|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:41:04 GMT -5
Quan Doi Trung Cong
I. QUÂN SỐ:
1. Lực lượng thường trực: - Lục quân: Khoảng 1.600.000, trong đó 800.000 lính nghĩa vụ - Không quân: 400.000 - Hải quân: Khoảng 255.000, trong đó 40.000 lính nghĩa vụ - Hải quân đánh bộ: Khoảng 10.000
2. Lực lượng dự bị: Khoảng 800.000.
3. Lực lượng khác: - Lực lượng tên lửa chiến lược (Pháo binh số II): trên 100.000 - Lực lượng bán quân sự: 3.969.000. II. TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG:
1. Lục quân:
- Cụm tập đoàn quân: 18, với biên chế tổ chức khác nhau, tổng cộng: 1 lữ BBCG, 1 lữ chống tăng, 12 lữ bọc thép, 12 lữ pháo phòng không, 14 lữ pháo, 15 f bộ binh, 2 f đổ bộ tiến công, 22 lữ bộ binh mô tô hoá, 24 f bộ binh mô tô hoá, 3 f BBCG, 4 e chống tăng, 7 f pháo, 9 f bọc thép, 9 lữ phòng không (SAM/pháo phòng không). - Pháo binh/không quân/phòng thủ bờ biển. - Đại quân khu: 7. - Bộ chỉ huy quân sự tỉnh: 28. - Sư đoàn độc lập: 8. ĐẠI QUÂN KHU THẨM DƯƠNG- (Phía Đông Bắc): khoảng 250.000 quân: - Gồm các quân khu: Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh) - Lục quân: 3 tập đoàn quân (số 16, số 40, số 39): 2 f bọc thép, 1 f cơ giới, 4 f mô tô, 1 f pháo, 2 lữ bọc thép, 5 lữ mô tô, 3 lữ pháo, 1 lữ SAM/pháo phòng không, 3 lữ pháo phòng không, 1 e chống tăng - Không quân: Quân đoàn không quân hỗ hợp số 1; 3 f tiêm kích (số 1, số 21, số 30); 1 f cường kích (số11) - Lực lượng tên lửa chiến lược: 1 lữ độc lập, 1 căn cứ thử nghiệm. ĐẠI QUÂN KHU BẮC KINH- (Phía Bắc): khoảng 300.000 quân: - Gồm các quân khu: Bắc Kinh, căn cứ Thiên Tân, Nội Mông, Hà Bắc, Sơn Tây - Lục quân: 3 tập đoàn quân (số 27, số 38, số 65): 2 f bọc thép, 1 f cơ giới, 5 f mô tô, 1 f pháo, 3 lữ bọc thép, 7 lữ mô tô, 4 lữ pháo, 2 lữ SAM/pháo phòng không, 3 lữ pháo phòng không, 1 e chống tăng - Không quân: Quân đoàn không quân hỗn hợp số 10; 3 f tiêm kích (số 7, số 15, số 24); 1 f vận tải (số 34). - Lực lượng tên lửa chiến lược: 1 lữ, 1 căn cứ huấn luyện. ĐẠI QUÂN KHU LAN CHÂU- (Phía Tây): khoảng 220.000 quân: - Gồm các quân khu: Hồi Ninh Hạ, Thanh Hải, Tân Cương, Nam Tân Cương, Thiểm Tây, Cam Túc - Lục quân: 2 tập đoàn quân (số 21, số 47): 1 f bọc thép, 2 f bộ binh mô tô hoá, 1 f pháo, 1 lữ bọc thép, 2 lữ bộ binh mô tô hoá, 1 lữ pháo, 1 lữ pháo phòng không, 1 e chống tăng - Không quân: 2 f ném bom (số 25, số 36); 2 f tiêm kích (số 6, số 37) - Lực lượng tên lửa chiến lược: 1 lữ tên lửa, 1 căn cứ thử nghiệm vũ khí hạt nhân ĐẠI QUÂN KHU THÀNH ĐÔ- (Phía Tây Nam): khoảng 180.000 quân: - Gồm các quân khu: Tứ Xuyên, Quí Châu, Vân Nam, Tây Tạng, căn cứ Chongqing) - Lục quân: 2 tập đoàn quân (số 14, số 13): 4 f bộ binh mô tô hoá, 1 f pháo, 2 lữ bọc thép, 1 lữ pháo, 2 lữ pháo phòng không - Không quân: + 5 f tiêm kích: số 16, số 15 (4 e), số 27 (3 e), số 33 (3 e) + 1 e trực thăng + Phòng không: 1 lữ pháo phòng không, 3 e pháo phòng không, 3 e tên lửa phòng không, 4 e rađa - Lực lượng tên lửa chiến lược: 1 lữ độc lập, 1 căn cứ thử nghiệm
ĐẠI QUÂN KHU QUẢNG CHÂU- (Phía Nam): khoảng 180.000 quân: - Gồm các quân khu: Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam - Lục quân: 2 tập đoàn quân (số 41, số 42): 1 f BBCG, 1 f bộ binh mô tô hoá, 1 f pháo, 2 lữ bọc thép, 1 lữ pháo, 1 lữ SAM/pháo phòng không, 1 lữ pháo phòng không + Tại Hồng Kông: khoảng 7.000 quân: 3 lữ bộ binh (3 e bộ binh, 1 e BBCG, 1 e pháo, 1 d công binh); một đơn vị trực thăng - Không quân: 1 quân đoàn không quân tiêm kích (số 7) gồm 3 f tiêm kích (số 2, số 18, số 42); 2 f tiêm kích (số 9, số 35), 1 f vận tải (số 13), 1 f ném bom (số ; 1 e ném bom độc lập; 1 e trinh sát; 1 e lên thẳng; 1 quân đoàn đổ bộ đường không (số 15) gồm 3 f + Phòng không: 3 lữ pháo phòng không, 4 e pháo phòng không, 4 e tên lửa phòng không, 5 e rađa - Lực lượng tên lửa chiến lược: 1 lữ độc lập.
ĐẠI QUÂN KHU TẾ NAM - (khu vực trung tâm): khoảng 190.000 quân: - Gồm các quân khu: Sơn Đông, Hà nam - Lục quân: 3 tập đoàn quân (số 20, số 26, số 54): 1 f bọc thép, 1 f BBCG, 3 f bộ binh mô tô hoá, 1 f pháo, 1 lữ bọc thép, 1 lữ BBCG, 4 lữ bộ binh mô tô hoá, 2 lữ pháo, 2 lữ SAM/pháo phòng không, 1 lữ pháo phòng không, 1 e chống tăng - Không quân: 1 f cường kích (số 5), 2 f tiêm kích (số 12, số 19) - Lực lượng tên lửa chiến lược: 1 lữ tên lửa
ĐẠI QUÂN KHU NAM KINH - (Phía Đông): khoảng 250.000 quân: - Gồm các quân khu: Giang Tô, Triết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây, An Huy, căn cứ Thượng Hải - Lục quân: 3 tập đoàn quân (số 1, số 31, số 12): 2 f bọc thép, 1 f BBCG, 3 f bộ binh mô tô hoá, 1 f pháo, 1 lữ bọc thép, 4 lữ bộ binh mô tô hoá, 2 lữ pháo, 2 lữ SAM/pháo phòng không, 1 lữ pháo phòng không, 1 e chống tăng - Không quân: 1 quân đoàn không quân tiêm kích (số ; 4 f tiêm kích (số 26, số 14, số 29, số 3); 1 f cường kích (số 28); 1 f ném bom (số 10) - Lực lượng tên lửa chiến lược: 1 lữ; 1 e độc lập. 2. Không quân: - 32 f : mỗi f có 3 e, mỗi e có 4 phi đội (mỗi phi đội có 10-15 máy bay), 1 đơn vị bảo dưỡng, một số máy bay vận tải và huấn luyện. - Số lượng các sư đoàn không quân ở các quân khu khác nhau, nhiều nhất ở vùng Đông-Nam. 3. Hải quân: HẠM ĐỘI ĐÔNG HẢI: - Tương ứng đại quân khu Nam Kinh ra phía biển, gồm 7 khu vực phòng thủ ven biển - 1 bộ chỉ huy đóng tại Hồ Dongqian - Các căn cứ tại Phúc Kiến, Zhousnan, Hồ Dongqian - Tàu ngầm: 2 lữ (số 22, 42) - Tàu nổi: 1 lữ tàu khu trục tên lửa; 1 lữ tàu hộ vệ tên lửa;1 lữ tàu phóng lôi, 2 lữ tàu tuần tiễu, 5 lữ tàu đổ bộ, - Hàng không: 1 f ném bom, 2 f tiêm kích, 1 d vận tải, 1 d trinh sát, - 1 lữ HQĐB
HẠM ĐỘI BẮC HẢI: - Tương ứng với đại quân khu Thẩm Dương, Bắc Kinh, Tế Nam, và ra phía biển, gồm 9 khu vực phòng thủ ven biển - 1 bộ chỉ huy đóng tại Thanh Đảo - Các căn cứ hỗ trợ bảo đảm đóng tại Lư Sơn - Tàu ngầm: 4 lữ (số 1, 2, 12, 62-thử nghiệm) - Tàu nổi: 1 lữ tàu khu trục tên lửa; 3 lữ tàu phóng lôi; 3 lữ tàu tuần tiễu; - Hàng không: 1 f ném bom-rải mìn; 2 f tiêm kích; 1 d độc lập; 2 trường cao đẳng bay không quân hải quân (số1, 2) -1 lữ HQĐB
HẠM ĐỘI NAM HẢI: - Tương ứng với đại quân khu Quảng Châu (từ Dongshan tới biên giới Việt Nam) và ra phía biển (bao gồm cả vùng quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa) - 1 bộ chỉ huy đóng tại Quảng Châu - Các căn cứ đóng tại Du Lâm, Quảng Châu, Zuanjiang - Tàu ngầm: 2 lữ (số 32, 33) - Tàu nổi: 2 lữ tàu khu trục; 1 lữ hộ vệ tên lửa; 1 lữ tàu tuần tiễu-phóng lôi (1 d phóng lôi, 1 d tuần tiễu-phóng lôi, 1 d tuần tiễu); 1 lữ tàu tuần tiễu (1 d tuần tiễu, 1 d quét mìn, 1 d chống ngầm); 1 lữ tàu tuần tiễu (1 d tuần tiễu, 1 d chống ngầm, 1 d quét mìn); 1 lữ vận tải đổ bộ; 1 d chống ngầm độc lập; 1 d tàu khu trục tên lửa; 9 d tàu tuần tiễu - 4 d tên lửa đất đối biển; 3 f bảo vệ bờ biển; 4 d pháo bảo vệ bờ biển; 4 d rađa đối biển.; 2 d pháo phòng không - Hàng không: 1 f ném bom; 2 f tiêm kích (số 8, 9); 1 d vận tải; 2 d rađa - 2 lữ HQĐB (số 1, 164) 4. Hải quân đánh bộ:
- 3 f lục quân (có cả vai trò đổ bộ) - 3 lữ bộ binh hải quân, mỗi lữ gồm: 1 d bộ binh, 1 d phòng không, 1 d BBCG (bọc thép), 2 d trinh sát đổ bộ, 2 d pháo binh, 2 d tăng. 5. Lực lượng khác:
LỰC LƯỢNG TÊN LỬA CHIẾN LƯỢC (PHÁO BINH số II): - Biên chế trong 20 lữ thuộc 6 tập đoàn quân. Các đơn vị khác nhau về dạng và số lượng tên lửa. - 1 căn cứ huấn luyện - 1 căn cứ thử nghiệm. LỰC LƯỢNG BÁN VŨ TRANG: 1.500.000 quân CẢNH SÁT VŨ TRANG (thuộc Bộ công an): khoảng 1.500.000 quân - 45 f; 6 e
BIÊN PHÒNG: khoảng 100.000 quân
THÔNG TIN LIÊN LẠC: trên 69.000 quân
AN NINH NỘI ĐỊA: khoảng 800.000
DÂN BINH: 1000 e
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:42:20 GMT -5
II. TRANG BỊ CHỦ YẾU:
1. Lục quân:
TĂNG: trên 8580 - Chủ lực: 7580, gồm: 1200 Type-96, 1000 Type-88A/Type-88B, 80 Type-98A, 300 Type-79, trên 5000 Type-59-II/Type-59-I - Hạng nhẹ: 1000, gồm: 400 Type-62/Type-62-I; 200 Type-63, 400 Type-63A
XE CHIẾN ĐẤU BỘ BINH BỌC THÉP: 1000 Type-86A WZ-501
XE CHỞ QUÂN BỌC THÉP: trên 3500
- Bánh xích: 2600, gồm: 2300 Type-63-II/Type-63-I/Type-63A/Type-63C; 300 Type-89-I
- Bánh hơi: trên 900, gồm: 200 Type-77-II, trên 600 Type-92, 100 WZ-523
PHÁO: 17.700
- Kéo: 14.000, gồm: 13850 Type-54 152mm/Type-54-I 122mm/ Type-59 (M-19440) 100mm/Type-59 (M-46) 130mm/Type-59-I 130mm/Type-60 (D-74) 122mm/Type-66 (D-20) 152mm/ Type-83 122mm; 150 Type-88 WAC-21 155mm
- Tự hành: 1200 + 122mm: 700, gồm: 200 Type-70-I, 500 Type-89 + 152mm: 500 Type-83
- Pháo/cối: 100 2S23 NONA-SVK
- Giàn phóng rốckét: 2400 Type-70 (tự hành) 130mm/Type-81 122mm/Type-82 130mm/Type-83 273mm/Type-89 (tự hành) 122mm/ Type-96 (WS-1) 320mm
- Cối: + 81mm: một số Type-W87 + 82mm: một số Type-53 (M-37)/Type-67/Type-82 tự hành/ Type-82 + 100mm: một số Type-71 + 120mm: một số Type-55 (có cả tự hành) + 160mm: một số Type-56 (M-160)
CHỐNG TĂNG:
- Tên lửa: 7200, gồm: 7176 HJ-73A/HJ-73B/HJ-73C/HJ-8A/HJ-8C/HJ-8E; 24HJ-9 Red Arrow 9
- Súng chống tăng: + 105mm: một số Type-75 + 75mm: một số Type-56 + 82mm: một số Type-65 (B-10)/type-78
- Rốckét: một số Type-70-1 62mm
- Pháo: trên 300 +100mm: một số Type-73 (T-12)/Type-86 + 120mm: 300 Type-89 tự hành
TRỰC THĂNG:
- Tìm kiếm cứu nạn: 7SA-321 Super Frelon
- Chống tăng: 31 WZ-9
- Tiến công: 8 SA-342 Gazelle
- Hỗ trợ bảo đảm: 260, gồm: 53 AS-350 Ecureuil; 45 Mi-171; 50 Mi-171V5; 3 Mi-6 Hook; 19 S-70C2 Black Hawk; 40 MI-17 (Mi-8MT) Hip H; 50 Mi-8T Hip
- Đa dụng: trên 69, gồm: 61 AS-365 Dauphin 2; 8 SA-316 Alouette III; một số Z-10
PHƯƠNG TIỆN BAY KHÔNG NGƯỜI LÁI: - Một số ASN-104/ASN-105/ASN-206/W-50
PHÒNG KHÔNG: - SAM: trên 284, gồm: 24 HQ-61A Red Leader; 200 HQ-7A (tự hành); 60 SA-15 Gauntlet (Tor-M1) - Mang vác: một số HN-5A/HN-5B Hong Nu; một số FN-6/QW-1/QW-2 - Pháo: trên 7700, gồm: 50 Type-90 35mm; 7650 Type-55 37mm/Type-56 KS-12 85mm/Type-59 (KS-19) 100mm/Type-59 (S-60) 57mm/Type-65 37mm/Type-74 37mm/ Type-80 23mm/ Type-80 57mm tự hành/Type 85 25mm/Type-88 tự hành 37mm
RAĐA (trên bộ): - một số Cheetah; một số RASIT; một số Type-378
TÊN LỬA: - Chiến thuật đất đối đất: một số HY-2(CSS-C-3) Seerseeker; một số HY-4 (CSS-C-7) Sadsack Logged
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:45:39 GMT -5
Hai Quan Trung Cong3. Hải quân: TÀU NGẦM: - Chiến lược: 1 tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn lớp Hạ mang 12 tên lửa chiến lược SLBM JL-1 (CSS-N-3) - Chiến thuật: 57 + Tàu ngầm hạt nhân tiến công: 4 lớp Hán Type 091 (mang tên lửa SSM YJ-82, 6 ống phóng ngư lôi 533mm) + Tàu ngầm diezel tiến công: 1 lớp Romeo Type S5G (mang 6 tên lửa YJ-1, 8 ống phóng ngư lôi 533mm) + Tàu ngầm tuần tiễu có khả năng chống ngầm: 51, gồm: 3 lớp Kilo (mỗi tàu mang 6 ống phóng ngư lôi 533mm); 3 lớp Minh (với ống phóng ngư lôi 533mm); 20 lớp Romeo (mỗi tàu mang 8 ống phóng ngư lôi 533mm); 9 lớp Tống (mang tên lửa đối hạm YJ-2, 6 ống phóng ngư lôi 533mm) + Tàu ngầm diezel: 1 lớp Golf (thử nghiệm tên lửa SLBM) TÀU NỔI CHỦ YẾU: - Khu trục: DDG: 27, gồm: + 2 Quảng Châu, mang 1 trực thăng chống ngầm Ka-28 Helix A; 4 khẩu đội tên lửa đối hạm YJ-83, 2 ống phóng ngư lôi 324mm, 2 hệ thống phóng tên lửa đối không SA-N-7, 1 pháo 100mm + 3 Hàng Châu, mang 1 trực thăng chống ngầm Ka-28 Helix A hoặc Z-9C (AS-565SA) Panther, 2 tên lửa SAM SA-N-7 , 2 ống phóng ngư lôi chống ngầm 533mm, 2 khẩu đội tên lửa đối hạm SS-N-22, 2 RBU 1000 Smerch 3, 2 pháo 130mm + 2 Lan Châu, mang 2 trực thăng chống ngầm Ka-28 Helix A, 2 khẩu đội tên lửa đối hạm YJ-62, 2 ống phóng ngư lôi 324mm, 8 hệ thống phóng tên lửa đối không HQ-9 SP, 1 pháo 100mm + 1 Lữ Đại III với 2 ống phóng ngư lôi chống ngầm 324mm, 4 hệ thống phóng tên lửa đối hạm YJ-1, 2 pháo 130mm + 11 Lữ Đại Type 051; với 2 ống phóng ngư lôi chống ngầm 324mm, hệ thống phóng tên lửa đối hạm YJ-1/HY-2, 2 FQF 2500, 2 pháo 130mm + 1 Lữ Hải mang 2 trực thăng chống ngầm Ka-28 Helix A hoặc Z-9C (AS-565SA) Panther, 2 ống phóng ngư lôi chống ngầm 324mm, 8 tên lửa đối không HQ-7, 4 hệ thống phóng tên lửa đối hạm YJ-83, 1 pháo 100mm + 2 Lữ Hồ mang 2 trực thăng chống ngầm Z-9C (AS-565SA) Panther, 2 ống phóng ngư lôi chống ngầm 324mm, 1 hệ thống phóng tên lửa đối không HQ-7, 4 hệ thống phóng tên lửa đối hạm YJ-83, 2 FQF 2500, 1 pháo 100mm + 1 Thẩm Dương mang tên lửa đối không SA-N-6 dự kiến đưa vào sử dụng năm 2006 + 2 Lữ Đại cải tiến mang 2 trực thăng chống ngầm Z-9C (AS-565SA) Panther, 2 ống phóng ngư lôi chống ngầm 324mm, 2 hệ thống phóng tên lửa đối hạm HY-2, 1 pháo 130mm + 2 Lữ Đại cải tiến Type-051DT mang 1 hệ thống phóng tên lửa đối không Crotale, 2 hệ thống phóng tên lửa đối hạm YJ-1, 2 FQF 2500, 2 pháo 130mm - Frigát: Mang tên lửa có điều khiển: 44, gồm: + 14 Giang Hồ Type I mỗi tàu mang 1 hệ thống phóng tên lửa đối hạm SY-1 (CSS-N-1), 2 RBU 1200, 1 pháo 100mm + 3 Giang Hồ Type III mỗi tàu mang 8 tên lửa đối hạm YJ-1 (CSS-N-4), 4 RBU 1200, 2 pháo 100mm + 1 Giang Hồ Type IV mang 1 trực thăng chống ngầm Z-9C (AS-565SA) Panther, 1 hệ thống phóng tên lửa đối hạm SY-1 (CSS-N-1), 4 RBU 1200, 1 pháo 100mm + 4 Giang Vệ I mang 2 trực thăng chống ngầm Z-9C (AS-565SA) Panther, 2 hệ thống phóng tên lửa đối hạm YJ-8, 1 hệ thống phóng tên lửa đối không HQ-61 (CSA-N-2), 2 RBU 1200, 1 pháo 100mm + 10 Giang Vệ II mang 2 trực thăng chống ngầm Z-9C (AS-565SA) Panther, 1 hệ thống phóng tên lửa đối không HQ-7, 2 hệ thống phóng tên lửa đối hạm YJ-83, 2 RBU 1200, 1 pháo 100mm + 2 Ma'anshan mang 1 trực thăng chống ngầm Ka-28 Helix A hoặc Z-9C (AS-565SA) Panther, 1 hệ thống phóng tên lửa đối không HQ-7, tên lửa đối hạm YJ-83, 2 ống phóng ngư lôi 324mm, 1 pháo 100mm - Tàu tuần tiễu và chiến đấu ven biển: 254: + Tàu tuần tiễu cao tốc mang tên lửa: 55, gồm: 14 Houku mang 2 tên lửa SSM SY-1 (CSS-N-1); 16 Houxin mang 4 tên lửa YJ-1 (CSS-N-4); 7 Huang mang 6 tên lửa YJ-1 (CSS-N-4); 15 Hoàng Phong/Hola mang khoảng 4 tên lửa SY-1 (CSS-N-1) + Tàu tuần tiễu cao tốc ven biển: 98 Hải Nam + Tàu tuần tiễu ven biển: 21, gồm: 2 Haijui; 19 Haiqing + Tàu tuần tiễu sát bờ: 50, gồm: 15 Haizui dưới 100 tấn; 35 Thượng Hải dưới 100 tấn - Tác chiến mìn: 69: + Đối phó mìn: 68, gồm: 4 tàu quét mìn ven biển Wosao, 4 tàu quét mìn điều khiển từ xa Futi (Type 312); 42 dự bị; 1 tàu quét mìn gần bờ Thượng Hải II; 3 tàu quét mìn gần bờ Wochang; 14 tàu quét mìn đại dương T-43 + Rải mìn: 1 Wolei - Tàu đổ bộ: + Tàu đổ bộ: 76, gồm: 47 tàu hạng trung (1 Yudao, 1 Yudeng, 13 Yuhai, 22 Yuliang, 10 Yunshu); 26 tàu đổ bộ tăng (7 Yukan, 10 Yuting, 9 Yuting II); + Xuồng đổ bộ: 158, gồm: 128 xuồng đa dụng (8 Yubei, 120 Yunnan); 20 xuồng hạng trung Yuchin; 10 xuồng đệm khí - Tàu hậu cần và bảo đảm: 163, gồm: 14 tàu hậu cần; 4 tàu phá băng; 33 tàu nghiên cứu hải dương; 6 tàu quân y Qiongsha; 3 tàu dầu có khả năng tiếp tế (2 Fuqing, 1 Nanchang); 33 tàu dầu; 2 tàu sửa chữa; 10 tàu khảo sát; 1 tàu cứu hộ tàu ngầm; 25 tàu kéo (viễn dương); 30 tàu vận tải; 2 tàu huấn luyện (1 tàu huấn luyện trực thăng) KHÔNG QUÂN HẢI QUÂN - Máy bay: 792 có khả năng chiến đấu: + Ném bom: 130, gồm: 100 H-5, F-5, F-5B (IL-28); 30 H-6D + Tiêm kích: 346, gồm: 120 J-8/B/D/A; 200 J-8IIA; 26 J-7 (MiG-21F) + Cường kích: 296, gồm: 18 JH-7; 30 Q-5; 48 Su-30Mk2; 200 J-6 (MiG-19S) + Chống ngầm: 4 PS-5 (SH-5) + Trinh sát: 7 HZ-5 (IL-28R) + Tuần tiễu biển: 4 Y-8X + Tiếp dầu: 3 HY-6 + Vận tải: 66, gồm: 4 An-12; 50 Y-5 (An-2); 4 Y-7 (An-24); 6 Y-7H (An-26); 2 Yak-42 + Huấn luyện: 73, gồm: 16 JJ-6 (MiG-19UTI); 4 JJ-7; 53 PT-6 (CJ-6) - Trực thăng: + Chống ngầm: 25 Z-9C (AS-565SA) Panther + Tìm kiếm cứu hộ: 35, gồm: 15 SA-321; 20 Z-8/Z-8A (SA-321Ja) Super Frelon + Chống ngầm: 10 KA-27/KA-27PL (KA-28) + Hỗ trợ bảo đảm: 8 Mi-8 Hip - Tên lửa chiến thuật: một số YJ-6 (CAS-1); một số YJ-61 (CAS-1 cải tiến) Kraken; một số YJ-8K (CSS-N-4) Sardine Hạm đội Nam Hải (南海舰隊) Bộ Tư lệnh Hạm đội đặt tại Trạm Giang (湛江) thuộc tỉnh Quảng Đông (廣東). Hạm đội nầy có trách nhiệm kiểm soát vùng Đông Hải, chia thành sáu khu tác chiến, phòng thủ: Trạm Giang (Zhanjiang), Bắc Hải (Beihai), Hoàng Bố (Huangpu), Sán Đầu (Shantou), Hải Khẩu (Haikou) và Tây Sa (Xisha). Các căn cứ chính: Trạm Giang (Zhanjiang) - tọa độ: 21º10'N 110º20'E; Quảng Châu (Guangzhou) - 23º08'N 113º20'E; Du Lâm (Yulin) - 22º37'N 110º08'E, Sanya - Hải Nam; Bắc Hải (Beihai)- 21º29'N 109º10'E; Sán Đầu (Shantou) - 23º23'N 116º39'E; Hải Khẩu (Haikou) - 20º05'N 110º25'E; Hoàng Bố (Huangpu) - 23º08'N 113º31'E; Hongkong. Các Phó Tư lệnh, gồm: Xue Tianpei (Thiên Bối); Den Minglin (Minh Lâm); Zhang Zhicheng (Chí Thành); Han Linzhi (Lâm Chí). Chính ủy: Xu Yitian (Nghị Thiên). Nguyên Tư lệnh Hạm đội Wu Shengli đã được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân khu Quảng Châu, từ tháng 8 năm 2006. Lực lượng chủ yếu, gồm: - Soái hạm là tuần dương hạm AOR/AK 953 Nam Xương (南昌, Nanchang) trọng tải 23.000 tấn. - Đơn vị 91526, gồm + Các khu trục hạm: 161 Trường Sa (Changsha) - loại 051, lớp Lữ Đại (Luda); 163 Nam Xương (Nanchang) - loại 051D, lớp Lữ Đại; 164 Quế Lâm (Guilin) - loại 051D, lớp Lữ Đại; 166 Chu Hải (Zhuhai) - loại 051, lớp Lữ Đại-II; 167 Thâm Quyến (Shenzen) - loại 051B, lớp Lữ Hải (Luhai). + Các hộ tống hạm: 558 Tư Cống (Zigong) - loại 053H, lớp Giang Hồ-I (Jianghu-I); 564 Nghi Xương (Yichang) - loại 053H3, lớp Giang Vệ-II (Jiangwei-II). - Đơn vị tàu ngầm 32, căn cứ Du Lâm, gồm 06 tàu lớp Minh ES5F (Ming) (số hiệu: 305, 306, 307, 308, 309, 310); 10 tàu lớp Romeo - Pr033 (Nay, có trên 02 tàu lớp Tống (Song) - loại 093 SSN hoặc 094 SSBN, thay thế cho các tàu lớp Romeo); 01 tàu lớp Kilo. - Đơn vị 91458, căn cứ Du Lâm Hộ tống hạm 552 Yibin - loại 053H3, lớp Giang Vệ-II (Jiangwei-II). - Tàu đổ bộ 10 tàu LST - loại 072II lớp Yuting; 07 tàu LST - loại 072 lớp Yukan; 04 tàu vận tải lớp Qiongsha; 04 tàu LSMs lớp Yudao; 01 tàu cứu thương. - Các nhóm khu trục hạm, hộ tống hạm khác + Khu trục hạm: 162 Nam Ninh (Nanning) - loại 051GII, lớp Lữ Đại; 165 Trạm Giang (Zhanjiang) - loại 051G, lớp Lữ Đại-II; 168 Quảng Châu (Guangzhou) - loại 052B, lớp Quảng Châu (Guangzhou); 169 Vũ Hán (Wuhan) - loại 052B lớp Quảng Châu; 170 Lan Châu (Lanzhou) - loại 052C, lớp Lữ Dương-II (Luyang-II); 171 Hải Khẩu (Haikou) - loại 052C, lớp Luyang-II. + Hộ tống hạm: 509 Trường Đức (Changde) - loại 053H, lớp Giang Hồ-I (Jianghu-I); 551 Mao Minh (Maoming) - loại 053H, lớp Jianghu- I; 553 Shaoguan - loại 053H, lớp Jianghu-I; 554 Ân Thuận (Anshun) - loại 053H, lớp Jianghu-I; 555 Chiêu Đồng (Zhaotong) - loại 053H, lớp Jianghu-I; 557 Kế Thủ (Jishou) - loại 053H, lớp Jianghu-I; 559 Bắc Hải (Beihai) - loại 053H, lớp Jianghu-I; 560 Đông Quan (Dongguan) - loại 053H, lớp Jianghu I; 561 Sán Đầu (Shantou) - loại 053H, lớp Jianghu-I; 562 Giang Môn (Jiangmen) - loại 053H, lớp Jianghu-I; 563 Phật Sơn (Foshan) - loại 053H, lớp Jianghu-I; 564 Yichang; 565 Du Lâm (Yulin) - loại 053H3, lớp Giang Vệ-II (Jiangwei-II); 566 Vũ Tây (Yuxi) - loại 053H3, lớp Jiangwei-II; 567 Hương Phiên (Xiangfan) - loại 053H3, lớp Jiangwei-II. - Các đơn vị không quân thuộc Hạm đội Nam Hải + Sư đoàn 3 (căn cứ Trạm Giang): Trung đoàn 8 - trang bị loại H-6D, H-6U; + Sư đoàn 8 (căn cứ Hải Khẩu)): Trung đoàn 22 (căn cứ Hải Khẩu) - trang bị loại J-7; trung đoàn 24 (căn cứ Gia Lai Thức (Jialaishi)) - trang bị loại J-7II; + Sư đoàn 9 (căn cứ Linh Thủy (Lingshui)): trung đoàn 25 - trang bị loại J-8B (J-8II), J- (J-8IV); trung đoàn 27 (căn cứ Lạc Đông (Ledong))- trang bị loại JH-7A; + Trung đoàn 5 - sư đoàn 2, trang bị loại HZ-5 (căn cứ Lôi Dương (Leiyang)); + Trung đoàn máy bay vận tải (căn cứ Hải Khẩu); + Các đơn vị trực thăng Z-8, Z-9 tại Hải Khẩu. Hạm đội Nam Hải là lực lượng trực tiếp giao tranh với Hải quân Việt Nam trong những cuộc tranh chấp lãnh hải vào các thập niên 1970 và 1980. 2. Không quân: MÁY BAY: 2643 có khả năng chiến đấu - Ném bom: 222, gồm: 94 H-5, F-5, F-5B (Il-28) Beagle; 128 H-6 (Tu-16) Badger/ H-6E/H-6F/H-6H - Tiêm kích: 1252, gồm: 400 J-7II/J-7IIA; 356 J-7C/E/G; 153 J- /F; 52 J-8IIA/B/D; 40 J-8III; 62 J-10; 73 Su-30MKK; 116 J-11 (Su-27SK) - Cường kích: 1169, gồm: 39 JH-7/A; 408 Q-5; 722 MiG-19 - Trinh sát: 53, gồm: 45 JZ-6 (MiG-19R), một số JZ-7 (MiG-21R), 8 JZ-8 - Báo động sớm: Một số A-50, 4 Y-8 - Tiếp dầu: 10 HY-6 - Vận tải: 296, gồm: 4 An-12 Cub 1; 15 B-737-200 (chở khách VIP); 5 CL-601 Challenger; 2 IL-18; 13 IL-76MD Candid B; 17 Tu-154M; 20 Y-11; 8 Y-12; 170 Y-5 (An-2); 41 Y-7 (An-24)/Y-7H (An-26) - Huấn luyện: trên 493, gồm: 142 JJ-6 (MiG-19UTI), một số JJ-7; 179 Mongol A; 140 JL-8 (K-8); một số PT-6 (CJ-6); 32 Su-27UBK TRỰC THĂNG: - Hỗ trợ: 56, gồm: 6 AS-332 Super Puma (chở khách VIP); 50 Mi-8 Hip - Đa dụng: 24, gồm: 20 AS-365, 4 Bell 214 PHƯƠNG TIỆN BAY KHÔNG NGƯỜI LÁI: - Một số Chang Hong 1 PHÒNG KHÔNG: - SAM: 1578, + Tự hành: 1078, gồm: 60 HQ-7; 24 HQ-9; 994 S-300PMU (SA-10) + Kéo: trên 500 HQ-2 (SA-2)/HQ-2A/HQ-2B - Pháo: 16.000 khẩu 100mm/85mm TÊN LỬA - Chiến thuật: trên 4500, gồm một số tên lửa không đối đất AS-14/17/18, YJ-63; khoảng 4.500 tên lửa không đối không ( 100 AA-12 , 1200 AA-10, 3200 AA-11, một số PL-12, một số PL-2B, một số PL-5B, một số PL-8
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:46:33 GMT -5
4. Thuy quân luc chien :
- Tăng hạng nhẹ: 150 Type-63A - Xe chở quân bọc thép: + Bánh xích: 60 Type-63 + Bánh hơi: một số Type-92
- Pháo: + Kéo: một số Type-83 122mm + Giàn phóng rốckét: một số Type-63 107mm
- Tên lửa chống tăng: một số HJ-73; một số HJ-8
- Tên lửa phòng không vác vai: một số HN-5 Hong Nu/Red Cherry
5. Lực lượng khác LỰC LƯỢNG TÊN LỬA CHIẾN LƯỢC (PHÁO BINH số II)
- Lực lượng tiến công: Tên lửa chiến lược: 806 + Tên lửa đường đạn liên lục địa (ICBM): 46, gồm: 6 DF-31 (CSS-9) (1 lữ); 20 DF-4 (CSS-3) ( 2 lữ); 20 DF-5A (CSS-4 Mod 2) (4 lữ). + Tên lửa đường đạn tầm trung (IRBM): 35, gồm: 33 DF-21 (CSS-5) (4 lữ); 2 DF-3A (CSS-2 Mod) (1 lữ) + Tên lửa đường đạn tầm gần (SRBM): 725, gồm: 500 DF-11A/M-11A (CSS-7 Mod 2) (4 lữ); 225 DF-15/M-9 (CSS-6) (2 lữ) + Tên lửa chiến lược phóng từ tàu ngầm: 12 JL-1 (CSS-N-3) đặt trên tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Hạ
- Lực lượng phòng ngự: + Rađa chiến lược: một số rađa mạng pha; một số rađa phát hiện và bám (bao trùm toàn bộ vùng Trung Á và vùng biên giới phía bắc tại Tân Cương)
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:50:24 GMT -5
Cục II- Cục Tình báo quân sự 1/ Quan Bao Đây là cơ quan tình báo lớn thứ hai ở Trung Quốc với phương thức chủ yếu là sử dụng điệp viên, địa bàn hoạt động ở cả trong và ngoài nước. Cục II duy trì một mạng lưới các trung tâm theo dõi và thu thập tin tức tại nội địa, trong khu vực và trên thế giới để phục vụ cho các cấp lãnh đạo, chỉ huy khác nhau mà trước hết là Tổng Bộ tham mưu và Quân uỷ Trung ương. Hoạt động của Cục II bao gồm thu thập cả tin tức chiến lược, chiến dịch, chiến thuật và khoa học công nghệ. Năm 1962, trong cuộc chiến tranh biên giới với ấn Độ, những tin tức tình báo do Cục II cung cấp đã góp phần rất quan trọng cho Quân đội Trung Quốc. Hiện nay, dù có những khó khăn nhất định, Cục tình báo quân sự vẫn có khả năng tiến hành các chiến dịch tình báo một cách có hiệu quả khắp toàn cầu. Một số nhà phân tích nhận định, Cục II là cơ quan tình báo quan trọng nhất trong cộng đồng tình báo Trung Quốc.
a, Chức năng, nhiệm vụ của Cục II
- Thu thập các tin tức về quân sự phục vụ cho các cấp lãnh đạo quân đội trong việc xác định khả năng tác chiến và tiềm lực quân sự của đối phương để hoạch định và xác định chính xác các tình huống chiến lược, chiến dịch và chiến thuật. Thực hiện chức năng này, Cục II phải thu thập được tin tình báo về âm mưu, ý đồ, chủ trương, học thuyết quân sự trong đường lối đối ngoại và quốc phòng của các quốc gia khác, nguy cơ có thể xảy ra xung đột và chiến tranh, nắm các liên minh quân sự, các mục tiêu quân sự và cơ cấu cũng như thế bố trí của chúng, trình độ cũng như khả năng tác chiến của lực lượng vũ trang đối phương...
- Thu thập các công nghệ quân sự và dân sự phục vụ cho việc hiện đại hoá quân đội. Để làm được điều này, Tình báo quân sự phải nắm được các trung tâm khoa học dân sự, hệ thống công nghiệp quốc phòng đặc biệt là khả năng sản xuất các loại vũ khí hiện đại của những nước đối tượng, các viện nghiên cứu và chế tạo của nước ngoài...
- Thu thập các tin tức chiến lược về chính trị để giúp các nhà lãnh đạo Trung Quốc hoạch định đường lối đối nội, đối ngoại phù hợp nhằm duy trì và bảo đảm lợi ích quốc gia. Các tin tức mà Cục II quan tâm bao gồm: tình hình chính trị nội bộ của các quốc gia, tổ chức quốc tế và các nước láng giềng, quan điểm của họ đối với Trung Quốc và với vấn đề Đài Loan, hồ sơ nhân vật cao cấp trong chính quyền và đảng phái ở các nước đối tượng...
- Thu thập tin tức liên quan đến an ninh quốc gia như âm mưu và hoạt động chống phá của các nước thù địch bao gồm âm mưu phá hoại kinh tế, giúp đỡ và chỉ đạo các tổ chức phản động ở nội địa và hải ngoại, nguy cơ tiềm ẩn đe doạ an ninh tại khu tự trị ở Tân Cương và Tây Tạng, các tổ chức và hoạt động của tình báo nước ngoài tại Trung Quốc, hoạt động quân sự của các quốc gia tại khu vực Biển Đông, tình hình bán đảo Triều Tiên...
- Xây dựng mạng lưới điệp viên và cộng tác viên rộng khắp để thu thập mọi tin tức có thể được với phương châm sử dụng người Hoa là chủ yếu, thu hút người nước ngoài là quan trọng.
- Xây dựng các bình phong để hoạt động tại nước ngoài như đại diện kinh tế, chính trị, phóng viên báo chí... b, Cơ cấu tổ chức của Cục II
Phòng 1 - Phòng tình báo vùng, có nhiệm vụ thu thập tin tức theo 5 vùng khác nhau: Bắc Kinh, Thẩm Dương, Thượng Hải, Quảng Châu và Nam Kinh. Mỗi vùng được một ban tình báo đảm nhiệm. Các ban này không chỉ hoạt động tại nội địa mà còn phái cả nhân viên ra nước ngoài công tác.
Ban Bắc Kinh, lớn nhất, vừa có nhiệm vụ thu thập tin tức vừa là trung tâm điều hành, phối hợp và hỗ trợ các ban khác. Ban có các khách sạn và nhà mật để tiếp đón các sỹ quan tình báo và làm nơi gặp gỡ giữa các lực lượng hoạt động.
Ban Thẩm Dương không chỉ hoạt động ở địa bàn trong nước mà còn đảm nhiệm hướng bán đảo Triều Tiên, Nga, Đông Âu, Nhật Bản. Ban Quảng Châu thu thập tin tức tại địa bàn và liên quan như Hồng Công, Ma-cao và Đài Loan. Các sỹ quan của ban này thường nguỵ trang dưới bình phong các nhà kinh doanh.
Ban Thượng Hải còn phụ trách cả địa bàn Tây Âu vì Thượng Hải luôn là điểm đến của người Âu.
Ban Nam Kinh rất quan tâm đến địa bàn Mỹ vì Nam Kinh là trung tâm trao đổi học thuật với Mỹ. Các sỹ quan hoạt động của Ban Thượng Hải và Nam Kinh thường xuyên được phái đi nước ngoài bám nắm và theo dõi các mục tiêu cần thiết. Phòng 2- Phòng trinh sát, có nhiệm vụ chỉ đạo hoạt động của các Phòng tình báo quân khu và các Phòng trinh sát của quân binh chủng, cảnh vụ. Phòng 3 - Phòng tuỳ viên quân sự, tổ chức mạng lưới các tuỳ viên quân sự để thu tin qua con đường bình phong công khai. Nhân viên của phòng 3 được chia ra nhiều hướng địa bàn khác nhau. Các tuỳ viên và trợ lý tuỳ viên quân sự Trung Quốc có nhiệm vụ thu thập tin tức về các công nghệ vũ khí, cơ cấu và bố trí các lực lượng vũ trang, học thuyết quân sự, kinh tế và các chính sách đối nội, đối ngoại của nước ngoài có ảnh hưởng đến lợi ích của Trung Quốc. Các tuỳ viên quân sự và trợ lý tuỳ viên vừa thu thập tin tức qua các nguồn công khai, vừa tiến hành hoạt động bí mật để thu thập tin tức nhạy cảm, thường là thông qua quan hệ thiện chí mà họ xây dựng được hoặc nói chuyện moi tin. Họ còn có nhiệm vụ tìm đầu mối buôn vũ khí để tiến hành mua các loại vũ khí mới trang bị cho quân đội Trung Quốc, tìm hiểu hệ thống vũ khí của nước ngoài, phân tích khả năng của tổ chức quân sự nước ngoài.
Các tuỳ viên quân sự trước khi được phái ra nước ngoài hoạt động đều phải trải qua các lớp đào tạo dài hạn về nghiệp vụ và ngoại ngữ. Nhiệm kỳ công tác ở địa bàn từ 3-5 năm. Thời gian đầu, họ chỉ thu thập tin tức công khai bằng cách đặt mua các loại ấn phẩm hoặc tài liệu tham khảo đặc biệt tại địa bàn để phục vụ cho công tác nghiên cứu sau đó chuyển về nước khi có điều kiện. Sau khi đã quen với dân cư, phong tục tập quán, giao tiếp trôi chảy bằng ngôn ngữ bản địa, họ sẽ tìm kiếm các đối tượng để mở quan hệ thu thập tin tức. Phòng nghiên cứu và xử lý tin, có chức năng từ các bản tin riêng lẻ, cho ra báo cáo tổng hợp để báo cáo cấp trên. Báo cáo đó sau khi được Cục trưởng phê duyệt sẽ được trình lên Bộ trưởng Quốc phòng và Chủ tịch Quân uỷ Trung ương.
Ngoài ra, Cục II còn có các phòng chuyên nghiên cứu về một địa bàn cụ thể.
Phòng 4 có nhiệm vụ nắm bắt chủ trương, đường lối ngoại giao và quân sự của Cộng đồng các quốc gia độc lập và của Tây Âu. Phòng 5 phụ trách địa bàn Mỹ.
Phòng 6 phụ trách địa bàn Đông Nam Á. Điều đáng chú ý là nguồn tin của các Phòng này không chỉ do mạng lưới điệp viên và cộng tác viên cung cấp, mà các chuyên gia tại đây còn sử dụng các nguồn tin công khai để bổ trợ và kiểm chứng. Các nhà phân tích đều phải là những người lâu năm trong nghề và phải thành thạo ngôn ngữ của địa bàn đảm trách. Các phòng nghiên cứu tin không chỉ làm nhiệm vụ nghiên cứu, xử lý, báo cáo mà còn tham mưu cho chỉ huy các phòng nghiệp vụ và cơ quan cấp trên trong việc tổ chức và hoạt động sao cho có hiệu quả nhất.
Phòng 7, phòng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới được thành lập, có nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo, phát triển và ứng dụng công nghệ. Phòng quản lý các đơn vị: 1. Viện 58, chuyên nghiên cứu, đánh cắp, mô phỏng và sản xuất các trang thiết bị phục vụ cho nghiệp vụ tình báo như các thiết bị thu thập tin tức hay nguỵ trang che dấu phương tiện, tài liệu điệp báo... 2. Trung tâm máy tính, tiếp nhận các thành tựu tin học, nghiên cứu, ứng dụng các phần mềm, quản trị mạng... 3. Viện 57, có nhiệm vụ đánh cắp thông tin máy tính và ngăn chặn hacker xâm nhập, quản lý vệ tinh do thám. 4. Nhà máy điện tử Bắc Kinh và Hải Âu, sản xuất thiết bị điện tử ứng dụng...
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:52:29 GMT -5
2, Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế Trung Quốc - CIISS: Được thành lập năm 1979 với tên gọi Viện Nghiên cứu chiến lược quốc tế Bắc Kinh và được đổi thành tên như hiện nay vào năm 1992. CIISS có nhiệm vụ tiếp nhận các báo cáo tin của Cục TBQS và các lực lượng liên quan khác, đảm trách việc phân tích các tin tức tình báo phục vụ cho Cục II và các cơ quan khác của Chính phủ, đánh giá và phân loại các báo cáo tin theo giá trị sử dụng, đánh giá mạnh yếu của đối phương và các vấn đề liên quan đến đối tượng, mục tiêu tình báo cũng như các vấn đề mà tình báo Trung Quốc quan tâm. Ngoài ra, cơ quan này còn làm tham mưu cho lực lượng hoạt động như chỉ ra các vấn đề còn tồn tại, hỗ trợ chỉ đạo và định hướng hoạt động, đưa ra những kế hoạch tổng thể về xây dựng lực lượng, liên kết các dấu hiệu tình báo để dự đoán chiều hướng phát triển chiến lược, nhận định những thay đổi chiến lược của đối phương. Hàng quý, CIISS phát hành các tạp chí chuyên ngành, chủ trì các cuộc hội nghị, hội thảo quốc gia và quốc tế…
Phối hợp hoạt động với CIISS là một loạt các cơ quan khác như: Khoa Nghiên cứu chiến lược thuộc Học viện Khoa học quân sự, Viện Nghiên cứu chiến lược tại Trường Đại học quốc phòng, Học viện Quan hệ quốc tế Trung Quốc thuộc Bộ An ninh quốc gia, Phòng Nghiên cứu chính sách thuộc Quân uỷ TƯ, các cơ quan nghiên cứu của Bộ Ngoại giao, Uỷ ban quốc gia và Học viện Khoa học xã hội Trung Quốc. CIISS còn có quan hệ với nhiều cơ quan, đơn vị thuộc Uỷ ban KHKT và Công nghiệp quốc phòng, các viện nghiên cứu của lục quân, không quân, hải quân và lực lượng tên lửa chiến lược, pháo binh 2.
3, Học viện Ngoại ngữ quân sự - Trường Đại học ngoại ngữ Lonyang:
Năm 1959, Đại học Công nghệ cơ khí Trung Quốc (mật danh là đơn vị 793) - tiền thân của Học viện Ngoại ngữ quân sự được thành lập để đào tạo các điệp viên của Cục TBQS hoạt động tại nước ngoài. Người phụ trách Học viện này do Quân uỷ Trung ương bổ nhiệm. Học viện có nhiệm vụ đào tạo chuyên gia ngoại ngữ cho Cục II và Cục III. Thời gian đào tạo là 4 năm. Tiêu chuẩn tuyển chọn vào học rất cao; học viên phải là những người có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, trung thành với Đảng Cộng sản, tâm lý vững vàng, có nhận thức tốt, tư duy nhanh nhạy, có năng khiếu ngoại ngữ và tình báo… Các học viên nam và nữ được đào tạo tại đây hầu hết là con em các quan chức cao cấp trong quân đội và chính phủ.
Học viện Ngoại ngữ quân sự còn có nhiệm vụ bồi dưỡng ngoại ngữ cho các quan chức của Quân đội Trung Quốc và cán bộ, nhân viên của Bộ Ngoại giao - những người nắm giữ những thông tin nhạy cảm và không muốn phụ thuộc vào phiên dịch. Để đảm bảo hoạt động ở nước ngoài có hiệu quả, cơ quan này còn sắp xếp hôn nhân cho học viên và biệt phái họ ra nước ngoài trong nhiệm kì 5 năm. 4, Các đơn vị trực thuộc Tổng bộ Tham mưu:
Tại các đại quân khu đều có các Nha Tình báo thuộc Cục TBQS và các Trạm Trinh sát vô tuyến của Cục III. Nha Tình báo đại quân khu phụ trách trực tiếp các phòng tình báo quân khu, tỉnh. Dưới các phòng tình báo quân khu là các trung tâm tình báo vùng. Các trung tâm này thường sử dụng mạng lưới tai mắt ở khắp nơi trong nội địa và khu vực biên giới. Nó thường nhận được sự chỉ đạo của Bộ chỉ huy quân khu, tỉnh.
Phòng trinh sát quân binh chủng (của hải quân, không quân, cảnh vũ) có phòng phân tích tin tình báo riêng. Tin tức sau khi được xử lý tại đây sẽ được chuyển cho chỉ huy cao nhất của quân binh chủng đó rồi chuyển đến Nha 2 của đại quân khu và Viện Nghiên cứu chiến lược.
5, Đoàn An ninh trung ương:
Đoàn An ninh trung ương đặt tại Bắc Kinh mang tên Đoàn 8341 là một đoàn đặc nhiệm có nhiệm vụ theo dõi, bám nắm những kẻ tình nghi, những địa bàn trọng điểm, bắt giữ gián điệp và những kẻ cầm đầu bạo loạn, biểu tình và bảo vệ các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ, Đoàn 8341 còn xây dựng các mạng lưới tình báo rộng khắp trong cả nước để phát hiện các âm mưu chống lại sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Lực lượng của Đoàn được bố trí tại các khu vực quân sự trọng yếu và khu nhà riêng của các quan chức chính phủ gần Cấm thành. Theo dự đoán, đơn vị này có khoảng 7.000-8.000 người (tương đương với quân số của cảnh sát Bắc Kinh).
Các binh lính của đơn vị này thường là những người xuất thân từ các gia đình nông dân ở các tỉnh miền núi xa xôi như Hồ Nam, Sơn Đông. Với nguồn gốc như vậy, họ sẽ không có mối liên hệ cá nhân nào với cư dân Bắc Kinh. Còn các sỹ quan chỉ huy thì được tuyển từ quê hương của các vị lãnh tụ.
Sau này, Đoàn 8341 được đổi thành 57003. Chức năng , nhiệm vụ hầu như không thay đổi nhưng cơ cấu tổ chức và biên chế có nhiều đổi mới. 6, Cục III:
Cục III được thành lập năm 1959 sau khi Tổng bộ Tham mưu cải cách Cục công nghệ, có quy mô lớn hơn Cục II và liên hệ mật thiết với Cục IV (Cục ra-đa và tác chiến điện tử), sở chỉ huy đóng tại huyện Hương Sơn – ngoại ô Bắc Kinh. Đây là tổ chức chuyên trách về các phương tiện kỹ thuật an ninh quốc gia, thiết lập mã giải các bản mật mã, mã khoá máy tính, giám sát liên lạc quân sự của nước ngoài và trợ giúp thông tin chiến lược trong đó có việc bảo đảm liên lạc thông suốt giữa các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước với các quan chức quân đội, đào tạo và huấn luyện các chuyên gia khoa học công nghệ cho các đơn vị trong toàn quân... Các chuyên gia kĩ thuật làm việc tại Cục III được đào tạo tại nhiều trường đại học khác nhau, kể cả Đại học quốc phòng. Nhiều người được đào tạo tại Học viện Ngoại ngữ quân sự nên rất giỏi ngoại ngữ. Nhiệm vụ của họ là theo dõi làn sóng vô tuyến và dịch các bản tin từ tiếng nước ngoài sang tiếng Trung Quốc. Ngoài ra, đội ngũ chuyên gia kĩ thuật của Cục còn có thể nắm bắt và kiểm soát thông tin và tín hiệu, giải các loại mật mã, phân tích hình ảnh… Nhân viên Cục III được tiếp cận nhiều nguồn thông tin khác nhau kể các các tin tức độc hại.
Trang thiết bị của Cục III là các hệ thống kiểm soát thông tin hiện đại đã được tự động hoá, kể cả các thiết bị nghe trộm điện thoại, thiết bị thu phát sóng vô tuyến, sóng cực ngắn, ghi âm… Công nghệ điện thoại di động mà Trung Quốc mua của Mỹ và Tây Âu đã giúp tình báo nước này có điều kiện thuận lợi để kiểm soát thông tin nội địa. Nhiệm vụ cụ thể của Cục III gồm:
- Bố trí các trạm thông tin dọc biên giới, tại sứ quán Trung Quốc và cạnh sứ quán nước ngoài để kiểm soát và giải mã tín hiệu vô tuyến được phát đi tại khu vực này.
- Vô hiệu hoá các hoạt động phản gián kỹ thuật vô tuyến, đảm bảo an toàn cho các quan chức cao cấp khi cơ quan an ninh nước chủ nhà tiến hành các thủ tục kiểm tra trước mọi chuyến thăm viếng.
- Đảm bảo an ninh thông tin tại sứ quán Trung Quốc ở nước ngoài, đặc biệt tại các nước kém phát triển.
- Kiểm soát làn sóng phát thanh từ các nước khác như BBC, VOA…
- Kiểm soát thông tin của đại diện thông tấn, kiểm soát hệ thống bưu chính viễn thông, tiến hành ghi âm tất cả các cuộc điện thoại nghi ngờ, sao chụp các bản fax gửi từ hãng thông tấn của nước ngoài.
- Bảo mật các cuộc đàm thoại của quan chức chính phủ, bảo đảm thông tin giữa các đơn vị quân đội với Quân uỷ TW.
7, Cục Liên lạc quốc tế thuộc Tổng Bộ Chính trị:
Được thành lập năm 1959, Cục Liên lạc quốc tế - đơn vị tình báo nhỏ nhất của Quân đội Trung Quốc có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động tâm lí chiến, tuyên truyền kích động phản chiến trong hàng ngũ đối phương, đồng thời hoạt động trên một số lĩnh vực tình báo quân sự và phản gián. Các sỹ quan biệt phái của Cục đều có trình độ học vấn cao, đều trải qua khoá đào tạo về tâm lý. Kết quả hoạt động của họ được báo cáo trực tiếp lên Bộ trưởng Quốc phòng và Quân uỷ Trung ương. Hiện nay, đơn vị này được chia làm 4 phòng và các chi nhánh đặc biệt tại Thượng Hải và Quảng Châu.
Phòng Liên lạc, có nhiệm vụ thu thập tin tức chính trị tại Đài Loan, tuyên truyền, mua chuộc, lôi kéo điệp viên Đài Loan đào tẩu, hỏi cung những điệp viên bị bắt giữ. Hầu hết nhân viên của đơn vị này ở Hồng Công và Đài Loan đều nằm dưới bình phong thương nhân.
Phòng Điều tra và Nghiên cứu, bố trí nhân viên nằm tại sứ quán Trung Quốc để thu thập tin tức chính trị và chuẩn bị các báo cáo cho lãnh đạo quân đội và Bộ Chính trị.
Phòng Biên giới, có nhiệm vụ xây dựng các điểm trung chuyển và liên lạc tại các khu vực giáp biên giới để tạo điều kiện giúp đỡ các lực lượng tình báo xâm nhập vào địa bàn hoạt động.
Phòng Tuyên truyền ngoại vụ, với tổ chức bình phong là Hội liên lạc hữu nghị quốc tế Trung Quốc với nhiều chi nhánh khắp thế giới đồng thời phụ trách các Trung tâm vì hoà bình và phát triển (có chi nhánh ở khắp các quân khu), có chức năng tiến hành các hoạt động tình báo và phản gián chính trị. Theo đánh giá của giới chuyên môn thì cơ quan tình báo này hoạt động không hiệu quả lắm.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:56:24 GMT -5
NHỮNG PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT QUÂN SỰ CỦA HẢI QUÂN TRUNG QUỐC
Tác giả: KEITH JACOBS Nguồn: “NAVAL FORCES” - Số 1.2007
KHÁT QUÁT VỀ NHỮNG CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN HIỆN NAY
Hải quân Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLAN) hiện có 77 tàu chiến, 56 tàu ngầm hạt nhân và đi-ê-zen, hơn 50 tàu đổ bộ lớn, hơn 50 tàu tuần tiễu trang bị tên lửa, và một lực lượng yểm trợ vùng nước sâu đang được phát triển. Lực lượng này bao gồm 11 tàu khu trục tên lửa hiện đại và 16 tàu frigat tên lửa hiện đại. Từ cuối năm 2006 đến giữa năm 2007, 2 tàu khu trục mới Type 051C (Luyang II) và 2 tàu frigat Type 054A (Jiangkai-II) sẽ được đưa vào sử dụng, cùng với đốc đổ bộ đầu tiên do Trung Quốc chế tạo (Type 071 LPD). Tàu sân bay Varyag trước đây tiếp tục được sửa chữa, và có thể được sử dụng vào cuối năm 2008. 18 tàu khu trục loạt Type 051 và hơn 30 tàu frigat loạt Jianghu vẫn đang được sử dụng. Ngoài ra, Lực lượng hải quân đánh bộ Trung Quốc bao gồm Lữ đoàn hải quân đánh bộ số 1 và 164 thuộc Hạm đội Nam Hải và Đông Hải. Cùng với việc tiếp tục hiện đại hóa binh chủng không quân hải quân - bao gồm 8 sư đoàn không quân hải quân và 2 trung đoàn trực thăng trang bị cho tàu – là việc sẵn sàng yểm trợ để thực hiện cả những nhiệm vụ ở bờ biển và những nhiệm vụ ở vùng nước sâu. Hải quân Trung Quốc khá lớn nhưng không hiện đại so với hải quân các nước Tây Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc. “Các nhà quan sát tin rằng, trước mắt trọng tâm hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc là triển khai một lực lượng có thể giành thắng lợi trong một cuộc xung đột không kéo dài với Đài Loan và hoạt động như một lực lượng chống thâm nhập nhằm răn đe sự can thiệp của Mĩ hoặc trì hoãn được sự tham chiến của các lực lượng Mĩ, đặc biệt là lực lượng không quân và hải quân, vào một cuộc xung đột như thế. Một số nhà phân tích dự đoán rằng khoảng năm 2010 Trung Quốc có thể có được một lực lượng chống thâm nhập đường biển. Các nhà quan sát khác tin rằng Trung Quốc sẽ có lực lượng này muộn hơn.Những mục tiêu có tiềm năng lớn hơn hoặc lâu dài hơn của việc hiện đại hóa hải quân Trung Quốc bao gồm củng cố giới lãnh đạo quân sự cấp quân khu của Trung Quốc và bảo vệ những lợi ích về lãnh hải, kinh tế và năng lượng của Trung Quốc”.
NHỮNG ĐỘNG CƠ HIỆN ĐẠI HÓA
Trung Quốc có nhiều động cơ để tăng cường và hiện đại hóa các lực lượng hải quân của họ. Trong đó có nhiều động cơ nhằm đạt được những mục tiêu an ninh quốc gia lớn hơn; động cơ tiên quyết là đảm bảo sự tồn tại của chế độ Đảng Cộng sản Trung Quốc (CCP). Tất cả những mục tiêu khác nhằm duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ và an ninh trong nước của Trung Quốc. Bao gồm:
+ Duy trì nhịp độ phát triển kinh tế cao: Đối với giới lãnh đạo Trung Quốc, đây là công cụ để đạt được tất cả những mục tiêu khác, kể cả có được những lực lượng quân sự thỏa đáng để duy trì an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ như Sách Trắng 2006 của Trung Quốc đã tuyên bố: “Hiện đại hóa quốc phòng và quân đội, được tiến hành dựa trên nền tảng phát triển kinh tế vững chắc, là yêu cầu để theo kịp những xu hướng mới trong cuộc cách mạng và phát triển toàn cầu trong lĩnh vực quân sự....”.
+ Ngăn chặn sự li khai hợp pháp của bất kì tỉnh nào, kể cả Đài Loan, đồng thời duy trì vai trò sống còn và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
+ Nâng cao toàn diện sức mạnh quốc gia. Ở đây bao gồm sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế, chính trị và ngoại giao được tăng cường kết hợp với những thành phần “sức mạnh mềm” (sức mạnh phi đối xứng). Cuối cùng là phát triển Trung Quốc như một cường quốc thế giới, có sức mạnh toàn diện nhất. Sách Trắng gần đây nhất của Lầu Năm Góc đệ trình lên Quốc hội Mỹ (2006), đã có một số thay đổi trong đánh giá bao gồm : - Trái với một phân tích của năm 2002 cho rằng Trung Quốc không chế tạo tàu sân bay, thì nay một vài nhà phân tích dự đoán rằng tàu sân bay dùng cho máy bay cất hạ cánh thông thường (CTOL) đầu tiên sẽ hoạt động vào năm 2015 (không ám chỉ tàu Varyag);
- Thông tin cập nhật về tên lửa đường đạn xuyên lục địa (ICBM) Đông phong 31 (DF-31) và DF-31A mới;
- Triển khai lực lượng tăng cường đối phó với Đài Loan (ở Nam Kinh, Tế Nam, Quảng Châu), bao gồm 300 xe tăng và tăng thêm 25.000 quân (tổng số lên đến 400.000), với 11 cuộc tập trận đổ bộ được tiến hành trong 6 năm qua.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:57:18 GMT -5
HIỆN ĐẠI HÓA TÀU NGẦM
Người ta tin rằng chiếc tàu Type 039G (lớp Tống II) đã được đưa vào sử dụng trong năm 2006, có 3 tàu đang được chế tạo là: tàu Type 094 (Jin) SSBN; Type 093 (Shang) SSN và Type 041 (lớp Viên), vùng với việc đặt mua tàu Type 636 (lớp Kilo) SSK. Tàu Type 091/09 (lớp Hán) N0403 đã được hiện đại hóa và đại tu trong khoảng thời gian từ 2003-04, bao gồm mở rộng thân tàu 8m để có thể lắp đặt thêm sonar mạng kéo thụ động mới cùng với khả năng phóng ngư lôi chống ngầm Ying-ji-82. Những tàu khác có thể cũng sẽ được hiện đại hóa tương tự. Tàu N0401 hiện không hoạt động, nhưng có lẽ kế hoạch chế tạo lại và hiện đại hóa sẽ được bắt đầu trong năm 2007. - Tàu SSBN lớp “Jin”: tàu đầu tiên thuộc lớp tàu này đã được hạ thuỷ năm 1999 tại xưởng đóng tàu Huludao và bắt đầu thử nghiệm trên biển năm ngoái. Một bức ảnh chụp tại xưởng Huludao cho thấy tàu ngầm này rất giống với tàu ngầm Delfin (Project 677BDR, Delta III) của Nga nhưng thiếu thiết bị tung sonar mạng kéo ở phía trên cánh thẳng đứng. Tàu mang 12 tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm (SLBM) JL-2 (CSS-NX-4), có 3 hoặc 4 khoang trở về khí quyển mang nhiều đầu đạn (hạt nhân) tiến công các mục tiêu độc lập (MIRV) 90-kT hoặc đầu đạn đơn lớn hơn tầm 8.000km. Người ta tin rằng chiếc thứ 2 đã được hạ thủy khoảng tháng 9/2004 và ít nhất có 4 chiếc sẽ được chế tạo.
- Tàu ngầm tiến công chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN) lớp “Shang”: tàu SSN thế hệ thứ hai, về độ ồn tàu này có thể so sánh với tàu ngầm Project 671RTMK (Victor III) của Nga, cũng có thiết kế thân tàu kép và những tính năng khác, đó là kết quả của sự giúp đỡ của Văn phòng thiết kế trung ương RUBIN, theo một hợp đồng với Trung Quốc. Tàu được trang bị một sonar H/SQG-207 mạng kéo mới được lắp đặt ở thân tàu. Tàu được lắp một thiết bị đẩy 7 cánh quạt, với tốc độ dưới nước có thể đạt 30-32 hải lí/giờ. Rõ ràng có lớp vật liệu giảm tiếng động ngoài thân tàu, cũng như các hệ thống sonar thụ động lắp đặt hai bên mạn tàu. Tàu được trang bị 2 hoặc 4 ống phóng ngư lôi 650mm, cùng với 4 ống phóng ngư lôi 533mm và ngư lôi Yu-6 hoặc Yu-8/TEST-71MKE. Hai tàu này đã hoàn tất giai đoạn thử nghiệm của nhà chế tạo, chiếc đầu tiên có thể được đưa vào sử dụng cuối năm nay, chiếc thứ hai vào khoảng giữa năm 2008. Chiếc tàu thứ 3 đang được chế tạo. Lầu Năm Góc dự tính đến năm 2010 sẽ có 3-4 tàu được đưa vào sử dụng, và nhu cầu có thể lên 8 đến 10 tàu.
- Tàu SSK lớp “Viên”: dựa vào tàu Project 636 đã được nâng cấp và kết hợp một vài chi tiết thiết kế của tàu Type 039G, chiếc tàu đầu tiên (N0330) đã được hạ thủy tháng 5/2004 và qua thử nghiệm năm 2005; Thân tàu N02 được hoàn thành tháng 12/2004. Thân tàu N01 được chế tạo tại Công ty công nghiệp đóng tàu Vũ Hán; và hiện Xưởng đóng tàu Giang Nam đã thay thế việc chế tạo tàu Type 039G1 bằng một thân tàu lớp “Viên” mới. Thêm 2 tàu nữa hiện đang được chế tạo tại Vũ Hán. Đến năm 2010, tàu số 9 và 10 có thể được đưa vào sử dụng. 20 tàu lớp này có thể sẽ được chế tạo và Xưởng đóng tàu Giang Nam có thể sẽ được đưa vào chương trình này trong năm 2006 với việc hoàn thành tàu lớp “Tống-II”. Người ta cho rằng động cơ đẩy là một động cơ đi-ê-zen MTU-16V được chế tạo theo giấy phép tại Công ti Shaanxi Diesel Mfg. Có tất cả tính năng của tàu Project 636, tàu lớp này còn mang tên lửa chống tàu YINGJI-82 (YJ-82) và một tổ hợp ngư lôi chống tàu và tác chiến chống ngầm.
- Tàu SSK lớp “Tống-II”: Tàu lớp Tống-II cải tiến (Type 039G) cuối cùng đã được hoàn thành năm ngoái, sau 12 tàu đang hoạt động. Được lắp động cơ đi-ê-zen MTU 12V 493 chế tạo theo giấy phép, tàu lớp này mang thiết bị đẩy 7 cánh quạt đầu tiên trong các lớp tàu của Trung Quốc. Tốc độ đi ngầm được đặt ra là 22 hải lí/giờ, để lặn sâu 300m. Chiếc tàu lớp Tống-I đầu tiên được hạ thủy vào tháng 5/1994 nhưng có những nhược điểm trong thiết kế và không được sử dụng cho đến năm 1999. Đã có những thay đổi ở tàu lớp Tống-II (số 32) và tàu này được đưa vào sử dụng tháng 4/2001. Xê-ri tàu Type 039G1 bắt đầu với thứ tự tàu số 7, hạ thuỷ năm 2003. Tàu mang 6 ngư lôi 533mm, các ngư lôi tác chiến chống ngầm điều khiển bằng dây, và ngư lôi chống tàu tiêu chuẩn Yu-4G (SAET-60), Yu-7 (Mk.46 Mod.2), với tàu Type 039G1 cải tiến, trong lựa chọn vũ khí, có thể được trang bị thêm 4 tên lửa chống tàu YINGJI-62 (YJ-62).
- Tàu SSK lớp Project 636M: Năm 2002, Trung Quốc đặt mua 8 tàu Kilo cải tiến với một hợp đồng trị giá 2 tỉ USD; chiếc đầu tiên đã cập bến Thượng Hải tháng 2/2005 và chiếc thứ 2 đã được hạ thủy tháng 7/2005. Năm tàu đã được chuyển giao vào tháng 1/2006; chiếc thứ 6 và 7 đã được chuyển giao tháng 6/2006; theo dự định chiếc cuối cùng sẽ được chuyển giao vào giữa năm nay. Hải quân Trung Quốc có 2 tàu ngầm Project 877EKM (số hiệu 354, 365) và 2 tàu ngầm Type 636 (số hiệu 366, 367), tất cả những tàu này được biên chế trong Hạm đội Đông Hải tại Xiangshan. Loại tàu này có thể lặn sâu hơn 225m, thực hiện hành trình trên biển 45 ngày. Được trang bị 6 ống phóng ngư lôi và thông thường mang 18 ngư lôi. Tàu được thiết kế để có thể mang bất kì hệ thống nào trong 3 hệ thống vũ khí kết hợp với tên lửa CLUB-S/3M54 SLCM (Mach 0,8, tầm 300km đối với kiểu ngư lôi chống ngầm). Một ống phóng tên lửa phòng không với 8 tên lửa phòng không STRELA-3/SA-N-8 GREMLIN tầm gần được trang bị cho các tàu loại này của Nga, nhưng không chắc chắn liệu có được trang bị cho các tàu của Hải quân Trung Quốc không. Loạt tàu mới sẽ được trang bị tên lửa CLUB-S (Novator 3M54E; SS-N-27; tầm:300km, Mach 0,8), theo một hợp đồng được kí tháng 5/2002. Cuối năm 2005, Trung Quốc cũng đã xác nhận về những hợp đồng mua hệ thống tên lửa chống tàu VA-111E SHKAVAL do Nga chế tạo, loại tên lửa có tầm 8km ở tốc độ 200 hải lí/giờ và được phóng từ những ống phóng ngư lôi 533mm tiêu chuẩn. Nga coi tên lửa này như một vũ khí “cuối cùng” dùng để đối phó với tàu hoặc tàu ngầm.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:58:28 GMT -5
TÀU SÂN BAY VÀ CÁC CHƯƠNG TRÌNH MÁY BAY TIÊM KÍCH PHỐI HỢP Công việc liên quan đến tàu sân bay Varyag vẫn tiếp tục và một công ty thiết kế tàu biển ở Vũ Hán đã có 3 mẫu thiết kế tàu sân bay để trưng bày. Ngoài ra, một động cơ đẩy lớn đang được chế tạo tại Thượng Hải (Varyag được chuyển giao mà không có động cơ đẩy). Trong 2 năm, từ năm 2002, công việc này đã được tiến hành tại Xưởng đóng tàu Đại Liên. Trung Quốc đã mua của U-crai-na một mẫu máy bay T-10K FLANKER dành cho hải quân. Chỉ ngay sau triển lãm EURONAVAL 2006, Nga khẳng định Trung Quốc đã đặt mua 2 máy bay Sukhoi Su-33 FLANKER. Mat xcơ va dự tính đơn đặt hàng có thể lên tới 48-50 chiếc sau những đợt chuyển giao trong 5 năm tới, mỗi đợt từ 12 đến 18 máy bay, với tổng trị giá hợp đồng khoảng 2,5 tỉ USD. Những máy bay này có thể trang bị cho 3 trung đội không quân của Hải quân Trung Quốc, cùng với một phi đội huấn luyện nhỏ hơn. Công ti KnAAPO của Nga chế tạo tất cả các máy bay FLANKER dùng cho hải quân và có thể chia sẻ với Sukhoi bất kì một hợp đồng nào như thế. Máy bay Su-33, có tốc độ Mach 2+, tầm 3.000km và có rất nhiều giải pháp lựa chọn trang bị vũ khí, sẽ tăng cường được khả năng tác chiến ngoài khơi hiện nay của Hải quân Trung Quốc. Máy bay này sẽ được trang bị cho tàu sân bay Varyag trong vài năm tới. Những vũ khí Trung Quốc có thể đặt mua bao gồm tên lửa chống tàu (ASM) Novator KS-172 tầm 300km, tên lửa chống bức xạ (ARM) Kh-59MK và Kh-31, tên lửa không đối không (AAM) Vympel R-77, cùng với tên lửa Navator phóng từ tàu ngầm mà Hải quân Trung Quốc đã mua, tên lửa hành trình phóng từ trên không (ALCM) 3M-54E rất có thể cũng được chọn để trang bị cho máy bay Su-33. Các nhà phân tích Trung Quốc cho rằng khi tàu sân bay Varyag được triển khai thì cũng không thể thiếu vai trò của trực thăng. Trực thăng sẽ bao gồm trực thăng tác chiến chống ngầm Ka-28 HELIX và trực thăng kiểm soát và báo động sớm đường không Ka-31 (Ka-252 RLD). Trung Quốc đang tìm hiểu về kiểu trực thăng tiến công và yểm trợ hoả lực Ka-252TB (Ka-29), nhưng loại này có lẽ để dùng cho lực lượng tàu đốc đổ bộ có sàn đỗ máy bay (LPD) Type 071 và tàu đổ bộ xe tăng (LST) mới. Varyag tại cảng Đại Liên Ngày 26/11 năm ngoái có một sự kiện đáng lưu ý: một quan chức của Bộ Quốc phòng Đài Loan báo động rằng Đài Loan rất cần tàu ngầm để tự vệ đối phó với sự phát triển nhanh chóng của Hải quân Trung Quốc, kể cả kế hoạch trang bị 2 tàu sân bay vào năm 2020. Các nhà phân tích lo ngại sự mở rộng của Hải quân Trung Quốc cuối cùng có thể sẽ vô hiệu hóa sự hiện diện của Hải quân Mĩ trong khu vực này. Theo nguồn tin của báo United Daily News và Apple Daily, Chen Yung-kang, một quan chức của Bộ Quốc phòng Đài Loan, cho biết tàu sân bay Varyag mà Nga đã hoàn tất một nửa hiện đang được sửa chữa ở Đại Liên và sẽ sẵn sàng dùng cho mục đích huấn luyện của Hải quân Trung Quốc trong 6 năm nữa. Ngoài ra, ông Chen còn cho biết “ Hải quân Trung Quốc đang có kế hoạch chế tạo tàu sân bay của riêng họ, mà theo dự định sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2020”. Tuy nhiên, những tuyên bố của Bắc Kinh ám chỉ nhiều hơn tới nhu cầu về một lực lượng gồm 3 tàu sân bay, có thể có hoặc không có tàu sân bay Varyag. Những cơ quan đóng vai trò then chốt trong những nỗ lực của Trung Quốc bao gồm Viện nghiên cứu thiết kế 702 và Trung tâm nghiên cứu về tàu Wuxi. Nếu như một hợp đồng về tàu sân bay của Trung Quốc được thực hiện trong năm 2006, nó sẽ được hạ thủy trước năm 2011 và được đưa vào sử dụng trước năm 2014; và tiếp theo đến năm 2016 chiếc thứ hai có thể được đưa vào sử dụng. GIẢM CHẾ TẠO MỚI TÀU KHU TRỤC Gần đây, việc giảm chế tạo tàu khu trục được coi là không đáng kể. Điều này có thể liên quan đến tài chính, hoặc có thể liên quan đến việc thảo luận về loại tàu nào tiếp theo sau khi tàu phòng không Type 051C và tàu đa năng lớp 052C, hoặc tàu Type 054A được chấp thuận là thiết kế tàu frigat tên lửa tương lai, 3 hoặc 4 xưởng đóng tàu chiến chính sẽ được chỉ định để chế tạo thiết kế này. Tàu khu trục phòng không Type 051C (lớp “Lư Châu”) (“Thẩm Dương” DDG-115) và “Shijiazhuang” (DDG-116) đang trong giai đoạn lắp đặt cuối cùng và sẽ được đưa vào sử dụng trong năm 2008. Cả hai tàu này sẽ được biên chế cho Hạm đội Bắc Hải khi đưa vào sử dụng. Tàu được trang bị tổ hợp tên lửa phòng không Altair S-300F/RIF-M (SA-N-6/GRUMBLE), với tên lửa 5V55RM trong 6 hệ thống phóng thẳng đứng kiểu ổ quay, có tầm 75km. Các nguồn tin của Nga cho biết tên lửa phòng không RIF-M đã xuống cấp và không thể thực hiện được nhiệm vụ chống tên lửa đường đạn chiến thuật. Một hệ thống pháo chủ lực Type 210 100mm được bố trí ở phía trước tàu, phát triển từ hệ thống pháo tự động Creusot-Loire T100C được bán cho Trung Quốc từ giữa thập kỉ 80. Nó trở thành hệ thống pháo chủ lực tiêu chuẩn trang bị cho tất cả các lớp tàu mới, ngoại trừ tàu DDG Type 956 do Nga chế tạo. Tám tên lửa chống tàu YINGJI-83 được trang bị cho tàu, có tầm tiến công 120km với khả năng tiến công lướt trên biển 5m ở 0,9 Mach. Hiện có 3 tàu khu trục đa năng Type 956/956EM (lớp Sovremenny) ở Trung Quốc và chiếc thứ tư (DDG-139) vẫn đang ở Nga, nhưng có thể sẽ được chuyển cho Trung Quốc trong năm nay. Những tàu khu trục đang hoạt động là: tàu “Hàng Châu” (DDG-136), “Phúc Châu” (DDG-137) và “Taizhou” (DDG-138) - tất cả 3 tàu này hiện được biên chế trong Hạm đội Đông Hải. Điều làm cho lớp tàu này trở nên nổi trội là do tàu được trang bị 8 tên lửa chống tàu MOSKIT 3M-80MBE (SS-N-22 SUNBURN), có tầm 200km và tốc độ 2,5 Mach. Đầu đạn được chọn có thể bao gồm một đầu đạn hạt nhân thông thường (20kT) 300kg. Một thiết bị sục sạo trên không 3 chiều TOP PLADE (230km) và 6 hệ thống điều khiển hoả lực tên lửa cho tên lửa hạm đối không SA-N-7, cùng với hệ thống vũ khí đánh gần (CIWS) KITE SCREECH (AK-130) và BASS TILT (AK-630). Tất cả loạt tàu này đều mang hệ thống tên lửa hạm đối không (48 tên lửa) dẫn đường bằng radar SHTIL 9M38 (SA-N-7 GRIZZLY), tầm xa 25km. Pháo chủ lực là một hệ thống pháo kép 130mm rất mạnh AK-130 (MR-184), có khả năng bắn 35 đến 50 viên đạn/phút. Tàu Type 956 có thể mang 4 hệ thống vũ khí đánh gần 6 nòng AK-650. Tất cả các tàu đều được trang bị trực thăng tác chiến chống ngầm PLA-N Ka-28 HELIX hoặc Z-9C (2 trực thăng). Chiếc thứ hai đã có sự thay đổi trong hệ thống vũ khí đánh gần. Hiện hệ thống vũ khí đánh gần KASHTAN được lắp đặt ở giữa tàu, bao gồm 2 hệ thống pháo 30mm GSh-6-30L Gatling/2 hệ thống SAM KORTIK (SA-N-11/GRISON) tầm gần. Trong khi các tàu đều mới, thì đa số sensor và vũ khí đều từ giữa thập kỉ 80 và tương tự như của phương Tây và Lực lượng phòng vệ trên biển của Nhật Bản. Vai trò của những tàu này của Nga là đa năng, tác chiến chống ngầm (AsuW) và vai trò này không thay đổi trong Hải quân Trung Quốc, điều này trở thành thách thức đối với Hải quân Mĩ khi phải bám theo những tàu này trong bất kì cuộc xung đột nào ở Đài Loan. Các nguồn tin của Trung Quốc cho biết họ đã mua thêm 2 tàu nữa trong năm 2002. Tàu Type 052C (lớp “Luyang-II”): 2 tàu này hiện đang hoạt động và được biên chế trong Hạm đội Nam Hải. Là tàu DDG đa năng 6.500 tấn, được chế tạo tại Xưởng đóng tàu Giang Nam (Thượng Hải), nhưng hiện vẫn chưa có thêm tàu lớp này. Đây là một lí do để Trung Quốc trang bị thêm tàu DDG trong thời gian tới. Vũ khí, sonar điện tử và hệ thống SAM HHQ-9 của tàu tạo ra khả năng phòng không mới cho các Lực lượng đặc nhiệm của Hải quân Trung Quốc trong vùng biển dễ xảy ra xung đột ở Biển Đông. Type 052C Haikou trên vùng Biển Đông Những tàu này là tàu duy nhất được trang bị 2 hệ thống radar mạng pha đặt trên đài chỉ huy nối với hệ thống SAM HHQ-9. 48 tên lửa được mang trong 8 ống phóng. 6 ống phóng được đặt ở phía trước của đài chỉ huy phía dưới hệ thống vũ khí đánh gần Type 730. Hệ thống SAM HHQ-9 là một tên lửa có thiết bị dẫn đường đầu cuối và tương tự như kiểu SAM của PLA. Hai tàu – “Lan Châu” (DDG-170) và “Haikou” (DDG-171) – được trang bị 8 tên lửa chống tàu YINGJI-62 (YJ-62) với tầm 280km, với một đoạn dẫn đường đầu cuối (40km) lướt trên biển ở độ cao 7- 10m. Dẫn đường ban đầu của tên lửa là một radar BAND STAND đặt trên đài chỉ huy. Các sensor khác bao gồm thiết bị sục sạo trên không 2 chiều tầm xa KNIFE REST (Type 517H-1) và thiết bị điều khiển hỏa lực RICE LAMP (Type 327G/EFR-1) dùng cho hệ thống vũ khí đánh gần. Có một hệ thống pháo chủ lực duy nhất Type 210 100mm (nhịp độ bắn là 90 viên đạn/phút) đặt ở phía trước, cùng với hệ thống vũ khí đánh gần Type 730. Những tàu mới còn được lắp đặt 4 ống phóng nhiễu 16 nòng, thay thế những ống phóng nhiễu thế hệ trước được trang bị cho các tàu khu trục và frigat trước đây. Tác chiến chống ngầm của Trung Quốc chủ yếu phụ thuộc vào các hoạt động từ xa của trực thăng Ka-28 HELIX và Z-9C trang bị cho mỗi tàu chiến. Trong một số hoạt động của tên lửa chống tàu, Ka-28 được kết hợp với radar BAND STAND. Cũng như với các tàu khu trục và tàu frigat khác của Trung Quốc, những tàu này được lắp ống phóng ngư lôi tác chiến chống ngầm 324mm (Mk.46 Mod.2) dùng cho ngư lôi Yu-7. Tàu sử dụng cùng loại thân tàu như tàu Type 052B (lớp “Quảng Châu”), động cơ đẩy bao gồm động cơ DA80/DN80 do U-crai-na chế tạo và 2 động cơ điêzen Shaanxi (MTU 20V956TB92).
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 20:01:07 GMT -5
KẾ HOẠCH TRANG BỊ TÀU FRIGAT VỚI SỐ LƯỢNG LỚN Người ta cho rằng Trung Quốc đã có kế hoạch chế tạo một thế hệ mới tàu frigat thông thường (Type 054A JIANGKAI-II), khoảng 28 tàu, chủ yếu để thay thế các lớp tàu “Giang Hồ” và “Giang Vệ” của thập kỉ 60. Tuy nhiên, cho đến nay mới chỉ có 2 tàu mới được xác định. Hai tàu Type 054A đầu tiên đã được chế tạo tại Hudong Zhonghua (Thượng Hải) và xưởng đóng tàu Huangpu (Quảng Châu), nhưng chưa thấy có thêm tàu tại xưởng đóng tàu Huangpu kể từ khi tàu trên được hạ thuỷ năm 2003. Tàu Type 054A được cải tiến rất nhiều về khả năng phòng không so với thiết kế tàu Type 0 (lớp “Jiangkai”) trước đây. Công ti thiết kế Severn của Nga đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thiết kế tàu Type 054A, chủ yếu các hệ thống của Nga được lắp đặt cho tàu. Sử dụng tên lửa tầm trung lớp mới STHIL 9M317 (SA-N-12 GADFLY) – tên lửa 9M38M1 (SA-N-7) đã được cải tiến–cho SAM Type 054 HHQ-7 tầm gần (CROTALE NAVAL) trước đây. 9M317 là một cải tiến từ đầu thập kỉ 90 dựa trên 9M-38M và 16 hộp chứa SAM được mang ở phía trước và 8 hộp ở phía sau. Tên lửa do Trung Quốc chế tạo được xác nhận là tên lửa HHQ-6. HHQ-6 có tầm 38km để đối phó với máy bay và 20km để đối phó với tên lửa hành trình bay thấp. Một pháo tự động Type 210 100mm được đặt ở phía trước, và 2 hệ thống vũ khí tác chiến gần Type 730 được đặt ở giữa tàu. Các thiết bị điện tử bao gồm một tổ hợp các hệ thống radar có nguồn gốc của Nga, hệ thống điều khiển hỏa lực (FCS) và phương tiện đối kháng điện tử(ECM)/phương tiện hỗ trợ điện tử (ESM) hiện đã được chế tạo tại Trung Quốc. Ở đây còn bao gồm hệ thống Type 363S, do Trung Quốc phát triển từ hệ thống radar sục sạo không/biển DRBV-15 SEA TIGER và MR-36A dải I của hãng Thomson-CSF. Tác chiến chống ngầm bao gồm sonar tần số trung bình, 2 ống phóng ngư lôi 324mm cho ngư lôi tác chiến chống ngầm Yu-7, cùng với 2 trực thăng Z-9C hoặc Ka-28 HELIX. Tàu Type 054 sử dụng động cơ đẩy CODAL thế hệ mới, kết hợp động cơ đi-ê-zen SEMT Pielstick (21.000 sức ngựa) với 2 động cơ đi-ê-zen Shaanxi MTU 20V 956TB92 (8,840 sức ngựa). Tàu Type 054A sử dụng động cơ đi-ê-zen do U-crai-na chế tạo và động cơ đi-ê-zen Shaanxi MTU. Những phát triển khác của tàu frigat, tàu “Huainan” (FF-540) bắt đầu được chuyển đổi như là tàu thử nghiệm sử dụng hệ thống phóng thẳng đứng dùng cho SAM LN-60. LIEYING-60 là một phiên bản của tên lửa PL-11 AAM dùng cho hải quân, được phát triển từ SAM ASPIDE của Italia, mua từ thập kỉ 80. Những phát triển ban đầu để dùng cho hải quân bao gồm lắp đặt 2 ống phóng có 6 hộp chứa tên lửa trên một tàu frigat “Giang Vệ-I” (Type 053H2G). Hệ thống sử dụng một thiết bị dẫn đường radar bán chủ động, có tầm từ 1-18km ở tốc độ 4,0 Mach. Type 053H2G Hai thay đổi khác đáng lưu ý là về tàu lớp “Giang Hồ” cũ hơn. Tàu “Zhaotung” (FF-555) (Giang Hồ-I) được chuyển đổi thử nghiệm sử dụng hệ thống pháo/tên lửa phòng không bao gồm Type 76 37mm và 2 giá treo SAM PL-9, được biết đến là hệ thống Type 715-II. Hệ thống kiểm soát hỏa lực ZTJ-1 mới hơn được tăng cường và tiến hành cải tiến những tàu khác. Tàu “Jiujiang” (FFS-516) được chuyển đổi thành tàu yểm trợ hoả lực ngoài khơi (FFS hoặc FSV), với hệ thống pháo chủ lực 100mm mới, lắp đặt 5 hệ thống rốc két phóng loạt 122mm, và trang bị hệ thống kiểm soát hoả lực Type 603 Optronic mới. Hiện có 3 tàu hoạt động với tính năng này: tàu “Nantong” (FFS-511), “Jiujiang” và “Shantou” (FFS-561). Tàu “Kaifeng” (FF-520) theo kế hoạch cũng được chuyển đổi nhưng chưa đủ điều kiện vật chất để tiến hành. TÀU TIẾN CÔNG NHANH Hải quân Trung Quốc hiện đang chế tạo duy nhất một tàu đổ bộ lớp Quixn (FAC-2208), và có một hợp đống với công ti đóng tàu Vympel Joint Stock của Nga để chế tạo tàu tiến công nhanh có trang bị tên lửa Project 12421 (lớp “Molniya”). Tàu lớp “Molniya” là một phiên bản nâng cấp của loạt tàu tiến công nhanh TARANTUL, tàu có thể được trang bị tên lửa chống tàu 3M80E (P-270 MOSKIT; SS-N-22/SUNBUR). Theo các nguồn tin của Nga, hợp đồng này được kí năm 2005. 4 tàu đầu tiên có thể được chuyển giao vào cuối năm 2007 đầu năm 2008. Được biết Hải quân Trung Quốc đang có nhu cầu 24-30 tàu “Molniya”. Tàu có trọng tải đầy đủ là 550 tấn, sẽ mang 4 tên lửa SSM SS-N-22, một pháo chủ lực AK-176M, 2 hệ thống vũ khí đánh gần AK-630, và 2 hoặc 4 tên lửa FASTA-M (S-N-8 hoặc loại sao chép lại của Trung Quốc). Có tầm hoạt động khoảng 2.400nm ở tốc độ hành trình 14 hải lí/giờ, có tốc độ tối đa là 38 hải lí/giờ. Ban đầu, 12 tàu được chuyển giao, với nhịp độ 2 tàu một năm. Giá có thể là 75 triệu USD một tàu. Tàu tiến công nhanh lớp “Qiuxin” (FACM-2208) là tàu đầu tiên được hạ thuỷ tháng 4/2004, tàu đầu tiên của loạt tàu được chế tạo tại xưởng đóng tàu Qiuxin (Thượng Hải). Cho tới nay, đã có 9 chiếc tàu này (7 chiếc đang hoạt động) . Người ta cho rằng tàu type 2 đã được chế tạo tại xưởng đóng tàu Quảng Châu-mặc dù những bức ảnh về tàu này cho thấy tàu chưa mang số hiệu. Tàu tấn công tốc độ cao mang tên lửa type 2208 Tàu có thiết kế 700 tấn, sử dụng thân tàu ghép, có lẽ dựa trên một kiểu tàu dân sự nhập từ công ti INCAT (Ôxtrâylia) có tên “Feihong”, được mở rộng và thiết kế lại thành một mẫu tàu có trang bị tên lửa rất ấn tượng. Trang bị loại tên lửa hạm đối hạm nào cho tàu còn đang thảo luận nhưng các nguồn tin đáng tin cậy của Trung Quốc cho biết đó là tên lửa YINGJI -83 (YJ-83) – 4 tên lửa được mang trên những ống phóng. Một hệ thống vũ khí đánh gần AK-630 được đặt ở phía trước, cùng với một hệ thống rađa/kiểm soát hỏa lực tên lửa Type 362A và thiết bị định hướng điện quang Type 603. Theo đơn đặt tầm có lẽ khoảng 1.800-2.000 hải lí. Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục chế tạo tàu này trong thập kỉ tới, họ đang có nhu cầu khoảng 20 đến 24 tàu để trang bị cho cả ba hạm đội. Việc chế tạo những tàu khác, lớp cũ hơn của Trung Quốc đang giảm. Năm 2002, tàu “Houxin” (Type 037/1G) đã hoàn thành được 13 tàu. Trong năm 2002 hoặc 2003, đã có 8 tàu “Houjian” (Type 037/2) lớn hơn được hoàn thành, mỗi tàu được trang bị 6 tên lửa YINGJI-2 (C.801/CSS-N-4 SARDINE SSM). Việc chế tạo tàu tuần tiễu “Haizhiu” (Type 062/1) đã được hoàn thành năm 2002 với 29 tàu. Năm 2003 việc chế tạo tàu “Haiqing” (Type 037/1) đã được kết thúc với 32-36 tàu để thay thế những lớp tàu “Thượng Hải” và “Hải Nam” đã quá lỗi thời; Nhà sản xuất chính là Công ti đóng tàu Qiuxin” (Thượng Hải), công ti này hiện đã chuyển sang chương trình chế tạo tàu “Qiuxin”.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 20:06:36 GMT -5
TÀU ĐỔ BỘ Trọng tâm của việc chế tạo tàu đổ bộ là 2 lớp tàu: tàu LPD Type 071 lớn và tàu LSM (tàu đổ bộ tầm trung) thân ghép lớp “Yunshu”. Cả hai tàu này đều có thể được tiếp tục chế tạo trong vài năm nữa. Hơn 10 năm qua, Trung Quốc đã đưa vào sử dụng 20 tàu đổ bộ mới. Tàu Type 071 LPD: Ngày 20/12/2006, chiếc tàu đầu tiên đã được hạ thủy tại xưởng đóng tàu Hudong-Zhonghua (Thượng Hải) và là tàu đổ bộ lớn nhất hiện nay đang hoạt động trong Hải quân Trung Quốc. Tàu thứ hai thuộc lớp này đang được chế tạo tại xưởng đóng tàu Đại Liên. Xưởng này đã hoàn thành việc chế tạo tàu LST “Yuting-II” (Type 072-III) trong năm 2005. Có một số khác biệt về tính năng, nhưng ước tính tàu có lượng giãn nước 20.000 tấn (có thể so sánh với tàu LPD lớp “Austin”của Hải quân Mỹ). Sàn đổ bộ phía sau có mang 2 đến 4 trực thăng: 2 trực thăng Z-8 (SUPER FRELON); hoặc 4 trực thăng Ka-29 (6), Z-9 hoặc Z-10. Có những điểm khác nhau về khả năng chở xe và chở quân, nhưng nó có thể chở tối đa 800-900 quân và có chỗ cho 20 xe tăng tầm trung hoặc 60-75 xe chở quân bọc thép/xe chiến đấu chở quân. Tàu này còn có thể mang theo 2 đến 4 xuồng đổ bộ đệm khí. Trung Quốc đã có xe chở quân bọc thép Type 63 và Type 89, xe chiến đấu bộ binh Type 86, hệ thống pháo 105mm Type 63A và hiện nay đang bắt đầu chương trình tàu đổ bộ ZBD-97 (Type 97) được trang bị pháo chủ lực 100mm và pháo đồng trục 30mm dùng cho Hải quân đánh bộ, cùng với một phương tiện tác chiến điện tử mới hiện đang thử nghiệm (đã thấy chiếc đầu tiên hồi tháng 8/2006). Tàu có tầm 6.000 hải lí ở 12 hải lí/giờ, đủ để đưa các đơn vị của Trung Quốc đến bất kì nơi nào ở châu Á. Tàu đổ bộ Type 071 Tàu đổ bộ (LSM) tốc độ cao lớp “Lunshu” hiện đang được chế tạo tại 2 xưởng đóng tàu: Zhonghua (Vũ Hán) và Lushun-New Dalian. Có khoảng 12 tàu đã đưa vào hoạt động, được chuyển giao với nhịp độ 3 chiếc một năm. Tàu đổ bộ này ước tính có lượng giãn nước khoảng 1.800 tấn, và có thể mang 12 xe và có một sàn đỗ nhỏ cho một trực thăng hạng nhẹ (trực thăng Z.9). Tàu đệm khí (ACV) ZUBR (Project 1232.2 lớp “Pomornik”): hợp đồng với Nga có thể chuẩn bị được kí hoặc đã được kí. Yêu cầu đặt ra là 8 tàu 550 tấn. Tàu có tầm hoạt động 300 (trọng tải đầy đủ) đến 1.000 hải lí, với trọng tải tối đa 230 tấn, có thể bao gồm một số xe bọc thép và 140-350 quân. Mỗi chiếc có giá khoảng 65 triệu USD và việc chuyển giao có thể được tiến hành với nhịp độ 2 chiếc mỗi năm, một khi hợp đồng được khẳng định. Tàu đổ bộ, đệm khí (LCAC): Trung Quốc đang sử dụng một vài LCAC lớp “Jingsah II” (22m) cho những chức năng khác, nhưng có chương trình khác cho 24 LCAC quân sự để thực hiện những nhiệm vụ của LPD Type 071 mới và các nhiệm vụ hoạt động ven bờ khác. Khi chương trình được bắt đầu, các xưởng đóng tàu của Trung Quốc có thể chuyển giao 4 hoặc 5 tàu mỗi năm. NHỮNG TÀU KHÁC Trung Quốc đang có chương trình chế tạo tàu quét thủy lôi đại dương (MSO) 750 tấn, chiếc đầu tiên mang số hiệu 804. Ít nhất có 3 chiếc được chế tạo tại xưởng đóng tàu Qiuxin. Trung Quốc đang có nhu cầu 12 đến 24 tàu để thay thế tàu T-43 MSF đã lỗi thời. Năm ngoái, Hải quân Trung Quốc đã cho hạ thuỷ ít nhất 2 tàu hỗ trợ mới, bao gồm tàu AGE-892 và một tàu khác, tàu được trang bị hệ thống radar mạng pha như radar trang bị cho tàu DDG Type 051C. Tàu có một sàn đỗ trực thăng ở phía sau. Tàu đã được chuyển giao cho Hải quân Trung Quốc và nó đã mở ra một kỉ nguyên mới trong những lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, huấn luyện và những nhiệm vụ khác. Công ty chế tạo máy bay Xian cũng đã bắt đầu cho bay thử nghiệm một loại BADGER mới. Được thiết kế lại để sử dụng động cơ turbin cánh quạt DA-30 của Nga, máy bay này được trang bị tên lửa chống tàu phóng từ trên không. Nếu những cuộc thử nghiệm thành công, rất có thể máy bay này sẽ được dùng để thay thế toàn bộ máy bay H-6D. ĐÁNH GIÁ Chương trình hiện đại hóa của Hải quân Trung Quốc không phải không có những nhược điểm, kể cả khả năng hoạt động tiến công. Giáo sư Bernard Cole ( Trường Đại học Chiến tranh quốc gia Mỹ) đã kết luận: “Bằng chứng hiện nay cho thấy rằng Bắc Kinh vẫn còn chưa nỗ lực để tổ chức cho Hải quân Trung Quốc có khả năng lớn hơn một nỗ lực phòng thủ trong khoảng 400 hải lí của bờ biển Trung Quốc”. Bất kì một bài toán nào được giải quyết liên quan đến hải quân thì cũng phải bao gồm cả những phát triển của lục quân và không quân trong bất kì một hoạt động tương lai nào. ĐỘI HÌNH TÁC CHIẾN CỦA HẢI QUÂN TRUNG QUỐC Hải quân: 230.000, bao gồm 26.000 không quân hải quân và 10.000 hải quân đánh bộ, cộng với khoảng 40.000 lính nghĩa vụ. Thời gian nghĩa vụ: 2 năm. CÁC CĂN CỨ Thanh Đảo, Đại Liên, Lữ Thuận, Huludao, Uy Hải, Chengshan, Yuchi, Thượng Hải, Wusong, Định Hải, Hàng Châu, Xiangshan, Trạm Giang, Quảng Châu, Hải Khẩu, Du Lâm, Bắc Hải, Hoàng Phố, những tiền đồn ở quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. CƠ CẤU TỔ CHỨC Sở chỉ huy của Hải quân Trung Quốc (cơ quan: chỉ huy, chính trị, hậu cần, trang bị), hạm đội, các đơn vị cấp chiến dịch. Các lực lượng bao gồm: tàu ngầm, tàu mặt nước, không quân hải quân, hải quân đánh bộ, các lực lượng bờ biển. Hạm đội Bắc Hải- Sở chỉ huy ở Thanh Đảo Nhiệm vụ: bảo vệ bờ biển từ biên giới Triều Tiên (sông Áp Lục) và phối hợp với Quân khu Tế Nam. Cơ sở yểm trợ hạt nhân duy nhất đặt ở Huludao; “khu vực phòng thủ bờ biển” (CDZ) của Hải quân Trung Quốc bao gồm: Đại Liên, Yingkou, Uy Hải, Qinhuangdao, Jianjin, Jiaonan. Sân bay của Hải quân Trung Quốc: Tuchengzi (Đại Liên), Thanh Đảo, Jinxi, Xingtai, Liugongdao, Qinhuangdao. Hạm đội Đông Hải- Sở chỉ huy ở Ninh Ba. Nhiệm vụ: phòng thủ bờ biển từ phía nam Lianyungang đến Đông Sơn; và “khu vực phòng thủ bờ biển” bao gồm: Lianyugang, Wusong, Định Hải, Ôn Châu, Ningde, Hạ Môn. Sân bay: Ninh Ba, Thượng Hải, Luchiao, Shitangqiao, Phúc Châu, Hạ Môn. Hạm đội Nam Hải- sở chỉ huy ở Trạm Giang. Nhiệm vụ: phòng thủ bờ biển từ Đông Sơn đến biên giới Việt Nam và (bao gồm cả quần đảo Trường sa và Hoàng sa); “khu vực phòng thủ bờ biển” bao gồm: Trạm Giang, Quảng Châu, Du Lâm (căn cứ tàu ngầm chính). Sân bay: Trạm Giang, Lĩnh Thủy, Hải Khẩu, Sanya. CÁC LỰC LƯỢNG HẠM ĐỘI Tàu ngầm: Tàu ngầm mang tên lửa đường đạn: 1 (+1) Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn (SSBN) Type 094 lớp “Jin” (8.500-9.000 tấn, 12 tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm (SLBM) (CSS-NX-4, 3-4 đầu đạn MIRV 90-kT, có tầm 8.000km) Tàu ngầm lớp Jin 1 Tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đường đạn (SSBN) Type 092G “Chang Zheng 6 Hao” (Xia #406) (7.000 tấn, 12 tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm (SLBM) (CSS-NX-3), 1 đầu đạn 1,25 MT TO 2.800km) Tàu ngầm hạt nhân tiến công : 2 tàu chưa đưa vào sử dụng + 2 tàu ngầm hạt nhân tiến công Type 093/09 lớp “Shang” (6-7.000 tấn, 6 x 533mm ống phóng ngư lôi (TT), với tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm (SLCM) 3M54E (tốc độ 0,8 Mach, tầm 300km), ngư lôi chống ngầm YJ-82, ngư lôi dẫn đường bằng dây Yu-6/53-65KE và ngư lôi Yu-1, Yu-4; 4+1 (không hoạt động) tàu ngầm hạt nhân tiến công (SSN) Type 091 lớp “Chang Zheng 2” ( lớp “Han”) (5-6.000tấn, 6 ống phóng ngư lôi 533mm (TT) cho ngư lôi chống ngầm YJ-82, ngư lôi dẫn đường bằng dây Yu-6 và ngư lôi Yu-1 (SET 53-57) và ngư lôi Yu-4. 1 (+3) tàu YUAN/Type 041 (2.000 tấn) với 6 ống phóng ngư lôi 533mm; 6 (+) tàu Type 039G/SONG-II (1.700 tấn) với 6 ống phóng ngư lôi 533mm 2 (+5) tàu Type 636/KILO II (2.350 tấn) với 6 ống phóng ngư lôi 533mm 2 tàu Type 877EKM/KILO I (2.350 tấn) với 6 ống phóng ngư lôi 533mm; 1 tàu 039/SONG-I (1.700 tấn) với 6 ống phóng ngư lôi 533mm ; 17 tàu 035G/ES5D/ES5E/MING (1.584 tấn ) với 8 ống phóng ngư lôi 533mm; một tàu đã bị hỏng 5/2003, #361; 30 tàu Type 033/ROMEO (1.319 tấn) 8 ống phóng ngư lôi 533mm ; 1 tàu Type 031/Golf IV với 1 hầm phóng tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm (SLBM) JL-2
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 20:10:52 GMT -5
Tàu khu trục: 1 (+1) tàu SOVREMMENNY (Type 956-EM) (chiếc thứ 2 đã được chuyển giao tháng 9/2006) 0 (+2) tàu Type 051C “Shijiazhuang” với 1 pháo 100mm, 6 x 8 hộp chứa tên lửa (tổng số 48), RIF-M/S-300F (48N6E; SA-N-6 GRUMBLE) 2 x 4 hộp chứa tên lửa hạm đối hạm (SSM) YJ-83 (C-803), 2 hệ thống vũ khí đánh gần (CIWS) Type 730, 2 x 324 ống phóng ngư lôi tác chiến chống ngầm (ASW), 2 trực thăng tác chiến chống ngầm Z.9C . 2 tàu Type 052C lớp “Lan Châu” với 1 pháo 100mm, 6 x 8 hộp chứa tên lửa phòng không (ASM) HHQ-9, rađa mạng pha, 2 x 4 hộp chứa tên lửa hạm đối hạm (SSM) YJ-85 (C-805), 2 hệ thống vũ khí đánh gần (CIWS) Type 730; 2 tàu Type 0 “G” (ngư lôi tác chiến chống ngầm (ASW) C324mm YU-85), 2 súng cối 240MM A A/S, 4 hệ thống rốc két phóng loạt (MLRS) 2 tàu SOVREMMENNY (Type 956-EM) với 2 x 4 tên lửa hạm đối hạm (SSM) SS-N-22 (SUNBURN), 2 tên lửa phòng không (SAM) 9M38 (SA-N-7), 4 pháo 130mm, 4 pháo 30mm, 4 ống phóng ngư lôi 533mm, 2 súng cối RBU 1000 A/S. 1 tàu Lữ Hải với 16 tên lửa hạm đối hạm (SSM) YJ-82, 2 pháo 100mm, 1 x 8 tên lửa phòng không HHQ-7 CROTALE của hải quân. 2 trực thăng HARBIN Zhi-9A 2 tàu Lữ Hộ với 8 tên lửa hạm đối hạm (SSM)YJ-1 (HY-2), 2 pháo 100mm, 8 pháo 37mm, 6 ống phóng ngư lôi 324mm , 1 x 8 tên lửa phòng không HHQ-7 CROTALE của hải quân, 4 pháo phòng không kép 37mm, 2 x 3 AST 324mm. 1 tàu Lữ Đại III (Type 051G) (Zhanjiang, DD-165), 8 tên lửa hạm đối hạm YJ-1, 2 x 2 pháo 130mm, 4 x 2 pháo 37mm, 6 ống phóng ngư lôi 324 mm, 2 súng cối FQF2500 A/S hoặc “Zhuhai” (DD-166) tái trang bị với 8 Yingji-8 (C-801) và pháo phòng không kép mới 37mm Type 76A (DARBO-type). 1 tàu Lữ Đại II với sàn đỗ trực thăng cho 2 trực thăng tác chiến chống ngầm Z.9C, huỷ bỏ hệ thống pháo kép 130mm và pháo 57mm, và trang bị trung tâm chỉ huy, kiểm soát, truyền thông và tình báo tác chiến chống ngầm mới. Giữ lại ống phóng tên lửa hạm đối hạm Yingji-1 (HY-2). 14 tàu Lữ Đại I với 6 tên lửa hạm đối hạm (SSM) YJ-1 (HY-2), 2 x 2 pháo 130mm, 4 x 2 pháo 57mm, 4 x 2 pháo 37mm, 4 x 2 pháo 25mm, 6 ống phóng ngư lôi 324mm, 2 súng cối FQF2500 A/S, mìn; 3 tàu (DD-110, 132, 165) được tăng cường với trung tâm chỉ huy, kiểm soát, truyền thông và tình báo (C3I) phòng không . Đầu những năm 90, 2 tàu được trang bị 8 hộp chứa tên lửa phòng không CROTALE của hải quân (“Xian” DD-106 và “Keifeng” DD-109); Cuối thập kỉ 90, tàu “Keifeng” được hiện đại hóa với tên lửa hạm đối hạm Yingji-83 (C-803) thay thế tên lửa hạm đối hạm YJ-1 và 4 pháo 37mm 76A mới thay thế những pháo cũ; Cả 2 tàu “Đại Liên” (DD-110) và “Zhanjiang” (DD-165) cũng được nâng cấp tương tự trong thời gian từ 2003-2005. Tàu Luda I Tàu Frigat: 0+2+26 tàu JIANGKAI II (Type 054A) - được đặt mua giữa năm 2005. 2 pháo 100mm, 2 x 4 hộp chứa tên lửa hạm đối hạm (SSM) YJ-83 (C-803), 1 x 8 hộp chứa tên lửa phòng không (SAM) HQ-7, 4 hệ thống vũ khí đánh gần (CIWS) AK-630 30mm, 2 x 3 ống phóng ngư lôi ILAS-3 324mm cho ngư lôi tác chiến chống ngầm (ASW) Yu-7 (Mark 48Mod.2) 4 tàu Giang Vệ/Type 055 (lớp “Anqing”) với 2 x 3 tên lửa hạm đối hạm (SSM) YJ-8 (C.801), 2 x 6 súng phóng rốc két chống ngầm (ASW RL) Type 3200, 1 pháo Type 79A 100mm, 4 pháo (phòng không) 37mm, 1 x 6 hộp chứa tên lửa phòng không (SAM) HQ-61B SR (12-km), 2 trực thăng HARBIN Z-9A (DAUPHIN 2) 10 tàu Giang Vệ II/Type 053H3 (lớp “Xiaxing”) với 8 tên lửa phòng không (SAM) YJ-8 (C.801), 1 pháo Type PJ33A, 4 x 4 pháo 37mm, 2 x 6 ống phóng rốckét Type 3200 A/S, 1 8 SAM HHQ-7 SR (13-km), 1 trực thăng HARBIN Z-9C 6 tàu JIANGHU V/Type 053H1G với 2 x 3 hộp chứa tên lửa hạm đối hạm (SSM) SY-1A (CSS-N-1) (35km), 2 pháo Type 79A 100mm, 4 x 2 pháo (phòng không) Type 76A 37mm, 2 x 6 súng phóng rốc két chống ngầm (ASW RL) Type 3200, sonar chủ động tần số trung bình SJD-5, sonar thụ động SJC-1B Tàu lớp Giang Vệ II 1 tàu JIANGHU IV/Type 053HT – H (“Siping” – 544) với 1 x 3 tên lửa hạm đối hạm (SSM) SY-1A, 1 pháo tự động Creusot-Loire Compact 100mm (phía trước), 4 x 1 tên lửa phòng không (SAM) PL-9C SR (mod Type 76), 4 x 2 pháo (phòng không) Type 76 37mm, 2 ống phóng ngư lôi ILAS-3 324mm cho ngư lôi tác chiến chống ngầm (ASW) A.244S, 2 x 5 súng phóng rốc két chống ngầm (ASW RL) Type 62, 1 trực thăng HARBIN Z.9 với ngư lôi tác chiến chống ngầm (ASW) Yu-7K, sonar chủ động tần số trung bình EH-5 1 tàu JIANGHU III/Type 053H2 với 8 tên lửa hạm đối hạm (SSM) Ying-ji-8 (C.801) (42km) (“Zhoushan” 537 mod w/8 x YJ-82 (C.803), 2 x 2 pháo Type 79A 100mm, 4 x 2 pháo (phòng không) Type 76 37mm, 2 x 5 súng phóng rốc két (RL) Type 62 A/S, sonar chủ động tần số trung bình EH-5 Tàu tuần tiễu 4 (+2) tàu Project 12421 MOLNIYA/tàu tên lửa tiến công nhanh TARANTUL IV (hợp đồng đặt mua của công ti Vympel Joint Stock Shipbuilding Co, Nga, 2005) với 4 tên lửa hạm đối hạm (SSM) P-270 MOSKIT (SS-N-22 SUNBURN), 1 AK-176, 1 x 4 tên lửa phòng không (SAM) Fasta-4M (SA-N-8), 2 pháo phòng không AK-630 Gatling 30mm 7 (+3+6) tàu tên lửa tiến công nhanh lớp “Qiuxin” với 4 SSM YJ-83, 1 hệ thống vũ khí đánh gần (CIWS) AK-630. Theo chương trình ít nhất sẽ có 20-24 hệ thống. 7 tàu HOUJIAN/tàu tên lửa tiến công nhanh Project 720T với tên lửa hạm đối hạm (SSM) YJ-8 (C.801); 5 với pháo AK-176 76mm, 2 pháo 30mm; 2 với 4 pháo 37mm Type 76A. 5 tàu được coi là một phần của Các lực lượng đồn trú Hồng Công, tất cả đều có pháo AK-76 đặt ở phía trước. 19 tàu HOUXIN/tàu tên lửa tiến công nhanh Type 037 với 4 tên lửa hạm đối hạm (SSM) YJ-8, 2 x 2 pháo 30mm 60 tàu HUANGFEN/HOLA/tàu tên lửa tiến công nhanh Type 021 với 4 x 1 tên lửa hạm đối hạm (SSM) SY-1/C-201 (CSS-N-1), 2 x 2 pháo 25mm. Khoảng 45 tàu dự bị. Trên 125 tàu tên lửa tiến công nhanh HOUKU với 2 tên lửa hạm đối hạm (SSM) SY-1, 2 hoặc 2 x 2 pháo 25mm 36 tàu HAIQUING/tàu Type 037/tàu tuần tiễu tiến công nhanh ID với 2 x 2 pháo 37mm, 2 x 2 pháo 25mm, 2 x 6 súng cối Type 87/RBU-1200 A/S Type 037 Haiquing 90+12-15 tàu tuần tiễu tiến công nhanh HAINAN (dự bị) với 2 x 2 pháo 57mm, 2 x 2 pháo 25mm, 5 ống phóng rốckét Type 81/RBU-1000 A/S 2 tàu tuần tiễu lớn HAIJIU với 2 x 2 pháo 57mm, 2 x 2 pháo 30mm, 4 súng cối RBU1200 A/S 15 tàu tuần tiễu ven biển HAIZHUI với 2 x 2 pháo 37mm, 2 x 2 pháo 25mm 20+80 tàu SHANGHAI II 9 (dự bị)/tàu pháo tiến công nhanh Type 62C với 2 x 2 pháo 37mm, 2 x 2 pháo 25mm
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 20:14:05 GMT -5
Tác chiến thủy lôi 1 tàu WOLEI/tàu rải thủy lôi Type 91B (PN#814) (2.300 tấn), 2 x 2 pháo 37mm, 2 x 2 pháo 25mm, 200 mìn 1 (+4) tàu quét thủy lôi đại dương lớp No.804 (700 tấn), 1 x 2 pháo 37mm. Đang chế tạo thêm tại xưởng đóng tàu Qiuxin, Thượng Hải. Kế hoạch 30 tàu. 30-40 tàu quét thủy lôi đại dương Type 10/T-43 4 tàu WOSAI/tàu quét thủy lôi Type 082 (PN #4422) đường sông Tàu đổ bộ: 1 (+2 đã có kế hoạch) đốc đổ bộ (LPD) Type 071, 13.750 tấn (trọng tải đầy đủ), 160 x 27 mét, 1 pháo AK-176 76mm, 2-4 hệ thống vũ khí đánh gần (CIWS) AK-630 30mm, 6 tàu đổ bộ chở xe và quân hoặc 2 tàu đổ bộ thông thường , 75-80 xe chiến đấu bộ binh hoặc 20 xe tăng chiến đấu chủ lực, 2 trực thăng Z.8A tầm trung. Hợp đồng đặt mua cuối năm 2006 với xưởng đóng tàu Hudong-Zhonghua, Thượng Hải. 9 tàu YUTING-III/ tàu đổ bộ (LST) Type 072-III với 4 x 2 pháo Type 76 37mm cho tàu 500 tấn hoặc 200 quân và 2 tàu đệm khí Type 724, hoặc 10 xe tăng chiến đấu chủ lực – đã được hoàn thành tại xưởng đóng tàu Đại Liên và xưởng đóng tàu Hudong-Zhonghua, từ năm 2002-04. Type 072-III 11 tàu YUTING-II/ LST Type 072-II 2 x 3 pháo Type 76A 30mm cho xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT), 18 xe chiến đấu bộ binh (IFV) hoặc chở 500 tấn hàng và 2 tàu đệm khí Type 724 7 LST YUKAN/Type 072 với 2 x 3 pháo 57mm cho 5 xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) hoặc 10 xe chiến đấu bộ binh (IFV), 20 quân hải quân đánh bộ hoặc 500 tấn hàng. 23 tàu YUHAI/ tàu đổ bộ tầm trung (LSM) với 5 pháo 14,5mm cho xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT), 6 xe chiến đấu bộ binh (IFV) hoặc 250 quân 1 tàu YUDENG/LSM Type 073 với 2 x 2 pháo 37mm cho 10 xe chiến đấu bộ binh (IFV), 200 quân hoặc 250 tấn hàng 4-5 tàu YUDAO/ LSM Type 073-II với 4 x 2 pháo 25mm cho 6 xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) hoặc 250 quân 4 tàu chở quân QIONGSHA, chở 400 quân 6 (+6) LSM YUNSHU ( No.545) với 1 x 2 pháo 57mm, 250 tấn hàng, 6 xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) hoặc 250 quân - hiện đang được chế tạo tại các xưởng đóng tàu Zhonghua (Vũ Hán) và Lushun ( Đại Liên mới) 31 tàu YULIAN/ LSM Type 079-I/II với 2 x 2 pháo 25mm, 1 x 40 rốc két phóng loạt (MRL) Type 81H 122mm cho 5 xe tăng hạng nhẹ/xe chiến đấu bộ binh (IFV) hoặc 8 xe tải hoặc 200 tấn hàng 13 (+7) tàu đổ bộ thông thường (LCU)/LSM, ước tính 100 tấn hàng, 6 xe chiến đấu bộ binh (IFV) hoặc lên tới 100 quân và 100 tấn hàng - vẫn đang được chế tạo tại Lushun và Zhonghua. 21 tàu sẽ được hoàn thành vào giữa năm 2007 0 (+6+2) tàu đệm khí (ACV) ZUBR với 2 x 4 SAM SA-N-5 (GRAIL) SR, 2 hệ thống vũ khí đánh gần (CIWS) AK-630, 10 xe chiến đấu bộ binh hoặc 3 xe tăng chiến đấu chủ lực (MBT) cộng với 230 quân 30 tàu PAYI/tàu đổ bộ đệm khí (LCPA) Type 724 23 tàu LCU YULING 50 tàu YUQIN/ LCM Project 069 30-40 tàu YUCHAI/ LCM Project 068 225 tàu YUNNAN/ LCM Type 067 Lực lượng bảo đảm và hỗ trợ: 1 tàu chỉ huy AGC #953-hạ thủy năm 2004, đưa vào sử dụng năm 2005 2 tàu tiếp tế hạm đội “Fuchi” (AOR) – 24.500 tấn trọng tải đầy đủ, 170 x 25m với 4 x 2 pháo 37mm Type 76, sàn đỗ cho 2 trực thăng hạng trung ở phía sau - được đưa vào sử dụng năm 2003 – 04, tên: Fuchi (AOR-886), Weishanwan (AOR-887) 1 tàu tiếp tế hạm đội NANCANG (AOR) “Nanyun” (AOR-953) 2 tàu tiếp tế hạm đội FUQING (AOR) “Taikang” (AOR-881), “Fencang” (AOR-882) 3 tàu JINYOU, 3 tàu SHENGLI, trên 20 tàu FULIN, trên 24 tàu FUZHOU, 5 tàu vận tải dầu LEIZHOU (AOT) 2 tàu vận tải tên lửa DAYUN/ tàu tiếp tế (AFS) 2 tàu chở đạn YANTAI (AE) 16-20 tàu chở hàng ven biển (AK) 1 tàu thu thập tin tức tình báo DADIE (AGI) “Beidiao” #841 1 tàu “Shiyan”/WUHU-B (AGE) #891 1 tàu hỗ trợ vũ khí YANXI (AGE) “Hsun” #701 1 tàu phá băng YANBING/tàu thu thập tin tức tình báo (AGB/AGI) 3 tàu yểm trợ YUAN WANG (AGM), 1 tàu XIANGYANGHUNG (AGM), 1 tàu yểm trợ tên lửa DONGDIAO (AGM) “Dongiao” #232 1 tàu huấn luyện không quân hải quân SHICHANG (#82) (AXT) cho trực thăng 1 tàu huấn luyện sĩ quan hải quân (AXT) “Zhenghe” #81 3 tàu yểm trợ tàu ngầm DAJIANG, 1 tàu DAZHI, 2 tàu DALANG-II (AS) với 2 thiết bị cứu nạn tàu ngầm vùng biển sâu (DSRV) Tàu sửa chữa do Nga chế tạo (ROV) và 1-2 trực thăng Z.9 2 xuồng cứu nạn DALANG-1, 2 DAZHOU, 1 HUDONG 1 tàu cứu hộ DAOZHA 1 tàu sửa chữa GALATI AR 10 tàu nghiên cứu và khảo sát hải dương học (AGS) 3-4 tàu rải cáp YOUZHONG (ARC) 3 tàu phá băng YANHA (AGB) 3+ xuồng YANNAN, 12 phương tiện cứu hộ khác nhau 14 tàu chở nước ven biển (AWT) Cơ cấu tổ chức lực lượng phòng thủ khu vực bờ biển: 32 trung đoàn pháo độc lập và tên lửa hạm đối hạm (SSM) được triển khai ở 25 khu vực phòng thủ bờ biển để bảo vệ các căn cứ hải quân, các đảo ngoài khơi và những điểm có thể bị tiến công khác. Pháo: 85mm, 100mm, 130mm Tên lửa bờ đối hạm (SSM): CSS-C-3 (HAI YING 2) Máy bay của Hải quân Trung Quốc: Máy bay tiêm kích: Trên 48 J-8A/B/D (FINBACH), 250 J-7E/H, 120 J-6 (FARMER), 26 J-7 (FISHBED) Máy bay tiêm kích/tiến công mặt đất: 23 Su-30MK.2 (FLANKER), 36 JH-7 (FLYING LEOPARD) 40 Q-5D/E (FANTAN) Máy bay ném bom: 52 H-6D BADGER, 24 H-6H, 20 H-6M, 8+ đang chế tạo, 30+70 H-5 dự bị (BEAGLE), 1 H-6K Máy bay trinh sát: 3-4 Yun-8X (X=Xun; cảnh giới), 7 HZ-5 Nhiệm vụ đặc biệt: 1 Y-8DZ ELINT, 12-15 HD-5 BEAGLE Máy bay chở dầu:3 H-6DU Máy bay trinh sát trên biển/ tác chiến chống ngầm: 2-3 Yun-8J (SEARCHWATER) 4 SH-5 Trực thăng (tác chiến chống ngầm): 10 Ka-28 HELIX, 20 AS 321G/J SUPER FRELON, 12 Z-8C (đưa vào chế tạo năm 2003), 8 AS-565 (PANTHER), 25 Z.9C DAUPHIN 2, 6-8 KA-28 SAR. Thử nghiệm và phát triển: đang phát triển 1 H-6X (YJ-83/C.803 Máy bay vận tải: 8 YUN-8, 2-4 YUN-7, 2 YAK-42, 6 AN-26, 12-15 YUN-5 (AN-12) Máy bay huấn luyện: 12-15 QJ-5 (FANTAN), JJ-7, JJ-6, 50+ PT-6.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 20:18:41 GMT -5
THỰC LỰC HẢI QUÂN TRUNG QUỐC NĂM 2006 (TÀI LIỆU ĐÃ ĐƯỢC CÔNG KHAI)
Hải quân Trung Quốc được thành lập vào ngày 23 tháng 4 năm 1949. Tổng số binh lực của hải quân là 30 vạn người (300000 người) ,trong đó binh chủng phòng không không quân trực thuộc hải quân là 2,5 vạn người (25000 người ) ,lực lượng biên phòng bờ biển là 2,5 vạn ,thủy quân lục chiến là 4 vạn . Cơ cấu chỉ huy của hải quân gồm : Bộ tư lệnh hải quân , Bộ chính trị , Cục hậu cần . Đơn vị tác chiến hải quân được chia ra : Hạm đội Bắc Hải , Hạm đội Đông Hải , Hạm đội Nam Hải ,Lực lượng phòng không trên biển và lực lượng biên phòng bờ biển . Trang bị vũ khí của hải quân Trung Quốc : 1/Khu trục hạm : Cấp "Lữ Hải" (054), 6000 tấn , 1 chiếc Cấp "Lữ Hộ" (052), 4200 tấn , 2 chiếc Cấp "Lữ Đại" (051), 3670 tấn , 16 chiếc Cấp"Yên Sơn" (07), 2830 tấn , 4 chiếc , đã hết thời gian phục vụ
2/Hộ tống hạm : Cấp "Giang Vệ II" (053H3), 3100 tấn , 1 chiếc Cấp "Giang Vệ I" (053H2G), 2250 tấn , 4 chiếc Cấp "Giang Hồ" (053H/H1/H2/H1G) , 1700-1924 tấn , 27 chiếc Cấp "Giang Đông" (053K) , 2250 tấn , 1 chiếc , đã hết thời gian phục vụ Cấp "Giang Nam" (065) , 1600 tấn , 5 chiếc , đã hết thời gian phục vụ Cấp "Thành Đô" (065) , 1460 tấn , 4 chiếc , đã hết thời gian phục vụ
3/Tàu ngầm : Cấp "Hạ" (092) , 8000 tấn , 4 chiếc Cấp "Hán" (091) , 5000 tấn , 5 chiếc Cấp "G" (6631) , 2350-2950 tấn , 1 chiếc Cấp "K" (kilo877/636) , 2350-3000 tấn , 4 chiếc Cấp "Vũ hán A" (33G1) , 1350-1700 tấn , 1 chiếc Cấp "Minh" (035) , 1500-1900 tấn , 10 chiếc Cấp "Tống" (039) , 1700-2250 tấn , 2 chiếc Cấp "R" (6633) , 1350-1700 tấn , 103 chiếc Cấp "W"(6603) , 1080-1350 tấn , 15 chiếc ,đã hết thời gian phục vụ
4/Tàu tên lửa cao tốc : Cấp "Hồng Tiễn" , 542 tấn , 20 chiếc Cấp "Hồng Tinh" , 480 tấn , 24 chiếc Cấp "Hoàng Phong" (021) , 205 tấn , 120 chiếc Cấp "Hà Cốc" (024) , 79 tấn , 100 chiếc
5/Tàu phóng lôi cao tốc : Cấp "Hồ Xuyên" (025/026) , 39 tấn , 105 chiếc Cấp "P6" , 56 tấn , 60 chiếc Cấp "P4" (02) , 19,3 tấn , 20 chiếc
6/Tàu tuần tra : Tàu tuần tra cao tốc cấp "Thượng Hải" (062) , 113 tấn , 320 chiếc Tàu cao tốc chống tàu ngầm cấp "Hải Nam" (037) , 392 tấn , 70 chiếc
7/Tàu đổ bộ : Tàu đổ bộ xe tăng cấp "Ngọc Khang" (072) , 4170 tấn , 7 chiếc Tàu đổ bộ xe tăng cấp "Ngọc Đình " (072II) , 4800 tấn , 6 chiếc Tàu đổ bộ đa chức năng cấp "SHAN1511" của Mỹ , 4080 tấn , 13 chiếc Tàu đổ bộ loại vừa cấp "Ngọc Đăng" ,1850 tấn , 1 chiếc Tàu đổ bộ loại vừa cấp "Ngọc Đảo" , 1100 tấn , 31 chiếc Tàu đổ bộ loại vừa cấp "Ngọc Liên" , 1100 tấn , 25 chiếc Tàu đổ bộ loại nhỏ cấp "Ngọc Hải" , 800 tấn , 10 chiếc Tàu chuyển quân cấp "Lương Sa" , 2150 tấn , 7 chiếc Tàu đổ bộ loại nhỏ cấp "HUA" của Mỹ ,14 chiếc Tàu đổ bộ loại nhỏ cấp "Ngọc Nam" (076) , 135 tấn , 236 chiếc Tàu đổ bộ loại nhỏ cấp "Ngọc Thanh" (068/069) , 83 tấn , 36 chiếc Tàu đổ bộ cơ giới hóa (271/271II) , 100 tấn , 150 chiếc Tàu đổ bộ đệm khí cấp "Đại Cô" (722-2) , 80 tấn , 70 chiếc Tàu đổ bộ đệm khí cấp "Tsaplya" của Nga , 150 tấn , 10 chiếc
8/Tàu quét ngư lôi: (T43) , 520 tấn , 23 chiếc (058) , 400 tấn, 70 chiếc (082) , 320 tấn , 10 chiếc
9/Tàu tiếp vận-hậu cần : Tàu huấn luyện , 2 chiếc Tàu tiếp vận tổng hợp , 3 chiếc Tàu cứu sinh viễn dương , 1 chiếc Tàu bệnh viện , 2150 tấn , 2 chiếc Tàu tiếp dầu , 25 chiếc Tàu tiếp vận đạn dược , 1 chiếc Tàu cứu hộ và sửa chửa tàu ngầm ,8 chiếc Ụ nổi sửa chửa tàu di động , 2 chiếc Tàu điều tra,thám sát và nghiên cứu tổng hợp, 35 chiếc Tàu phá băng , 2 chiếc Xà Lan trên biển, 17 chiếc
TIỀM LỰC QUÂN SỰ CỦA HẠM ĐỘI HẢI NAM -TRUNG QUỐC TÀI LIỆU NĂM 2008
Phạm vi hoạt động của hạm đội Hải Nam : Từ bán đảo Ma Cao thuộc tỉnh Quảng Đông cho đến khu vực biển Nam Trung Hoa ,bao gồm khu vực Vịnh Bắc Bộ và các quần đảo thuộc Tây Sa-Nam Sa (Hoàng Sa-Trường Sa/Việt Nam) Hạm đội Hải Nam là hạm đội quản lý 1 diện tích mặt nước lớn nhất trong 3 hạm đội của hải quân Trung Quốc. Biên chế hạm đội: tổng cộng khoảng 300 tàu chiến các loại ,bao gồm: 1 biên đội khu trục hạm,1 biên đội hộ tống hạm ,1 biên đội hổn hợp tàu ngầm chính quy (đông cơ Diesel) và tàu ngầm hạt nhân,1 biên đội tàu ngầm chính quy,1 biên đội tàu đổ bộ và 1 biên đội hổn hợp các tàu cao tốc tên lửa,tàu phóng lôi,tàu quét lôi cùng với tàu săn tàu ngầm .
1/Khu trục hạm : (tổng cộng 11 chiếc ) Khu trục hạm cấp "Lữ Đại" và "Lữ Đại" cải tiến , (051) , số hiệu : 161,162,163,164,165,166 Trong đó kth 165,166 đã được cải tiến trụ pháo chính thành loại trụ pháo 2 nòng 100mm . Bao gồm khu trục hạm "Trường Sa" ,số hiệu 161 "Nam Ninh" , 162 "Nam Xương", 163 "Quế Lâm", 164 "Trạm Giang", 165 "Châu Hải", 166
Khu trục hạm cấp "Lữ Hải" ,(051B) , số hiệu : 167 Là khu trục hạm tên lửa ,độ giản nước 5000 tấn, tốc độ chạy tàu 30 hải lý ,trang bị 4 ống phóng 2 nòng tên lửa chống hạm C-803 ,1 ống phóng tên lửa phòng không 8 nòng Hồng Kỳ-7 , 1 trụ pháo hạm 2 nòng 100mm , 4 trụ pháo phòng không tự động 2 nòng 37mm ,3 ống phóng ngư lôi 2 nòng 324mm và 1 bải đáp 2 trực thăng Z-9 . Chỉ có 1 khu trục hạm "Thâm Quyến" , số hiệu 167
Khu trục hạm đa chức năng cấp "Quảng Châu", (052B), số hiệu : 168,169 Độ giản nước 7000 tấn, động cơ Diesel , tốc độ chạy tàu <30 hải lý, 4 ống phóng tên lửa phòng không 4 nòng C-803, 2 giá phóng tên lửa phòng không nòng đơn 9M317 , 1 trụ pháo hạm nòng đơn 100mm có khả năng tàng hình (chống rada) ,2 trụ pháo tầm gần 7 nòng 30mm (tự sản xuất), 4 trụ phóng tên lửa đa chức năng 3 x 6 nòng và 1 bải đáp cho 1 trực thăng chống tàu ngầm KA-28 . Bao gồm khu trục hạm "Quảng Châu" , số hiệu : 168 "Vũ Hán " , 169 Khu trục hạm phòng không cấp "Lữ Dương" , (052C) , số hiệu : 170 ,171 Độ giản nước 7000 tấn, động cơ Diesel, tốc độ chạy tàu 30 hải lý , được trang bị rada phòng không tầm xa do Trung Quốc tự nghiên cứu và chế tạo, được mệnh danh là "Trung Hoa Thần Thuẩn",trên tàu có 4 rada dạng tấm ván với diện tích 18,9 mét vuông , vì vậy tàu có năng lực trinh sát tầm xa rất tốt (trên 350 km) ,vũ khí gồm : 2 trụ tên lửa chống hạm 4 nòng loại mới , 2 tổ hợp hệ thống phóng tên lửa trục thẳng đứng loại "Hải Hồng-9" (tầm bắng 120km ,tổng cộng 48 quả) ,2 trụ phóng tên lửa chống hạm 4 nòng "YJ62" (tầm bắn 280 km) ,1 trụ pháo hạm nòng đơn 100mm có khả năng tàng hình, 2 trụ pháo phòng không 7 nòng 30mm, 4 trụ phóng tên lửa đa chức năng 3x6 nòng, 2 ống phòng ngư lôi 3 nòng 324mm và 1 bãi đáp trực thăng chống tàu ngầm KA-28. Bao gồm khu trục hạm "Lan Châu" , số hiệu : 170 "Hải Khẩu' , 171
2/Hộ tống hạm : (tổng cộng 19 chiếc ) Hộ tống hạm tên lửa cấp "Giang Vệ II" , (053H3), số hiệu : 564 ,565 ,566 ,567 Bao gồm hộ tống hạm "Nghi Xương" ,số hiệu : 564 "Ngọc Lâm" , 565 "Ngọc Khê" , 566 "Tương Phàn", 567
Hộ tống hạm cấp "Giang Hồ I-II-III-IV " ,(053H1-2), số hiệu :509, 515, 516, 517, 535, 536, 537, 538, 551, 552, 553, 554, 555, 556, 557, 558, 559, 560, 561 Đây là các hộ tống hạm chuyên làm nhiệm vụ tuần tra cảnh giới bờ biển ,hoàn toàn có thể ứng phó được với tàu chiến của các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á .
3/Tàu ngầm : (tổng cộng khoảng 20 chiếc ) Tàu ngầm tấn công hạt nhân cấp "Hán" ,(091), 2 chiếc , số hiệu : 408, 409 Tàu ngầm hạt nhân cấp "Hạ" , (092) , 1 chiếc , số hiệu : 406A Tàu ngầm chính quy (động cơ Diesel) cấp "Minh" ,(035), 6 chiếc , số hiệu : 358, 359, 360, 361, 362, 363 Tàu ngầm chính quy cấp "Tống" ,(039), 1 chiếc , số hiệu : 325 Tàu ngầm chính quy cấp "Tống" đã qua cải tiến ,(039A), 1 chiếc , số hiệu : 326 Tàu ngầm chính quy cấp "Nguyên" ,(040) , 1 chiếc , số hiệu : chưa rõ (Tàu ngầm cấp 039 đươc trang bị tên lửa chống hạm C802 và tên lửa chống tàu ngầm CY-1 có thể phóng từ dưới biển,có thể còn khả năng phóng tên lửa hạm đối không, nói chung tính năng đạt được trình độ của thập niên 90) Ngoài ra có khả năng năm 2002 đã được trang bị thêm 8 chiếc tàu ngầm chính quy cấp "Kilo" do Nga sản xuất .
4/Tàu tiếp vận tổng hợp viễn dương cấp "Nam Vận" ,số hiệu : Nam Thương-953 5/Tàu cứu sinh viễn dương cấp "Nam Cầu" , số hiệu : Hoàng Sa Đảo-506
6/Tàu đổ bộ xe tăng : (tổng cộng khoảng 9 chiếc) Tàu đổ bộ xe tăng cấp "Ngọc Khang" ,(072), số hiệu : 931, 932, 933 Tàu đổ bộ xe tăng cấp "Ngọc Đình" ,(072II), số hiệu : 934,935,936,937,938,939
7/Ngoài ra còn một số lượng lớn tàu tuần tra ,tàu tên lửa cao tốc ,tàu phóng lôi,tàu phá lôi,tàu săn tàu ngầm và các loại tàu làm công tác hậu cần khác (chúng ta sẽ tìm hiểu trong 1 tài liệu khác) Tình hình phân bố tàu chiến của Hải Quân Trung Quốc Chú thích: A : Hạm đội Bắc Hải B : Hạm đội Đông Hải C : Hạm đội Nam Hải KTH :Khu trục hạm / HTH :Hộ tống hạm / TTL :Tàu cao tốc tên lửa / TPL :Tàu phóng ngư lôi TQL :Tàu quét ngư lôi/ TNHN :Tàu ngầm hạt nhân /TNCQ :Tàu ngầm chính quy /TCN:Tàu chống tàu ngầm TDB:Tàu đổ bộ tổng hợp/TXT :Tàu đổ bộ xe tăng/THL:Tàu huấn luyện/TTT:Tàu tiếp tế/TCS:Tàu cứu sinh TBV:Tàu bệnh viện /TSN:Tàu cứu hộ tàu ngầm /TCD:Tàu chở nhiên liệu /TTB:tàu do thám TVT:Tàu thu thập tín hiệu vệ tinh /TPB :Tàu phá băng /TXT :Tàu xóa nhiễm từ TTN :Tàu thực nghiệm trên biển / TBL :Tàu rãi thủy lôi /TSB :Tàu sửa chửa trên biển * : Tàu chưa được đóng xong , ( ) : Số hiệu khác của tàu
Số hiệu Danh xưng Cấp bậc Đơn vị Chủng loại Trọng tải/tấn 82 THẾ XƯƠNG A THL 9500 105 TỀ NAM LỮ ĐẠI-051B A KTH 3250 106 TÂY AN LỮ ĐẠI-051 A KTH 3250 107 NGÂN XUYÊN LỮ ĐẠI-051 A KTH 3250 108 TÂY NINH LỮ ĐẠI-051 A KTH 3250 109 KHAI PHONG LỮ ĐẠI-051 A KTH 3250 110 ĐẠI LIÊN LỮ ĐẠI-051B A KTH 3250 111 A TTT 4895 112 CÁP NHĨ TÂN LỮ HỘ A KTH 4200 113 THANH ĐẢO LỮ HỘ A KTH 4200 115 THẨM DƯƠNG THẨM DƯƠNG A KTH 116 THẠCH GIA TRANG THẨM DƯƠNG A KTH 121 (861) TRƯỜNG HƯNG ĐẢO ĐẠI GIANG A TCS 11975 122 A TCS 131 NAM KINH LỮ ĐẠI-1 B KTH 3670 132 HỢP PHÌ LỮ ĐẠI-1 B KTH 3670 133 TRÙNGKHÁNH LỮ ĐẠI-1 B KTH 3670 134 TUÂN NGHĨA LỮ ĐẠI-1 B KTH 3670 136 HÀNG CHÂU HIỆN ĐẠI B KTH 7900 137 PHÚC CHÂU HIỆN ĐẠI B KTH 7900 138 THÁI CHÂU HIỆN ĐẠI B KTH 7900 139 HIỆN ĐẠI B KTH 7900 161 TRƯỜNG SA LỮ ĐẠI C KTH 3250 162 NAM NINH LỮ ĐẠI C KTH 3250 163 NAM XƯƠNG LỮ ĐẠI C KTH 3250 164 QUẾ LÂM LỮ ĐẠI C KTH 3250 165 TRẠM GIANG LỮ ĐẠI-B C KTH 3250 166 CHÂU HẢI LỮ ĐẠI-B C KTH 3250 167 THÂM QUYẾN LỮ HẢI C KTH 6000 168 QUẢNG CHÂU QUẢNG CHÂU-052B C KTH 7500 169 VŨ HÁN QUẢNG CHÂU-052B C KTH 7000 170 LAN CHÂU LỮ DƯƠNG-052C C KTH 7000 171 HẢI KHẨU LỮ DƯƠNG-052C C KTH 7000 200 G-6631 A TNCQ 1350 213 A TNCQ 214 A TNCQ 232 233 VIỄN CHINH-32 VIỄN CHINH-33 MINH-035 MINH-035 A A TNCQ TNCQ 1900 1900 302 (862) SÙNG MINH ĐẠI GIANG B TCS 11975 320 VIỄN CHINH-20 TỐNG B TNCQ 2250 321 VIỄN CHINH-21 TỐNG B TNCQ 2250 322 323 VIỄN CHINH-22 VIỄN CHINH-23 TỐNG TỐNG B B TNCQ TNCQ 2250 2250 324* 325* 326* VIỄN CHINH-24 VIỄN CHINH-25 VIỄN CHINH-26 TỐNG TỐNG TỐNG B B B TNCQ TNCQ TNCQ 2250 2250 2250 342 VIỄN CHINH-42 MINH-035 A TNCQ 1900 351 VIỄN CHINH-51 VŨ HÁN-A A TNCQ 2100 352 VIỄN CHINH-52 MINH-035 A TNCQ 1900 353 VIỄN CHINH-53 MINH-035 A TNCQ 1900 354 VIỄN CHINH-54 MINH-035 A TNCQ 1900 356 VIỄN CHINH-56 MINH-035G A TNCQ 1900 358 VIỄN CHINH-58 MINH-035G C TNCQ 1900 359 VIỄN CHINH-59 MINH-035G C TNCQ 1900 360 VIỄN CHINH-60 MINH-035G C TNCQ 1900 361 VIỄN CHINH-61 MINH-035G C TNCQ 1900 362 VIỄN CHINH-62 MINH-035G C TNCQ 1900 363 VIỄN CHINH-63 MINH-035G C TNCQ 1900 364 VIỄN CHINH-64 KILO-NGA B TNCQ 3000 365 VIỄN CHINH-65 KILO-NGA B TNCQ 3000 366 VIỄN CHINH-66 KILO-NGA B TNCQ 3000 367 VIỄN CHINH-67 KILO-NGA B TNCQ 3000 401 TRƯỜNG CHINH-1 HÁN-091 A TNHN 5000 402 TRƯỜNG CHINH-2 HÁN-091 A TNHN 5000 403 TRƯỜNG CHINH-3 HÁN-091 A TNHN 5000 404 TRƯỜNG CHINH-4 HÁN-091 A TNHN 5000 405 TRƯỜNG CHINH-5 HÁN-091 B TNHN 5000 407 TRƯỜNG CHINH-7 HÁN-091 B TNHN 5000 408 TRƯỜNG CHINH-8 HÁN-091 C TNHN 5000 409 TRƯỜNG CHINH-9 HÁN-091 C TNHN 5000 429 NAM TRẮC-29 C TTB 6000 506 (863) VĨNH HƯNG ĐẠI GIANG C TCS 11975 509 THƯỜNG ĐỨC GIANG HỒ C HTH 510 CHIÊU HƯNG GIANG HỒ B HTH 511 NAM THÔNG GIANG HỒ B HTH 512 VÔ TÍCH GIANG HỒ B HTH 513 HOÀI DƯƠNG GIANG HỒ B HTH 514 TRẤN GIANG GIANG HỒ B HTH 515 HẠ MÔN GIANG HỒ C HTH 516 CỮU GIANG GIANG HỒ C HTH 517 NAM BÌNH-1 GIANG HỒ C HTH 517 NAM BÌNH-2 GIANG HỒ B HTH 518 CÁT AN GIANG HỒ B HTH 519 TRƯỜNG DÃ GIANG HỒ A HTH 520 KHAI PHONG GIANG HỒ A HTH 521 GIA HƯNG GIANG VỆ-II B HTH 522 LIÊNVẬNCẢNG GIANG VỆ-II B HTH 523 TAM MINH GIANG VỆ-II B HTH 524 TINH ĐIỀN GIANG VỆ-B A HTH 525 MÃ YÊN SƠN GIANG VỆ-3 HTH 526 NOÃN CHÂU GIANG VỆ-II HTH 527 LƯ SƠN GIANG VỆ-II B HTH 528 MIÊN DƯƠNG GIANG VỆ-II HTH 531 ƯNG ĐÀM HTH 533 NINH BA GIANG HỘ-II B HTH 534 KIM HOA GIANG HỒ-II B HTH 535 HOÀNG THẠCH GIANG HỒ-C C HTH 536 VU HỒ GIANG HỒ-C C HTH 537 ĐƠN SƠN GIANG HỒ-C C HTH 538 GIANG HỒ-C C HTH 539 AN KHÁNH GIANG VỆ-I B HTH 2200 540 HOÀI NAM GIANG VỆ-I B HTH 2200 541 HOÀI BẮC GIANG VỆ-I B HTH 2200 542 ĐỒNG LĂNG GIANG VỆ-1 B HTH 2200 543 ĐƠN ĐÔNG GIANG HỒ-B A HTH 544 TỨ BÌNH GIANG HỒ-D A HTH 545 LÂM PHƯƠNG GIANG HỒ A HTH 548 GIANG VỆ C HTH 551 MẬU MINH GIANG HỒ-B C HTH 552 NGHI TÂN GIANG HỒ-B C HTH 553 CHIÊU QUAN GIANG HỒ-B C HTH 554 AN THUẬN GIANG HỒ-B C HTH 555 TRIỆU KHÁNH GIANG HỒ-B C HTH 556 TƯƠNG ĐÀM GIANG HỒ-B C HTH 557 CÁT THỌ GIANG HỒ-B C HTH 558 TỰ CỐNG GIANG HỒ-D C HTH 559 KHANG ĐỊNH GIANG HỒ-D C HTH 560 ĐÔNG HOÀN GIANG HỒ-D C HTH 561 SƠN ĐẦU GIANG HỒ-D C HTH 562 563 GIANG MÔN PHẬT SƠN GIANG HỒ-D GIANG HỒ-D C C HTH HTH 564 NGHI XƯƠNG GIANG VỆ-II C HTH 565 NGỌC LÂM GIANG VỆ-II C HTH 566 NGỌC KHÊ GIANG VỆ-II C HTH 567 TƯƠNG PHÀN GIANG VỆ-II C HTH 575 (882) THÁI XƯƠNG BẮC VẬN A TTT 22000 597 NGHI XƯƠNG-1 GIANGVỆ-B C HTH 615 (881) PHONG THƯƠNG ĐÔNG VẬN B TTT 651 HỒNG TINH B TTL 652 HỒNG TINH B TTL 653 HỒNG TINH B TTL 654 HỒNG TINH B TTL 655 HỒNG TINH B TTL 656 HỒNG TINH B TTL 679 B TCN 681,682,683, 684,685 HẢI ĐIỂU-037I B TCN 392 686 HẢI ĐIỂU-037II B TCN 392 687,689,690, 691,692,694, 698, 699 HẢI ĐIỂU-037I B TCN 392 688,693,697 HẢI ĐIỂU-037X B TCN 450 700,701,702, 703,704,705, 706,707,708, 709,721,722, 723,724,725, 726,727,728, 729,730,731 HẢI ĐIỂU-037I A TCN 392 732,733,734, 735,736,737, 738,739,740, 741,742 HẢI ĐIỂU-037I C TCN 392 760 HỒNG TINH B TTL 478 764 HỒNG TINH B TTL 478 765 HỒNG TINH B TTL 478 766 HỒNG TINH B TTL 478 767,768 HỒNG TINH - 037IG B TTL 478 770 DƯƠNG GIANG HỒNG TIỄN037 C TTL 542 771 THUẬN ĐẮC HỒNG TIỄN037 C TTL 542 772 NAM HẢI HỒNG TIỄN037 C TTL 542 773 PHIÊN NGỘ HỒNG TIỄN037 C TTL 542 774 HỒNG TIỄN037 C TTL 542 775 HỒNG TIỄN037 C TTL 542 814 WOLEI W-918 TBL 3100 834 T-43 TQL 590 835 THANH ĐẢO HỒ C TCD 863 LIÊN VẬN-058 TQL 400 887 VI SƠN HỒ C TTT 892 PHỦ THUẬN TQL 275 908,909,910, 911,913 NGỌC ĐÌNH C TXT 4800 927 NGỌC KHANG B TXT 4170 928 NGỌC KHANG B TXT 4170 929 NGỌC KHANG B TXT 4170 930 NGỌC KHANG B TXT 4170 931 NGỌC KHANG C TXT 4170 932 NGỌC KHANG C TXT 4170 933 NGỌC KHANG C TXT 4170 934 NGỌC ĐÌNH C TXT 4800 935 NGỌC ĐÌNH C TXT 4800 936 NGỌC ĐÌNH C TXT 4800 937 NGỌC ĐÌNH C TXT 4800 938 NGỌC ĐÌNH C TXT 4800 939 NGỌC ĐÌNH C TXT 4800 951 (883) ĐẠI VẬN C TTT 10975 952 (884) ĐẠI VẬN C TTT 10975 953 (885) NAM THƯƠNG NAM VẬN C TTT 37000 965 NGỌC ĐẢO C TXT 1650 970 (891) C TTN tổng hợp 6000 990,946 NGỌC ĐĂNG TXT 1850 991 NGỌC ĐÌNH C TXT 4800 406A TRƯỜNG CHINH-6A HẠ-092 C TNHN 8000 406B TRƯỜNG CHINH-6B HẠ-092 A TNHN 8000 406C TRƯỜNG CHINH-6C HẠ-092 A TNHN 8000 305 MINH-035G TNCQ 1900 306 MINH-035G TNCQ 1900 307 MINH-035G TNCQ 1900 308 MINH-035G TNCQ 1900 309 MINH-035B TNCQ 1900 310 MINH-035B TNCQ 1900 311 MINH-035B TNCQ 1900 312 MINH-035B TNCQ 1900 256,257,258,259,260,268,269,270-280,286, 287,291-304, 343-349,355 R-033 Tổng cộng 106 chiếc, trong đó xuất khẩu sang Triều Tiên 7 tàu, Ai Cập 4 tàu TNCQ 1850 950 HẢI THƯƠNG NAM VẬN C TTT 10975 886,887 * NAM VẬN TTT 10975 920 ĐẠI TRỊ TSN 5800 512 HỘ ĐÔNG TSN 5000 503,122,428 ĐẠI LANG TSN 4200 502,504 ĐẠI CHU TSN 1100 830,831,832, 833,835,831 NAM VẬN LƯƠNG SA TTT 2150 833A NAM KHANG LƯƠNG SA A TBV 2150 809 THƯỜNG NINH GALATI TSB hoặc TQL 5200 499 AN ĐÔNG TSB 4700 800,801 YÊN ĐÀI TSB 3300 433, 443, 755, 756 HỒNG QUỶ TSB 1950 201,599,791 ĐƠN ĐAO TSB 1600 591,592,594, 794,972, 975 ĐƠN LÂM TSB 1290 2 Tàu THẮNG LỢI TCD 4900 3 Tàu KINH DẦU TCD 4800 18 Tàu PHÚC LÂM TCD 2200 32 Tàu PHÚC CHÂU TCD 1200 9 Tàu LÔI CHÂU TCD 900 24 Tàu QUẢNG CHÂU TCD 530 621,630 ĐÔNG DẦU TCD 4800 81 TRỊNH HÒA THL 5500 933A A TTN âm thanh dưới nước 6000 200,226 ĐÔNG ĐIỀU B TTB 1100 232,943 ĐÔNG ĐIỂU B TTB 1100 993,994,995 BẮC ĐIỀU A TTB 590 420 NAM TRẮC-20 C TTB 1000 426 NAM TRẮC-26 C TTB 600 427 NAM TRẮC-27 C TTB 1100 428 NAM TRẮC-28 C TTB 600 992 NAM TRẮC C TTB 2000 841 BẮC ĐẢO A TTB điện tử 2500 856 HƯNG PHONG TTB điện tử 5500 723 HẢI ĐẢO TTB điện tử 5000 VIỄN VỌNG-1 A TVT 21076 VIỄN VỌNG-2 A TVT 21076 VIỄN VỌNG-3 A TVT 21076 VIỄN VỌNG-4 C TVT 13000 HẢI DƯƠNG-1 TTB 4500 HẢI DƯƠNG-2 TTB 4500 V231,V232 HẢI DƯƠNG-4 C TTB 1325 871 HẢI DƯƠNG-18 C TTB 4500 101,102 HẢI TÂN TTB 3200 3 Tàu THỰC TIỄN -1,2,3 C TTB 2955 16 Tàu (1 tàu đã chìm) HUỚNG DƯƠNG TTB 1200-15000 7 Tàu HÀO QUANG TTB 600-2400 2 Tàu KIM TINH TTB 1100 2 Tàu KHOA HỌC TTB 720,3324 2 Tàu ĐÔNG PHƯƠNG TTB 2500 2 Tàu THỰC NGHIỆM TTB 1100,3300 1 Tàu BẮC ĐẨU TTB 1165 1 Tàu ĐẠI DƯƠNG Của Nga A TTB 5600 1 Tàu CỰC ĐỊA Của Ukraine A TTB khảo sát Nam Cực 15000 1 Tàu TUYẾT LONG Của Ukraine TTB khảo sát Nam Cực 21025 203 NAM CẦN C TXT 519,721,722, 723 NAM BĂNG A TPB 3200 751,752,753, 754,755,756, 757,758,759 HỒNG TINH - 037IG TTL 478 611,612,613, 614 HẢI THANH - 037IS B TCN 478 631,632,633, 635 HẢI THANH - 037IS B TCN 478 710,711,712, 713,714,715, 716, 717 HẢI THANH - 037IS B TCN 478 743,744,761, 762,763 HẢI THANH - 037IS C TCN 478 786,787,788, 789,790,791, 792,793,794, 795,796,797, 798 HẢI THANH - 037IS C TCN 478 601 đến 609 HẢI ĐIỂU-037I TCN 392 634 NAM HẢI HẢI THANH - 037IS C TTB 430 695,696 NAM HẢI HẢI ĐIỂU-037I C TTB 430 38 Tàu HOÀNG PHONG OSA của Nga TTL 205 13 Tàu HẢI CHÂU 6621 B TTL 170 100 Tàu THƯỢNG HẢI 062 B TTB 135 422,423 WOSAO TQL 310
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 20:19:26 GMT -5
Tài liệu phân tích về các căn cứ của hạm đội Hải Nam -Trung Quốc (năm 2008 )
Hạm đội Hải Nam của Trung Quốc có căn cứ chính được đặt tại Trạm Giang-Quảng Đông ,ngoài ra còn bao gồm các hải cảng : Trạm Giang, Sơn Đầu, Quảng Châu, Du Lâm, Hải Khẩu, Bắc Hải, Hòang Phổ .Hiện nay hạm đội Hải Nam có biên chế gồm 3 căn cứ chính :căn cứ Trạm Giang (thuộc Trạm Giang-khu vực cảnh giới biển Bắc Hải) , Căn cứ Quảng Châu (thuộc Hoàng Phổ-khu vực cảnh giới biển Sơn Đầu) và Căn cứ Du Lâm (thuộc Hải Khẩu-khu vực cảnh giới biển Tây Sa) . Ngoài ra các tàu chiến thuộc căn cứ hải quân của Đặc khu hành chính Hồng Kông cũng thuộc hạm đội Hải Nam quản lý ,khi có chiến tranh sẽ chịu sự chỉ huy của hạm đội này. Phạm vi họat động: từ phía Nam bán đảo Ma Cao cho đến vùng biển Tây Sa-Nam Sa (Trường Sa-Hòang Sa của Việt Nam ) .
KHU VỰC PHÒNG THỦ VÀ CĂN CỨ : 1/Khu vực phòng thủ và nhiệm vụ : Phạm vi họat động của hạm đội từ phía nam bán đảo MaCao cho đến khu kinh tế biển rộng lớn phía Nam Trung Hoa .Về mặt địa lý bao gồm cả các quần đảo thuộc khu vực :Đông Sa,Tây Sa,Trung Sa và Nam Sa . Hạm đội Hải Nam đang quản lý 1 diện tích mặt nước lớn nhất trong 3 hạm đội hải quân của Trung Quốc.
Nhiệm vụ hàng đầu của hạm đội này là bảo vệ sự an toàn trên các quần đảo và vùng biển Nam Trung Hoa. Bảo vệ các đảo thuộc chủ quyền của Trung Quốc ở Tây Sa và Nam Sa. Giám sát các hoạt động trên biển của các quốc gia Đông Nam Á trong khu vực tranh chấp .Đến thời cơ hợp lý sẽ chiếm lĩnh và thu hồi lại các khu vực đang bị chiếm giữ ,bảo vệ lợi ích trên biển của Trung Quốc .
Sau khi Hồng Kông và MaCao được trả lại cho Trung Quốc , việc bảo vệ an toàn vùng biển của 2 khu vực này, đặc biệt là bảo vệ sư lưu thông tàu bè ở các hải cảng thuộc Hồng Kông và vùng Tam Giác Châu Giang cũng được xem là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng .Vì tính phức tạp ở khu vực tranh chấp thuộc vùng biển Nam Trung Hoa ,trong các diễn biến nhạy cảm của tình hình thế giới, Hạm đội Hải Nam còn có nhiệm vụ hậu thuẩn cho công cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị và ngoại giao .Sử dụng xứng đáng các khí tài quân sự trị giá hàng trăm triệu Nhân Dân Tệ để bảo vê lợi ích của quốc gia.
Để phòng tránh sự can thiệp và chi viện của hạm đội 7 hải quân Mỹ trong trường hợp xảy ra chiến tranh giải phóng Đài Loan ,hạm đội Hải Nam còn có nhiệm vụ ngăn chặn việc xâm nhập và đổ bộ của hải quân Mỹ vào bờ biển phía Nam Đài Loan ,phối hợp với Hạm đội Đông Hải tiến hành phong tỏa các hải cảng Cao Hùng ,Tã Doanh của Đài Loan .Yểm hộ cho công tác đổ bộ và cung ứng hậu cần của quân đoàn 42 .
2/Biên chế và căn cứ : Biên chế tác chiến của hạm đội Hải Nam bao gồm : 1 biên đội khu trục hạm, 1 biên đội hộ tống hạm, 1 biên đội hỗn hợp tàu ngầm hạt nhân và tàu ngầm chính quy, 1 biên đội tàu ngầm chính quy, 1 biên đội tàu đổ bộ và 1 biên đội hỗn hợp tàu tên lửa cao tốc ,tàu phóng lôi, tàu phá lôi , vận tải hạm...Biên đội tàu đổ bộ của hạm đội này bao gồm 17 chiếc ,là biên đội tàu đổ bộ lớn nhất của hải quân Trung Quốc ,cùng 1 lúc có thể đưa cả 3 sư đoàn đổ bộ lên bờ biển .
Căn cứ Trạm Giang là căn cứ lớn nhất của hạm đội ,luôn bố trí 1 lưc lượng khoảng 176 tàu khu trục ,hộ tống hạm và khỏang 3 tàu ngầm hạt nhân. Căn cứ Bắc Hải là nơi neo đậu của biên đội tàu tên lửa cao tốc,tàu phóng lôi...Hải cảng Sơn Đầu thuộc căn cứ Quảng Châu là căn cứ của biên đội Hộ tống hạm và tàu đổ bộ. Căn cứ Du Lâm là căn cứ giành riêng cho tàu ngầm chính quy của hạm đội Hải Nam, trong đó đại đội tàu ngầm Tây Sa là đơn vị có trình độ tác chiến cao nhất trong hải quân TQ. Với trình độ và kỹ năng cao trong việc điều khiển các tàu ngầm cấp"R" và cấp"035" ,tàu ngầm của đại đội Tây Sa đã từng đi qua tất cả các quân cảng của hải quân Đài Loan .Hơn nữa còn dám đưa nhiệm vụ thâm nhập vào các hải cảng của Đài Loan trở thành các bài tập chính trong giáo trình huấn luyện .
Sức mạnh trên không của hạm đội thể hiện qua 2 sư đoàn phòng không hải quân, trong đó gồm 1 sư đoàn chiến đấu cơ, 1 sư đoàn oanh tạc cơ , ngoài ra còn 1 đoàn hậu cần độc lập chuyên làm công tác tiếp ứng cho căn cứ Tây Sa, 1 sư đòan máy bay tuần tiễu trên biển thuộc khu vực Nam Sa và 1 đại đội máy bay trực thăng. Chiến đấu cơ chủ lực là JF-8IID, JF-7,oanh tạc cơ Tu-5 và 1 đòan máy bay chuyên tiếp nhiên liệu trên không được cải tiến từ các oanh tạc cơ từ năm 98 . Đã có 8 chiếc chiến đấu cơ JF-11 (hoặc SU-27) gia nhập sư đoàn phòng không hạm đội Hải Nam, hiện đang phục vụ tại 1 căn cứ không quân trên đảo Hải Nam .
Thủy quân lục chiến của hạm đội Hải Nam là lữ đoàn số 1 ,đã từng tham gia lễ duyệt binh mừng 50 năm ngày quốc khánh .Bố trí tại 7 doanh trại :3 doanh trại thủy quân lục chiến, 1 doanh trại tăng thiết giáp ,1 doanh trại pháo binh , 1 doanh trại chiến xa lưỡng cư và 1 doanh trại thông tin. Lữ đoàn này luôn duy trì trình độ huấn luyện ở mức cao ,năng lực tác chiến đổ bộ bờ biển có thể xem là đạt được trình độ cao của thế giới .Đây là lữ đoàn thủy quân lục chiến chủ lực của hải quân Trung Quốc ,là đơn vị trấn giử chính của đảo Hải Nam .
Bộ tư lệnh của hạm đội Hải Nam lúc đầu được đặt tại Quảng Châu ,vào thập nhiên 70 được di dời đến thành phố Trạm Giang thuộc tỉnh Quảng Đông .Tư lệnh hạm đội là Trung tướng Văn Quốc Khánh, Soái hạm là tàu tiếp vận "Hải Vận"-953 .
KIẾN THỨC CHÍNH VỀ CĂN CỨ HẠM ĐỘI NAM HẢI
Căn cứ Quảng Châu: nằm ở kinh tuyến 113.2 độ Kinh Đông, 23.1 độ vĩ Bắc .Là hải cảng lớn nhất của tỉnh Quảng Đông .Nơi neo đậu của quân cảng nằm tại phía tây khu neo đậu mới thuộc bờ Bắc của cảng Hòang Phổ (phía ngoài cảng Quảng Châu) .Nơi đây có xưởng đóng tàu lớn nhất phía Nam Trung Quốc-xưởng đóng tàu Quảng Châu ,vì thế tàu chiến ở căn cứ này luôn được sửa chữa và bảo dưỡng rất tốt .Nhưng những năm gần đây ,kinh tế trong vùng phát triển ,lưu lượng tàu bè qua lại nhiều ,việc họat động và mở rộng căn cứ có hạn , nên cường độ sử dụng căn cứ này ngày càng được giảm bớt.
Căn cứ Trạm Giang: nằm tại 110.4 độ kinh Đông, 21.1 độ vĩ Bắc ,là hải cảng lớn thứ 2 của Quảng Đông,cũng là căn cứ chính của bộ tư lệnh hạm đội Hải Nam (nếu bạn muốn đi từ ga xe lửa Trạm Giang đến căn cứ này, bạn có thể đi xe Bus số 10 đến Đại lộ Nhân Dân tp Trạm Giang), độ sâu mực nước trong cảng là 10 m. Sau thập niên 80 ,vấn đề chủ quyền và lợi ích vùng biển Nam Trung Hoa ngày càng quan trọng ,bắt đầu từ năm 1983 ,quân cảng Trạm Giang đã được xây dựng các công trình quân sư quy mô lớn và vẫn còn đang được mở rộng cho đến nay .Các đơn vị chiến đấu của hạm đội ở đây gồm 2 biên đội khu trục và hộ tống hạm ,1 biên đội tàu quét lôi ,1 số tàu đổ bộ ,đáng chú ý nhất là tất cả khu trục hạm chủ lực của hạm đội Hải Nam đều được bố trí ở đây .Quân cảng Trạm Giang nằm tại Trung Bộ của bán đảo Lôi Châu ,vị trí tương đối kín đáo ,diện tích cảng khá rộng .Đi theo hướng Đông có thể thi hành nhiệm vụ tại khu vực đảo Đài Loan ,theo hướng Nam có thể nhanh chóng can thiệp vào đảo Hải Nam và các quần đảo Tây Sa-Nam Sa .Đây được xem như căn cứ trọng yếu trong việc kiểm soát Nam Hải của Trung Quốc .
Căn cứ Du Lâm :nằm ở 109.5 độ kinh Đông ,18.2 độ vĩ Bắc .Đây là hải cảng nước sâu tốc nhất ở cực Nam Trung Quốc ,cũng là căn cứ tiền phương chuyên tiếp ứng cho các quần đảo Nam Hải .Độ sâu trong cảng khỏang 10 đến 25 m ,với độ sâu khá tốt và diện tích mặt nước rộng, Căn cứ Du Lâm được xem là căn cứ lý tưởng nhất cho việc neo đậu hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc . Theo các tư liêu chính thức hiện nay ,quân cảng Du Lâm chuyên giành cho các tàu ngầm sử dụng ,hạm đội Nam Hải có tất cả 2 biên đội tàu ngầm ở đây. Vì địa thế vịnh ưu việt do thiên nhiên ban tặng, căn cứ này còn bố trí 1 bộ phận tàu chiến loại nhỏ và tàu hậu cần .Thậm chí tại khu vực du lịch vịnh Á Long, đôi khi cũng có thể nhìn thấy được các tàu chiến này .
Đảo Hải Nam đến quần đảo Tây Sa có thể xem là khu vực "thánh địa" của hải quân Trung Quốc ,chuyên giành cho việc huấn luyện và diễn tập của tàu ngầm .Vì độ nông cạn của vùng biển Đông Hải và Hoàng Hải, cùng với việc khả năng tác chiến chống tàu ngầm khá cao của hải quân các quốc gia thuộc khu vực này ,làm cho tàu ngầm dễ bị phát hiện ,còn khu vực biển Nam Trung Hoa có độ sâu lớn,địa thế kín đáo ,phù hợp cho việc triển khai tàu ngầm .Theo báo cáo vào tháng 1 năm 1999, Căn cứ Du Lâm đã là chỗ neo đậu cho tất cả các tàu ngầm thế hệ mới của Trung Quốc trong 7 tháng liền để tiến hành diển tập và huấn luyện (có thể là loại tàu ngầm cấp "MInh" cải tiến ) , ngoài ra khu vực biển này còn thích hợp cho hoạt động của các tàu ngầm hạt nhân chiến lược .
Căn cứ Tây Sa (Hoàng Sa/Việt Nam): sau khi hải quân Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Tây Sa(Hoàng Sa) , để bố trí nơi neo đậu cho các tàu chiến loại nhỏ và vừa ,Trung Quốc đã cho xây dựng 1 quân cảng quy mô lớn trên đảo Vĩnh Hưng,là đảo lớn nhất trong quần đảo Tây Sa (Hòang Sa) .Năm 1971,TQ cho xây dựng tại cực Tây của đảo 1 bến neo đậu dài hơn 300m ,sâu hơn 8 m có thể neo đậu các tàu trọng tải khỏang 3000 tấn .Sau đó vì cục diện căng thẳng sau hải chiến Tây Sa năm 1974 và hải chiến Nam Sa năm 1988, đảo Vĩnh Hưng đã mở rộng thêm khu vực cảng khẩu, xây dựng thêm các bến neo tàu và các công trình phòng thủ khác ,ngoài ra còn xây thêm các nhà kho dưới nước ,kho chứa dầu và xưởng sửa chửa tàu thuyền ,hoàn thiện các hạng mục cần thiết cho một căn cứ hải quân lớn ,đưa nơi đây trở thành căn cứ cấp 2 của hải quân Trung Quôc từ năm 1982.Đáng chú ý nhất ở căn cứ này là 1 đường bay mới được xây dựng nhằm bổ sung cho khiếm khuyết trong việc kiểm soát không phận khu vực Tây Sa-Nam Sa trong khi hải quân TQ chưa có hàng không mẫu hạm , đường bay giành cho máy bay vận tải loại vừa và nhỏ V-8 .Theo các nguồn tin nội bộ, căn cứ này đã bố trí (hoặc có kế hoạch bố trí) máy bay J-8, JH-7 và các loại máy bay chiến đấu,máy bay thả bom khác .Nếu tính toán theo cự ly ,sau khi bố trí chiến đấu cơ ở đây ,hải quân Trung Quốc đã có được ưu thế không chiến và khả năng kiểm soát không phận trong thời gian ngắn ở vùng biển Nam Trung Hoa .Nếu sử dụng oanh tạc cơ chiến lược tầm xa ,sẽ đem lại sự uy hiếp rất lớn cho hải quân các nước xung quanh .
TAM Á DẦN TRỞ THÀNH CĂN CỨ HẢI QUÂN TRỌNG YẾU CỦA TRUNG QUỐC
Một số tạp chí quân sự đã đăng tải thông tin về về sự hiện diện của căn cứ này trong năm 2002 ,nhưng mãi đến nay các bức ảnh từ vệ tinh không thám mới chứng thực sự có mặt của căn cứ Tam Á .Điều này chứng minh, Tam Á sẽ trở thành căn cứ chính trong việc triển khai hàng không mẫu hạm và các tàu chiến khác trong tương lai .Theo các bức ảnh công bố năm 2005 ,khu vực Tam Á -Hải Nam đang được xây dựng cơ sở mới, để trở thành căn cứ cấp 1 của hải quân Trung Quốc .
Những năm gần đây ,các quốc gia xung quanh ngày càng bộc lộ ý đồ lấn chiếm và kiểm soát vùng biển Tây Sa và Nam Sa ,áp lực của hải quân Trung Quốc ,nhất là hạm đội Hải Nam ngày càng lớn .Đích thân chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã từng đến duyệt binh tại căn cứ ,cho thấy mức độ quan trọng của căn cứ này .
Nói chung , để chấp hành tư tưởng tác chiến phòng vệ vùng biển của TQ , việc bố trí căn cứ của hải quân TQ sẽ được chia đều ,lấy phòng thủ làm đầu .Sau đó ,với việc xây dựng 1 hạm đội viễn dương trong tương lai , TQ sẽ mở rộng và xây dựng thêm các căn cứ trọng yếu ,tạo cơ sở cho việc tiến ra đại dương của hải quân Trung Quốc .
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 21:22:22 GMT -5
PHÂN TÍCH VỀ KHẢ NĂNG HÀNG KHÔNG MẪU HẠM ĐẦU TIÊN CỦA TRUNG QUỐC SẼ ĐƯỢC BỐ TRÍ TẠI ĐẢO HẢI NAM-TRUNG QUỐC
Theo 1 nguồn tin trên báo Văn Hối Báo của Hồng Kông (số ra ngày 24 tháng 9 năm 2008) :" Quân đội Trung Quốc đã có khả năng tự nghiên cứu và chế tạo hàng không mẫu hạm, tiến tới việc phát triển 1 hạm đội với 1 hàng không mẫu hạm làm trung tâm", củng theo báo cáo này: "các kế hoạch nghiên cứu có liên quan đã được triển khai". Sau đó 1 tờ tạp chí quốc phòng của Anh Quốc đã có bài phân tích đánh giá Trung Quốc chưa có khả năng phát triển hàng không mẫu hạm và đã tạm ngưng kế hoạch này. Điều này đã dẫn đến 1 cuộc tranh luận trên mạng Trung Quốc về việc nước này có khả năng chế tạo hàng không mẫu hạm hay không ? Đáp lại bài phân tích của Anh Quốc, Văn Hối Báo của Hồng Kông có ngay 1 đoạn phỏng vấn 1 nhân vật trong bộ quốc phòng Trung Quốc, trong đó có câu nói :" Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ ước mong có được hàng không mẫu hạm", qua đó phủ nhận đánh giá của người Anh.( Chúng ta nên biết thêm là Văn Hối Báo Hồng Kông cũng như nhiều tờ báo khác được xem như kênh phát ngôn không chính thức của Trung Quốc ). Củng theo báo cáo của văn hối báo Hồng Kông, hải quân Trung Quốc trong tương lai sẽ bố trí chiếc hàng không mẫu hạm này ở phía đông vịnh Nha Long-đảo Hải Nam với mục đích chính là khống chế eo biển Đài Loan khi có sự biến. Chúng ta hảy đặt giả thuyết Trung Quốc chế tạo thành công hàng không mẫu hạm, đưa vào biên chế hải quân để phân tích khả năng chiếc hàng không mẫu hạm (HKMH) này được bố trí tại Hải Nam dưới sự chỉ huy trực tiếp của hạm đội Nam Hải. 1/Vị trí căn cứ hải quân bố trí HKMH là 1 bến cảng độc lập nằm về hướng đông vịnh Nha Long thuộc thành phố Tam Á của đảo Hải Nam. Cách 1 khách sạn quốc tế 5 sao nổi tiếng của thành phố Tam Á khỏang 2km. Theo các nguồn tin không chính thức, công việc chuẩn bị cơ sở vật chất hậu cần đã được hòan thành, trong đó có cả việc bố trí mạng lưới tàu ngầm, thủy lôi và hệ thống phòng không cùng các công trình phụ đã cơ bản hòan thành. Theo đánh giá căn cứ hải quân này sẽ hiện đại hơn cả căn cứ hải quân Du Lâm (là căn cứ hải quân hàng đầu của Trung Quốc). Đơn vị hạm đội HKMH sau khi đưa vào hoạt động sẽ là 1 đơn vị chính quy độc lập tác chiến. Hạm đội HKMH này bao gồm 1 HKMH đang được chế tạo tại xưởng đóng tàu Đại Liên (dựa trên xương sống là 1 HKMH cũ của Liên Xô), ngoài ra Trung Quốc cũng đã cho đóng thêm 1 số lượng lớn Hộ Tống Hạm, Khu Trục Hạm và đặt mua máy bay chiến đấu Su-27 của Nga (có khả năng cất cánh trên HKMH). 2/Phân tích và đánh giá : Hải quân Trung Quốc đi qua gần 20 năm kiến thiết và xây dựng, công nghệ đóng tàu chiến đã đạt được trình độ của thập niên 90 và tiếp cận được với các tiến bộ kỹ thuật của công nghệ đóng tàu thế giới. Từ số lượng tàu chiến được đóng cho đến trình độ tác chiến trên mặt biển đều đã có những thay đổi lớn, nhưng trong quá trình tiến ra đại dương này, hải quân Trung Quốc cũng đã bộc lộ những khuyết điểm của mình. Với vị trí là 1 hạm đội hải quân mạnh trong khu vực, trang thiết bị và chủng loại tàu chiến của Trung Quốc khá hòan thiện, chỉ trừ hàng không mẫu hạm. Trong số tất cả tàu chiến phục vụ cho 1 hạm đội HKMH, Trung quốc chỉ thiếu có tuần dương hạm loại lớn và chỉ huy hạm. Nhưng với kinh nghiệm có được qua việc đóng các khu trục hạm "Vũ Hán", "Thâm Quyến"....Trung Quốc đã có trong tay khả năng đóng tuần dương hạm cho mình. Ngoài ra, Trung Quốc cũng đã đẩy nhanh tiến độ đóng loại tàu Lưỡng Cư Công Kích Hạm ( nghĩa là tàu đổ bộ loại lớn vừa có khả năng chiến đấu vừa có thể chở theo quân đội, xe tăng hoặc máy bay), số tàu này hiện đang được đóng tại xưỡng đóng tàu Giang Nam. Tất cả những thông tin này đều đã cho thấy tham vọng của Trung Quốc trong việc thiết lập 1 hạm đội viễn dương trong tương lai. Chính vì vậy Trung Quốc bắt buộc phải có 1 HKMH để làm trái tim cho hạm đội này. Không có HKMH, Trung Quốc sẽ không thể có được 1 hạm đội viễn dương đúng nghĩa. Tóm lại việc Trung Quốc sẽ đóng hàng không mẫu hạm là điều không phải bàn cãi, đây chỉ còn là vấn đề thời gian mà thôi. Theo như lý luận trong sách trắng về quốc phòng do bộ quốc phòng Trung Quốc phát hành: nhiệm vụ của hải quân Trung Quốc không chỉ là "bảo vệ sự an toàn lãnh thổ trong đại lục và hơn 300vạn km mặt biển" mà còn là " bảo vệ các tuyến vận tải trên biển của Trung Quốc và các lợi ích của Trung Quốc ở nước ngoài". Trong đó nhiệm vụ đầu tiên sẽ là mở rộng phạm vi kiểm soát mặt biển và bầu trời từ 1000 km lên 3000 km tính từ bờ biển. Trung Quốc lập luận hải quân Trung Quốc hiện nay là hải quân viễn dương (không còn là lực lượng phòng vệ gần bờ), nên mục tiêu cũng cần được nâng cao và đổi mới để tiến ra biển lớn, trở thành "Hải Dương Đại Quốc". Nói trong phạm vi Thái Bình Dương, Trung Quốc cần bảo vệ các lợi ích của mình, ít nhất là ở bờ Tây Thái Bình Dương. Tất nhiên giữa 1 nước đã trở thành cưởng quốc trên biển như Mỹ và 1 nước đang trên đường phát triển như Trung Quốc vẫn còn 1 khoảng cách khá xa. Đối với Trung Quốc mà nói, việc có được hàng không mẫu hạm đầu tiên trong lịch sữ sẽ mang đến cho hải quân Trung Quốc khả năng tác chiến xa bờ và dài ngày. Hiện nay, nói đến khả năng tác chiến xa bờ, bất luận là trình độ kinh nghiệm, đầu tư tài chính hay hệ thống vũ khí, Trung Quốc đều chưa thể sánh bằng Mỹ hoặc Nga. Nhưng nhìn vào thời gian và tốc độ phát triển của hải quân Trung Quốc, ta có thể thấy được Trung Quốc đã nổ lực thế nào cho mục tiêu đạt được trình độ ngang bằng Mỹ trong tương lai. Cụ thể như Liên Xô trước đây đã mất hơn 20 để đạt được trình độ đóng hàng không mẫu hạm như hiện nay, bắt đầu từ việc nghiên cứu chế tạo HKMH giành cho trực thăng thập niên 70 cho đến các loại HKMH hiện đại. Nhưng Trung Quốc chỉ cần chưa đến 10 năm để đóng hàng không mẫu hạm (ước đóan năm 2013 sẽ hòan thành). Nhìn đến tương lai, bất cứ khả năng xảy ra xung đột từ vấn đề Tây Sa-Nam Sa (Trường Sa- Hoàng Sa/Việt Nam) cho đến vấn đề thu phục Đài Loan và tranh chấp lãnh thổ với Hàn Quốc và Nhật Bản nếu có, HKMH đều sẽ là sự lựa chọn thích hợp nhất cho hải quân Trung Quốc. Nếu những thông tin về việc đóng HKMH của Trung Quốc là sự thật và giả thiết căn cứ hải quân bố trí HKMH là đảo Hải Nam. Chúng ta sẽ cùng phân tích ý nghĩa chiến thuật và chiến lược trong việc bố trí HKMH tại căn cứ này trong tương lai. Nếu các đảo trên biển đông là 1 chuổi hạt ngọc trai, thì đảo Hải Nam chính là hạt ngọc trai lớn nhất mà tạo hóa đã bất công ban cho Trung Quốc. Sự tồn tại của đảo Hải Nam được ví như tiền đồn của Trung Quốc ở biển Đông và kiểm soát mặt biển rộng hàng trăm nghìn km vuông theo hướng nam. Nếu Trung Quốc bố trí hạm đội có HKMH tại đây, thì với việc trang bị các máy bay chiến đấu và máy bay ném bom tầm xa trên HKMH, hải quân Trung Quốc sẽ có 1 chu vi kiểm sóat rộng lớn từ trên không với bán kính lên đến hơn 500 km. Chú ý đến tình hình trên biển mấy năm gần đây của Trung Quốc, các vấn đề tranh chấp xảy ra tại vùng biển đông hải giữa Nhật-Trung Quốc, giữa Trung Quốc-Đài Loan không nhiều bằng các tranh chấp giữa Trung Quốc với các nước Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) tại biển đông. Tạp chí quân sự quốc tế nổi tiếng của Canada "Hán hòa phòng vụ bình luận" (tư tưởng phòng vệ hài hòa và người Hán) đánh giá: trọng tâm phát triển của hải quân Trung Quốc đang tiếp tục hướng xuống phía Nam, với các chứng cứ cho thấy rõ ràng Trung Quốc đang không ngừng xây dựng các công trình quân sự, phòng thủ trên biển tại biển đông, không ngừng đóng mới các tàu chiến và tàu ngầm với số lượng ngày càng nhiều. Theo báo cáo nói: Trung Quốc cũng đã xây dựng 1 quân cảng nước sâu rộng lớn tại khu vực Tam Á. Kết luận của bài báo là :"với vị trí chiến lược và địa hình đặc biệt của đảo Hải Nam, nơi đây đang trở thành "quan đảo", với nhiệm vụ giám sát biển Nam Hải (biển Đông), uy hiếp nghiêm trọng bờ biển Đài Loan. Trong tương lai không xa, Tam Á sẽ thay thế Trạm Giang và Quảng Châu để trở thành căn cứ hải quân quan trọng nhất của hải quân Trung Quốc trong chiến lược tiến ra biển lớn". Cho nên nếu nắm trong tay khả năng tác chiến tập đoàn của 1 hạm đội viễn dương có HKMH, theo hướng đông, Trung quốc có thể kiểm soát eo biển giữa Đài Loan và Philippin qua đó nắm giữ quyền ra vào Tây Thái Bình Dương. Nếu phát sinh chiến sự với Đài Loan, hải quân Trung Quốc có thể nhanh chóng khống chế bờ biển phía Đông Đài Loan(trong vòng 1 ngày) ,đồng thời tiến hành bao vây và phong tỏa. Nếu xảy ra xung đột tranh chấp lãnh thổ đảo Điếu Ngư giữa Trung Quốc và Nhật, các phi đội máy bay chiến đấu của HKMH này cũng sẽ khống chế được không phận ở khu vực này trong thời gian ngắn (ít nhất là 2,3 tiếng) trong khi đợi chi viện. Lúc đó quyền chủ động sẽ thuộc về hải quân Trung Quốc. Đối với vấn đề tranh chấp trên biển đông với các nước Đông Nam Á, từ trước đến nay, Trung Quốc luôn bộc lộ 1 điểm yếu lớn, đó là quyền khống chế từ trên không. Vì khoảng cách từ Trung Quốc đến khu vực tranh chấp xa hơn khỏang cách từ địa phận các nước xung quanh đến khu vực này,(nhất là Việt Nam và Philippin), nên Trung Quốc luôn rơi vào thế bị đông. Khi có được hàng không mẫu hạm, vấn đề này sẽ được giải quyết. Nói xa hơn một chút, nếu hạm đội viễn dương có HKMH của Trung Quốc đi theo hướng tây, đến khu vực eo biển Malacca, họ còn có thể giám sát được hành tung của hải quân Ấn Độ ở phía đông Ấn Độ Dương, đồng thời bảo vệ được tuyến vận tải quốc tế trên biển của Trung Quốc (nhất là nguồn năng lương,xăng dầu...). Vậy vì sao Trung Quốc sẽ không bố trí HKMH tại đông hải hay bắc hải ? Theo đánh giá của bản thân, nguyên nhân chủ yếu là vấn đề tương quan lực lượng . Lực lượng tàu chiến và tàu ngầm hiện đại của Trung Quốc chủ yếu được bố trí tại hạm đội Nam Hải. Lực lượng phòng không của hải quân có các máy bay chiến đấu loại Mig, Su hiện đại mua của Nga, các máy bay ném bom tầm xa hiện đại nhất do Trung Quốc sản xuất. Lực lượng hải quân trang bị các tàu khu trục cũng thuộc loại hiện đại nhất mà Trung Quốc có được (như khu trục hạm 168,169,170,171). Ngoài ra còn có 1 biên đội tàu ngầm với các tàu ngầm hạt nhân chiến lược và tàu ngầm chính quy ( như tàu ngầm hạt nhân cấp "Hán"-091G, cấp "Thương"-093, cấp "Tống"-039A và cấp "Minh"-035G). Lực lượng này đủ sức đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ cho hàng không mẫu hạm nếu có. So sánh với lực lượng hải quân của các nuớc xung quanh, chỉ có các loại tàu bảo vệ bờ biển, tàu phóng lôi và các tàu ngầm cở nhỏ, Trung Quốc có được ưu thế quân sư hơn hẳn. Nhưng nếu Trung Quốc bố trí HKMH tại khu vực đông hải hay bắc hải, hải quân Trung Quốc sẽ phải đối diện với hải quân Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (đều là những lực lượng hải quân thuộc loại mạnh nhất trong khu vực Châu Á), nhất là Nhật Bản. Hải quân Nhật Bản có 1 lực lượng chống tàu ngầm tốt nhất Châu Á và xếp thứ 2 thế giới (chỉ sau Mỹ) -theo viện nghiên cứu quốc phòng thuộc đại học quốc phòng Trung Quốc. Thêm 1 yếu tố là hơn 1/2 các căn cứ quân sự của Mỹ ở Châu Á được đặt tại Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung Quốc dù ngạo mạn đến đâu cũng sẽ chưa dám công khai đối đầu với Mỹ, ít nhất là thời điểm này. Thêm 1 điều đáng chú ý là hê thống xử lý số liệu và chỉ huy tác chiến lắp trên các khu trục hạm của hạm đội Nam Hải được xem là hòan thiện và hiện đại nhất trong hải quân Trung Quốc. Cụ thể là hệ thống xử lý số liệu chiến thuật HN900 trong chiếm hạm 170,171 và hệ thống xử lý số liệu CLINK-11 lắp trên các chiếm hạm khác (cà 2 hệ thống này được đánh giá ngang ngửa với các hệ thống xử lý số liệu của hải quân khối NATO), trong khi hệ thống lắp trên các chiến hạm của hạm đội Đông Hải chỉ là loại CLINK-10 .Những điều này cho thấy hạm đội Hải Nam đang dần được trang bị các hệ thống xử lý số liệu tốt nhất trong hiệp đồng tác chiến. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc đối với 1 hạm đội viễn dương. Ngoài ra ,tất cả các chiến hạm và tàu ngầm của hạm đội Nam Hải đều đã được lắp đặt hệ thống định vị vệ tinh. Điều này đã nâng cao rất nhiều khả năng cơ động tác chiến và thông tin liên lạc trong hạm đội này. Đây cũng là 1 đầu mối chứng tỏ HKMH đầu tiên của Trung Quốc sẽ được đặt tại khu vực này. Tóm lại tất cả các yếu tỏ đều chứng minh cho chúng ta thấy hạm đội Nam Hải của Trung Quốc hiện nay và sau khi có được HKMH sẽ là 1 lực lượng nguy hiểm cho an ninh của khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng. Chúng ta không thể chần chừ được nửa! Hải quân Trung Quốc đã tiến ra biển lớn, còn Việt Nam ?
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 21:23:11 GMT -5
QUÂN CHỦNG KHÔNG QUÂN TRỰC THUỘC HẢI QUÂN TRUNG QUỐC Quân chủng không quân trực thuộc hải quân của Trung Quốc được trang bị máy bay ném bom, máy bay tiêm kích, máy bay cường kích và nhiều loại máy bay khác. Số máy bay này được sữ dụng trong việc công kích chiến hạm, đổ bộ bờ biển, và phòng thủ bầu trời các căn cứ hải quân. Hải quân Trung Quốc có 3 hạm đội: hạm đội Bắc Hải, Đông Hải, Nam Hải. Trong đó không quân được chia thành các sư đoàn không quân và đoàn không quân độc lập. Sư đoàn không quân dựa theo chức năng các máy bay để lập biên chế. Biên chế 1 sư đoàn thường có 2 đoàn không quân. Chú thích dưới đây là lực lượng chủ yếu của quân chủng không quân trực thuộc hải quân. Các máy bay của binh chủng không quân trực thuộc hải quân (KQHH) thường là các máy bay do chính Trung Quốc tự sản xuất. Bao gồm máy bay ném bom, trinh sát, tiếp dầu, cường kích, tiêm kích, thủy phi cơ...các loại. Trong đó bố trí tại hạm đội Đông Hải được ưu tiên tăng cường máy bay chiến đấu Su-30MK2 của Nga. Ngoài ra, để tăng cường sức chiến đấu và trinh sát, các hạm đội còn được bố trí thếm các đoàn trực thăng độc lập. Nói về số lượng máy bay được trang bị cho hải quân, các thông tin trên mạng có rất nhiều, nhưng độ chính xác không được đảm bảo. Nhưng theo các số liệu có được trên các phương tiên thông tin đại chúng, số lượng máy bay của hải quân Trung Quốc xấp xỉ từ 800-900 chiếc các loại( bao gồm các máy bay thế hệ củ gần hết hạm sữ dụng). Nghĩa là thực tế trang bị cho KQHH chỉ còn 500-600 máy bay. Máy bay ném bom được trang bị các loại Hong-5, hong-6 mô phỏng theo kiểu máy bay AR-28, TU-16 của Liên Xô. Trong đó có máy bay ném bom trang bị ngư lôi hong-5y và máy bay trinh sát Hong-5, khoảng 150 chiếc. Nhưng hiện nay ,số lượng trên đã giảm xuống còn khoảng 2/3 . Nhưng bù lại KQHH được trang bị thêm các loại máy bay mới như hong-6D được sản xuất bởi công ty hàng không Tây Phi. Có thể mang được các loại tên lửa không đối hạm C601 hoặc C611, với tầm bắn 200 km. Ngoài ra không quân Trung Quốc cũng đang nghiên cứu và chế tạo 1 loại máy bay ném bom mới hong-6EH và tên lửa không đối đất C603 có khả năng dò tìm mục tiêu. KQHH cũng đã được trang bị máy bay tiếp dầu trên không hong-6D. Máy bay chiến đấu được trang bị jiang-5, là kiểu cải tiến từ máy bay J-6 của Trung Quốc tự sản xuất. Các máy bay này được trang bị rada nhằm định vị mục tiêu và tốc độ mặt đất, nâng cao năng lực dẩn đường của máy bay trong chiến đấu. Jiang-5 có thể mang được 2 ngư lôi, tên lửa không đối hạm C801( tầm bắn 40 km), tốc độ march 0.9, nhưng nó không có rada khống chế mục tiêu và hỏa lực, bất lợi trong việc tập trung hỏa lực. Máy bay ném bom cường kích qianghong-7 sữ dụng hệ thống phản lực 2 bên, đầu máy bay có rada khống chế mục tiêu, có thể mang loại tên lửa C601, C80K, C82K. và các tên lửa chống hạm .Tổng trọng lượng khi mang vũ khí là 5 tấn. Nhưng nhược điểm của qianghong-7 là không thích hợp không chiến, chỉ có thể sữ dụng trong việc ném bom và hộ tống. Máy bay Su-30MK2 do Nga chế tạo đã khắc phục được nhược điểm này. Su-30 là cải tiến của máy bay chiến đấu Su-27 .Khi đã được trang bị đầy đủ vũ khí không đối không, Su-30 có khả năng không chiến áp đảo. Bắt đầu từ năm 2001, Trung Quốc đã nắm được công nghệ sản xuất Su-27 với sự đồng ý của Nga, họ đã có thể tự chế tạo được Su-30MK. Loại máy bay này có tộc độ bay march 2 được trang bị rada khống chế mục tiêu thuộc loại hiện đại nhất của Nga, cự ly dò tìm lên đến 140 km, cùng 1 lúc khóa 4 mục tiêu. Tên lửa trang bị là loại không đối đất kh31, không đối hạm kh31A và loại chống rada kh31P của Nga và C911 của Trung Quốc, tốc độ bay march 3.5. Tổng trọng lượng sau khi trang bị vũ khí là 7 tấn. Để làm nhiệm vụ phòng vệ bờ biển và các căn cứ hải quân, KQHH Trung Quốc bố trí tổng cộng 400 chiến đấu cơ J-6, J-7, J-8 tại các cảng khẩu và căn cứ hải quân. Trong đó nhiệm vụ phòng thủ chủ yếu do J-7, J-8 đảm nhiệm. J-6 ( mô phỏng Mig-19 của Liên Xô) chỉ còn nhiệm vụ tuần tra và cảnh giới. J-8 là phiên bản mô phỏng hoàn toàn của Mig-21, từ kiểu dáng cho đến tính năng, nhưng từ thập niên 80, Trung Quốc đã tiến hành cải tiến với phiên bản J-8II (thay đổi hệ thống phản lực đằng trước chuyển sang 2 bên ...) . Năm 2000, Trung Quốc nhận của Nga hệ thống thao tác và rada trang bị cho J-8 , đó chính là J-8C, loại này chủ yếu được bố trí tại đảo Hải Nam. Điều này chứng tỏ được sự quan tâm đặc biệt của Trung Quốc đối với biển Đông. Để tăng thêm hiệu quả trong chiến đấu, việc phát hiện và nhận biết các máy bay lạ là việc hết sức quan trọng. KQHH Trung Quốc có 1 đơn vị độc lập đảm nhận nhiệm vụ này, đơn vị được bố trí tại căn cứ không quân Thượng Hải, có nhiệm vụ nghiên cứu và chế tạo máy bay trinh sát cảnh báo sớm Y-8AEW. Đây là kiểu máy bay có hình dáng như An-12 của liên Xô, chế tạo tại tập đoàn công nghiệp máy bay Thiểm Tây. Ngoài ra hải quân Trung Quốc còn có máy bay trinh sát Y-8X , thủy phi cơ hong-5 và Be-6 của Liên Xô trước đây. Các máy bay này ngoài nhiệm vụ trinh sát còn có thể chống tàu ngầm và vận tải . Nhưng đảm đương tác chiến chống tàu ngầm của Trung Quốc chính là các đoàn trực thăng chống tàu ngầm. Trực thăng có 3 loại : 2 loại trực thăng Z-9X mô phỏng kiểu "cá heo" (海豚) của Pháp, 1 loại mô phỏng trực thăng K-28 của Nga.Có thể trang bị ngư lôi chống tàu ngầm, nhưng không thể mang theo tên lưa chống hạm. Các trực thăng này chủ yếu đặt trên các tàu khu trục hạm của Trung Quốc. Mỗi tàu từ 1 đến 2 chiếc. Dưới đây là số liệu thống kê từng hạm đội:
Học viện phi hành hàng hải (J-6 huấn luyện, hong-5) Căn cứ Hồ Lô Đảo Sư đoàn không quân ném bom số 2. Căn cứ Sơn Hải Quan Đoàn không quân số 4 (hong-6,hong-6D, tiếp dầu hong-16) Đoàn không quân số 6 (hong-5) . Căn cứ Giao Đông Sư đoàn không quân cường kích số 5 . Căn cứ Thanh Đảo Đoàn không quân 14 (J-5) Đoàn không quân 15 (J-8A) Đoàn không quân số 7 .Căn cứ Lai Dương Đoàn không quân 19 (J-6) Đoàn không quân 20 (J-5) Đoàn không quân độc lập số 1 (hong-5, Y-8). Căn cứ Lai Dương Đoàn không quân độc lập số 2 (y-7). Căn cứ Lương Hương Đoàn không quân độc lập số 3 (thủy phi cơ hong-5, J-6) Đoàn không quân độc lập số 4 (K-28). [Giao Đông] Đoàn không quân độc lập số 6 (z-8,z-9c) Sư đoàn không quân tiêm kích số 4 , [Lộ Kiều] Đoàn không quân số 10 (Su-30MK2) Đoàn không quân số 12 (J-7EH) Sư đoàn không quân cường kích số 6 [Đại Trường] Đoàn không quân 16 (JH-7) Đoàn không quân 18 (J-7) Đoàn không quân 17 (JH-7), [Nghĩa Đảo] Đoàn trực thăng độc lập (Z-9C, K-28) Tổ đặc chủng (y-8AEW) , [Đại Trường ] Sư đoàn không quân ném bom số 3 [Tam Á] Đoàn không quân trinh sát số 5 (hong-5) Sư đoàn không quân tiêm kích số 8 [Hải Khẩu] Đoàn hàng không số 22 (J-6,J-6c) Đoàn không quân 24 (J-7II) Sư đoàn không quân tiêm kích số 9 [linh Thủy] Đoàn không quân 25 (J-8B, J-8C) Đoàn không quân 27 (JH-7A) , [Tam Á] Đoàn trực thăng độc lập (Z-8,Z-9C) [linh Thủy]
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 21:23:49 GMT -5
BÀI PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC LỰC (ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM) CỦA TRANG BỊ VŨ KHÍ CỦA HẠM ĐỘI NAM HẢI-TRUNG QUỐC KHU TRỤC HẠM "QUẢNG CHÂU" A/Khu trục hạm "Quảng Châu", số hiệu 168, thuộc chủng loại 052B, cùng với khu trục hạm "Vũ Hán"-169 thuộc loại khu trục hạm tiên tiến đầu tiên do Trung Quốc tự sản xuất. Độ giản nước 7000 tấn, động cơ Diesel , tốc độ chạy tàu <30 hải lý, 4 ống phóng tên lửa phòng không 4 nòng C-803, 2 giá phóng tên lửa phòng không nòng đơn 9M317 , 1 trụ pháo hạm nòng đơn 100mm có khả năng tàng hình (chống rada) ,2 trụ pháo tầm gần 7 nòng 30mm (tự sản xuất), 4 trụ phóng tên lửa đa chức năng 3 x 6 nòng và 1 bải đáp cho 1 trực thăng chống tàu ngầm KA-28 . Đây là chiếc khu trục hạm thuộc loại hình thông dụng đầu tiên trong kế hoạch đóng "khu trục hạm viễn dương loại lớn" của hải quân Trung Quốc. Trước đây các chiến hạm như 112, 113, 167...do nhiều yếu tố như độ giản nước không đủ, trọng tải nhỏ hoặc còn mang năng tính thực nghiệm, vì thế không được xem là loại khu trục hạm thế hệ tiên tiến thực sự. Giống như loại khu trục hạm (KTH) 052C , các kiểu chiến hạm 052B đều do tổng công trình sư nổi tiếng của Trung Quốc là viện sỹ Phan Kính Phù thiết kế. Theo các báo cáo của Trung Quốc,kế hoạch đóng KTH 168 được chính thức nghiên cứu vào năm 1997, năm 1999 bắt đầu định hình thiết kế, qua đó nhận được giải thưởng đặc biệt về tiến bộ khoa học kỷ thuật của chính phủ Trung Quốc vào cuối năm 1999. Đầu năm 2002, chiến hạm bắt đầu được đóng tại xưỡng đóng tàu Giang Nam, năm 2003 được hạ thủy chạy thử. Tháng 1 năm 2004, KTH 168 được chính thức đưa vào sữ dụng, và gia nhập hạm đội Nam Hải.
B/Thiết kế tổng thể : Thiết kế của KTH 168 có mục đích chủ yếu là tạo ra 1 loại hình chiến hạm mới áp dụng các tiến bộ khoa học quân sự mới nhất và có độ tin cậy cao nhất, qua đó cung cấp 1 nền tảng cho việc nghiên cứu cải tiến và phát triển các loại hình chiến hạm mới cho hải quân Trung Quốc. Chính vì vậy, hải quân Trung Quốc thiế kế tàu dựa trên nguyên tắc 1 khu trục hạm viễn dương đa chức năng loại lớn. *Loại hình lớn: thiết kế 1 phần không gian rộng lớn , đủ sức trang bị các loại vũ khí chiến đấu hiện đại theo yêu cầu "càng nhiều càng tốt" *Viễn dương: đủ sức gánh vác nhiệm vụ "tiến ra biển lớn" của hải quân Trung Quốc. *Đa chức năng: KTH 168 có thể xem là 1 chiến hạm với nhiều loại vũ khí đa dạng: phòng không, chống hạm và chống tàu ngầm. Nhưng chính vì năng lực chiến đấu tổng hợp dẫn đến việc không có ưu thế vượt trội về 1 lĩnh vực nhất định. Trên tàu được trang bị gần như đầy đủ các hệ thống vũ khí ,hệ thống điện tử loại mới do Trung Quốc tự chế tạo (mô phỏng công nghệ vũ khí tiên tiến của nước ngoài).
C/Hệ thống động cơ và thiết kế kiểu dáng: Mục đích thiết kế của KTH này là tạo nên 1 loại hình khu truc hạm viễn dương loại lớn, điều này được thể hiện rõ nhất qua hệ thống động cơ và kiểu dáng tàu. 1-Thiết kế kiểu dáng: KTH 168 có chiều dài khỏang 155m, rộng 20m, trọng tải tàu 6800 tấn, trọng tải tàu khi trang bị đầy đủ vũ khí là 7500 tấn . Kiểu dáng tàu thanh thoát và hiện đại, mũi tàu được thiế kế như 1 góc nhọn , không có các chi tiết thừa và không có nhiều góc cạnh. Kiến trúc thượng tầng sữ dụng thiết kế "nhất thể hóa" ,phần đuôi có hình vây cá. Kiểu thiết kế này mang đến cho tàu khả năng giảm ma sát của gió, tăng tốc độ cho tàu, giảm lực cản của sóng biển trong một mức độ nhất định, ngoài ra còn tăng thêm khả năng chống rada của tàu. Nhưng so với các thiế kế của thập niên 80 trên thế giới, KTH 168 bộc lộ điểm yếu trong tính ổn định và sự linh hoạt qua quá trình chạy thử. 2-Hệ thống động cơ: Động cơ chính của KTH 168 là điểm đáng lưu ý trong thiết kế tàu. Tàu sữ dụng loại "động cơ liên hợp dầu và khí" đang thịnh hành trên thế giới. Thiết kế động cơ còn có cửa sổ lọc không khí nằm tại ống khói của tuabin khí trên tàu. Động cơ chính là kiểu (DA/DN80) theo công nghệ của Ukraina, do Trung Quốc tự chế tạo. Động cơ này được sản xuất năm 1995, chiếu dài 4.6m, nặng 16 tấn, tốc độ quay 3000-3600 vòng/phút, công suất 26680.5 ngàn Wat, hiệu suất nhiệt 36.5% . Đây là loại động cơ tiên tiến trên thế giới chỉ sau loại động cơ WR-21 của hải quân Mỹ. Nhưng vì thời gian nghiên cứu chế tạo đến 10 năm nên thời gian ứng dụng và duy tư sữa chửa động cơ vẫn chưa bằng các loại LM2500 của Mỹ. Động cơ phụ của tàu là động cơ Diesel loại MTUV956TB90 do Trung Quốc tự nghiên cứu và sản xuất. Tính năng không bằng các loại động cơ tiên tiến của thế giới nhưng đủ để đáp ứng yêu cầu chạy tàu.
D/Tính năng tàng hình: Bắt đầu từ hộ tống hạm cấp "Giang Vệ I " ,bộ khoa học quân sự Trung Quốc bắt đầu đưa tính năng tàng hình trở thành 1 hạng mục quan trọng cần có trong việc thiết kế các chiến hạm cho hải quân. Thiết kế của KTH 168 là kiểu thiết kế "kín", lấy mặt cong thay thế cho mặt phẳng, loại bỏ các góc cạnh, hệ thống vũ khí được bố trí bên trong, hạ thấp chiều cao của hệ thống rada phát tín hiệu. Trong việc thiết kế ống khói động cơ tàu, hải quân Trung Quốc sữ dụng hệ thống làm lạnh kín, sữ dụng tấm cách nhiệt, hệ thống tỏa nhiệt theo tầng và dùng các hệ thống đường ống đặc biệt dẫn khí thải xuống biển, qua đó giảm bớt khả năng bị phát hiện bởi các ra da hồng ngoại, tìm nhiệt. Trong vấn đề giảm âm thanh tiếng ồn, KTH được trang bị ngói lợp giảm thanh, thiết kế khoang giảm âm nhằm hạ thấp âm thanh của động cơ tàu. Sử dụng nhiều công nghệ mới đã tăng tính năng tàng hình và không bi rada phát hiện cho tàu, nhưng vì trang bị nhiều hệ thống vũ khí theo công nghệ của Nga nên trên mặt tàu bố trí quá nhiều vũ khí ,ảnh hưởng đến khả năng chống rada của nó.
E/Hệ thống vũ khí : 1/Pháo hạm: Chủ pháo hạm của KTH 168 là 1 trụ pháo đơn nòng 100mm do Trung Quốc sản xuất theo công nghệ của Pháp (có khả năng tàng hình). Đối tượng công kích chủ yếu là các mục tiêu trên không và trên biển, có khả năng chống tên lửa tầm thấp và thực hiện nhiệm vu pháo kích bờ biển. Tốc độ đạn 870m /giây, độ dài của nòng 5500mm, tốc độ bắn 10-90 phát /phút, tầm bắn 6000m, trọng lượng tháp pháo 17000kg, tỷ lệ bắn trúng mục tiêu trong khỏang cách 20000m là 0.7-0.8 . Ngoài ra KTH còn trang bị loại pháo phòng không tầm gần "hỏa thần" loại 7 nòng 30mm , kiểu dáng tương tự như 1 hệ thống pháo phòng không của Hà Lan. Hệ thống này được phát triển từ đầu thập niên 90, theo kiểu dáng hệ thống pháo phòng không AK-630 của Nga, nhưng sau đó được cải tiến lên 7 nòng ,tốc độ bắn 5800phát/phút, khả năng phản ứng nhanh, tỷ lệ trúng đạn tương đối cao. Ngoài ra, KTH này còn trang bị máy tính tóan mục tiêu, hệ thống khống chế nhịp bắn, và lần đầu tiên đưa vào sữ dụng kỷ thuật tự động thao tác bắn. Điểm khác duy nhất so với hệ thống pháo của Hà Lan là không có năng lực tìm và khóa nhiều mục tiêu trên không. Điều này có thể được bù đắp qua khả năng giải trừ điểm ảnh mục tiêu của hệ thống rada 1/K và khả năng dò tìm điểm sáng trong thời gian 3 giây của hệ thống ODF-730.
2/Tên lửa : *Tên lửa phòng không : Tại tấm giáp thứ 2 trên mặt thuyền, được lắp 1 giá phóng tên lửa phòng không nòng ống kiểu Nga, đó là hệ thống " 施基利 " . Đây là thiết kế theo kiểu dáng thập niên 80 của Nga, với hệ thống phóng tên lửa nhiều nòng, phụ trách nhiệm vụ tác chiến phòng không cho tàu và cho cả biên đội. Mục tiêu chủ yếu là máy bay ném bom, máy bay cường kích, trực thăng và các loại tên lửa chống hạm. Tòan bộ hệ thống do 3 trụ rada phòng không , máy phát tín hiệu, đài phân tích mục tiêu, đài khống chế xạ kích, máy tính trung ương ,hệ thống tên lửa, giá phóng tạo thành tổ hợp phòng không chặt chẻ. Hệ thống vũ khí gồm 2 giá phóng tên lửa gắn ở đầu và đuôi tàu. Hệ thống tên lửa này có phạm vi quay 360 độ, góc bắn từ 0 đến 70 độ, tốc độ xoay 90- 100 độ/phút. Hệ thống còn có thể tự động gắn tên lửa vào vị trí phóng trong thời gian 12 giây. Tên lửa có tầm bắn 40 km, tốc độ bay march 4, sữ dụng hệ thống rada định vị mục tiêu bán tự động, độ cao từ 10-3000m. Đặc điểm của tên lửa: - Tên lửa có bước đột phá trong công nghệ dò tìm và nhắm bắt mục tiêu, tự động sử dụng số liệu mục tiêu tử rada MP-710 để phân tích và tìm diệt mục tiêu. Như vậy đã đơn giản hóa kết cấu hệ thống và gia tăng khả n8ang dò tìm mục tiêu. - Tên lửa sử dụng kiểu đường đạn hình vòng cung có khả năng ngăn chặn mục tiêu tầm siêu thấp.Có khả năng triệt tiêu được ảnh hưởng của các mục tiêu giả và ánh sáng phản chiếu đối với tên lửa. - Tên lửa được sản xuất theo công nghê kết cấu mô-đun hóa, có tính linh họat trong sản xuất và lắp đặt tùy theo từng hệ thống rada dùng trong tên lửa. Nhiều nhất có thể trang bị số tên lửa với trong lượng lên đến 1500 tấn. Nhưng điều đáng lưu ý là KTH 168 không trang bị hệ thống tên lửa phóng chiều thẳng đứng. Đây là điểm khác biệt nổi trội với KTH 170 (đã được trang bị hệ thống phóng này ). 1 điểm đáng xem xét là đằng sau giá phóng tên lửa SA-N-12 và 1 khỏang không rộng, nhưng chỉ được gắn 4 giá phóng 18 nòng loại tên lửa mồi (đánh chặn tên lửa địch ). Điều này có thể chứng minh, hải quân Trung Quốc vẫn có kế hoạch trang bị hệ thống phòng tên lửa thẳng đứng cho KTH 168.
*Tên lửa chống hạm: Khu vực giửa phòng máy và ống khói là nơi bố trí 4 giá phóng 4 nòng loại tên lửa chống hạm và chống tàu ngầm, có khả năng phóng cùng lúc 16 tên lửa các loại. Tên lửa được dùng chủ yếu là loại C803 với tầm bắn 250km, chủ yếu đối phó các mục tiêu tầm trung.
*Tên lửa chống tàu ngầm : Chiến hạm trang bị loại tên lửa chốn tàu ngầm "Trường Anh số 1" ,sử dụng cùng giá phóng tên lửa với loại C803.
3/Ngư lôi: 168 được gắn 2 giá phóng tên lửa 3 nòng đôi kiểu "Bách Đầu" . Đây là loại tên lửa do Trung Quốc chế tạo thập niên 80-90 , mô phỏng theo kiểu a-244S của Ý. Tên lửa có chiều dài 2.75m, bán kính 324mm, tầm bắn 15 km, tốc độ 35 hải lý, độ sâu tối đa 500m , sử dụng động cơ điện.
4/ Thủy lôi : Phía trước KTH còn có 2 hệ thống phóng ngư lôi ,thủy lôi loại FQF-2500/12 , tầm bắn của thủy lôi là 2500m, chủ yếu chống các mụa tiêu dưới nước cự ly gần. Đây là hệ thống vũ khí chống tàu ngầm tiêu chuẩn của hải quân Trung Quốc.
5/Trực thăng : Khu vực nhà để máy bay của KTH 168 tương đối rộng, đủ cho 1 chiếc trực thăng chống tàu ngầm K-28 hạ cánh. Ngoài ra khu vực này còn là nhà kho để nhiên liệu, thiết bị quan trắc và vũ khí khi cần thiết . F/Thiết bị điện tử: 1/Hệ thống chỉ huy tự động hóa : Tàu trang bị hệ thống mạng C31 bao gồm : mạng nội bộ trung tâm chỉ huy và bộ chỉ huy, tốc độ đường mạng là 1Mbps đến 10 Mbps. 2/Hệ thống chỉ huy tình báo tác chiến: là loại ZKJ-5 ,sản phẩm của viện nghiên cứu 79 thuộc tập đoàn công nghiệp tàu thuyền Trung Quốc. Tốc độ đường truyền của hệ thống là 100M . Tính thực dụng, dung lượng, khả năng phân tích và độ tin cậy đã có nhiều tiến bộ so với trước đây. (nhưng trên hình thức vẫn có dáng dấp của hệ thống tác chiến IPN-10 theo công nghệ của Ý thập niên 90. 3/Hệ thống rada : rada của KTH 168 là sản phẩm Trung Quốc chế tạo theo kiểu dáng của Nga, bao gồm: *Tổ hợp rada dẫn đường tên lửa chống hạm "Lạc Đài": là hệ thống dẫn đường tiêu chuẩn cho loại tên lửa SS-N-22 của Nga, chạy trên bức sóng D/E/F , có năng lực dò tìm mục tiêu trên biển và trên không, đường kính ăngten 3.2m , cao 4.5m , cự ly khống chế mục tiêu là 120 km. (đây cũng đang là hệ thống rada thông dụng trên các khu trục hạm của Nga). *Rada dò tìm mục tiêu và hệ thống dẩn đường pháo phòng không : đây cũng là 1 hệ thống công nghệ của Nga với 3 trụ ăngten dò tìm mục tiêu.trên không loại "Đỉnh Bản". Hệ thống chạy trên bức sóng E/H . Đặc điểm chủ yếu là khả năng gây nhiễu điện tử mạnh, trình độ tự động hóa cao. *Ngoài ra, trên tàu còn có 1 trụ rada cảnh báo sớm trên không tầm xa loại 517, cùng lọai với hệ thống 515 của Liên Xô thập niên 60, nhưng tính năng đã được cải tiến. 4/Rada phòng không : Đây là kiểu rada loại "tiên phong" MR-90 ,nhiệm vụ chủ yếu là khống chế hỏa lực, chuyên giành đối phó với các tên lửa chống hạm, nhất là loại SA-N-12.
Ngoài các thiết bị trên ,KTH 168 còn có thêm các loại ra da phòng không như : hệ thống 347G( sử dụng tần sóng I ), hệ thống RM-1290, và 1 hệ thống cảm ứng quang điện GDG-755. Hệ thống rada của KTH 168 tuy nhiều và đa chức năng , nhưng điểm yếu là không có vị trí cố định, độ chính xác trong môi trường giông bão lớn không được cao.
5/Hệ thống trắc âm dưới nước : Dù chưa nắm được thông tin cụ thể nhưng có thể khẳng định hệ thống này sẽ dựa theo công nghệ của Nga hiện đang trang bị trên các khu trục hạm thuộc hạm đội biển Bắc .
G/Phân tích tổng hợp : Qua cái nhìn khái quát , chúng ta có thể thấy được Trung Quốc đã sữ dụng rất nhiều công nghệ của Nga trong trang bị vũ khí và hệ thống điện tử trên tàu. Điều này mang đến cho KTH 168 nhiều tính năng chiến đấu tổng hợp, nhưng vì vậy tỷ lệ nội địa hóa cộng nghệ không cao, ảnh hưởng đến khả năng bảo mật công nghệ quân sự .
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 21:25:40 GMT -5
KHU TRỤC HẠM "VŨ HÁN" Khu trục hạm "Vũ Hán", số hiệu 169, là loại hình khu trục hạm tên lửa cấp 052B, 1 trong những loại khu trục thông dụng thế hệ mới của Trung Quốc. Tàu bắt đầu được đóng từ năm 2001, đến ngày 31 tháng 10 năm 2002 bắt đầu hạ thủy, năm 2003 tàu được cho chạy thử và tháng 1 năm 2004 bắt đầu đưa vào phục vụ trong biên chế của hạm đội Nam Hải.
1/Số liệu kỷ thuật cơ bản : *Độ giản nước 7000 tấn *Trang bị động cơ liên hợp Diesel-khí * Tốc độ chạy tàu <30 hải lý/giờ *Vũ khí: 4 giá phóng tên lửa phòng không 4 nòng đôi C-803, 2 giá phóng tên lửa phòng không nòng đơn 9M38M , 1 trụ pháo hạm nòng đơn 100mm có khả năng tàng hình (chống rada), và 2 trụ pháo tầm gần 7 nòng 30mm (tự sản xuất), 4 trụ phóng tên lửa đa chức năng 3 x 6 nòng và 1 bải đáp cho 1 trực thăng chống tàu ngầm K-28 .
Nói chung số liệu kỷ thuật, hệ thống vũ khí, hệ thống rada ....đều giống như thiết kế của khu trục hạm "Quảng Châu"-168 đã giới thiệu ở bài trước. Chúng ta sẽ chỉ đi vào đánh giá và phân tích các điểm khác biết của chiến hạm 169 này.
2/Điểm khác biệt trong kiểu dáng thân tàu và hệ thống động cơ: KTH 169 sữ dụng kết cấu vật liệu kim loại tổng hợp, có độ bền cao, vững chắc, độ ổn định của thân tàu cao, có khả năng chống chìm tốt và có thể chịu được gió bão cấp 12. Chiến hạm này còn được trang bị hệ thống giảm độ rung lắc của tàu, nhờ vậy có thể tiến hành tác chiến trong điều kiện giông bão tốt hơn KTH 168. Vì vậy đáp ứng được yêu cầu của 1 KTH viễn dương. Ngoài ra động cơ của KTH 169 là động cơ liên hợp dầu và khí, nhưng chủng loại khác với chiến hạm 168, KTH 169 sử dụng động cơ tuabin khí DA80 của Ukraina và động cơ Diesel MTUII63-TB92 theo công nghệ của Đức. Tốc độ hàng tốc lên đến 32 hải lý/giờ, trong 20 hải lý/giờ tàu có thể đi được 6000km liên tục.
3/Thuyền trưởng của khu trục hạm "Vũ Hán"-169 là đại tá Trường Long Quyển, ông có thâm niên phục vụ trong hải quân 16 năm. Ông được xem như 1 trong các thuyền trưởng có bề dày kinh nghiệm nhất trong hải quân Trung Quốc.
KHU TRỤC HẠM "LAN CHÂU" Khu trục hạm "Lan Châu", số hiệu 170, là loại khu trục hạm tên lửa cấp 052C ( là kiểu cải tiến của KTH cấp 052B). KTH này được hạ thủy vào ngày 29 tháng 4 năng 2003 tại xưỡng đóng tàu Giang Nam -Trung Quốc. Đây là chiến hạm đầu tiên trang bị hệ thống rada phòng không tương hỗ và hệ thống phóng tên lửa phòng không kiểu thẳng đứng của Trung Quốc. Trung Quốc xem KTH 170 cùng với 168,169,171 là 4 tấm khiêng trấn giử bờ biển Trung Quốc "Trung Hoa Thần Thuẫn". 1/Thông số kỷ thuật chính : *Độ giản nước 7000 tấn *Trang bị động cơ liên hợp Diesel-khí * Tốc độ chạy tàu <30 hải lý/giờ *Vũ khí chính: 2 giá phóng tên lửa phòng không 4 nòng đôi , 2 tổ hợp phóng 6 tên lửa phòng không loại thẳng đứng "Hải Hồng-9", 1 trụ pháo hạm nòng đơn 100mm có khả năng tàng hình (chống rada), và 2 trụ pháo tầm gần 7 nòng 30mm (tự sản xuất), 4 trụ phóng tên lửa đa chức năng 3 x 6 nòng, 2 ống phóng ngư lôi 3 nòng đôi loại 324mm và 1 bải đáp cho 1 trực thăng chống tàu ngầm K-28 .
2/Trang bị pháo hạm: Khu trục hạm "Lan Châu" sử dụng cùng loại pháo hạm chủ như trên KTH "Quảng Châu"-168, là loại pháo nòng đơn 100mm có khả năng tàng hình . Ở bên dưới thành thuyền, trên đài chỉ huy và đằng sau đuôi tàu (nơi để trực thăng ) trang bị trước sau 2 trụ pháo tầm gần 7 nòng loại 30mm. Hệ thống này nhắm đối phó với các mục tiêu như tên lửa chống hạm, máy bay, tàu cao tốc và đấu pháo hạm.
3/Hệ thống chống tàu ngầm : Trên tàu có lắp đặt 2 ống phóng ngư lôi 3 nòng đôi loại 324mm kiểu 7424 do Trung Quốc tự chế. Ngư lôi được sử dụng là loại ngư lôi 7A chống tàu ngầm được lắp ở 2 bên thành đuôi tàu . Chiến hạm còn có 4 trụ phóng tên lửa 18 nòng đa chức năng, chủ yếu để phóng các loại tên lửa mồi nhử, đạn gây nhiễu hồng ngoại...Ở phía trước kết cấu phòng máy còn lắp thêm 2 tổ hợp phóng tên lửa phòng không 4 nòng đôi chuyên dùng cho tên lửa phòng không siêu âm loại "Ưng kích-62". Hệ thống tên lửa này sử dụng động cơ trọng áp có tốc độ cao, hơn nữa còn có 1 rada dẫn đường tìm diệt mục tiêu với tính năng dẫn đường quáng tính, định vị GPS, tính năng dẫn đường không cần rada trên tàu mẹ. Tên lửa có cự ly khóa mục tiêu lên đến 30 km.
4/Điểm đáng chú ý của khu trục hạm 170 : A-Hệ thống rada phòng không tương hỗ "Tương Không Trận" Đây là điểm thu hút sự chú ý nhất của các chuyen gia quân sư nước ngoài. Hệ thống này chính là 4 trụ ăngten loại lớn được lắp ở 4 mặt cầu tàu (giới quân sự trong nước gọi đây là "tấm lợp ngói"). Kết cấu thượng tầng có 8 mặt bản thể ,hướng lên trên 1 góc nghiêng 15 độ, tạo thành 4 góc nghiêng 45 độ so với đường trục tàu là 4 cột rada. 4 mặt ăngten này đều có hình vòng cung với diện tích 4.5x4.2 m lớn hơn cả hệ thống AN/SPY-1 của Mỹ. Hệ thống chạy trên bức sóng S, có khả năng quan trắc cự ly dài . Do diện tích của bề mặt rada không nhỏ, mà tên lửa "Hải Hồng-9" lại có cùng tính năng như tên lửa SA-N-6 và SA-N-10 cùa Nga, nên có thể đóan ra được hệ thống rada phòng không này cũng gần tương tự như hệ thống phòng không tương hỗ "Sky Watch" hoặc hệ thống "30N6E" đang dùng trên các hàng không mẫu hạm và khu trục hạm tên lửa của Nga. B/Hệ thống phóng tên lửa kiểu thẳng đứng "Hải Hồng-9", còn gọi là HQ-9: Đây cũng lại là 1 hệ thống mô phỏng hệ thống tên lửa phòng không thẳng đứng VLS của hải quân Nga trong thập niên 80-90. Hệ thống này bắt đầu được Trung Quốc nghiên cứu chế tạo từ năm 1980 , ban đầu là 1 hệ thống tên lửa phòng không tầm xa trang bị cho bộ binh với số lượng nhỏ, có tên gọi "Hồng Kỳ-9", sau được cải tiến để lắp đặt trên các tàu của hải quân Trung Quốc. Tên lửa "Hồng kỳ-9" có chiều dài 9m, trọng lượng 1600kg, đầu đạn nặng 180kg, với kiểu dáng hình chử Thập, tầm bắn 6-200km, độ cao 50-30000m, tốc độ tối đa march 4.2. Hệ thống dẫn đường là hệ thống quán tính/chỉ huy + TVM (Track-via-Missile). Bản thân tên lửa đã trang bị máy ghi nhận bức sóng rada, qua đó tiếp nhận thông tin từ đài chỉ huy. Tất cả mệnh lệnh khóa và tìm diệt mục tiêu đều nhận lệnh của đài chỉ huy.
Nhận xét chung đối với KTH 170 là , sau khi được trang bị hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng, KTH "Lan Châu" đã trở thành 1 khu trục hạm phòng không khu vực (không chế được tòan bộ 1 khu vực lớn)đầu tiên của Trung Quốc. Điều này tăng cường thêm khả năng phòng không bảo vệ hạm đội, nâng cao khả năng hiệp đồng tác chiến qua vệ tinh, tín hiệu quang điện và âm thanh.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 21:26:44 GMT -5
KHU TRỤC HẠM "THÂM QUYẾN" SOÁI HẠM CỦA HẠM ĐỘI NAM HẢI- TRUNG QUỐC
Khu trục hạm "Thâm Quyến", là khu trục hạm tên lửa cấp "Lữ Hải"-051B, số hiệu : 167. Nó bắt đầu được đóng vào tháng 12 năm 1995. Tháng 10 năm 1997, được hạ thủy và chạy thử. Ngày 1 tháng 1 năm 1999, KTH chính thức được đưa vào biên chế của hạm đội Nam Hải.
1/Thông số kỹ thuật chính: *Độ giản nước: 5000 tấn *Trọng tải tối đa (khi trang bị vũ khí): 6700 tấn *Kích thước tàu: dài 153m, rộng 16.5m, cao >6m *Động cơ: Động cơ Diesel loại CODOG, công suất 48600 mã lực *Tốc độ chạy tàu 30 hải lý/giờ *Trang bị vũ khí: +4 ống phóng 4 nòng tên lửa chống hạm C-802 (tầm bắn 120km) +1 giá phóng tên lửa phòng không 8 nòng đôi "Hồng Kỳ-7" (cơ số đạn 24) +1 trụ pháo hạm 2 nòng 100mm bán tự động +4 trụ pháo phòng không tự động 2 nòng 37mm giáp 76mm (tốc độ bắn 180 phát/phút, tầm bắn 3-5km. +3 ống phóng ngư lôi 2 nòng 324mm (ngư lôi loại "bạch đầu"-B515) +2 giá phóng 4 ống đôi tên lửa chống tàu ngầm "Trường Anh-1", còn gọi là CY-1. Tầm bắn 18km. +1 bải đáp trực thăng chống tàu ngầm Z -9 .
2/Điểm nổi bật: *KTH 167 là chiến hạm đầu tiên được lắp hệ thống chỉ huy tác chiến biên đội, có năng lực chỉ huy tác chiến cao. Vì vậy tàu được chỉ định làm soái hạm chính thức cho hạm đội Nam Hải vào tháng 2 năm 1999. *KTH 167 có tỷ lệ nội địa hóa trang thiết bị cao nhất trong hạm đội cho đến thời điểm hiện tại. *Mục tiêu công kích của tàu chủ yếu là các mục tiêu trên biển và tàu ngầm. Nhược điểm của tàu là hê thống vũ khí phòng không yếu hơn so với các chiến hạm 168,169,170,171. Trong đội hình tác chiến biên đội, KTH 167 luôn được đặt ở vị trí trung tâm ,qua đó nhận được sự bảo vệ của mạng lưới phòng không từ các chiến hạm xung quanh. *Đây là tàu chiến đại diện cho hải quân Trung Quốc ghé thăm các nước nhiều nhất . Từ năm 1999 đến nay, tàu đã ghé thăm và tham gia diễn tập quân sự với nhiều nước trên thế giới : Nhật, Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Ấn Độ, Nam Phi, Singapo, Đức....tổng cộng 15 quốc gia và khu vực. Tàu được xem như "ngôi sao ngoai giao" của hải quân Trung Quốc. *Căn cứ quân sự neo đậu chính thức của tàu là căn cứ hải quân Trạm Giang-Quảng Đông.
KHU TRỤC HẠM "TRƯỜNG SA" Khu trục hạm "Trường Sa", số hiệu 161, là khu trục hạm tên lửa cấp "Lữ Đại I"-051. Tàu được đóng tại xưỡng đóng tàu Quảng Châu. Bắt đầu đưa vào biên chế hạm đội Nam Hải từ năm 1976. Thông số kỷ thuật chính: *Độ giản nước: 3250 tấn (tiêu chuẩn), 3670 tấn (khi đã trang bị vũ khí ) *Kích thước : 132m x 12.8m x 4.6 m *Động cơ : 2 động cơ tuabin-khí , công suất 72000 mã lực *Tốc độ : 32 hải lý/ giờ *Tốc độ hải hành : 2970 hải lý trong vận tốc 18 hải lý/giờ *Biên chế : 280 người (sỉ quan 45 người) *Vũ khí : +2 giá phóng tên lửa chống hạm 3 nòng đôi loại "Hải Ưng-2" (C-201), tốc độ march 0.9, tầm bắn 95km, trọng lượng 513kg. +2 trụ pháo 2 nòng 130mm, góc quay 85 độ, tốc độ bắn 17 phát/phút, tấm bắn 16-29km, trọng lượng đạn 33.4kg. +4 trụ pháo cao xạ thao tác cơ học 2 nòng đôi 37mm (do người điều khiển), góc quay 85 độ, tốc độ bắn 180 phát/phút, tầm bắn 4.6-8.5km, trọng lượng đạn 1.42 kg. +4 trụ pháo cận chiến 2 nòng 25mm,góc quay 85 độ, tốc độ bắn 270 phát/phút, tầm bắn 1.6-3km, trọng lượng đạn 0.34kg. +2 giá phóng 12 nòng loại FQF 2500, trang bị tên lửa chống ngầm (120 quả), tầm bắn 1200m, trọng lượng tòan bộ 34kg, mô phỏng kiểu RBU 1200 của Nga. +4 giá phóng đạn chống ngầm loại BMB-2.
Hệ thống rada: *Rada cảnh giới trên không "Nhãn Quang354" *Rada trinh sát tầm thấp trên biển "Tế Mạng" *Rada cảnh giới tầm xa"Mạng Nhãn" *Hệ thống dẫn đường tên lửa "Hải Vương Tinh"
Thông tin chính thức: Khu trục hạm "Trường Sa" đã chính thức giải ngũ vào ngày 26 tháng 8 năm 2008 vừa qua. Nhưng vẫn có thể quay lại chiến trường khi có yêu cầu.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 21:47:24 GMT -5
KHU TRỤC HẠM "NAM NINH" Khu trục hạm "Nam Ninh" ,số hiệu 162, là khu trục hạm tên lửa cấp "Lữ Đại"-051. Tàu được đóng tại xưỡng đóng tàu Quảng Châu. Hạ thủy vào năm 1979.
Thông số kỷ thuật chính: *Độ giản nước: 3250 tấn (tiêu chuẩn), 3670 tấn (khi đã trang bị vũ khí ) *Kích thước : 132m x 12.8m x 4.6 m *Động cơ : 2 động cơ tuabin-khí , công suất 72000 mã lực *Tốc độ : 32 hải lý/ giờ *Tốc độ hải hành : 2970 hải lý trong vận tốc 18 hải lý/giờ *Biên chế : 280 người (sỉ quan 45 người) *Vũ khí : +2 giá phóng tên lửa chống hạm 3 nòng đôi loại "Hải Ưng-2" (C-201), tốc độ march 0.9, tầm bắn 95km, trọng lượng 513kg. +2 trụ pháo 2 nòng 130mm, góc quay 85 độ, tốc độ bắn 17 phát/phút, tấm bắn 16-29km, trọng lượng đạn 33.4kg. +4 trụ pháo cao xạ thao tác cơ học 2 nòng đôi 37mm (do người điều khiển), góc quay 85 độ, tốc độ bắn 180 phát/phút, tầm bắn 4.6-8.5km, trọng lượng đạn 1.42 kg. +4 trụ pháo cận chiến 2 nòng 25mm,góc quay 85 độ, tốc độ bắn 270 phát/phút, tầm bắn 1.6-3km, trọng lượng đạn 0.34kg. +2 giá phóng 12 nòng loại FQF 2500, trang bị tên lửa chống ngầm (120 quả), tầm bắn 1200m, trọng lượng tòan bộ 34kg, mô phỏng kiểu RBU 1200 của Nga. +4 giá phóng đạn chống ngầm loại BMB-2.
Hệ thống rada: *Rada cảnh giới trên không "Nhãn Quang354" *Rada trinh sát tầm thấp trên biển "Tế Mạng" *Rada cảnh giới tầm xa"Mạng Nhãn" *Hệ thống dẫn đường tên lửa "Hải Vương Tinh" KHU TRỤC HẠM "NAM XƯƠNG" Khu trục hạm "Nam Xương" , số hiệu 163, là khu trục hạm tên lửa cấp "Lữ Đại"-051. Tàu được đóng tại xưỡng đóng tàu Quảng Châu. Hạ thủy năm 1981. Thông số kỷ thuật chính: *Độ giản nước: 3250 tấn (tiêu chuẩn), 3670 tấn (khi đã trang bị vũ khí ) *Kích thước : 132m x 12.8m x 4.6 m *Động cơ : 2 động cơ tuabin-khí , công suất 72000 mã lực *Tốc độ : 32 hải lý/ giờ *Tốc độ hải hành : 2970 hải lý trong vận tốc 18 hải lý/giờ *Biên chế : 280 người (sỉ quan 45 người) *Vũ khí : +2 giá phóng tên lửa chống hạm 3 nòng đôi loại "Hải Ưng-2" (C-201), tốc độ march 0.9, tầm bắn 95km, trọng lượng 513kg. +2 trụ pháo 2 nòng 130mm, góc quay 85 độ, tốc độ bắn 17 phát/phút, tấm bắn 16-29km, trọng lượng đạn 33.4kg. +4 trụ pháo cao xạ thao tác cơ học 2 nòng đôi 37mm (do người điều khiển), góc quay 85 độ, tốc độ bắn 180 phát/phút, tầm bắn 4.6-8.5km, trọng lượng đạn 1.42 kg. +4 trụ pháo cận chiến 2 nòng 25mm,góc quay 85 độ, tốc độ bắn 270 phát/phút, tầm bắn 1.6-3km, trọng lượng đạn 0.34kg. +2 giá phóng 12 nòng loại FQF 2500, trang bị tên lửa chống ngầm (120 quả), tầm bắn 1200m, trọng lượng tòan bộ 34kg, mô phỏng kiểu RBU 1200 của Nga. +4 giá phóng đạn chống ngầm loại BMB-2.
Hệ thống rada: *Rada cảnh giới trên không "Nhãn Quang354" *Rada trinh sát tầm thấp trên biển "Tế Mạng" *Rada cảnh giới tầm xa"Mạng Nhãn" *Hệ thống dẫn đường tên lửa "Hải Vương Tinh" TÀU NGẦM TẤN CÔNG HẠT NHÂN CẤP "HÁN"-091 Tàu ngầm tấn công hạt nhân cấp "Hán" ,(091),tồng cộng khoảng 5 chiếc, hạm đội Nam Hải có 2 chiếc , số hiệu : 408, 409. Tàu được đóng từ năm 1968 đến 1974. *Thông số kỹ thuật chính: +Độ giản nước: 4500 tấn (trên mặt nước), 5500 tấn (dưới mặt nước) +Chiều dài : 108 m +Chiều rộng: 11 m +Tốc độ chạy tàu: 12 hải lý/giờ (trên mặt nước), 25 hải lý/giờ (dưới mặt nước) +Vũ khí : 6 ống phóng ngư lôi loại nòng 533mm, sử dụng loại ngư lôi chống tàu ngầm hoặc tên lửa C-801. Ngoài ra có thể mang theo tên lửa trang bị đầu đạn hạt nhân.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 21:58:21 GMT -5
TÀU NGẦM TẤN CÔNG HẠT NHÂN CẤP "HÁN"-091 Tàu ngầm tấn công hạt nhân cấp "Hán" ,(091),tồng cộng khoảng 5 chiếc, hạm đội Nam Hải có 2 chiếc , số hiệu : 408, 409. Tàu được đóng từ năm 1968 đến 1974. *Thông số kỹ thuật chính: +Độ giản nước: 4500 tấn (trên mặt nước), 5500 tấn (dưới mặt nước) +Chiều dài : 108 m +Chiều rộng: 11 m +Tốc độ chạy tàu: 12 hải lý/giờ (trên mặt nước), 25 hải lý/giờ (dưới mặt nước) +Vũ khí : 6 ống phóng ngư lôi loại nòng 533mm, sử dụng loại ngư lôi chống tàu ngầm hoặc tên lửa C-801. Ngoài ra có thể mang theo tên lửa trang bị đầu đạn hạt nhân. TÀU NGẦM HẠT NHÂN CẤP "HẠ" Tàu ngầm hạt nhân cấp "Hạ" , (092). Chiếc đầu tiên được đóng từ năm 1978 và hạ thủy năm 1981.Hạm đội Nam Hải có 1 chiếc , số hiệu : 406A . *Thông số kỹ thuật của tàu: +Độ giãn nước: 7000 tấn +Chiều dài : 120m +Chiều rộng : 10m +Tốc độ chạy tàu 16 hải lý/giờ (trên mặt nước), 22 hải lý/giờ (dưới mặt nước) +Độ sâu tối đa: 300m +Thủy thủ đoàn : 140 người +Vũ khí: 12 quả tên lửa vượt đại dương loại "Cự Lang-1" (mỗi quả có thể mang 1 đầu đạn hạt nhân với sức công phá bằng 300000 tấn thuốc nổ) tầm bắn 2000km. 6 ống phóng ngư lôi nòng 533mm. TÀU NGẦM CHÍNH QUY CẤP "MINH" Tàu ngầm chính quy (động cơ Diesel) cấp "Minh" ,(035).Tàu ngầm loại này có khoảng 15 chiếc, trong đó hạm đội Nam Hải có 6 chiếc , số hiệu : 358, 359, 360, 361, 362, 363 *Thông số kỹ thuật của tàu: +Độ giãn nước: 1700tấn (trên mặt nước), 2250 tấn (dưới mặt nước) +Chiều dài : 76m +Chiều rộng : 7.6m +Tốc độ chạy tàu 15 hải lý/giờ (trên mặt nước), 18 hải lý/giờ (dưới mặt nước) +Độ sâu tối đa: 300m +Thủy thủ đoàn : 140 người +Vũ khí: 8 ống phóng ngư lôi nòng 533mm.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 22:01:36 GMT -5
TÀU NGẦM CHÍNH QUY CẤP "TỐNG" Tàu ngầm chính quy cấp "Tống" ,(039).Tàu bắt đầu được đ1ong vào năm 1994.Tổng cộng có 4 chiếc, trong đó hạm đội Nam Hải có khoảng 1 chiếc , số hiệu : 325 *Thông số kỹ thuật của tàu: +Độ giãn nước: 1700 tấn (trên mặt nước), 2250tấn (dưới mặt nước) +Chiều dài : 74.9m +Chiều rộng : 8.4m +Tốc độ chạy tàu 15 hải lý/giờ (trên mặt nước), 22 hải lý/giờ (dưới mặt nước) +Độ sâu tối đa: 300m +Thủy thủ đoàn : 60 người +Vũ khí: 6 ống phóng ngư lôi nòng 533mm.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 22:03:23 GMT -5
TÀU NGẦM CHÍNH QUY CẤP "KYLO" CỦA NGA Hạm đội Nam Hải có khả năng năm 2002 đã được trang bị thêm 8 chiếc tàu ngầm chính quy cấp "Kilo" do Nga sản xuất trong số 12 chiếc được Trung Quốc đặt mua của Nga. Hiện nay chỉ mới nhận diện được 4 chiếc là 364,365,366,367 *Thông số kỹ thuật của tàu: +Độ giãn nước: 2350 tấn (trên mặt nước), 3050 tấn (dưới mặt nước) +Chiều dài : 73.8m +Chiều rộng : 9.9m +Tốc độ chạy tàu 16 hải lý/giờ (trên mặt nước), 24 hải lý/giờ (dưới mặt nước) +Độ sâu tối đa: 300m +Tàu có thể ở dưới nước liên tục trong 42 ngày, với tầm hoạt động 10000km +Thủy thủ đoàn : không rõ +Vũ khí: 6 ống phóng ngư lôi nòng 533mm, với trang bị 18 quả ngư lôi. Ngoài ra còn có 1 ống phóng tên lửa phòng không ,sữ dụng loại tên lửa SA-N-8.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 22:29:01 GMT -5
Theo báo cáo của Chuyên gia quân sự Hans Kristensen thuộc liên minh khoa học gia Hoa Kỳ (FAS) chuyên phụ trách nghiên cứu về tình hình phát triển của quân đội Trung Quốc đã công bố 1 báo cáo "tổng kết trong năm của quân chủng tàu ngầm thuộc hải quân Trung Quốc". Theo báo cáo thì hải quân Trung Quốc với khỏang 55 chiến tàu ngầm đã tiến hành 6 lần tuần tra viễn dương tầm xa trong năm 2007 (trong năm 2006 và 2005, số phi vụ tuần tra là 2 và 0 ). Số lần tuần tra năm 2007 cũng bằng số lần tuần tra năm 2000. Từ năm 1981 đến nay, tàu ngầm Trung Quốc tiến hành tuần tra viễn dương quá 5 lần chỉ có năm 2000 và 2007. Trong các phi vụ tuần tra này không có sự tham dự của tàu ngầm có khả năng mang đầu đạn hạt nhân. Đáng chú ý là từ "tuần tra" (Patrol) không giống với cách hiểu của nhiều người. Theo định nghĩa của bộ quốc phòng Mỹ trong cuốn (Từ điển quân ngữ /JP1-02) thì "tuần tra" để chỉ các họat động thu thập tin tức, phá hoại, quấy rối, công kích và các nhiệm vụ bí mật khác được tiến hành bằng các phương tiện quân sự trên không,trên mặt đất và dưới biển. Theo định nghĩa này ,báo cáo cho rằng các phi vụ tuần tra của tàu ngầm Trung Quốc chủ yếu là theo dõi và bám theo các tàu ngầm của các nước khác. Qua đó tiến hành thu thập tin tức và bố trí các thiết bị quấy nhiễu . So sánh với số phi vụ tuần tra tầm xa của Mỹ (trung bình khỏang 100 lần/năm ) thì số lần tuần tra của Trung Quốc chỉ là con số nhỏ . Báo cáo cho rằng so sánh giữa Trung Quốc với Mỹ là không thực tế vì tương quan lực lượng còn quá xa. Đồng thời hải quân Trung Quốc cũng không mang trên mình "trách nhiệm" như Mỹ , quân chủng tàu ngầm của Trung Quốc chủ yếu là tiến hành bảo vệ vùng biển gần. Trong khi tàu ngầm Mỹ luôn phải tiến hành nhiều nhiệm vụ bắt buộc với các nước đồng minh và nhiệm vụ độc lập. Tác giả cho rằng nên so sánh lực lượng tàu ngầm Trung Quốc với Nga là thích hợp. So với Liên Xô trước đây , số phi vụ tuần tra viễn dương của Nga đã giảm rất nhiều , chỉ còn 7 lần trong năm 2007. Báo cáo cũng làm 1 phép tính. Trong thập niên 80 của thế kỷ trước , số phi vụ tuần tra của Trung Quốc bình quân 1.2 lần/năm. Nhưng từ đầu thế kỷ 21 (năm 2000 ), số phi vụ đã tăng lên 3.4lần/năm. Điểm nhấn trong báo cáo này là sự xuất hiện của tàu ngầm hạt nhân lớp "Tấn"-094 trong hải quân Trung Quốc. Sau 25 năm kể từ khi chế tạo chiếc tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình đầu tiên là tàu ngầm lớp "Hạ"-092, Trung Quốc đã có thêm 1 vũ khí "răn đe" mới (nhưng vẫn chưa đủ để tạo nên tính uy hiếp với Mỹ ). Tác giả còn tiến hành đánh giá về vũ khí tên lửa hành trình của Trung Quốc. Tên lửa "Cự Lang-1" đã tiến hành thành công 2 lần phóng thử nhưng chưa đủ để hình thành sức chiến đấu tổng thể, lọai tên lửa này được Mỹ gọi là CSS-NX-3, chữ X trong đó để chỉ "sản phẩm đang trong giai đoạn thử nghiệm". Đối với tên lửa "Cự Lang-2" trên tàu ngầm lớp "Tấn" , tác giả cho rằng đây chỉ là phiên bản cải tiến ( phóng to ) của "Cự Lang-1" , nghĩa là cũng chỉ mang được 1 đầu đạn hạt nhân duy nhất. Trong khi tên lửa trên các tàu ngầm kiểu mới của Mỹ có thể mang được nhiều đầu đạn hạt nhân cùng lúc (sức công phá sẽ cao hơn rất nhiều). Báo cáo cho rằng các tên lửa này chỉ có bán kính họat động mang tính cục bộ. Theo đánh giá, tầm bắn của "Cự Lang-2" là hơn 8000km, từ bờ biển Trung Quốc có thể uy hiếp đến bang Alaska hoặc đảo Hawai, nhưng không thể uy hiếp được đến các thành phố trung tâm nằm trong nước Mỹ. Nếu Trung Quốc muốn công kích vào lãnh thổ nước Mỹ, tàu ngầm Trung Quốc ít nhất phải vượt qua lưới phòng thủ chống tàu ngầm 4 nước Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Tác giả cũng phân tích về nơi bố trí các tàu ngầm hạt nhân chiến lược của Trung Quốc. Trong đó địa điểm vịnh Bột Hải (渤海湾) nằm giữa bán đảo Sơn Đông và Liêu Đông được xem là địa điểm thích hợp nhất. Từ đây , tên lửa của Trung Quốc có thể uy hiếp trực tiếp đến các vùng như đảo Guam, Ấn Độ, Alaska, Nga và đảo Hawai. Ngòai ra , báo cáo còn đề cập đến 2 căn cứ tàu ngầm tại đảo Hải Nam và căn cứ Thanh Đảo. Theo tác giả, căn cứ tàu ngầm tại đảo Hải Nam có ưu thế hơn với mực nước sâu và địa thế tự nhiên đặc biệt. Từ căn cứ Hải Nam, tàu ngầm Trung Quốc có thể phóng tên lửa đến các vị trí như đảo Guam, Ấn Độ, Nga . Nhưng không vươn tới được Hawai.
|
|