lượng với Nga, và Cộng hòa Trung Á Kazakhstan, ngay từ trước khi giá dầu sụt giảm và khủng hoảng tín dụng toàn cầu bùng nổ. Ngày nay, bị kẹt giữa giá năng lượng sụt giảm và khủng hoảng tín dụng, các công ty dầu hàng đầu và sở hữu chủ các tuyến dẫn dầu của Liên Bang Nga, mới đây, đã phải thỏa thuận cung cấp thêm cho TQ 300.000 thùng dầu mỗi ngày trong 25 năm để vay 25 tỉ từ Ngân hàng Phát triển TQ. Cũng cùng mục đích, một công ty con của Công Ty Dầu Khí Quốc Gia TQ (China National Petroleum Corp) thỏa thuận cho Kazarkhstan vay 10 tỉ USD như một phần trong công ty hợp doanh khai thác trữ lượng hydrocarbon.
TQ cũng tiếp tục tăng cường sự hiện diện của mình trong các khu vực nhiều dầu khí và hơi đốt ở Nam Mỹ. Trong suốt thời gian quan hệ giữa T T Venezuela Hugo Chavez và chính quyền George W. Bush ngày một xấu đi, quan hệ giữa Venezuela và TQ, ngược lại, ngày một được tăng cường. Năm 2006, trong cuộc viếng thăm Bắc Kinh lần thứ tư kể từ khi đắc cử Tổng Thống năm 1999, T T Hugo Chavez đã tiết lộ số dầu Venezuela xuất khẩu qua TQ sẽ gia tăng gấp ba sau ba năm, để đạt mức 500.000 thùng mỗi ngày. Song song với dự án nhà máy lọc dầu hợp doanh để lọc dầu Venezuela ở TQ, các công ty TQ còn ký hợp đồng xây cất hàng tá giàn khoan, cung cấp 18 tàu chở dầu, và hợp tác với PdVSA, công ty dầu quốc doanh Venezuela, để thăm dò các khu dầu mới.
Trong cuộc viếng thăm Nam Mỹ vào tháng 1- 2009 của Phó Chủ Tịch Xi Jinping, Ngân Hàng Phát Triển TQ đã thỏa thuận cho công ty PdVSA vay 6 tỉ USD để cung cấp dầu cho TQ trong vòng 20 năm tới. Sau đó, TQ đã đồng ý tăng gấp đôi qũy tín dụng phát triển lên 12 tỉ, và để đổi lại, Venezuela sẽ gia tăng số dầu cung cấp hàng ngày từ 380.000 lên một triệu thùng.
Mới đây, Ngân Hàng Phát Triển TQ cũng quyết định cho công ty dầu khí Brazil vay 10 tỉ trả bằng dầu trong những năm sắp tới. Con số nầy gần bằng số 11,2 tỉ Ngân Hàng Phát Triển Liên Mỹ (Inter-American Development Bank) cho nhiều xứ Nam Mỹ vay trong năm rồi. TQ cũng đã mở rộng sự hiện diện thương mãi tới Brazil qua việc sẵn sàng trả một mức giá hữu lợi cho quặng sắt và đậu nành, những sản phẩm xuất khẩu giúp tài trợ tăng trưởng kinh tế gần đây của Brazil.
Trong chiều hướng đó, Bắc Kinh cũng mới tăng cường sự hiện diện của mình ở Nam Mỹ qua việc dành cho Buenos Aires vay 10 tỉ đồng yuan. Argentina là một trong ba đối tác thương mãi quan trọng của TQ được dành đặc lợi nầy, bên cạnh Indonesia và Nam Hàn.
LIỆU ĐỒNG YUAN CÓ THỂ TRỞ THÀNH MỘT THỨ TIỀN QUỐC TẾ?
Chẳng trống chẳng kèn, TQ khởi sự quốc tế hóa vai trò đơn vị tiền tệ của chính mình , bắt đầu với diễn tiến tăng cường địa vị đồng yuan ở Hồng Kông. Mặc dù chỉ là một phần lãnh thổ của TQ, Hồng Kông có một đơn vị tiền tệ riêng - đồng đô la Hồng Kông. Vì Hồng Kông là một trong số các thị trường tài chánh tự do hàng đầu của thế giới, việc giàn dựng sắp xếp của TQ sẽ làm dễ dàng quá trình quốc tế hóa đồng yuan.
Bây giờ nhìn lại, một khía cạnh quan trọng của Hội Nghị Thượng Đỉnh G-20 ở Luân Đôn vào đầu tháng 4-2009 đã xoay quanh những gì TQ đã và đang làm. TQ đã công khai phổ biến lối phân tích rốt ráo của mình về cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay và đưa ra một giải pháp táo bạo.
Trong một bài viết đặc sắc đăng trên mạng internet, Zhou Xiaochuan, thống đốc Ngân Hàng Trung Ương TQ, đã nói đến các cuộc khủng hoảng tài chánh, ảnh hưởng đến toàn cầu, ngày một thường xẩy ra hơn. Vấn đề có thể truy nguyên trở lại ngày 3-3-1971, khi Tổng Thống Richard Nixon đơn phương quyết định tách đồng Mỹ kim khỏi kim bản vị. Cho đến thời điểm đó, đồng Mỹ kim có thể chuyển hoán thành vàng, tồn trữ tại Fort Knox ở Kentucky, theo một tỉ suất nhất định - 35 USD một ounce. Tỉ suất nầy đã được ấn định năm 1944, thời Đệ Nhị Thế Chiến, bởi các quốc gia đồng minh tại hội nghị Bretton Woods, New Hampshire. Cùng lúc, đồng Mỹ kim cũng được công nhận dùng làm ngoại tệ dự trữ cho toàn thế giới hay phương tiện chi phó quốc tế. Tuy nhiên, kể từ 1971, đồng Mỹ kim không còn được bảo đảm bởi bất cứ thứ gì bền vững khác hơn là uy tín của chính Hoa Kỳ 3.
Chỉ từ năm 1994 đến năm 2000, khủng hoảng kinh tế đã xẩy ra trong chín quốc gia lớn, tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu: Mexico (1994), Thái Lan-Indonesia- Malaysia- South Korea- Philippines (1997-98), Liên Bang Nga và Brazil (1998), và Argentina (2000).
Theo Zhou, khủng hoảng tài chánh đã xẩy ra khi những nhu cầu đối nội của nước có đơn vị tiền tệ được dùng làm phương tiện chi phó quốc tế xung đột với những nhu cầu tài chánh của thế giới. Chẳng hạn, trong số các biện pháp đối phó với sự mất tin tưởng sau biến cố 11/9, Cục Dự trữ Liên Bang đã cắt lãi suất xuống mức thấp kỷ lục 1% để khuyến khích tiêu thụ trong nước, vào đúng lúc kinh tế nhiều xứ, ngoài Hoa Kỳ, đang tăng trưởng nhanh và cần tăng lãi suất để giúp kinh tế giảm nhiệt và hạ thấp tỉ suất phát triển.
Họ Zhou viết tiếp, cuộc khủng hoảng, một lần nữa, đòi hỏi các cải cách mang tính sáng tạo trong hệ thống ngoại tệ dự trữ hiện hữu. Một đơn vị tiền dự trữ siêu quốc gia do một định chế toàn cầu quản lý có thể được sử dụng, nhằm tạo dựng và kiểm soát thanh khoản toàn cầu. Điều nầy sẽ đồng thời giúp tiết giảm đáng kể những bất trắc một cuộc khủng hoảng tương lai, và cải thiện khả năng xử lý khủng hoảng 4.
Kế đó, Zhou Xiaochuan gián tiếp nhắc đến Special Drawing Rights (SDR) của IMF. SDR mặc nhiên đã là đơn vị tiền tệ có giá trị cơ sở trên một gói bản vị gồm USD, đồng euro của Liên Hiệp Âu châu, đồng pound của vương quốc Anh, và đồng yen của Nhật, tất cả đều được xem như ngoại tệ dự trữ hay phương tiện chi phó quốc tế, với đồng USD dẫn đầu. Kể từ khi đồng SDR được sáng lập vào năm 1969, IMF đã duy trì các chương mục hay tài khoản của Quỹ căn cứ trên đồng SDR.
Họ Zhou ghi nhận, trong thực tế, đồng SDR vẫn chưa được phép làm tròn vai trò một đơn vị tiền quốc tế. Ông lập luận, nếu được cải thiện, SDR một sáng đẹp trời nào đó có thể trở thành đơn vị tiền dự trữ toàn cầu.
Ý kiến của Zhou đã được điện Cẩm Linh hỗ trợ. Liên Bang Nga còn đề nghị dùng thêm vàng như một yếu tố gia tăng tính ổn định cho gói bản vị bảo đảm giá trị của đồng SDR. Đồng ruble của Nga cũng đã được định nghĩa theo gói bản vị với 55% euro và 45% USD. Trong vòng một thập kỷ sau ngày được sáng lập, đồng euro đã trở thành đơn vị tiền dự trữ lớn thứ hai trên thế giới, chiếm gần 30% tổng số so với 67% của đồng USD.
Phản ứng đầu tiên của Bộ trưởng Ngân khố Timothy Geithner đối với bài viết của Zhou: "Gợi ý của TQ xứng đáng được cứu xét"5. Các thị trường tài chánh Mỹ, đang âu lo, đã xem phản ứng của Bộ Trưởng Ngân Khố Geithner như dấu hiệu suy yếu của đồng USD. Geithner vội vã tháo lui. Và Tổng Thống Obama nhanh chóng bồi thêm: "Tôi không nghĩ thế giới cần một đơn vị tiền tệ toàn cầu. Đồng USD hiện nay vô cùng sung sức" 6.
Trong thực tế, luôn duy trì một thái độ thận trọng quen thuộc, Zhou chưa hề nhắc đến tình trạng sức khỏe của đồng USD trong bài viết của mình, cũng chưa hề gợi ý đồng yuan cần được thêm vào gói bản vị của đơn vị tiền siêu quốc gia SDR do chính ông đề nghị. Tuy nhiên, mọi người đều thấy rõ vào một thời điểm quyết định - với các lãnh đạo thế giới gặp nhau ở Luân Đôn để tìm cách tháo gỡ cuộc khủng hoảng tài chánh nghiêm trọng nhất kể sau từ cuộc đại khủng hoảng kinh tế 1929-33, TQ - cho đến nay vẫn kiên nhẫn chờ đợi bên lề, mặc dù với một nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới - đã sẵn sàng cho mọi người thấy tay bài hùng hậu của mình.
Có nhiều dấu hiệu cho thấy Hoa Thịnh Đốn sẽ không thể vãn hồi địa vị trước đây ngay cả sau khi ra khỏi cuộc đại suy thoái hiện nay. Trong những năm sắp tới, giới lãnh đạo Hoa Kỳ sẽ phải đối diện với thực tế và phải chấp nhận, dù vạn bất đắc dĩ, các địa tầng kinh tế đang chuyển dịch và Hoa Kỳ đang mất dần uy lực tài chánh bên cạnh các khu vực ngày một thịnh vượng hơn trên địa cầu, nhất là Trung Quốc.
BÀI HỌC QUÁ KHỨ
Tuy nhiên, không phải mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái với TQ. Như trong một bài viết gần đây, nhan đề "No Reform or Relief in China" (Không Có Cải Cách hay Nương Tay ở Trung Quốc), Peter Kwong đã đưa ra một quan điểm rất bi quan về thực trạng TQ. Một bài bình luận rất hấp dẫn người đọc của James Fallows trong tạp chí Atlantic gần đây cũng đã mô tả TQ có thể lợi dụng thời vận kinh tế khó khăn hiện nay để phát động chương trình Một Bước Nhảy Vọt Lớn Mới, đồng thời cũng cảnh báo nhiều vấn nạn đang chờ đợi TQ. Chúng ta còn nhớ vào thập kỷ 1980s, Nhật Bản đã được ca tụng như siêu cường kinh tế mới của hành tinh. Một tác giả còn viết cả sách: "Japan as Number One: Lessons for America" (Nhật Bản Số Một: Những Bài Học cho Hoa Kỳ).
Rất có thể TQ sẽ trở thành cường quốc số một trong tương lai với nhiều bài học cho nước Mỹ. Tuy nhiên, với nền kinh tế quá nặng về xuất khẩu, TQ hiện nay lệ thuộc sâu xa vào số phận của nền kinh tế khập khiễng của Hoa Kỳ và sức mạnh của đồng dollar. Trong khi đảng Cộng Sản TQ, với hệ ý thức cách mạng từ lâu đã biến thái, ngày nay đang duy trì vai trò lãnh đạo dựa trên nền tảng hậu-Maoist khá xa xưa: "Làm Giàu là Vinh Quang" (to get rich is glorious) - và cố nhiên, trên quyền lực cưỡng chế của Nhà Nước. Chính quyền độc đảng TQ đang được buộc chặt vào thành tích "thành công". Nhưng ai dám đoan chắc tác động của cuộc đại suy thoái toàn cầu hay khủng hoảng dài lâu của chính Hoa Kỳ!
Đã hẳn, văn minh TQ quả thực độc nhất vô nhị và rất ấn tượng. Tuy nhiên, khác với tất cả các quốc gia khác, lịch sử TQ cũng đầy dẫy những biến động dấy loạn khắp nơi của người dân nông thôn, đe dọa nhiều vương triều.
Từ giặc Khăn Vàng do lãnh tụ một phái Taoist (Lão Giáo) năm 184 A.D., đến cuộc Cách Mạng do Mao Trạch Đông lãnh đạo trong hai thập kỷ 1930s và 1940s, lịch sử cũng đã chứng kiến rất nhiều cuộc dấy loạn như thế. Chẳng hạn, cuộc dấy loạn của dân quê làm sụp đổ nhà Minh vào giữa thế kỷ 17; cuộc nổi loạn Taiping (Thái Bình Thiên Quốc: 1850-1864), do lãnh tụ một nhánh Cơ Đốc - Hong Xiuquan - cầm đầu, xuýt khuynh đảo nhà Thanh trong hai thập kỷ 1850s và 1860s (với khoảng 20 triệu thương vong). Trên một kích cỡ tương đối nhỏ hơn, còn phải kể đến cuộc dấy loạn Boxer (1898-1901, bài ngoại và bài Cơ Đốc) vào cuối thế kỷ 19, và hơn nửa thế kỷ sau, cuộc cách mạng Mao Trạch Đông.
Giới lãnh đạo TQ ngày nay hiểu rất rõ lịch sử đất nước họ. Vì vậy, không ai mấy ngạc nhiên trước các biện pháp trấn áp phái Xa Luân Công gần đây. Giới lãnh đạo cũng hiểu rõ "Làm Giàu là Vinh Quang" và "Tỉ Suất Tăng Trưởng Cao" hiện nay cũng là một thứ tôn giáo thiêng liêng của Nhà Nước. Do đó, với hơn 20 triệu nhân công du cư thất nghiệp hiện nay do đại suy thoái kinh tế toàn cầu, và trong bối cảnh lịch sử luôn xáo động bởi dân quân các vùng nông thôn hẻo lánh trong hai thiên niên kỷ vừa qua, không ai có thể hoàn toàn loại bỏ mầm móng xáo trộn xã hội tình trạng nầy có thể đem lại trong tương lai.
Đó là chưa nói đến một vài vấn nạn khác đang làm giới lãnh đạo TQ phải luôn trăn trở.
Trước hết, chính sách một con cho mỗi cặp vợ chồng không sớm thì muộn sẽ đưa đến một dân tộc già cỗi (population vieille), với hậu quả tất yếu tăng gánh nặng cho các thế hệ mai sau, và một xã hội thiếu óc sáng tạo và thiếu tin tưởng ở tương lai.
Ngoài ra, mực sống quá chênh lệch giữa nông thôn và thành thị, hố cách biệt sâu rộng giữa các tỉnh duyên hải kỹ nghệ hóa và công nghệ tân tiến và các tỉnh nằm sâu trong lục địa với kinh tế kém phát triển và lạc hậu, cũng là những vấn đề nhức nhối không dễ giải quyết.
Trong mọi trường hợp, siêu cường TQ, với dân số 1.400 triệu, thịnh vượng hay khủng hoảng, vẫn luôn là cội nguồn của nhiều âu lo và trăn trở cho thế giới nói chung và các quốc gia láng giềng châu Á nói riêng.
Địa-kinhtế-chínhtrị thật trớ trêu và nghịch lý!
GS Nguyễn Trường
Ngày 14-5-2009
Irvine, California, USA
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Despite its severe impact on China's economy, the current financial crisis also creates opportunity for the country.
[2] Hide your capability and bide your time.
[3] Xin xem thêm bài Thế Giới Đơn Cực, Luật Quốc Tế và Toàn Cầu Hóa, Nguyễn Trường, tháng 5-2006, Vietsciences.free.fr.
[4] The (present) crisis called again for creative reform of the existing international reserve currency. A super-sovereign reserve currency managed by a global institution could be used to both create and control global liquidity. This will significantly reduce the risks of a future crisis and enhance crisis management capability.
[5] China's suggestion deserves some consideration.
[6] I don't think there is need for a global currency. The dollar is extraordinarily strong right now.
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 19:40:19 GMT -5
Khổng giáo và siêu cường Trung Quốc Nguyễn Trường 06/12/2008
Thế vận hội Bắc kinh đã bế mạc. Cơn bảo phê bình, biểu tình phản đối, những âu lo ô nhiễm ban đầu, hay hoan hô, ca ngợi các vận động viên giành được huy chương sau đó, đã cùng với thời gian giảm dần và trôi qua. Kế đó, việc phóng phi hành gia đi bộ lên không gian cũng đã thành công trong không khí hồ hởi, tự hào của quần chúng. Trong quá trình đó, hình ảnh Trung Quốc (TQ) cũng đã đổi thay. Lợi dụng các cuộc tranh tài để phân ranh giữa quá khứ của chính mình và những ước mong của thế giới về một tương lai tươi sáng hơn, TQ đã khéo léo giới thiệu với toàn cầu hình ảnh một quốc gia vừa thoát khỏi nghèo đói, chiến tranh, cách mạng, những tai ương tự tạo, để trỗi dậy như một siêu cường trên đường tiến tới phú cường và văn minh.
Vấn Nạn Lịch Sử Kể từ khi những chiến thuyền của Anh quốc xuất hiện ở biển Nam Hải vào giữa thế kỷ thứ 19, giới trí thức và lãnh đạo TQ đã phải thường xuyên đối phó với tình trạng yếu kém và luôn tìm cách phục hồi sự phú cường của xứ sở. Cuộc đấu tranh ngày một cấp thiết hơn khi Tây phương liên tục ép buộc TQ phải chấp nhận ký kết một chuổi nhiều hiệp ước bất bình đẳng. TQ đã dần dà mất hết tự tin sau khi đế quốc Nhật đánh bại nhà Thanh trong cuộc chiến Trung-Nhật 1895 và tiến chiếm nhiều vùng rộng lớn của TQ trong hai thập kỷ 1930s và 1940s. Nhật đã mở đầu một quá trình qua phân đen tối của TQ.
Vào đầu thế kỷ 20, nhiều sĩ phu thuộc khuynh hướng cải cách đã phải tự hỏi tại sao người phương Tây luôn đầy sức sáng tạo trong khi TQ vẫn luôn trì trệ tê liệt, và đã phải lên tiếng báo động: "TQ cần phải cải cách nếu không muốn tự vẫn".
Trong suốt thế kỷ 20, khát vọng nhìn thấy một TQ lấy lại uy thế và sự kính nể của thế giới đã trở thành một leitmotif ám ảnh trong tư duy chính trị. Thực vậy, tình trạng bất lực tủi hổ TQ phải trải nghiệm đã là một trong những động lực đưa đến cách mạng cực đoan của Mao Trạch Đông. Dưới bề mặt ý thức hệ và xáo trộn, điều mà Mao tìm kiếm là một sự phú cường - hay ít ra một bộ mặt phú cường xã hội chủ nghĩa mới - như phương cách đem lại cho người TQ một ý thức hãnh diện về xứ sở của mình. Mặc dù mang tính cực đoan và độc tôn, Mao đã cảm nhận và nắm bắt được khát vọng của người dân được thấy TQ phục hồi địa vị trung tâm và vĩ đại của đất nước.
Tạm gác tư tưởng chính trị của Mao qua một bên, TQ đã gần như hoàn toàn tái thống nhất đất nước với sự trở về của Hong Kong và Macao (ngoại trừ Đài Loan), và thành đạt một nhịp phát triển 10% GDP/năm trong gần hai thập kỷ vừa qua, trở thành một trong những đối tác thương mãi năng động nhất thế giới, hiện đại hóa lực lượng quân sự, phát động một chương trình không gian đầy tham vọng, và đăng cai thành công thế vận hội 2008. TQ không những đã đạt được một điểm mốc quan trọng trong hành trình một thế kỷ rưởi thoát khỏi đói nghèo, yếu kém, và đạt được phú cường, mà cũng đã thành công trong cuộc vận động giao tế ngoạn mục trong lịch sử thế giới.
Tuy nhiên, trong thành tích biểu trên đây của chính quyền TQ, người ta chưa thấy những thành tích đạo đức. TQ, đầy dãy những vi phạm nhân quyền trong quốc nội, giao hảo với nhiều chế độ bạo tàn trên thế giới - từ tướng Than Schwe ở Miến Điện, và Kim Jong Il ở Bắc Hàn, đến Omar al-Bashir ở Sudan, và Robert Mugabe ở Zimbabwe - cần một hồi sinh đạo đức tiếp theo sau hồi sinh kinh tế. Không may, những giáo điều Mác-Lê rõ ràng không mấy thích ứng để khích lệ nhân dân TQ trong nổ lực xây dựng một quốc gia hiện đại, cởi mở, và thịnh vượng.
Khổng Giáo và Nhân Trị Tuy nhiên, lịch sử TQ còn có một truyền thống văn hóa thuận lợi cho việc tái tạo những nguyên tắc và đạo lý thiết yếu cho việc điều hành quốc gia. Đúng vậy, TQ thừa hưởng một gia tài truyền thống cổ điển khổng lồ, có thể làm căn bản cho việc xây dựng một hình thức chính quyền mới vững chắc, mặc dù không hẵn hoàn toàn dân chủ, ít ra không dân chủ theo nghĩa Tây phương. Hơn thế nữa, Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ Tướng Ôn Gia Bảo cũng đã bắt đầu chắt lọc, vận dụng từ truyền thống quý giá đó những nhân tố tô điểm cho những ý niệm định hình guồng máy quản trị quốc gia.
Biểu hiện rõ nét nhất của khuynh hướng nầy là sự tái khẳng định gần đây tầm quan trọng của ý niệm hòa hợp trong một xã hội ổn định của tư tưởng Khổng giáo. Mặc dù lúc khởi đầu, Mao đã kiên quyết nhấn mạnh những mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp, với lời tuyên bố quyết liệt: "một cuộc cách mạng không phải là một bữa tiệc tối, mà là một cuộc nổi dậy, một hành vi bạo động nhờ đó một giai cấp lật đổ một giai cấp", Hồ Cẩm Đào đột nhiên khởi động một mục tiêu hòa bình hơn, nhằm hòa hợp các nhóm đối nghịch trong xã hội Trung Hoa.
Hồ Cẩm Đào đã công khai đưa ra ý niệm phi-Marxist nầy lần đầu trong một diễn văn năm 2005. Âu lo về tình trạng phân hóa trong xã hội TQ, ông tuyên bố:"Khổng Tử đã từng dạy, hòa hợp là một điều đáng trân quí". Vài tháng sau, ông lại lên tiếng khuyến cáo các đảng viên Cộng Sản phải "dồn hết khả năng xây dựng một xã hội hòa hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Từ đó, cụm từ "xã hội hòa hợp" đã trở thành một khẩu hiệu lan truyền thật nhanh chóng . Tháng 3 năm 2007, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo tiếp lời: "Từ Khổng Phu Tử đến Tôn Dật Tiên, văn hóa truyền thống của TQ chứa đựng nhiều thành tố quí giá". Và khắp TQ, cán bộ Đảng vồ vập ý niệm "xã hội hòa hợp", và chẳng bao lâu hầu như bất cứ ý tưởng, diễn đàn, hội nghị, lý thuyết hay dự án nào được giới thiệu hay liên hệ với câu thần chú mới mẻ đó đều được tán thưởng. Đó cũng là dấu hiệu cho thấy ở TQ, văn hóa "Lãnh Tụ Vĩ Đại" vẫn rất thịnh hành.
Ngay cả nhà đạo diễn trứ danh, đồng thời giám đốc Lễ Khai Mạc Thế Vận Hội, Dương Nghệ Mưu, cũng không cưởng nổi câu khẩu hiệu thần chú vừa nói. Như khán giã truyền hình toàn cầu đã được thấy qua màn ảnh nhỏ, họ Dương đã trang trí trên sàn gạch từ "Hòa [Hợp]" như một phần dàn dựng hoành tráng, sống động và kiêu sa kiểu Las Vegas.
Học thuyết Khổng Tử, đã từng được sử dụng làm cơ sở cho thuật trị nước của các vua chúa TQ, nhấn mạnh đến hòa hợp. Thực vậy, ý niệm lịch sử Thuận Hòa vẫn còn vang vọng đối với người TQ. Nhưng Khổng giáo cũng nhấn mạnh khía cạnh đạm bạc, làm việc thiện, công lý và ngay cả giá trị của những ý kiến dị đồng. Khổng Tử nói với Mạnh Tử: "Giàu có, danh vọng mà thiếu công lý cũng chỉ là phù vân".
Trong triết lý chính trị Khổng giáo, chính danh có lẽ là đức tính quan trọng nhất của người lãnh đạo. Và vị Vạn Thế Sư Biểu xem chính danh là cách ứng xử của người quân tử, lý tưởng hóa ý niệm lãnh đạo tốt tương tự với ý niệm triết gia-quân vương (philosopher-king) của Plato.Theo lời Khổng Tử, "lãnh đạo tốt" phải đồng nghĩa với "lãnh đạo chính danh". Nếu Vua chính danh, dân sẽ không xằng bậy.
Theo Không Tử, quân tử lãnh đạo không bằng luật pháp khắt khe, cưởng chế và độc tài, mà bằng thiện tâm, đức tính tốt, và nêu gương sáng. "Nếu người lãnh đạo chỉ muốn làm việc tốt, người dân sẽ tốt. Uy lực đạo đức của người quân tử tựa như gió, uy lực đạo đức của thần dân tựa như cỏ. Gió thổi, cỏ sẽ uốn theo".
Khổng Tử tin, chúng ta có thể hiểu được thế nào là uy lực đạo đức khi nghiên cứu Tứ Thư và Ngũ kinh và tìm hiểu thuật trị dân, ứng xử của các vị minh quân như Vua Nghiêu Vua Thuấn. Nhà lãnh đạo lấy đức độ để trị dân cũng giống như sao Bắc Đẩu, đứng yên ở chân trời trong khi các tinh tú khác phải quần tụ chung quanh.
Về nhiều phương diện, cách ứng xử đức độ căn bản của một lãnh đạo khôn ngoan theo quan niệm của Khổng Tử có nhiều điểm tương đồng với học thuyết nhân bản (humanism) của các nhà tư tưởng Pháp thời Khai Sáng. Khác với Mao tin ở giá trị giai cấp thay vì phổ quát, Khổng Tử và các tư tưởng gia Thời Khai Sáng tin có những quyền và giá trị phổ quát bẩm sinh trong mỗi người. Người quân tử, trong Khổng giáo, không bao giờ rời xa nhân bản, dù phải trải qua nhiều thử thách, gian truân.
Giới lãnh đạo Bắc Kinh hiện nay hình như đã cảm nhận: sinh hoạt chính trị ở TQ đã rơi vào một khoảng trống đạo đức. Họ cũng đã chứng tỏ sẵn sàng nhìn về quá khứ của TQ, thay vì thế giới bên ngoài, để tìm phương thức cứu chữa. Xét cho cùng, Khổng giáo là truyền thống đặc thù của TQ và đã in rõ nét trong mả văn hóa di truyền DNA của người Hoa; chấp nhận bất cứ một lý thuyết chính trị Tây phương nào, nhất là ý niệm dân chủ, cũng hàm chứa một sự đầu hàng chủ nghĩa ngoại lai.
Chủ Thuyết Pháp Trị Vốn luôn đặt nặng "sức mạnh mềm" của đạo đức thay vì "sức mạnh cứng" của quyền cưởng chế, chủ thuyết lý tưởng của Khổng giáo nhiều khi không đem lại một ý thức hệ hữu hiệu cho các giới lãnh đạo cứng rắn, đặc biệt trong những thời loạn ly, chia rẽ. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi TQ cổ xưa cũng đã cùng lúc khai sinh nhiều trường phái tư tưởng chính trị trái ngược. Một trong những trường phái nầy là Trường Phái Pháp Trị hay Phái Pháp Gia. Phái Pháp Gia - đặt nặng trung ương tập quyền, lãnh đạo mạnh mẻ, luật pháp và chế tài nghiêm minh - là chủ thuyết đối lập với Khổng Giáo.
Thay vì niềm tin "nhân sinh tánh bổn thiện", và vì vậy, luôn theo đuổi gương tốt, Phái Pháp Gia tin bản tính con người là xấu, thiếu can đảm, yếu hèn. Vì vậy, họ xem những nhà lãnh đạo đặt niềm tin ở đức độ - như phương cách duy trì trật tự xã hội trong khi con người bản chất vốn ác và bất trị - là ngây thơ. Thay vì đức độ, Phái Pháp Gia tin ở luật pháp, một hệ thống thưởng phạt nghiêm minh, đáng sợ và đàn áp. Họ xem nhẹ khả năng cải hóa của các nhà lãnh đạo gương mẩu trị dân một cách nhân đạo, qua cách ứng xử phản ảnh đạo đức Khổng Giáo. Đối với họ, điều đó chỉ là triết lý suông.
Như Hàn Phi Tử, một triết gia thế kỷ thứ ba trước công nguyên và là người chủ trương pháp trị nổi danh, đã viết:" Nhà lãnh đạo sáng suốt không bàn tới những việc làm đầy nhân tính và đức độ, và cũng không nghe theo lời của các học giả". Hàn Phi hiểu "học giả" theo nghĩa "quân tử" của Khổng giáo. Ông cũng viết: "Người trị nước không quan tâm đến đức độ mà chỉ quan tâm đến luật pháp". Và ông hiểu luật theo nghĩa trừng phạt hơn là công lý. Hình thức Machiavellianism nầy của TQ khuyến cáo các chính trị gia không nên tin tưởng bất cứ ai, và phải che dấu mình bằng những màn chắn bí mật. "Từ chỗ ẩn trong bóng tối, quan sát những lỗi lầm của người khác", Hàn Phi viết. "Thấy nhưng đừng tỏ ra thấy; lắng nghe nhưng đừng để lộ đang lắng nghe; biết nhưng không để ai biết mình biết. Che dấu mọi hành tung và che dấu mọi nguồn tin, để người dưới không thể dò tìm cội nguồn hành động của bạn. Đừng tỏ ra khôn ngoan và có khả năng để kẻ dưới không thể đoán bạn đang toan tính gì".
Thuật trị nước của Phái Pháp Gia đã trở thành nguồn cảm hứng cho Tần Thủy Hoàng, vị quân vương đầu tiên đã thống nhất TQ - lăng tẩm của ông gồm cả hình tượng một đội lính canh nổi tiếng, tượng trưng cho ý chí bám chặt lấy quyền lực ngay cả cho đời sau.
Chính Hàn Phi là một trong những người nhắc đến ý niệm phú cường sớm nhất. Một lãnh đạo anh minh phải biết nắm vững nghệ thuật làm giàu và quyền lực, Hàn Phi tuyên bố , nêu rõ một trong những trách nhiệm căn bản của người cầm quyền là làm giàu cho Nhà Nước và tăng cường sức mạnh quân sự.
Một quan niệm về thuật trị nước phi đạo đức như thế là một phản đề đối với chủ thuyết đạo đức của Khổng Tử. Khổng Phu Tử đã nhận xét một cách khinh bỉ: trong khi người quân tử luôn trọng chính danh, kẻ tiểu nhân chỉ biết cầu lợi. Thực vậy, đồ đệ của Khổng Tử luôn coi thường cái mà sử gia nổi tiếng của Harvard, trong tác phẩm "In Search of Wealth and Power: Yen Fu and the West", mô tả như thứ triết lý phú cường tàn nhẫn và vô lương tâm của Phái Pháp Gia.
Cố nhiên, Hàn Phi và Phái Pháp Gia cũng khinh thường Khổng Phu Tử không kém. Hàn Phi viết: " Ngày nay, đồ đệ của Khổng Tử, khi cố vấn về thuật trị nước, không hề bàn đến phương cách đem lại trật tự hiện giờ, mà chỉ đề cao sự thành đạt một trật tự tốt đẹp trong quá khứ. Với lời nói bọc đường, đồ đệ của Khổng Tử nói: "Nếu ngài nghe theo lời chúng tôi, ngài sẽ có thể trở thành lãnh tụ của tất cả các bộ lạc phong kiến". Các vị cố vấn nầy chỉ là những phù thủy và thầy tu".
Mặc dù nhiều trường phái tư tửơng khác cũng đã phát triển ở TQ cổ xưa, như Phật Giáo và Lão Giáo, Phái Pháp Gia và Khổng Giáo luôn mang tính thực tiển, do đó, giữa hai phái đã có một quan hệ âm-dương đặc biệt, với ảnh hưởng của mỗi phái lúc lên cao khi xuống thấp qua các triều đại kế tiếp khác nhau. Kết quả là tác động hổ tương đã đem lại cho các triều đại đương nhiệm một mô hình hỗn hợp mang tính vừa chính đáng đạo đức vưà thực tiển chính trị - một thuật trị nước đặc thù TQ, thấm nhuần một sức sống nhị nguyên sinh động.
Trong sáu thập kỷ dưới chế độ độc tài theo định hướng thị trường và xã hội chủ nghĩa vừa qua, TQ đã dựa trên cảm hứng của Hàn Phi và Phái Pháp Gia nhiều hơn là Phái Khổng Giáo. Những nhà cách mạng Leninist kiểu Mao Trạch Đông đã bị ảnh hưởng và mê hoặc bởi Tần Thủy Hoàng. Tư tưởng Marxist-Leninist-Mao Trạch Đông - vay mượn nhiều yếu tố từ Phái Pháp Gia - hình như đã là con đường đưa TQ đi từ chiến tranh, hổn loạn đến phú cường nhanh nhất.
Nhưng hiện nay, khi địa vị trung tâm, uy tín, cũng như phú cường, đã đến trong tầm tay, giới lãnh đạo TQ đang đối mặt với một thời vận mang tính quyết định. Trong hành trình tiến tới địa vị một đại cường, TQ - sau khi đã gây ấn tượng với thế giới bên ngoài với thành tích phát triển kinh tế - đang bước vào một giai đoạn lịch sử mới đòi hỏi phải đa dạng hóa các mục tiêu theo đuổi xứng danh một siêu cường . Trong trường hợp TQ, một trong những thành tố quan trọng nhất của sự vĩ đại còn thiếu vắng, đó chính là uy lực đạo đức.
Sự thiếu vắng đó ngày một rõ nét hơn đối với giới lãnh đạo TQ. Một phương cách bổ khuyết là họ phải ứng xử theo đúng truyền thống Khổng Giáo hơn là Pháp Gia. Thực vậy, với việc chính quyền TQ cho thành lập nhiều Viện Khổng Học trên thế giới, các phương tiện truyền thông và truyền hình giải thích và đề cao lời dạy của đấng Vạn Thế Sư Biểu, và một học giả lên tiếng hậu thuẫn đổi tên nước thành Cộng Hòa Khổng Giáo Xã Hội Chủ Nghĩa, hình như thời cơ thực sự đã đến.
Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây một sự kiện lố bịch và mang tính đạo-đức-giả thường gặp trong sinh hoạt thế giới hiện nay. Tây Phương nói chung, đặc biệt là Hiệp Chủng Quốc, luôn rao giảng đạo đức - tự do, dân chủ, nhân quyền...- cho các nước khác, kể cả TQ. Tây phương và Hoa Kỳ cũng nên nhìn lại lịch sử đế quốc và chế độ nô lệ, để tự điều chỉnh cách ứng xử hợm hỉnh của mình trên khắp thế giới, đặc biệt là trong thế giới thứ ba và các xứ cựu thuộc địa . Thời đại "Thành Phố Trên Đỉnh Đồi" và "Ngọn Hải Đăng" đã lùi xa vào dĩ vãng. Trong nhiều thập kỷ gần đây, người Mỹ cũng đã tận mắt chứng kiến uy thế đạo đức của mình ngày một mờ nhạt. Trên bình diện nầy, Hoa kỳ và TQ cũng chỉ là hai người bạn đồng hành cùng hội cùng thuyền.
Liệu Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, cả hai đều ưa thích Tứ Thư, Ngũ Kinh, có thể nào trở thành hai quân tử thời nay bằng cách vay mượn triết lý Khổng Giáo; liệu các giá trị đạo đức có thể nào được hồi sinh - từ văn hóa cổ truyền đã bị Mao ruồng bỏ - dưới hình thức một Tân Khổng Giáo cập nhật, là một điều, vào thời điểm nầy, không ai có thể đoan chắc. Nhưng sự kiện TQ hiện nay đang đặc biệt lưu tâm đến Khổng Giáo, cho thấy: chính người TQ đã bắt đầu cảm nhận được sự trống vắng đạo đức trong cách ứng xử của chính quyền.
Vì vậy, khi TQ nhìn lại Thế Vận Hội và khi Hoa Kỳ đón chờ một chính quyền mới, cả hai thấy mình đang ở trong một trạng huống giống nhau. Cả hai đang đứng trước thách đố phải tái khám phá, trong những giá trị truyền thống, những suối nguồn đạo đức đủ để tăng cường vốn liếng của sự phú cường - sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao - với yếu tố tế nhị nhưng tuyệt đối thiết yếu cho một siêu cường vĩ đại.
Trong tác phẩm In Search of Wealth and Power xuất bản cách đây gần nửa thế kỷ, Benjamin Schwartz đã thấy rõ tình trạng bối rối khó xử đang đối diện TQ và Hoa Kỳ hiện nay: "Vấn đề tương quan giữa hệ thống giá trị Faustian chạy theo tiền tài, quyền lực, phú cừơng, và sự thể hiện những giá trị chính trị và xã hội, cả những giá trị nhân bản đích thực, vẫn còn là một vấn nạn đối với cả hai quốc gia".
Irvine, California
28-10-2008
|
|
|
Post by vietnam on Aug 16, 2009 21:13:34 GMT -5
|
|