|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 13:09:13 GMT -5
Công nghệ chống bắn tỉa Tháng 1/2006, cao điểm bạo lực tại Iraq với Fallujah là một trong những trọng điểm nóng nhất, và người ta nói rằng có 1 'bóng ma' đang theo ám lực lượng thủy quân lục chiến Mỹ tại đây. Tay xạ thủ bắn tỉa này đã giết chết 2 lính Mỹ. Ban đầu có nhiều lời khẳng định về thân thế của bóng ma này. Có người nói rằng hắn là một người hồi giáo từ Chesnia, có người tin rằng đó là một cựu vận động viên bắn súng Olympic của Iraq, cũng có tin đó là một tay súng Iraq được Syria đào tạo. Mặc dù cuối cùng tay súng này, một người Iraq, cũng bị bắn chết và không làm ảnh hưởng gì đến toàn bộ chiến dịch thì hiệu ứng tâm lý gây ra là không hề nhỏ. Vi dụ trên không phải là ngoại lệ, từ hàng thế kỷ nay, các xạ thủ bắn tỉa luôn là một phần không thể thiếu trên chiến trường, và là một loại vũ khí cực kỳ hiệu quả. Với những công nghệ mới trong tương lai, hứa hẹn sẽ làm cho những xạ thủ càng nguy hiểm hơn. Do đó, những công nghệ chống bắn tỉa cũng phải được phát triển theo cho tương xứng. Những hệ thống này bao gồm việc xác định vị trí nơi phát súng được bắn ra cho tới phát hiện xạ thủ trước khi anh ta kịp khai hỏa. Một trong những hệ thống như trên là Boomerang, xuất hiện từ 2005, và đến nay có hơn 5000 bộ được trang bị. Nó là thiết bị âm học gắn trên xe cơ giới, cảm nhận sóng xung lực gây ra bởi viên đạn di chuyển trong không khí và xác định vị trí của xạ thủ, thông báo kêt quả trong vòng chưa đầy 1 giây. Vị trí được hiển thị cả trên màn hình LED và bằng giọng nói, bao gồm hướng, góc bắn và khoảng cách. Nó không chỉ là một hệ thống riêng biệt, mà được thiết kế để tích hợp với những hệ thống khác, có thể là tháp súng điều khiển từ xa hay hệ thống định vị đối phương và đồng đội. Boomerang Warrior là một phiên bản gọn nhẹ đang được nghiên cứu, nó có thể được binh lính đeo theo người, thông tin được hiển thị bằng giọng nói qua tai nghe. SWATS là một thiết bị tương tự, nhưng đã được sử dụng thực tế ở Iraq và Afghanistan. Nó cung cấp thông tin dưới dạng âm thanh và hình ảnh chỉ sau 0.1 giây. Boomerang SWATS C-Sniper là một hệ thống đang trong quá trình phát triển dùng để phát hiện xạ thủ từ trước khi kịp khai hỏa. Khó khăn lớn nhất là loại bỏ thông tin 'nhiễu', như ánh mặt trời phản chiếu lên kính hay kim loại, 1 người đang cầm một ống dài, v.v…Hệ thống sử dụng cảm biến quang học. Nó có thể xác định nhiều mục tiêu cùng lúc và phân cấp độ ưu tiên. Crosshairs kết hợp giữa việc phát hiện xạ thủ và RPG. Nó gồm 1 radar, cảm biến Boomerang, hệ thống bảo vệ chủ động Iron Curtain. Nó có khả năng phát hiện RPG bắn tới và phóng ra một đầu đạn nổ làm chệch hướng tên lửa. Một số công ty Israel cung cấp những hệ thống tương tự dùng cảm biến quang điện như Spotlite M, SWIR, TED. SWIR là một thiết bị tự động dùng cảm biến quang điện hồng ngoại để phát hiện xạ thủ trong một khu vực rộng lớn xung quanh, nó có thể gắn trên xe hoặc do bộ binh mang theo. Spotlite M xác định đa mục tiêu ở khoảng cách xa cả ngày và đêm, sử dụng cảm biến hồng ngoại, zoom liên tục, bộ đo khoảng cách laser, GPS. Nó không chỉ có thể xác định và thông báo vị trí mục tiêu mà còn có thể chiếu laser vào đó để dẫn đường cho bom hay tên lửa. Chúng có thể được nối với nhau thành một mạng lưới, chia sẻ thông tin cho nhau. ********************** Bộ binh, cuộc chiến cân nặng 7 năm trôi qua kể từ sau khi nước Mỹ phát động cuộc chiến toàn cầu chống chủ nghĩa khủng bố, bộ binh vẫn gánh vác phần lớn trách nhiệm trong giao tranh, do đó nhiều tiền hơn được đầu tư cho các trang thiết bị của người lính bộ binh. Áo giáp mới an toàn hơn. Radio mới nhẹ và tin cậy hơn, và gần như mỗi người lính đều được trang bị. Cảm biến bức xạ nhiệt cá nhân cho phép người lính không chỉ nhìn thấy trong đêm mà cả xuyên qua bão cát. Khẩu phần ăn cũng được cải tiến, mới nhiều món mới, thiết bị lọc nước cá nhân mới thay cho hóa chất khử trùng nước, vốn có mùi vị rất khó chịu. Nhưng đi với những thiết bị mới trên là mối lo về trọng lượng. Thêm một thiết bị mới nghĩa là người lính phải cõng thêm một khối lượng không nhỏ. Đặc biệt là trường hợp của áo giáp và pin. Khi ra trận, bộ binh Mỹ thường đem theo áo giáp, vũ khí, đạn dược, radio, pin dự phòng, bộ cấp cứu, nước, thức ăn, thiết bị nhìn đêm. Một số còn đem theo iPod hay máy chơi game. Tổng cộng có thể tới gần 50 kg. Một vấn đề nữa là điện. Không chỉ là pin, mà còn là trọng lượng của máy phát điện cầm tay, hay pin năng lượng mặt trời dùng để sạc pin. Pin nhiêu liệu (sử dụng các phản ứng hóa học với một lượng rất nhỏ nhiên liệu để phát điện) được xem là giải pháp cho vấn đề. Một thiết bị mới mà người lính rất ưa thích là cảm biến bức xạ nhiệt cá nhân. Không như các thiết bị nhìn đêm truyền thống chỉ khuyếch đại ánh sáng yếu, thiết bị này cảm nhận các nguồn nhiệt phát ra. Được sử dụng trên xe cơ giới từ 20 năm nay, đến giờ nó mới trở nên nhẹ đủ để bộ binh mang theo. Tuy vậy, nó vẫn nặng hơn, sử dụng nhiều năng lượng hơn và đắt hơn thiết bị nhìn đêm cũ. **************** Bệnh viện cho robot Iraq là cuộc chiến đầu tiên mà một lượng lớn robot được sử dụng. Vào lúc cao điểm, 2007, có gần 2000 robot cỡ nhỏ được sử dụng. Chỉ khoảng 20% số thiệt hại là do chiến đấu, còn lại là do lỗi điều khiển. Tuy vậy, dù lí do gì thì chúng vẫn cần được sử chữa. Những robot này thường nặng dưới 30kg, và là một mục tiêu thường xuyên của những tên khủng bố. Chúng thường được sử dụng nhiều nhất để kiểm tra các vật thể bị nghi ngờ là bom tự tạo. Bọn khủng bố sẽ kích nổ hay thậm chí bắn vào robot khi thấy chúng tới gần. Nhưng robot thường nhỏ và được chế tạo rất chắc chắn, không dễ có thể bị hạ. Tuy vậy các kỹ thuật viên thường thao tác nhầm, đặc biệt là lệnh cho cánh tay robot nhấc những vật nặng hơn thiết kế. Binh lính ngày càng sử dụng robot nhiều hơn cho nhiều loại nhiệm vụ khác nhau, cũng như sẵn sàng bảo vệ chúng khỏi hỏa lực đối phương, đối xử với chúng như đồng đội. Họ bắn yểm trợ cho chúng và sẽ không gửi robot đi trong những tình huống nguy hiểm nếu không thật sự cần thiết. Trước đây, từng có một bệnh viện dành cho robot được thiết lập ở Iraq, với tên gọi chính thức là Cơ sở liên hợp sửa chữa và tái triển khai robot. Nó đã sửa chữa khoảng 400 robot một tuần. Các nhân viên ở đó thường xuyên gặp những anh lính mắt đỏ hoe, tay ôm con robot 'bị thương' và hỏi rằng liệu anh bạn của mình có thể được cứu. Nhiều trong số robot này thậm chí được đặt tên riêng. Cuối cùng người ta nhận ra rằng chuyển những con robot này về cơ sở sửa chữa ở Đức rồi chuyển trở lại sẽ kinh tế hơn. Tại đó có nhiều kỹ thuật viên kinh nghiệm hơn. ************************ Tại sao RPG Hỏa tiễn vác vai phổ biến,thống trị Hỏa tiễn vác vai rất phổ biến trên chiến trường, vì chúng rẻ và rất hiệu quả. Trong đó, RPG của Nga, hay thường được gọi là B-40, là rẻ nhất và do đó thông dụng nhất, chiếm tới 55% tổng số hỏa tiễn vác vai. Được giới thiệu tại Nga lần đầu 1961, phiên bản mới nhất, RPG 7, nặng 8kg, với hỏa tiễn nặng khoảng 2.5kg. Chúng có thể xuyên phá tới nửa mét thép. Nhưng phần lớn tăng hiện đại không sử dụng thép thông thường nữa. Do đó, xe tăng M-1 và xe thiết giáp M-2 hầu như không thể bị hạ bởi RPG 7, tại Iraq, việc hầu như toàn bộ xe thiết giáp trong 1 đơn vị bị trúng ít nhất 1 quả RPG là rất phổ biến. Tuy vậy, mối nguy lớn nhất là từ những mảnh đạn văng ra từ vụ nổ. Một đầu đạn RPG chống tăng có thể tạo ra mảnh văng xa tới 5m. Chúng ít khi gây chết người, nhưng đủ để khiến cho người lính bộ binh gần đó bị loại khỏi vòng chiến. Nếu dùng loại đầu đạn chống bộ binh, tầm sát thương có thể tới 10m. Một ống phóng RPG tốn khoảng 100-500 dollar. Đạn khoảng từ 50-100 dollar. Không cần nhiều kinh nghiệm, một người có thể bắn trúng một mục tiêu cố định có kích thước tương đương xe cơ giới cách 100m. Khi đã thành thục, người lính có thể bắn trúng mục tiêu cố định ở 500m và mục tiêu di động ở 300m. Các lực lượng quân sự không chính quy còn sử dụng RPG như một loại pháo binh. RPG-29 là bước phát triển mới nhất, được giới thiệu ngay sau khi LX sụp đổ. Lớn và đắt hơn phiên bản cũ, RPG-29 có tấm bắn hiệu quả 500m, và có thể xuyên qua 1.5m bê tông cốt thép. Đối với các nước phương Tây, loại vũ khí tương ứng là LAW và AT4. LAW là loại tên lửa vác vai sử dụng một lần, ống phóng có sẵn tên lửa bên trong và chỉ dùng cho một lần bắn. Nặng khoảng 3.5kg, giá 2,000 dollar, LAW là sự thay thế cho bazooka nổi tiếng thời thế chiến. Đến những năm 70, LAW không còn khả năng tiêu diệt các loại tăng thời đó nên được thay thế bằng AT4. Nó nặng hơn, khoảng 7kg, và dài hơ, giá 2,700 dollar. Tuy vậy, vì bộ binh Mỹ hiếm khi phải đối phó với xe tăng đối phương, phần lớn đã bị không quân và thiết giáp tiêu diệt trước đó, nên họ thích dùng LAW hơn, vốn nhỏ và gọn nhẹ hơn nhiều. Và thường họ dùng tên lửa vác vai để phá hủy các boongke, công trình nơi đối phương đang ẩn nấp nhiều hơn là thiết giáp. Ngoài ra, quân đội Mỹ vừa trang bị thêm SMAW, từ Israel. Nó có giá tới 14,000 dollar. Khi tính chung cả 2 yếu tố tính hiệu quả so với giá thành thì RPG vẫn là sự lựa chọn tốt nhất.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 15:31:18 GMT -5
Hệ thống radar SBX SBX là hệ thống radar băng tần X trên biển, thường được gọi là quả bóng golf khổng lồ, vì hình dáng bên ngoài của nó. Cao tương đương tòa nhà 10 tầng, nó được đặt trên một bệ giàn khoan nổi khổng lồ. Bản thân radar nặng đến 1800 tấn, với 22000 module thu phát thể rắn. Nó được cung cấp điện bởi 6 máy phát, tổng công suất 12MW. Nó được mô tả là có khả năng phát hiện và theo dấu một quả bóng bầu dục ở khoảng cách 4700km. Năm 2006, SBX, vẫn còn trong quá trình thử nghiệm, được huy động để theo dõi vụ thử tên lửa Taepodong 2 của Bắc Hàn, vụ thử khi đó thất bại. Lần này, Bắc Hàn lại chuẩn bị phóng Taepodong 2 một lần nữa, nhưng lần này SBX đang ở tại Hawaii và trải qua một đợt sửa chữa. ****************** DRFM - Bước tiến lớn trong chế áp điện tử Cùng với sự phát triển không ngừng radar của máy bay và tên lửa không đối không dẫn bằng radar, các công nghệ chế áp điện tử (ECM) cũng phải phát triển theo. Trước kia, việc gây nhiễu (jamming) được coi là nền tảng của ECM. Tuy vậy, các tên lửa ngày càng thông minh hơn, thậm chí chúng còn có thể truy ra nguồn gây nhiễu (tức máy bay đối phương) và nhắm vào đó. DRFM là kỹ thuật ghi nhớ tín hiệu radio kỹ thuật số. Về cơ bản, nó sẽ nắm bắt và số hóa một tín hiệu radio về tần số và băng thông để có thể tái hiện lại chính xác tín hiệu đó. Thông tin số hóa này được lưu vào bộ nhớ, để khi cần có thể đem ra để tái tạo lại tín hiệu đó và phát đi. Nói đơn giản nhất, nó là cách ta copy tín hiệu gốc. Khi máy bay đối phương dùng radar chiếu vào mục tiêu, tín hiệu sẽ phản xạ lại, nếu máy bay của chúng ta có trang bị DRFM, nó có thể phát ra tín hiệu copy y hệt tín hiệu từ radar của máy bay đối phương. Khi đó, đối phương không thể nào phân biệt được đâu là tín hiệu phản xạ thật, đâu là tín hiệu do ta chủ động phát ra. Kế quả là ta có thể tạo ra mục tiêu giả trên màn hình radar đối phương. Ngoài ra, bằng cách tạo ra những thay đổi nhỏ về tần số, ta có thể tạo ra thông số lỗi về tốc độ. Bị đánh lừa cả về vị trí và tốc độ, tên lửa đối phương sẽ chệch hướng rất xa. DRFM không phát ra tín hiệu nhiễu, nên đối phương không thể dùng tên lửa trang bị bộ theo dầu nhiễu. ************* Radar tầm xa ngoại biên Như đã biết, giới hạn đường chân trời luôn là một trong những yếu tố chính ảnh hưởng đến tầm hoạt động của radar. Bằng cách dựa vào cách thức mà sóng radar tương tác với bầu khí quyền, người ta có thể tạo ra những loại radar có khả năng 'nhìn' xa hơn giới hạn những loại radar thường. Những radar ngoại biên (OTH) này thường có độ chính xác kém, nên chỉ dùng trong vai trò cảnh báo sớm, tuy vậy hiện nay tính năng của chúng cũng đã được nâng cao rất nhiều. Các hệ thống OTH được chia làm 2 loại chính, sóng mặt đất và sóng trên không. Hệ thống sử dụng cơ chế sóng trên không còn gọi là OTH-B, nó dùng tầng điện ly của bầu khí quyển để phản xạ lại các sóng rdadar, thường là ở tầng số 5-28 MHz, nhờ đó sóng radar sẽ đi xa hơn giới hạn đường chân trời của mình. Nhược điểm của hệ thống này là sự tồn tại của 'vùng tối', nơi mà radar không thể 'nhìn' thấy gì. Radar dùng cơ chế sóng mặt đất, còn gọi là OTH-SW, dựa vào việc làm cho sóng radar lan truyền theo bề mặt của đại dương, đi xa hơn 'đường chân trời'. Do đó, OTH-SW phải được đặt trên bờ biển, và nó không có vùng tối. Còn OTH-B có thể triển khai ở bất kỳ đâu. Những hệ thống radar ngoại biên thường có kích thước rất lớn so với các radar thường. CHIẾN TRANH LẠNH Trong thời chiến tranh lạnh, OTH chủ yếu được sử dụng trong việc phát hiện máy bay ném bom và tên lửa chiến lược. Cả Mỹ và LX đều sử dụng OTH-B, của Mỹ là AN/FPS-118, của LX là Duga-3. Mỗi hệ thống được triển khai tại 2 địa điểm. Hiện nay thì cả 2 đều đã ngừng hoạt động. Hình bên dưới là các giàn phát (trên) và thu (dưới) của AN/FPS-118 ở bờ tây của Mỹ (giáp với Thái Bình Dương). HIỆN NAY Hiện nay Mỹ sử dụng radar OTH-B AN/TPS-71, có khả năng tái triển khai tại nhiều vị trí khác nhau. Ban đầu nó được lắp đặt ở Alaska để theo dõi bờ biển Nga cho tới 1993. Hiện có 3 hệ thống được lắp ở bờ Đông (Đại tây dương) và quanh biển Carribe, để hỗ trợ việc chống buôn lậu ma túy. (Xem hình dưới). Còn Nga đang ngả về hướng dùng công nghệ OTH-SW, bao gồm hệ thống di động IRIDA, có tầm 300km và một hệ thống lớn hơn ở vùng Viễn Đông, được cho là để giám sát vùng Biển Nhật Bản. Hình dưới là giàn thu của hệ thống này. Nước Úc, với vùng đại dương khổng lồ bao quanh, đã triển khai một hệ thống OTH-B tên Jindalee. Được triển khai tại 3 địa điểm, chúng được kết nối thành mạng JORN, theo dõi vùng trời và vùng biển phía tây và bắc Úc. Nó có tầm từ 800-3000km và được cho là có độ chính xác rất cao.Bên dưới là hình các giàn phát và thu của Jindalee. Pháp cũng đang phát triển OTH-B của riêng mình, Nostradamus, có tầm 700-2000km, điểm đặc biệt của nó là các giàn angten có dạng hình ngôi sao. TQ được cho là đã phát triển OTH-B từ 2001, với tầm từ 800-3000km. Các giàn thu phát đặt cách nhau 100km. Tình trạng hoạt động cũng như tính năng của nó chưa được hiểu rõ, nhưng được cho là có tầm bao phủ như hình dưới. Ngoài ra TQ còn nghiên cứu OTH-SW, với tầm hoạt động dự kiến như hình dưới. Nhiệm vụ chính của các hệ thống trên có thể là để hỗ trợ cho ý định của TQ dùng tên lửa đạn đạo chống lại tàu sân bay Mỹ. Theo đó, radar OTH sẽ đóng vai trò cảnh báo, phát hiện từ xa. Sau đó, các phương tiện khác như vệ tinh, UAV sẽ xác định vị trí chính xác của mục tiêu.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 15:47:48 GMT -5
Trung Cộng và giấc mơ hỏa tiển diệt chiến hạm Từ tháng 7/1995 đến tháng 3/1996, TC liên tiếp thực hiện 3 đợt thử nghiệm phóng hỏa tiển, với các điểm rơi càng ngày càng gần Đài loan. Trong đợt cuối, hỏa tiển TC rơi ngay bên trong lãnh hải Đài loan, khiến cho tàu thuyền và máy bay dân sự phải đổi hướng, thị trường chứng khoán Đài loan tụt dốc, luồng vốn chảy ra khỏi đảo quốc này dưới sự lo lắng về một cuộc xâm lược có thể xảy ra. Mục đích chính của hành động gây hấn này là cảnh cáo Đài loan về việc độc lập cũng như gây sức ép lên công chúng Đài loan không bỏ phiếu cho tổng thống đương nhiệm, vốn là người ủng hộ chủ trương độc lập, trong kỳ bầu cử ngày 23/3. TT Mỹ khi đó là Bill Clinton, mặc dù là người theo đuổi chính sách thân thiện với TC, nhưng với hành động không thể chấp nhận trên của chính quyền đại lục, đã ra lệnh cho 2 Hải đội Hàng không mẫu hạm là Independence và Nimitz lập tức triển khai tại khu vực. Nhận thức rõ ràng rằng mình không đủ sức đối phó với lực lượng này, sự hung hăng của TC nhanh chóng xẹp xuống. Đồng thời, mục tiêu chính trị của họ cũng không đạt được, người dân Đài loan thay vì sợ hãi lại trở nên phẫn nộ và dồn phiếu cho tổng thống đương nhiệm. Kể từ đó, TC đặt ưu tiên cho việc tìm ra cách đối phó với tàu sân bay của hải quân Mỹ.Trong đó, đặc biệt tham vọng là kế hoạch dùng hỏa tiển đạn đạo trong vai trò diệt hạm. Trên lý thuyết, 1 tên lửa DF-21 với tầm bay 2000km, trang bị đầu đạn có độ chính xác 10m và lao xuống mục tiêu với vận tốc Mach 10 có thể coi là một nguy cơ thật sự cho bất cứ ai, cho dù đó là lực lượng hải quân hùng mạnh nhất trên thế giới. Điều đặc biệt là ý tưởng này của TC bắt nguồn từ chính một hệ thống vũ khí của Mỹ. Đó là hỏa tiển nguyên tử tầm trung Pershing II, được triển khai ở châu Âu đầu những năm 80. Trái với suy nghĩ thông thường về vũ khí hạt nhân và hỏa tiển đạn đạo, Pershing II có độ chính xác đáng kinh ngạc, với khả năng đánh trúng trong vòng 30m quanh mục tiêu. Độ chính xác này đạt được nhờ vào MARV, hay đầu đạn có khả năng cơ động. MARV thực chất là một loại đầu đạn con trang bị trên hỏa tiển có khả năng cơ động độc lập. Sau khi hỏa tiển bay đến một vị trí nhất định, thường là ở độ cao tối đa, MARV sẽ tách ra, quay trở lại bầu khí quyển và tự bay đến các mục tiêu đã được lập trình trước. MARV trên Pershing II được trang bị một radar dẫn đường, nó sẽ quét khu vực quanh mục tiêu, so sánh với dữ liệu trong bộ nhớ và điều khiển tên lửa vào mục tiêu. Pershing II chứng minh rằng hỏa tiển đạn đạo có thể đạt được độ chính xác đủ để tấn công 1 mục tiêu kích thước nhỏ, như một con tàu trên đại dương. TC bắt đầu nghiên cứu công nghệ MARV ngay sau khi Pershing II được triển khai. Cho tới nay, rất có thể là họ đã làm chủ công nghệ này. Loại hỏa tiễn mà TC dùng để mang MARV có thể là DF-21. Nó dùng động cơ đẩy nhiên liệu rằn, là mức phát triển cao nhất cho động cơ hỏa tiển quân sự, vì độ tin cậy và khả năng sẵn sàng chiến đấu cao hơn nhiên liệu lỏng. Nó có thể được phóng đi từ các giàn phóng di động trên xe cơ giới. Tầm bắn khoảng 2000km đủ để bao phủ khu vực mà tàu sân bay có thể triển khai nếu xảy ra xung đột ở eo biển Đài loan. Ngoài ra, đầu đạn của nó cũng lớn hơn so với DF-15, cho phép gây ra thiệt hại đáng kể cho tàu sân bay. Để tăng khả năng đánh trúng, phiên bản DF-21 dùng cho mục đích này được tăng thêm 1 tầng hỏa tiển đẩy, nhằm tăng tính khó phán đoán của đường bay. Đầu đạn được thay đổi để giảm diện tích phản xạ radar. Ngoài ra, họ thêm vào đó một đầu dò đa chế độ: radar chủ động, thụ động và hồng ngoại. Tuy nhiên, trước khi phóng hỏa tiển, TC sẽ phải ít nhất là phát hiện được sự có mặt của hàng không mẫu hạm, xác định được vị trí chung của nó. Dữ liệu sẽ đến từ một trong các nguồn sau: Vệ tinh trinh sát: các loạt vệ tinh Ziyuan, Yaogan được trang bị cảm biến quang điện tử, CCD, radar mặt đất SAR. Đặc biệt quan trọng là hệ thống FY, về cơ bản nó là một loạt vệ tinh quan sát trái đất. TC từng tuyên bố sẽ phóng lên 100 vệ tinh quan sát. Một khả năng khác là phóng những vệ tinh mini, tuổi thọ ngắn khi xung đột xảy ra. TC được tin là có khả năng phóng lên 1 vệ tinh 100kg 5 tiếng sau khi có chiến tranh. Trong một cuộc thử nghiệm, vệ tinh mini hoạt động trong 27 ngày. Radar tầm xa ngoại biên, tầm hoạt động 800 - 3000km, độ chính xác từ 20-30km. Nếu sử dụng thuật toán tốt hơn có thể giảm xuống còn 2-3km. UAV: TQ có những dự án UAV copy theo các dự án của Mỹ, bao gồm loại hoạt động ở độ cao lớn như Global Hawk và trung bình như Predator. Thời gian hoạt động khoảng 20 giờ. Cơ chế hoạt động có thể theo những bước sau:Khi xung đột nổ ra, TC trước tiên sẽ phóng một số vệ tinh mini trang bị cảm biến quang điện tử để tăng khả năng thám sát. Họ sẽ cho các UAV cỡ lớn bay ra trinh sát. Radar tầm xa ngoại biên sẽ cung cấp những thông tin so khởi về vị trí của hạm đội. Thông tin này được cung cấp cho vệ tinh để chúng tập trung tìm kiếm khu vực đó và xác định tọa độ chính xác. Hỏa tiển khi được phóng lên, sẽ mất chừng 12 phút để bay đến mục tiêu cách 2000km. Trong giai đoạn giữa, nó sẽ phải được cập nhật vị trí mới của mục tiêu. Khi tiếp cận mục tiêu, sẽ có 3 giai đoạn: dẫn hướng trên cao, lướt đi và dẫn hướng ở độ cao thấp. Ý nghĩa chính có thể là làm giảm vận tốc của đầu đạn trong giai đoạn cuối để đầu dò có thêm thời gian tìm kiếm mục tiêu. Tất cả những thông tin trên vẫn chỉ ở mức phỏng đoán, TC không đưa ra bất cứ thông tin cụ thể nào một cách chính thức, đặc biệt là về việc hệ thống đã sẵn sàng hoạt động. Tuy vậy, một vấn đề khác không kém phần khó khăn so với vấn đề kỹ thuật là DF-21 là hỏa tiển chiến lược được thiết kế để mang đầu đạn hạt nhân. Khi một hỏa tiển được phóng lên, không ai có thể biết chắc nó là tên lửa mang đầu đạn diệt hạm hay hạt nhân. Người Mỹ hoàn toàn có thể nghĩ rằng TC đang tiến hành chiến tranh hạt nhân và trả đũa. Tình huống tương tự cũng đã xảy ra khi Nga kịch liệt phản đối kế hoạch của Mỹ hoán chuyển một số hỏa tiển chiến lược Trident trên tàu ngầm hạt nhân lớp Ohio từ đầu đạn hạt nhân sang đầu đạn thường để dùng trong những cuộc tấn công chớp nhoáng và bất ngờ vào những mục tiêu có giá trị cao và thường đòi hỏi phản ứng nhanh. Ví dụ như khi vị trí của một trùm khủng bố được phát hiện ở một vùng xa xôi hẻo lánh, và không có không gian hay thời gian đủ để máy bay bay đến đó và không kích.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 17:27:15 GMT -5
Nga cung cap 6 tau ngâm cho VN Kommersant trích lời tổng giám đốc nhà máy Vladimir Aleksandrov nói rằng hợp đồng cung cấp này sẽ được ký giữa công ty xuất khẩu vũ khí của chính phủ Nga Rosoboronexport với chính phủ Việt Nam. Các nguồn tin tại Rosoboronexport thì xác nhận với hãng thông tấn Nga Novosti rằng Nga và Việt Nam đã thương lượng hợp đồng trị giá 1,8 tỷ đôla cung cấp sáu tàu ngầm hạng Kilo cho hải quân Việt Nam khoảng một năm nay. Cũng nhà máy Admiralty hiện đang lắp hai tàu ngầm dạng này cho Algeria, giao hàng năm 2009 và 2010. Tàu ngầm hạng Kilo, sử dụng cả điện năng lẫn dầu diesel, được cho là loại tàu ngầm ít tiếng ồn nhất thế giới. Nó còn được đặt biệt danh "Lỗ đen" vì có khả năng bất thần "biến mất" để tránh bị phát hiện. Tàu ngầm dạng này có thể dùng để chống tàu ngầm cũng như tàu chiến thông thường, và trong hoạt động tuần tra. Tàu này có trọng tải 2.300 tấn, đạt độ sâu 350 mét, tầm xa 6.000 hải lý và có thủy thủ đoàn 57 người. Trung Quốc có 12 tàu ngầm loại Kilo. Hải quân Nga được tin đang sử dụng 16 chiếc và có 8 chiếc dự trữ. Các nước khác có tàu ngầm loại này là Ấn Độ, Iran, Ba Lan, Romania và Algeria. Quan hệ quân sự Năm 1997, Việt Nam đã mua hai tàu ngầm nhỏ hạng Yugo từ Bắc Triều Tiên. Giáo sư Carlyle Thayer từ Học viện Quốc phòng Hoàng gia Úc cho hay theo Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng ký hồi tháng Ba 2000 giữa Ấn Độ và Việt Nam, hải quân Ấn Độ nhận tập huấn hoạt động tàu ngầm cho hải quân Việt Nam tuy nhiên cho tới 2006 việc này vẫn chưa xảy ra. Hải quân Việt Nam đang theo đuổi tham vọng phát triển lực lượng tàu ngầm. Năm 2008, có tin Việt Nam tìm mua tàu ngầm đã qua sử dụng của Serbia sau khi Serbia và Montenegro tách ra năm 2006, và Serbia bỗng nhiên không còn biển nữa. Tuy nhiên việc này không thành vì Serbia đã bán cả hạm đội cho Ai Cập. Tháng Chín 2008, Bộ trưởng Quốc phòng Nga Anatoly Serdyukov nói Việt Nam là "đồng minh chiến lược của Nga tại Đông Nam Á" và rằng Nga sẵn sàng bán cho Việt Nam vũ khí và giúp nâng cấp năng lực quốc phòng của Việt Nam. Theo giáo sư Thayer, Moscow vẫn là nhà cung cấp trang thiết bị quốc phòng chủ chốt của Hà Nội. Tuy nhiên gần đây, Việt Nam đã có nhiều động thái mở rộng quan hệ với các đối tác quốc tế trong lĩnh vực quân sự. Mới đây nhất, ngày 22/04, tướng lĩnh Việt Nam đã có chuyến thăm hàng không mẫu hạm USS John Stennis của Hoa Kỳ trong khi hải quân Trung Quốc diễn tập phô trương thanh thế tại Thanh Đảo ************ Cây viết có tiếng về các vấn đề quân sự trong khu vực, Robert Karniol, vừa có bài đánh giá cố gắng hiện đại hóa quân đội của chính quyền Việt Nam, đăng trên tờ The Straits Times của Singapore. Ông Karniol nói sự kình địch truyền thống với Trung Quốc, vốn trầm trọng thêm do tranh chấp lãnh thổ cho dù gần đây bị nén lại do quan hệ thương mại phát triển, là lý do chính khiến Việt Nam sắm thêm vũ khí. Hơn nữa, theo ông, Việt Nam cũng muốn bắt kịp đà đổi mới của quân đội khu vực. Bài viết trích các nguồn tin nói rằng Việt Nam đã mua bốn hệ thống radar Kolchuga của Ukraine trong năm ngoái với giá 27 triệu đô la một hệ thống. Mỗi hệ thống này bao gồm ba thiết bị quét có thể bao quát được 32 mục tiêu trên không, trên đất liền và trên biển. Hệ thống Kolchuga cũng được cho là khó bị tấn công hơn các hệ thống khác vì nó hoạt động thụ động. Ông Karniol nói hồi năm 2002, Trung Quốc cũng đã mua bốn hệ thống Kolchuga từ Kiev. Tên lửa từ Bắc Hàn Quân đội Việt Nam, theo Robert Karniol, đã mua thêm sáu chiến đấu cơ đa chức năng Sukhoi Su-30 của Nga trong năm ngoái và có thể chọn mua thêm sáu chiến đấu cơ nữa nhưng hiện chưa rõ chủng loại và thời gian giao hàng. Cũng năm ngoái, Việt Nam đã mua ba máy bay tuần duyên EADS-CASA C212 Series 400 từ Tây Ban Nha và một hệ thống radar trên không MSS 6000 của Thụy Điển. Ông Karniol cũng trích các nguồn tin nói Việt Nam hiện đang đàm phán với Bắc Hàn để hiện đại hóa các tên lửa địa đạo chiến thuật Scud sau khi đã mua một số lượng không xác định tên lửa đất đối đất Scud C từ Bình Nhưỡng cách đây hơn một thập niên. Ngoài ra, ông Karniol cho hay năm ngoái Việt Nam đã có cố gắng bất thành mua tàu ngầm cũ của Serbia, nước đã không còn bờ biển sau khi Montenegro trở thành nước độc lập. Hiện tại sự đổi mới của ngành hàng hải chủ yếu dựa vào hợp đồng trị giá 670 triệu đô la Mỹ ký đầu năm 2008 với Nga, theo đó Việt Nam mua các thiết bị tàu về lắp ráp và Nga cũng trang bị vũ khí. Và mặc dù Việt Nam đang cố gắng tinh giản bộ binh, tác giả Karniol nói Hà Nội đang đề nghị nâng cấp vài trăm xe tăng T-55 từ Israel. ******************* AIP Một trong những câu hỏi quan trọng nhất liên quan đến hợp đồng 1.8 tỷ dollar mua 6 tàu ngầm Kilo của hải quân VN là liệu chúng có được trang bị công nghệ AIP? Với mức giá 300 triệu dollar, và việc không có bất cứ thông tin nào xác nhận, có thể đoán rằng số tàu ngầm này sẽ không có loại công nghệ rất lợi hại này. Vậy thì AIP là gì? Nhược điểm chính của các tàu ngầm diesel điện là chúng phải thường xuyên trồi lên để chạy động cơ diesel và sạc lại điện. Thật sự thì chúng không cần thiết phải nổi lên hoàn toàn mà chỉ cần sử dụng các ống thông hơi để dẫn không khí vào chạy động cơ và thoát khí thải. Tuy vậy, việc nổi lên gần sát mặt nước cũng khiến chúng dễ bị phát hiện và khó trốn thoát hơn. Ngoài ra, radar từ máy bay và tàu chiến có thể phát hiện được các ống thông hơi trồi lên khỏi mặt nước, chưa kể là lượng nhiệt từ số khí thải thoát ra cũng có thể bị các cảm biến nhiệt phát hiện. Hơn nữa, khi phải sử dụng động cơ đốt trong, ưu thế về sự yên lặng của tàu ngầm cũng mất đi. AIP là công nghệ sức đẩy độc lập, không phụ thuộc vào nguồn khí từ bên ngoài. Công nghệ này không đòi hỏi tàu phải trồi lên và có thể lặn liên tục trong hàng tuần liền, trong khi những tàu chỉ chạy bằng diesl-điện chỉ có thể lặn trong 3-5 ngày (sử dụng pin) ở mức tốc độ thấp. Đầu những năm 30 của thế kỷ trước, một kỹ sư Đức là Walter phát minh ra một công nghệ động cơ tàu ngầm sử dụng ôxy già (H2O2). Theo đó, oxy già được trữ trong tàu ngầm, và bằng một phản ứng hóa học, sẽ bị phân giải, tạo ra oxy nguyên chất và rất nhiều nhiệt. Diesel sẽ được bơm vào buồng phản ứng, trộn lẫn với oxy và dưới tác động của nhiệt sinh ra từ phản ứng tạo ra phản ứng nổ và làm chạy một turbin. Tuy vậy, công nghệ này có độ an toàn thấp và hầu như chỉ xuất hiện trong các mẫu thử nghiệm. Động cơ diesel chu trình kín (CCD) cũng là một hướng của AIP. Nó gồm 1 động cơ diesel thông thường. Nhưng khi tàu đang lặn, động cơ này chạy bằng một hỗn hợp khí từ oxy tinh khiết và một khí trơ, thường là argon. Khí thải, chủ yếu là CO2, nito, hơi nước, được làm lạnh, lọc và phân tách. Khí trơ được tái sử dụng, số còn lại trộn với nước và thải ra ngoài tàu. Nguồn oxy thường lấy tứ oxy lỏng trữ trữ trong tàu. Tuy rằng có nguyên lý khá đơn giản, công nghệ này cũng ít được sử dụng trong thực tế. Turbin khí chu trình kín. Trong công nghệ này, turbin được chạy bằng luồng hơi từ quá trình cháy nổ giữa ethanol và oxy ở áp suất 60 atmosphere. Bản thân áp suất của quá trình này là đủ để đẩy số khí thải ra ngoài tàu ở bất cứ độ sâu nào mà không cần bơm cao áp trợ lực. Công nghệ này tuy cung cấp công suất lớn, nhưng lại kém hiệu quả nhất, sử dụng rất nhiều oxy. Hiện chỉ có tàu ngầm Agosta của Pháp là sử dụng công nghệ này. Chu trình Stirling có lẽ là công nghệ AIP thành công nhất cho tới nay. Theo đó, quá trình đốt cháy, có thể là giữa diesel và oxy tinh khiết, sẽ sinh ra nhiệt. Nhiệt này được chuyển tới một chu trình kín chứa một khí trơ. Khí này sẽ đi qua một quá trình trao đổi nhiệt khép kín, từ việc giãn nở và chuyển tới khoang làm lạnh để sau đó được nén trở lại. Quá trình chuyển đổi giữa nhiệt và thể tích này sẽ biến thành năng lượng cơ học làm chạy động cơ. Lợi thế của nó là sự tách bạch giữa 2 quá trình: tạo nhiệt và biến đổi nhiệt thành cơ. Tuy nhiên, công nghệ AIP nhiều hứa hẹn nhất là công nghệ tế bào pin nhiên liệu. Nó được sử dụng rất thành công trong công nghệ không gian, và đang được ngành công nghiệp xe hơi chú ý phát triển. Điện được tạo ra từ phản ứng hóa học giữa oxy và hydro. Và nó chỉ thải ra nước tinh khiết. Nó là ngược của quá trình điện phân nước để tạo ra oxy và hydro. Lợi thế của nó là tạo ra điện năng từ phản ứng hóa học, không cần sử dụng bất cứ loại thiết bị cơ khí nào. Điện từ đó mới làm chạy động cơ điện. Do đó, độ ồn là cực thấp. Khó khăn lớn nhất là việc mang theo nhiêu liệu cho quá trình phản ứng. Việc trữ oxy lỏng thì khá đơn giản, nhưng hydro lỏng lại cực kỳ nguy hiểm. Một giải pháp là lấy hydro từ các hợp chất hydrua với các kim loại, hoặc từ các hydrocacbon như methanol, diesel, dầu hỏa… Trong tương lai gần, AIP vẫn chưa thể trở thành nguồn sức đẩy chính cho tàu ngầm, vì mức công suất quá thấp, chỉ khoảng 400 mã lực, trong khi nguồn diesel-điện cho khoảng 3000 mã lực, còn tàu ngầm hạt nhân có thể tới 20,000. Tuy vậy, nó vẫn giúp tăng tính hiệu quả của các tàu ngầm phi hạt nhân lên rất nhiều, đặc biệt là khả năng nằm ẩn mình trong một thời gian rất dài. Ngoài ra, trong tương lai xa, AIP hoàn toàn có thể trở thành sức đẩy chính và duy nhất cho tàu ngầm.
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:21:59 GMT -5
Tại sao cả châu Á đua nhau mua tàu ngầm?Cuộc đua tranh đang ngày càng gay gắt giữa các nước châu Á, đe dọa sẽ làm thay đổi cán cân quyền lực trong khu vực. Cả Trung Quốc, Đài Loan, Ấn Độ, Pakistan, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật, Australia đều tìm mua những tàu ngầm hiện đại, được trang bị tên lửa cùng ngư lôi tối tân. Người ta thắc mắc là liệu Mỹ có mạo hiểm cử các nhóm tàu sân bay tới can thiệp nếu xảy ra xung đột ở eo biển Đài Loan hay không, ví thử Trung Quốc kịp triển khai một hạm đội tàu ngầm hùng mạnh vào cuối thập kỷ này. Đối với các chuyên gia, đây là một minh chứng cho sức hấp dẫn của tàu ngầm, mặc dù gánh nặng ngân sách và những trở ngại kỹ thuật trong việc vận hành các tàu ngầm này không phải là nhỏ. Australia Tàu ngầm hạng Collins. 6 tàu ngầm hạng Collins của Thụy Điển sẽ khiến Australia tiêu tốn tổng cộng 3 tỷ USD, khi chiếc cuối cùng được chuyển tới nơi vào cuối năm nay. Ngoài ra, còn rất nhiều khoản chi khác. Cứ 6 năm, một tàu ngầm truyền thống lại phải qua đại tu một lần. Thời gian đó, nó có thể không được đưa vào sử dụng trong vòng 1 năm. Tốn kém là vậy, nhưng khi nền kinh tế khu vực dậy sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998, các chính phủ đã bắt đầu nghĩ tới chuyện sắm sửa. Tàu ngầm vừa là một thứ mốt của hải quân, vừa là một cách để phô bày sức mạnh kỹ thuật và quân sự. Viet Nam Tàu ngầm hạng Kilo của Nga. Việt Nam Năm 1997, Việt Nam đã mua hai tàu ngầm nhỏ hạng Yugo từ Bắc Triều Tiên. và day là 6 tàu lớp Kilo đặt hàng của Nga Đây có lẽ là cuộc đua tranh gay gắt nhất ở khu vực. Trung Quốc và Đài Loan Dự kiến, tới năm 2007, Bắc Kinh sẽ tiếp nhận 8 tàu ngầm truyền thống hạng Kilo của Nga theo một hợp đồng trị giá 1,6 tỷ USD. Những tàu ngầm này, cùng với 4 chiếc hạng Kilo khác Trung Quốc đang nắm sẵn trong tay, sẽ là lực lượng nòng cốt, trường hợp Bắc Kinh quyết định chặn các cảng biển của Đài Loan. Bản thân Trung Quốc đã có 60 tàu ngầm hạt nhân và truyền thống tự sản xuất, nhưng hầu hết đều lạc hậu hay gặp nhiều trục trặc kỹ thuật. Mặc dù quyết định trang bị tới 8 chiếc Kilo một lúc cho thấy Bắc Kinh đã thất bại trong kế hoạch phát triển loại tàu ngầm nội địa mới nhất, nhưng nhiều tàu ngầm do Trung Quốc tự sản xuất vẫn sẽ đóng vai trò quan trọng, nếu xung đột nổ ra. Một trong những nguyên nhân lý giải việc Bắc Kinh khẩn trương mua thêm tàu ngầm là sự kiện Washington quyết định bán cho Đài Bắc 8 tàu ngầm truyền thống, trị giá tới 4 tỷ USD. Từ lâu Mỹ đã có quan điểm là Trung Quốc đang ra sức phát triển quân sự, buộc Đài Loan phải chấp nhận thống nhất. Một báo cáo của Lầu Năm Năm Góc ngày 13/7 cho rằng Bắc Kinh vạch sẵn một loạt chiến lược khác nhau, bao gồm cả tấn công bằng tên lửa, chặn các tuyến đường biển và chiến tranh trên mạng. Vì từ lâu đã không còn sản xuất tàu ngầm truyền thống (hiện Mỹ chỉ sử dụng tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân), Washington phải nhờ đến một nước thứ ba đóng tàu cho Đài Bắc. Mỹ định sử dụng mẫu thiết kế của Đức hoặc Israel. Cả hai công ty của Mỹ, General Motors Corp. - công ty mẹ của hãng sản xuất tàu ngầm Electric Boat - và Northrop Grumman Corp., đều nóng lòng muốn bắt tay với một đối tác nước ngoài. Bằng chứng cho thấy quyết tâm của Mỹ là hồi tháng 3, một công ty đầu tư có trụ sở ở Chicago tên là One Equity Partners đã mua 75% cổ phần trong Công ty Howaldswerke Deutsche Werft (HDW) của Đức, một trong những nhà sản xuất tàu ngầm truyền thống hàng đầu trên thế giới. Berlin từng khẳng định là sẽ không cho phép sản xuất tàu ngầm Đài Loan trên đất Đức. Nhưng một khi đã nắm tới 75% cổ phần, dĩ nhiên Mỹ sẽ được tiếp cận với các bí quyết và công nghệ then chốt của HDW. Ấn Độ Tàu ngầm Scorpene. Cạnh tranh về ảnh hưởng trên biển giữa Trung Quốc và Ấn Độ là một lý do khiến New Delhi dự định trang bị thêm 20 tàu ngầm mới trong vòng thập kỷ tới. Ấn Độ đang thương thuyết với Nga về việc thuê 2 tàu ngầm hạt nhân và mua tới 8 tàu ngầm truyền thống. Các cuộc thảo luận cũng diễn ra với hãng đóng tàu DCN quốc doanh của Pháp, xung quanh khả năng hãng này cung cấp tới 12 tàu ngầm truyền thống hạng Scorpene. New Delhi cũng muốn những hợp đồng bao gồm cả việc chuyển giao công nghệ, để ngành sản xuất tàu ngầm Ấn Độ đáp ứng được các đơn đặt hàng của chính phủ trong tương lai. Nhật Bản Trong khi sự chú ý của báo giới đang đổ dồn vào những hợp đồng quốc phòng đồ sộ, Tokyo vẫn thầm lặng phát triển một trong những đội tàu ngầm lớn nhất và tân tiến nhất ở Đông Á. Nắm trong tay 20 tàu ngầm, Lực lượng Phòng vệ trên biển của Nhật sẽ đóng vai trò sống còn đối với an ninh ở khu vực, một khi họ thoát dần ra khỏi thế cô lập và nhất là nếu Tokyo định liên kết với Washington. Một trong những tàu ngầm hiện đại nhất của Nhật mới đây đã được chuyển thành hệ thống đẩy không cần đến không khí. Điều này cho phép nó lặn sâu trong thời gian dài mà không cần phải nổi lên để nạp lại ắc quy. Như vậy, trong tương lai, đội tàu ngầm của Nhật sẽ hoạt động hệt như các tàu ngầm hạt nhân. Hàn Quốc Sốt ruột trước những bước phát triển quân sự của Nhật, Hàn Quốc khẩn trương lo sắm tàu ngầm cho bằng anh bằng em. Năm ngoái, Chính phủ Đức đã chấp thuận việc chuyển giao các thiết bị trị giá 600 triệu USD để hãng Hyundai bắt đầu sản xuất 3 tàu ngầm HDW loại 214 tại xưởng đóng tàu ở Ulsan. Cuối năm ngoái, hải quân Hàn Quốc đã triển khai tàu ngầm HDW thứ 9 của mình. Malaysia và Singapore Từ những năm 1980, Malaysia đã tính đến chuyện mua tàu ngầm hạng Sjoormen của Thuỵ Điển, nhưng suy thoái kinh tế năm 1986 khiến họ gác ý định này sang một bên. Đầu những năm 1990, hải quân có chút ngân sách, nhưng họ lại ưu tiên trang bị tàu tuần tra xa bờ trước. Năm 1995, hợp đồng sản xuất 27 tàu loại này trị giá 6 tỷ ringgit đã về tay các nhà sản xuất Đức, trong một thỏa thuận liên doanh với Amin Shah - một công ty Malaysia được cựu bộ trưởng Tài chính Daim Zainuddin bảo trợ. Năm 1998, nước láng giềng Singapore tiếp nhận chiếc tàu ngầm đầu tiên của mình, chính là tàu hạng Sjoorman của Thuỵ Điển. Đội điều khiển tàu ngầm cần ít nhất 5 năm huấn luyện. Như vậy, Singapore (trước kia thuộc Malaysia) đã đi trước Kuala Lumpur một bước. Malaysia làm sao không sốt ruột. Năm 1999, Công ty DCN của Pháp trình bày với Bộ Quốc phòng Malaysia về loại tàu ngầm hạng Scorpene có khả năng tàng hình. Kết quả là ngày 6/6 năm nay, Kuala Lumpur đã ký một hợp đồng trị giá 3,6 tỷ ringgit (947 triệu USD) với DCN và hãng đóng tàu Tây Ban Nha IZAR (IZAR chung quyền với DCN về công nghệ của Scorpene) để sản xuất 2 chiếc loại này cho hải quân Malaysia. Ngoài ra, đất nước Đông Nam Á còn đặt mua thêm một tàu ngầm Agosta trước thuộc hải quân Pháp để phục vụ cho công tác huấn luyện. Thái Lan Thấy Malaysia và Singapore gia nhập câu lạc bộ tàu ngầm, tới lượt Thái Lan giở hầu bao ra tính toán. Hải quân nước này đã có các cuộc bàn thảo về khả năng mua 3 tàu ngầm Israel từng qua sử dụng. Nhưng hầu hết các nhà phân tích quốc phòng trong khu vực nhận định chuyện này sẽ không đi đến đâu. Ở đây, vớ bẫm nhất dĩ nhiên là các nhà sản xuất tàu ngầm truyền thống ở Nga, Đức, Thụy Điển và Pháp. “Cuộc chạy đua vũ trang giữa những nhà cung cấp quyết liệt chả kém gì giữa các nước mua tàu ngầm”, Akio Wanataabe, Chủ tịch Viện nghiên cứu Vì Hòa bình và ổn định của Nhật, bình luận. Người ta có thể tưởng tượng ra một viễn cảnh: Khi tất cả những tàu ngầm nói trên được đưa vào sử dụng, dưới lòng biển, các tuyến đường hàng hải quan trọng của châu Á sẽ dày đặc tàu ngầm, không thua gì thời kỳ đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh. Minh Châu (theo FEER)
|
|
|
Post by tuhieu on Apr 27, 2009 19:48:14 GMT -5
Trung Quốc bí mật bán máy bay A-5 cho Sudan?
Những bức ảnh vệ tinh mới công bố gần đây cho thấy, Sudan hiện đang sở hữu một số máy bay ném bom tấn công kết hợp A-5 do Trung Quốc sản xuất. A-5 là loại máy bay hai động cơ được Trung Quốc thiết kế, dựa trên đặc điểm của chiến cơ MiG-19 từ những năm 1950 do Nga chế tạo. Năm 1970, A-5 đi vào phục vụ trong quân đội, và có khoảng một nghìn chiếc được sản xuất.
Trung Quốc bắt đầu xuất khẩu A-5 từ những năm 1980, chủ yếu đến các thị trường như Pakistan, Bangladesh, Myanmar và Bắc Triều Tiên.
Chiếc máy bay nặng 11 tấn này được trang bị súng 23mm, có thể mang theo 1 tấn bom, tên lửa và rocket. Với tải trọng tối đa, A-5 đủ khả năng vươn tới vùng chiến đấu cách căn cứ 400km.
Đến tận bây giờ, Sundan vẫn sử dụng các máy bay vận tải để dùng cho nhiệm vụ đánh bom – bom được mang trên các máy bay chở hàng do Nga sản xuất, như An-26 hay An-24. Loại máy bay chiến đấu duy nhất mà Sudan hiện sở hữu là MiG-21 - với các phi đội già cỗi.
Nga đã có ý định cung cấp những chiếc MiG-29 hiện đại cho quân đội Sudan, tuy nhiên, chưa thấy chiếc nào đi vào hoạt động. Trong khi đó, A-5, với công nghệ “vừa tầm”, cho phép các phi công MiG-21 của Sudan có thể điều khiển một cách thành thục, và tiêu diệt mục tiêu tại khu vực Darfur hiệu quả, chính xác hơn so với việc sử dụng máy bay ném bom.
Theo phỏng đoán của các chuyên gia quân sự, Sudan hiện đang sở hữu ít nhất 6 chiếc A-5 - nhiều hơn loại MiG-21 đã bị “ruồng bỏ” do thiếu bảo dưỡng. Vài năm trước, đã có ít nhất hai chiếc A-5 được bán cho Sudan, tuy nhiên, việc này hoàn toàn bí mật. Những bức ảnh vệ tinh cho thấy, một số chiếc A-5 được phát hiện dường như còn rất mới. Tuy vậy, Trung Quốc đã phủ nhận mọi cáo buộc rằng họ cung cấp máy bay chiến đấu cho Sudan.
|
|
|
Post by tuhieu on May 9, 2009 18:27:47 GMT -5
ABL Thấu kính gắn ở mũi máy bay của hệ thống laser không lực ABL Posted by Mili-Tec at 01:59 0 comments Labels: Hình ảnh Chống tàu ngầm kiểu Ý Hiện nay ngày càng có nhiều nước xem tàu ngầm điện-diesel là một lựa chọn tốt để phòng thủ. Tuy vậy, bản thân nó cũng là một vũ khí tấn công rất nguy hiểm, chủ yếu vì nó cực kỳ yên lặng, nhất là khi được trang bị AIP. Do đó, khi mà số nước sở hữu tàu ngầm diesel-điện ngày càng tăng thì việc phát triển khả năng chống lại nó cũng là một nhiệm vụ cấp bách. Một trong những ví dụ tiêu biểu trên thế giới hiện nay là hải quân Ý. Lí do đầu tiên khiến cho hải quân Ý có nhiều kinh nghiệm trong việc chống lại tàu ngầm diesel-điện là họ chủ yếu hoạt động ở biển Địa trung hải, là nơi đặc trưng cho môi trường hoạt động chính của tàu ngầm diesel-điện. Và trong CT Lạnh, hải quân Ý được NATO giao cho đảm nhận trách nhiệm chính trong tác chiến chống tàu ngầm ở Địa trung hải. Ngoài ra, không như các cường quốc Nato khác, Ý không có tàu ngầm hạt nhân. Tất cả tàu ngầm của họ là diesel điện, nên họ rất quen thuộc với loại tàu này. Ý có truyền thống sử dụng những tàu ngầm loại nhỏ, yên lặng. Thế hệ mới nhất là U-212A, cùng hợp tác với Đức. Nặng 1800 tấn, nó được trang bị công nghệ AIP mới nhất, pin nhiên liệu, nên cực kỳ yên lặng. Giữa tháng 3 và 12 năm ngoái, chiếc U-212A đầu tiên của Ý, Todaro, vượt Đại tây dương trong một hải trình 13000 hải lý tham gia cuộc tập trận Conus-08. Nó tham gia rất nhiều bài tập với hải quân Mỹ. Trong đó bao gồm cả các bài huấn luyện trong quy trình kiểm chứng khả năng sẵn sàng chiến đấu của hải đội hàng không mẫu hạm Theodore Roosevelt và hải đội viễn chinh Iowa Jima. Ngoài ra, nó còn tham gia các bài tập chống lại tàu ngầm tấn công hạt nhân lớp Los Angeles. Kết quả cụ thể của những chiến dịch trên được giữ bí mật, nhưng trong nhiều trường hợp, thủy thủ đoàn Torado lên bờ với những 'nụ cười mãn nguyện'. Đang có kế hoạch tiếp tục lặp lại những bài tập tương tự, một dấu hiệu nữa cho thấy sự thành công của U-212A. Với kinh nghiệm bản thân về tàu ngầm diesel-điện, Ý phát triển phương thức tác chiến chống lại nó dựa vào sự kết hợp giữa các phương tiện trên không và trên biển. Chìa khóa ở đây là các hệ thống nhị nguyên và đa nguyên, phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa tàu chiến nổi, trực thăng và máy bay tuần tra hàng hải. Các cảm biến như radar hay sonar thường theo nguyên tắc đơn nguyên, nghĩa là giàn phát và thu (tín hiệu phản xạ lại từ mục tiêu) nằm chung trong 1 thiết bị. Trong hệ thống nhị nguyên, giàn thu và phát nằm tách biệt nhau trong 2 thiết bị, phương tiện khác nhau. Một ví dụ chính là các hệ thống radar tầm xa OTH. Đối với hệ thống nhị nguyên dưới nước, giàn sonar chủ động gắn trên tàu hay máy bay phát ra tín hiệu, sóng âm khi phản xạ lại từ mục tiêu được nhận và xử lý bởi một giàn sonar thụ động trên 1 tàu hay máy bay khác. Phương thức đa nguyên là bước cao hơn của nhị nguyên, sử dụng nhiều giàn thu và phát khác nhau. Nó cho phép áp dụng phép đo tam giác và xem xét mục tiêu từ nhiều góc độ khác nhau, nhờ đó xác định chính xác hơn bản chất, vị trí, độ sâu, tốc độ, hướng đi của tàu ngầm. Trực thăng đóng vai trò chính trong tác chiến chống tàu ngầm của hải quân Ý là AW101, được mệnh danh là 'tàu chiến bay' vì khả năng hoạt động trong thời gian dài và tính đa năng. Nó được trang bị radar, hệ thống thám sát điện tử và quang học, nhưng quan trọng nhất là Helras, hệ thống sonar chủ động tần số thấp, 1.5Khz. Sonar trên tàu chiến chủ yếu là loại được kéo thả theo sau tàu, thay vì loại gắn trên thân tàu. Hoạt động ở tần số 0.95 - 2.1 Khz. Phương thức tác chiến đa nguyên mà người Ý đang phát triển chủ yếu dựa vào sự kết hợp giữa Helras và các phao nổi gắn cảm biến thả từ máy bay tuần tra hàng hải. Posted by Mili-Tec at 01:25 0 comments Labels: Tàu ngầm Nhật Bản - Phòng thủ ở Senkaku F-15J Tranh chấp giữa Nhật Bản và TQ về quần đảo Senkaku đang khiến Nhật xem xét việc mua máy bay vận tải lên thẳng và tên lửa đạn đạo tầm 300km. Bên cạnh đó, họ còn triển khai một phi đoàn chiến đấu cơ F-15J đến Okinawa, gần Senkaku, một máy bay tiếp dầu trên không KC-767J, để bảo đảm duy trì được 2 chuyến tuần tra liên tục bên trên quần đảo. Cùng với đó là việc xây dựng một trung đoàn biệt động đổ bộ. Quần đảo không người ở này nằm trong một khu vực có trữ lượng dầu khí rất lớn. Nhật tuyên bố chủ quyền quần đảo vào 1895, trong cuộc chiến Trung - Nhật còn TQ tuyên bố chủ quyền từ khoảng thế kỷ 15. Học thuyết phòng thủ những vùng lãnh thổ xa của NB dựa vào khả năng có thể tái chiếm quần đảo nếu nó bị tấn công, thay vì tăng cường phòng thủ tại đó. Có 2 kịch bản được 2 cựu tướng lĩnh Nhật đưa ra. Kịch bản đầu tiên của thiếu tướng đã về hưu Masahiro Shigemura. Theo đó, TQ sẽ cho 300 'ngư dân' có vũ trang đổ bộ lên đảo với lí do tránh bão và sau đó gửi thêm binh lính đến với lí do "cứu hộ". Nhật Bản khi đó sẽ gửi 2 tàu hỗ trợ đổ bộ lớp Osumi, được hộ tống bởi tàu khu trục. Mỗi chiếc Osumi sẽ chở theo 2 tàu đổ bộ đệm hơi LCAC. Hải đội này sẽ triển khai tới Okinawa, đồng thời chuẩn bị sân bay Shimojishima, cách Senkuka 175km, như một căn cứ tiền phương cho máy bay chiến đấu và triển khai những khẩu đội tên lửa đạn đạo chiến thuật ATACMS. Với lực lượng Mỹ hỗ trợ trong trường hợp chiến tranh leo thang, Nhật sẽ oanh tạc quần đảo bằng ATACMS và bom định vị bằng vệ tinh JDAMS từ chiến đấu cơ F-2A. Tuy vậy, kịch bản này sẽ khiến cho TQ được xem như 'nạn nhân' vì sự bất tương xứng trong hỏa lực đáp trả của phía Nhật. MLRS & ATACMS Một kịch bản khác của Mutsuyoshi Gomi, phó đô đốc về hưu, từng là tư lệnh hạm đội cơ động của hải quân Nhật. Theo đó, vào 2020, TQ sẽ chính thức ép buộc Nhật từ bỏ chủ quyền bằng lời đe dọa chiến tranh hạt nhân. Do đó, ông này kêu gọi Nhật sở hữu vũ khí hạt nhân. Ngoài ra, Akiji Yoshida thuộc Trung tâm nghiên cứu quốc phòng cũng ủng hộ việc sử dụng tên lửa ATACMS, được kết hợp với UAV để tạo thành 'tổ hợp trinh sát - tấn công'. 36 giàn phóng tại 7 vị trí khác nhau có thể bao phủ cho toàn bộ vùng lãnh thổ và lãnh hải Nhật, có thể tấn công cả mục tiêu 'cứng' và mục tiêu 'mềm' với nhiều loại đầu đạn. Bên cạnh đó, yêu cầu về việc triển khai nhanh binh lính tới các đảo ở xa đòi hỏi phải có máy bay vận tải lên thẳng. Hiện chỉ có duy nhất chiếc máy bay chong chóng xoay V-22 là đáp ứng được các yêu cầu kết hợp giữa sức chở, tốc độ và sự linh hoạt. Chúng sẽ hoạt động trên 3 chiếc Osumi, 14000 tấn hoặc 2 chiếc Hyuga mới. Còn trung đoàn biệt động đổ bộ được thành lập năm 2002, huấn luyện chung với thủy quân lục chiến Mỹ để học các chiến thuật đổ bộ bí mật. Trong tương lai, đơn vị này có thể chính thức trở thành một đơn vị thủy quân lục chiến chính quy. Osumi ATACMS là tên lửa đạn đạo chiến thuật của lục quân Mỹ. ATACMS-1 chứa 950 đạn con, tầm bắn 165km. Loại 1A giảm lượng đầu đạn và tăng tầm 300km, có gắn thêm dẫn đường vệ tinh. ATACMS có thể được bắn từ hệ thống pháo hỏa tiễn MLRS hoặc HIMARS. Osumi là một tàu chở trực thăng của hải quân Nhật, hoạt động từ 1998. Nó được thiết kế để chở theo 1 tiểu đoàn 330 người cùng 1 đại đội xe tăng 10 chiếc. Thủy thủ đoàn 135 người, tốc độ tối đa 22 hải lý/h. Nó có thể chở theo 2 trực thăng Chinook CH-47J và 2 SH-60J. Vũ khí phòng vệ gồm 2 súng phòng không Phalanx. Trich Blog KyThuatCongNgheQuanSu
|
|
|
Post by vietnam on May 11, 2009 19:13:37 GMT -5
Mỹ tiến hành thử nghiệm thiết bị không người lái cho hải quân Máy bay trực thăng không ngưòi lái MQ-8B Fire Scout. Ảnh: Northrop Grumman Ngày 7-5, cơ quan báo chí của hãng quân sự Northrop Grumman cho biết, chuyến bay thử nghiệm các máy bay lên thẳng không người lái MQ-8B Fire Scout đã thành công tốt đẹp. Chiếc MQ-8B đã hoàn thành chuyến bay thử nghiệm, cất và hạ cánh trên tàu chiến của hải quân Mỹ. Cuộc thử nghiệm được diễn ra trên tàu hộ tống USS Makinerni thuộc lớp Oliver Hazard Perry. Máy bay lên thẳng không người lái đa năng MQ-8B được dùng như một phương tiện bay trinh sát, tìm kiếm mục tiêu trong quân đội Mỹ. Vào đầu năm 2006, các phương tiện bay không người lái này được nâng cấp để có thể hoạt động trên biển. Theo các chuyên gia quân sự của Mỹ, việc thiết bị bay MQ-8B Fire Scout hạ cánh tự động thành công lên tàu hộ tống USS Makinerni đã chứng minh nó có thể tích hợp chung vào hệ thống điều khiển của tàu. Đây chính là thành công lớn nhất của dự án chế tạo phiên bản nâng cấp MQ-8B. Dự kiến, các vụ thử nghiệm thiết bị bay MQ-8B sẽ tiếp tục được tiến hành vào giữa tháng 5-2009. Dự án nghiên cứu, chế tạo các máy bay MQ-8B Fire Scout nằm trong kế hoạch “Các hệ thống chiến đấu tương lai” của Lầu Năm góc. Với kế hoạch này, quân đội Mỹ trong tương lai sẽ sử dụng các thiết bị không người lái không chỉ với vai trò trinh sát, chỉ thị mục tiêu, mà chúng còn được trang bị các loại vũ khí tấn công như súng máy, tên lửa có điều khiển... để ngay lập tức tiêu diệt mục tiêu. Các thiết bị bay MQ-8B Fire Scout có tầm hoạt động lên tới 260km, trọng lượng của toàn bộ hệ thống là 1400kg. Vận tốc tối đa của MQ-8B là 200km/h, cùng với khả năng cất cánh thẳng đứng đã giúp nó vô cùng linh hoạt trong chiến đấu. Hãng Northrop Grumman dự kiến sẽ sản xuất chính thức các thiết bị bay không người lái MQ-8B Fire Scout trong năm 2009. Tuấn Sơn (theo Lenta)
|
|
|
Post by vietnam on May 12, 2009 19:56:27 GMT -5
Không quân Thái lan www.defenseindustrydaily.com/thailand-buying-jas-39-gripens-awacs-04022/Không quân Thái lan hiện tại gồm các máy bay F-5 của những năm 60-70, máy bay phản lực lên thẳng Harrier II và F-16A/B. Trong khi đó, nhiều nước trong khu vực đã được trang bị những máy bay của dòng Su27/30 hiện đại hơn nhiều. Do đó, họ vừa bỏ ra 1.1 tỷ dollar để mua 12 chiếc chiến đấu cơ đa năng Gripen và 2 máy bay cảnh báo sớm (AWACS) Erieye. Số Gripen sẽ thay thế cho loại F-5 B/E đã quá cũ, trừ một số F-5 đã được Israel nâng cấp lên F-5T, trang bị hệ thống hiển thị thông tin trực tiếp, tên lửa không đối không tầm gần Python. F% T Thailand JAS-39D c. Gripen International Gripen là một mẫu chiến đấu cơ đa năng hạng nhẹ, có thể hạ và cất cánh trên đường bộ bình thường, trang bị những công nghệ mới nhất, giá rẻ và chi phí vận hành thấp. Erieye AWACS sử dụng một radar quét điện tử chủ động với 200 module. Góc quét ở mỗi bên là 160 độ, tầm hoạt động tối đa của radar là 450km, tầm hiệu quả với máy bay hay tàu chiến là 300-330km. Nó có thể tập trung quét một vài khu vực trong khi theo dõi các khu vực còn lại, hoặc quét 1 khu vực bằng nhiều chế độ cùng lúc. Posted by Mili-Tec at 00:55 0 comments Labels: Hệ thống không lực 12.5.09 Hệ thống phòng không của Đài loan Ai chưa nhận được thông báo? Đài loan tin rằng hiện có hơn 1,500 tên lửa đạn đạo từ TQ chĩa vào mình. Nó tăng từ 200 vào năm 2000, 800 vào 2004 và 1,300 năm ngoái. Chủ yếu là DF-11 và DF-15. DF-11 có tầm bay 300km với đầu đạn 1 tấn. DF-15 có tầm bay 600km với đầu đạn nửa tấn. Chiều rộng eo biền Đài loan khoảng 200-300km. Còn có khoảng 1000 máy bay chiến đấu và 100,000 lính (trong đó có vài lữ đoàn lính dù) TQ sẵn sàng cho một cuộc tấn công vào hòn đảo. Tên lửa sử dụng đầu đạn thông thường hoặc đạn chùm. Trên thực tế, có thể khoảng 75% số tên lửa sẽ đánh trúng mục tiêu. Mỗi tên lửa có thể coi như tương ứng với 1 quả bom 1 tấn hay nửa tấn. Tuy vậy, đa số sẽ có độ chính xác không cao. Bị khiêu khích vì sự tăng cường binh lực của TQ, Đài loan đã tăng ngân sách quốc phòng lên 15% năm ngoái, đạt mức 10.5 tỷ dollar. Ngân sách của TQ gấp 5 lần như vậy, nhưng phải chi cho một lực lượng 2 triệu người. Quân đội Đài loan có 350,000 người. GDP của Đài là 650 tỷ với dân số 23 triệu, của TQ là 2,700 tỷ với dân số 1,3 tỷ . Như vậy, thu nhập đầu người của Đài gấp 10 lần TQ. Quân đội Đài loan theo mô hình Mỹ, nhấn mạnh chất lượng, còn của TQ theo mô hình LX, theo đó số lượng là quan trọng nhất. Tuy vậy, hiện nay TQ cũng đang thay đổi dần theo hướng phương tây. Mặc dù Đài loan vẫn tin rằng Mỹ sẽ đảm bảo cho nền độc lập của mình, họ cho rằng ít nhất nên có khả năng kiềm chân TQ cho tới khi hạm đội Mỹ tới kịp. Gần đây, TQ thường xuyên lên tiếng rằng họ sẽ không dùng vũ lực lấy lại đài loan và có thể sẽ giảm số tên lửa chĩa vào đảo này. Nhưng xem ra có vài người chưa nhận được thông báo nội bộ này và tiếp tục đưa thêm tên lửa tới bờ biển. Đảo quốc Đài loan nằm cách bờ biển TQ chưa đầy 200km và luôn phải đối mặt với nguy cơ từ hàng ngàn tên lửa đạn đạo và máy bay chiến đấu. Do đó, hệ thống phòng không đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phòng thủ ở đây. Lịch sử ra đờiHệ thống phòng không chiến lược của DL ra đời từ những năm 50 thông qua một đợt triển khai bí mật của Mỹ tại đây. Nhân lực và thiết bị từ Mỹ được chuyển qua để thành lập 4 khẩu đội tên lửa phòng không Nike-Hercules dọc bờ biển tây bắc. Sau 1 năm, DL tiếp quản 4 khẩu đội này và đến những năm 70 mua thêm khẩu đội nữa. Hệ thống này được về hưu 1996. Tổng quanPhần lớn của hệ thống phòng không được đặt ở phía tây và bắc của hòn đảo, bao phủ phần không gian ở eo biển DL ngăn cách với TQ. 11 cơ sở radar cảnh báo sớm giám sát vùng trời, tấn công mục tiêu là nhiệm vụ của 22 khẩu đội cố định, gồm Hawk, Patriot và Tien Kung. Tầm hoạt động của các hệ thống này lần lượt và 40km, 160km và 200km. Ngoài ra, còn có 22 hệ thống phòng không tầm gần Skyguard bảo vệ các trung tâm dân cư lớn và căn cứ quân sự, một số được trang bị Sparrow, tầm 18km. Hình dưới đây là sơ đồ tổng quan hệ thống phòng không DL. Các radar cảnh báo sớm được ký hiệu hình kim cương màu xanh lam. Căn cứ thử tên lửa là hình vuông màu nâu. Các vị trí tên lửa được ký hiệu hình tam giác, với các mã màu: Cam: Hawk Vàng: Patriot Đỏ: Tien Kung Xanh lục: Sparrow Trắng: không hoạt động Hawk DL mua Hawk từ những năm 60. Hiện có tổng cộng 13 vị trí có triển khai các khẩu đội Hawk. Vị trí của chúng được thể hiện trong hình dưới, cùng với tầm bao phủ của chúng. Tien Kung Được phát triển từ những năm 80, gồm 2 phiên bản TK-1 và TK-2, TK-3 chuyên dùng để chống tên lửa đạn đạo đang trong quá trình phát triển. TK-1 có thể được bố trí di động hay cố định. Tầm hoạt động 100km. TK-2 bố trí cố định, tầm 200km, có bổ sung một đầu dò radar chủ động, còn TK-1 sử dụng đầu dò thụ động, nhận tín hiệu từ radar chính của hệ thống phản xạ vào mục tiêu. Có 6 vị trí tên lửa cố định, tên lửa được chứa trong những hầm chứa (silo) giống như tên lửa đạn đạo hạt nhân. Không có hệ thống phòng không nào khác dùng hầm chứa như TK. Mỗi vị trí gồm 5 khu phức hợp hần ngầm, mỗi cái lại chứa 4 ống phóng, mỗi ống phóng có 4 tên lửa. Tổng cộng là 80 tên lửa. Hình dưới là không ảnh của một vị trí tên lửa TK được cải tạo từ căn cứ cũ của Nike (MIM-14). Ngoài ra còn có 2 hệ thống radar. Mỗi cái cách nhau 1-4km. Vị trí và tầm bao phủ của các vị trí trên được hiển thị trong hình dưới đây. Patriot DL mua 3 khẩu đội Patriot vào 1993, được sử dụng chủ yếu trong vai trò chống tên lửa đạn đạo và bảo vệ thủ đô. Vị trí của chúng được thể hiện trong hình dưới. Skyguard - Sparrow Đóng vai trò phòng thủ bảo vệ điểm. Tổng kếtVới 1300-1500 tên lửa và hàng trăm máy bay mà TQ triển khai nhắm vào DL, rất khó để đảo quốc này có thể triển khai được một hệ thống phòng không tương xứng. Tuy vậy, họ có thể ngăn việc TQ tiêu diệt các cơ sở quân sự quan trọng một cách chớp nhoáng bằng việc kết hợp giữa tên lửa phòng không và máy bay chiến đấu. TK sẽ đóng vai trò đánh chặn đội hình máy bay đối phương từ xa trong khi các máy bay chiến đấu giữ nguyên vị trí, chờ để tiêu diệt số còn lại. Số tên lửa hành trình hay máy bay lọt qua sẽ được đảm trách bởi Hawk hay Skyguard. Tên lửa từ tàu chiến cũng có thể hỗ trợ việc phòng thủ. Hệ thống phòng không của DL được bố trí tương đối tốt, với nhiều hệ thống có tầm hoạt động chồng lấn nhau, tăng khả năng đánh trúng muc tieu.
|
|
|
Post by vietnam on May 12, 2009 20:09:07 GMT -5
Hệ thống phòng không của các nước Tại sao RPG thống trị Hỏa tiễn vác vai rất phổ biến trên chiến trường, vì chúng rẻ và rất hiệu quả. Trong đó, RPG của Nga, hay thường được gọi là B-40, là rẻ nhất và do đó thông dụng nhất, chiếm tới 55% tổng số hỏa tiễn vác vai. Được giới thiệu tại Nga lần đầu 1961, phiên bản mới nhất, RPG 7, nặng 8kg, với hỏa tiễn nặng khoảng 2.5kg. Chúng có thể xuyên phá tới nửa mét thép. Nhưng phần lớn tăng hiện đại không sử dụng thép thông thường nữa. Do đó, xe tăng M-1 và xe thiết giáp M-2 hầu như không thể bị hạ bởi RPG 7, tại Iraq, việc hầu như toàn bộ xe thiết giáp trong 1 đơn vị bị trúng ít nhất 1 quả RPG là rất phổ biến. Tuy vậy, mối nguy lớn nhất là từ những mảnh đạn văng ra từ vụ nổ. Một đầu đạn RPG chống tăng có thể tạo ra mảnh văng xa tới 5m. Chúng ít khi gây chết người, nhưng đủ để khiến cho người lính bộ binh gần đó bị loại khỏi vòng chiến. Nếu dùng loại đầu đạn chống bộ binh, tầm sát thương có thể tới 10m. Một ống phóng RPG tốn khoảng 100-500 dollar. Đạn khoảng từ 50-100 dollar. Không cần nhiều kinh nghiệm, một người có thể bắn trúng một mục tiêu cố định có kích thước tương đương xe cơ giới cách 100m. Khi đã thành thục, người lính có thể bắn trúng mục tiêu cố định ở 500m và mục tiêu di động ở 300m. Các lực lượng quân sự không chính quy còn sử dụng RPG như một loại pháo binh. RPG-29 là bước phát triển mới nhất, được giới thiệu ngay sau khi LX sụp đổ. Lớn và đắt hơn phiên bản cũ, RPG-29 có tấm bắn hiệu quả 500m, và có thể xuyên qua 1.5m bê tông cốt thép. Đối với các nước phương Tây, loại vũ khí tương ứng là LAW và AT4. LAW là loại tên lửa vác vai sử dụng một lần, ống phóng có sẵn tên lửa bên trong và chỉ dùng cho một lần bắn. Nặng khoảng 3.5kg, giá 2,000 dollar, LAW là sự thay thế cho bazooka nổi tiếng thời thế chiến. Đến những năm 70, LAW không còn khả năng tiêu diệt các loại tăng thời đó nên được thay thế bằng AT4. Nó nặng hơn, khoảng 7kg, và dài hơ, giá 2,700 dollar. Tuy vậy, vì bộ binh Mỹ hiếm khi phải đối phó với xe tăng đối phương, phần lớn đã bị không quân và thiết giáp tiêu diệt trước đó, nên họ thích dùng LAW hơn, vốn nhỏ và gọn nhẹ hơn nhiều. Và thường họ dùng tên lửa vác vai để phá hủy các boongke, công trình nơi đối phương đang ẩn nấp nhiều hơn là thiết giáp. Ngoài ra, quân đội Mỹ vừa trang bị thêm SMAW, từ Israel. Nó có giá tới 14,000 dollar. Khi tính chung cả 2 yếu tố tính hiệu quả so với giá thành thì RPG vẫn là sự lựa chọn tốt nhất. *************** Một số thông số sơ bộ: - Xe chuyên chở kiêm bệ phóng: Maz 7910, 8x8. - Loại tên lửa: 9M96E hoặc 9M96E2 và 9M82/83M. - Tầm bắn: 30 - 400km. Tổ hợp S-400 Triumf (NATO đặt tên SA-21 Growler) là phiên bản nâng cấp từ hệ thống tên lửa đất đối không lưỡng tầm (tầm trung và tầm xa) đất đối không S-300. S-400 thuộc thế hệ vũ khí phòng thủ tên lửa đường đạn và phòng không thế hệ 4+ do tập đoàn Almaz-Antey AD Concern phát triển. Hệ thống S-400 tích hợp những công nghệ mới nhất và khả năng chống nhiễu tốt, có nhiều tính năng kỹ chiến thuật vượt trội hẳn so với các phiên bản S-300 trước đó như S-300PMU1, S-300PMU2, S-300V… với tầm bắn hiệu quả lớn gấp 2 lần hệ thống tên lửa Patriot MIM-104 của Mỹ. Hệ thống S-400 gồm 1 xe chỉ huy và điều khiển trung tâm, trang bị radar mạng pha nhiều chế độ và 8 xe phóng. Mỗi xe phóng có thể mang 4 ống phóng tiêu chuẩn 9M96E/E2 hoặc 48N6E/E2. Ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa tên lửa được dẫn bằng bằng thiết bị hiệu chỉnh, chỉ huy vô tuyến, ở giai đoạn cuối có thể lựa chọn chế độ dẫn phù hợp cho mỗi tên lửa và với mỗi mục tiêu. Hệ thống S-400 bắt đầu được thử nghiệm năm 1999, hoàn thiện vào năm 2000 tại căn cứ Kasputin Yar. Hệ thống tên lửa đất đối không S-400 Triumf có thể phát hiện mục tiêu bằng Radar các loại 64N6, 76N6 (tầm 600km) và tiêu diệt được các mục tiêu trên không ở cự ly cách xa 250 dặm (400 km) như vật thể bay ko người lái, máy bay chiến đấu siêu âm và tàng hình, các loại máy bay ném bom - chiến đấu, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo. S-400 Triumf có thể hạ được các loại tên lửa chiến lược có tầm bắn tới 3.500km. ***************** Những thông số chính:1. Đối với mục tiêu bay có diện tích phản xạ (cỡ vừa như máy bay F-15,F16): Tầm bắn hiệu quả tối thiểu/tối đa: 3/45km. Tầm cao hiệu quả tối thiểu/tối đa: 0.015/25km 2. Đối với tên lửa đường đạn chiến thuật: Tầm bắn hiệu quả: tới 20km,tầm cao hiệu quả tối thiểu/tối đa: 2/16km 3-Đối với tên lửa hành trình phóng từ trên không ALCM: Tầm bắn hiệu quả: 30-35km 4. Đối với mục tiêu nổi trên mặt nước cỡ tàu khu trục:Tầm bắn hiệu quả tối thiểu/tối đa: 3/25km 5. Đối với các mục tiêu cố định trên mặt đất như máy bay đang đỗ, các bệ phóng và sở chỉ huy cỡ lớn: Tầm bắn hiệu quả: 10-15km Tên lửa 9M317: - Tổng trọng lượng: 710kg - Dài: 5,55m - Đường kính: 0,40m - Sải cánh: 1,10m - Đầu đạn tiêu chuẩn: 70kg - Tầm bắn tối thiểu/tối đa: 3/48km - Tầm cao tối thiểu/tối đa: 15/25.00m - Tốc độ tối đa: 4.320km/h Mỗi hệ thống bao gồm: 1 xe chỉ huy; 1 trạm trinh sát/bắt bám và điều khiển đặt trên xe; 6 xe phóng, mỗi xe mang 4 quả tên lửa sẵn sàng phóng và 4 quả dự trữ; 3 xe tiếp đạn. BUK-M1-2 sử dụng 1 radar trinh sát 9S117M1 Kupol-2 Snow Drift, tầm phát hiện 100km; 1 radar bắt bám mục tiêu 9S35M2 Fire Dome hoạt động trong dải sóng H/I tầm hoạt động 120km. BUK-M1-2 có thể cùng lúc kiểm soát 75 mục tiêu, cung cấp các thông số cụ thể về 15 mục tiêu nguy hiểm nhất. Hệ thống có thể tiêu diệt các mục tiêu bay có tốc độ tối đa 3.600km/h và chỉ mất 5 phút để triển khai chiến đấu hoặc rút khỏi trận địa sau khi phóng. Đây là hệ thống tên lửa phòng không cơ động tự hành được phát triển trên cơ sở hệ thống Buk (SA-11 GADLY) có thể được trang bị cho lực lượng phòng không/phòng không lục quân và lực lượng bảo vệ bờ biển. Nó không những tiêu diệt được các máy bay chiến thuật có khả năng cơ động cao, máy bay chiến lược, trực thăng, tên lửa hành trình mà còn tiêu diệt được cả các loại tàu chiến, các mục tiêu cố định trên mặt đất và tên lửa không đối đất. BUK-M1-2 có khả năng tác chiến trong môi trường bị nhiễu nặng và tránh được hầu hết các loại mồi bẫy.
|
|
|
Post by vietnam on May 12, 2009 20:15:28 GMT -5
Patriot Pac-3 (Mỹ): hệ thống nổi tiếng cũng không kém gì gia đình S-300/400 Do hãng Raytheon & locdkheed hợp tác phát triển từ hệ thống Hệ thống dẫn đường TVM (Track-Via-Missile). Rada:AN/MPQ-53 dùng để tìm kiếm, phát hiện, nhậnb dạng, theo dỡi, hướng dẫn tên lửa và có chức năng là bộ đếm điện tử-thực hiện đánh trả. Rada có tầm họat động 100km, khả năng theo dõi 100mục tiêu, cung cấp dữ liệu hướng dẫn 1 lúc cho 9 tên lửa. Thân TL dài: 520cm. Đường kính thân 40cm. 4 cánh hình tứ giác, đường kính 85cm, độ cao tối đa 30km. Trạm điều khiển AN/MSQ-104. Trạm phóng M901 có chức năng vận chuyển, định hướng và phóngTL, Mỗi Trạm phóng M 901 có 4 tên lửa được điều khiển từ xa thông qua sóng VHF hoặc đường truyền dữ liệu cáp quang. Tên lửa đối không SM-3 (Standard Missile-3) của MỹChiểu dài: 6,55m. Đường kính: 0, 34m. Tốc độ bay: 9.600km/giờ. Độ cao tối đa: 160km. Tầm họat động: Trên 500km. Máy phóng: 8. Tên lửa RIM-161 SM-3 được sử dụng phối hợp với các radar cảnh báo sớm và sensor hồng ngoại trong không gian để dò tìm mục tiêu, định hướng, xác định độ cao, bám sát quá trình bay và tiêu diệt các mục tiêu là tên lửa đạn đạo tầm xa hoặc tầm trung mang đầu đạn hóa học, sinh học hoặc hạt nhân. Hiện SM-3 và rada X-band ở trên nằm trong hệ thống phòng thủ chống tên lửa của Mỹ . Tên lửa SM-3 được thiết kế 04 tầng, hai tầng đầu chứa nhiên liệu đẩy có chức năng đẩy tên lửa đánh chặn ra khỏi tầng khí quyển, tầng 3 đẩy tên lửa xa hơn ngoài tầng khí khuyển trái đất, sử dụng hệ thống định vị vệ tinh (GPS) để điều chỉnh hướng tiếp cận mục tiêu, tầng thứ tư chứa các thiết bị mang và có sử dụng các sensor hồng ngoại nhằm lao thẳng vào mục tiêu. Hệ thống rada X-band: Một số thông số cơ bản của radar X-Band: Dài 390 feet (119 m), rộng 240 feet (73 m), cao 280 feet (85 m) tính từ sống của giàn đỡ lên đến tháp đỉnh của radar, trọng lượng 50.000 tấn, độ ổn định 100. Mỗi hệ thống radar biên chế khoảng 80 nhân viên. Hệ thống ra-đa X-Band (SBX) là một trong những hệ thống ra đa cảnh báo sớm hiện đại nhất trên thế giới do Mỹ nghiên cứu sản xuất, có thể phát hiện các tên lửa đạn đạo ngay sau khi rời bệ phóng 10 giây. nhằm giúp các tên lửa đánh chặn rút ngắn thời gian khởi động và vạch ra phương án đánh trả kịp thời. Radar X-Band được kết cấu gói gọn trên một giàn bán ngầm cơ động trên biển, radar có thể định vị, kiểm soát bất kỳ khu vực nào trên toàn cầu, cung cấp thông tin cảnh báo trước cho hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo. Giàn bán ngầm có chức năng gần như một chiếc tàu biển, được thiết kế dựa trên công nghệ của giàn khoan dầu khí bán ngầm thế hệ thứ 5, được kết cấu bởi 02 thân chính, sử dụng động cơ tự lực, giàn bán ngầm này có tính ổn định cao ít bị tác động trước sức gió và sóng biển lớn.Trên sàn của giàn bán ngầm gồm có khu nhà ở, khu làm việc, kho, máy phát điện, cầu, phòng điều hành, ăng ten và cổng kết nối dữ liệu hệ thống thông tin liên lạc với tên lửa đánh chặn.
|
|
|
Post by tuhieu on May 13, 2009 18:34:17 GMT -5
SDB - Thế hệ 2 của bom dẫn đường bằng vệ tinh Sự xuất hiện của JDAM, loại bom thông minh dẫn đường bằng vệ tinh đầu tiên, đã tạo ra một cuộc cách mạng trong tác chiến. Mặc dù trước đó đã có một số công nghệ chính xác cho vũ khí không lực khác, như dẫn bằng camera gắn ở đầu quả bom, dẫn bằng hồng ngoại, và đặc biệt là bằng laser; nhưng chúng có nhiều nhược điểm làm hạn chế việc sử dụng rộng rãi mà chỉ trong một số ít nhiệm vụ đặc biệt. Giá thành đắt, phụ thuộc nhiều vào điều kiện bên ngoài (mây, sương mù, khói, bão cát…) là những lí do quan trọng nhất. Ngoài ra, chúng còn bị hạn chế về tầm hoạt động vì cơ chế dẫn đường đòi hỏi nó phải 'nhìn thấy' mục tiêu. Dẫn đường bằng vệ tinh khắc phục những nhược điểm trên, tất cả gì cần thiết là tọa độ của mục tiêu. Do đó, nó không phụ thuộc vào điều kiện môi trường bên ngoài. Và máy bay cũng không cần phải 'nhìn thấy' mục tiêu nên không ảnh hưởng đến tầm hoạt động. Tùy vào độ cao khi thả bom, JDAM có thể lướt đi 40-70km đến mục tiêu nếu được trang bị những cánh lái lớn hay thậm chí là động cơ rocket nhỏ thì JDAM có thể trở thành một loại tên lửa hành trình mini. Bên cạnh đó, khi sử dụng công nghệ dẫn đường bằng vệ tinh, một máy bay có thể tấn công cùng lúc nhiều mục tiêu.Ngoài ra, giá thành của nó cũng rẻ hơn. Thực chất, JDAM không phải là một loại bom được thiết kế riêng biệt mà gồm những bộ thiết bị gắn thêm vào những quả bom thông thường. Và đó là điểm khác biệt lớn giữa JDAM và hậu sinh của mình, SDB. SDB là một loại bom dẫn đường bằng vệ tinh (GPS) được thiết kế hoàn chỉnh như một loại vũ khí riêng biệt. Nó trông giống một tên lửa hơn là một quả bom, với một bộ cánh xếp, cho phép nó lướt đi gần 100km, hình dạng thuôn dài tạo khả năng xuyên tương đương với loại bom 1 tấn mặc dù nó chỉ nặng 120kg. SDB có kích thước nhỏ, chỉ 120kg, so với 250kg của loại JDAM nhỏ nhất. Lí do vì khi mà độ chính xác của vũ khí ngày càng cao thì yêu cầu về sức công phá cũng giảm xuống. Điều đó cho phép một chiếc máy bay mang nhiều bom hơn, đồng thời giảm thiệt hại phụ, đặc biệt nếu nó được sử dụng trong thành thị. SDB được thiết kế để cho một lốc 4 bom có thể được treo trên cùng 1 điểm treo vũ khí, thay vì chỉ 1 như loại bom thường. Ngoài ra, kích thước nhỏ gọn cũng thích hợp cho việc trang bị trong các máy bay tàng hình có khoang chứa vũ khí kín như F-22 và F-35. Như trong đoạn video đầu tiên là F-22. Bên cạnh đó, công nghệ dẫn đường trên SDB hiện đại hơn JDAM, dù cùng một cơ chế, cho phép tăng độ chính xác. Với SDB, một chiếc máy bay có thể tấn công nhiều mục tiêu hơn với mức độ hiệu quả không đổi. Trong đoạn clip dưới là SDB được không quân Israel sử dụng trong chiến dịch Cast Lead tại Gaza. Đó là nơi rất thích hợp cho SDB, vì Hamas luôn tìm cách chen lẫn các cơ sở của mình vào khu vực dân cư. Do đó, cần một loại bom không quá lớn, đồng thời vẫn phải có độ chính xác và sức xuyên để phá sập các đường hầm dùng để chuyển lậu vũ khí từ Ai cập qua Gaza. Hiện nay, hệ thống vệ tinh định vị duy nhất đang hoạt động đầy đủ, nghĩa là phủ sóng toàn bộ trái đất 24/24, là GPS của quân đội Mỹ. Trong tương lai có thể có thêm Glonass của Nga, Baidu của TQ và Galilleo của Châu Âu
|
|
|
Post by tuhieu on May 13, 2009 18:36:35 GMT -5
Phi đoàn B-2 Mỹ
Không quân Mỹ đang thực hiện một đợt nâng cấp lớn cho những chiếc B-2 của mình. Chiếc đầu tiên vừa mới được hoàn thành và bàn giao lại. Đợt nâng cấp này gồm một radar quét điện tử chủ động (AESA) mới và nâng cấp đường truyền vệ tinh. AESA là công nghệ radar hiện đại nhất hiện nay, nó gồm hàng ngàn radar nhỏ hoạt động độc lập với nhau. Radar trên B-2 đảm nhận rất nhiều nhiệm vụ khác nhau, gồm bám địa hình, cảnh báo trên không, xác định điều kiện thời tiết, nhưng quan trọng nhất là phát hiện và theo dõi các mục tiêu trên mặt đất. Do đặc tính như trên của AESA, B-2 có thể phát hiện và theo dõi cùng lúc nhiều mục tiêu cùng 1 lúc với độ chính xác cao. B-2, ban đầu được thiết kế với nhiệm vụ xâm nhập lãnh thổ Liên Xô, truy tìm và tiêu diệt các giàn phóng tên lửa liên lục địa di động, sau này được chuyển sang vai trò mang vũ khí thông thường. B-2 có thể mang theo 80 quả bom thông minh JDAM loại 250kg. Do dẫn đường bằng vệ tinh nên chúng có khả năng tấn công nhiều mục tiêu độc lập cùng lúc. Trên thực tế, với 80 JDAM, 1 chiếc B-2 có thể tấn công 80 mục tiêu khác nhau. Như trong đoạn clip dưới đây, thực hiện 2003, một chiếc B-2, chỉ với 1 lần bay qua, tấn công 80 vị trí khác nhau của 1 sân bay quân sự giả lập, gồm nhiều loại mục tiêu khác nhau, như đài chỉ huy, kho xăng, nhà chứa máy bay, hệ thống phòng không, đường băng, một khẩu độ Scud…Các mục tiêu đều bị đánh trúng với độ chính xác cao, thậm chí là bị trúng từ nhiều góc độ khác nhau. Nay, với đợt nâng cấp này, B-2 có thể tự mình tìm kiếm các mục tiêu đó và tấn công chúng cùng lúc. Trước kia, B-2 cũng có radar để tìm mục tiêu trên mặt đất, nhưng không có được độ chính xác và khả năng theo dõi cùng lúc nhiều mục tiêu như của AESA. Và nếu theo JDAM bằng LJDAM thì B-2 có thể tấn công 80 mục tiêu bất kể đó là mục tiêu di động hay cố định. Ngoài ra, có thể thay bằng bom SFW CBU-105 nếu phải tấn công một đội hình cơ giới lớn. CBU-105 nặng nửa tấn, điều khiển bằng GPS và có 10 quả bom con. Mỗi quả sẽ dùng dù để giảm tốc độ sau khi được thả ra từ bom mẹ. Mỗi quả bom con sau đó lại bung ra thành 4 đầu đạn, mỗi cái trang bị cảm biến hồng ngoại riêng và dùng một đầu nổ định hướng để xuyên thủng lớp giáp trên nóc xe tăng, là một trong những phần có lớp giáp mỏng nhất. Nếu không phát hiện được xe tăng, nó sẽ tấn công bất cứ phương tiên cơ giới nào trong bán kính 100m. Nếu vẫn không có, nó sẽ tự hủy trên mặt đất. Một B-2 có thể mang theo 20 SFW, mỗi SFW có thể tấn công 40 mục tiêu di động khác nhau. Người ta gọi B-2 khi đó là sát thủ của các sư đoàn thiết giáp. Ngoài ra, đường truyền vệ tinh mới cho phép B-2 nhanh chóng chia sẻ thông tin về vị trí mục tiêu với nhiều phương tiện khác, bao gồm cả UAV. Với tính năng tàng hình của mình, cộng với khả năng tác chiến độc lập, tấn công nhiều mục tiêu cùng lúc với độ chính xác cao, một chiếc B-2 có thể hoàn thành nhiệm vụ mà thông thường phải cần cả một phi đoàn. *************** JDAM tròn một con giáp Cho tới nay, Mỹ đã sản xuất hơn 200,000 bom JDAM (bom điều khiển bằng GPS). Khoảng 24,000 trái đã được sử dụng trong chiến đấu, và cũng chừng đó trong luyện tập. Chính xác thì JDAM gồm một bộ điều khiển được gắn một một quả bom thông thường. Có tất cả 5 model được sản xuất, trong đó loại mới nhất có trang bị thêm bộ dẫn đường bằng laser. Ngoài Không lực và Hải quân Mỹ, JDAM còn được xuất khẩu sang các nước đồng minh. Nga và TQ cũng sản xuất những mẫu của mình, nhưng không sản xuất và sử dụng nhiều. JDAM mới bắt đầu được sản xuất 12 năm trước với quy mô 750 quả 1 tháng trước khi tăng lên 2,000. Tới năm 2003, Không lực mới có 17,000 và muốn có một lượng dự trữ ít nhất 40,000. Hiện nay mức dự trữ mới đang được xây dựng. Các chỉ huy quân sự trên thế giới vẫn đang tiếp tục tìm hiểu những ảnh hưởng sâu sắc của JDAM lên cách thức tác chiến. Nước Mỹ hiện đang sở hữu phần lớn các loại vũ khí dùng định vị vệ tinh và có khả năng ngăn chặn các nước khác sử dụng vì hiện GPS là hệ thống vệ tinh định vị duy nhất hoạt động đầy đủ, bao phủ toàn bộ bề mặt trái đất. JDAM khiến cho hỏa lực của không quân chính xác hơn rất nhiều, cho phép giảm thiểu số bom cần thiết để tấn công một mục tiêu hàng chục lần, kéo theo đó là giảm số máy bay, số nhân lực cần thiết. Từ đó khiến cho lực lượng tác chiến trở nên gọn nhẹ, linh hoạt hơn. JDAM cũng làm giảm thương vong cho dân thường, và hỗ trợ tốt hơn cho bộ binh. Bom có điều khiển đã bắt đầu xuất hiện từ cuồi Thế chiến thứ 2, chúng chưa thật sự có tác động lớn cho tới khi bom dẫn bằng laser xuất hiện vào những năm 60. Một thập kỷ sau, bom điều khiển bằng TV ra đời. Nhưng những loại này rất đắt, có thể tới $100,000. Cho đến Chiến tranh Vùng Vịnh 1991, chỉ có 16% trong sồ 250,000 quả bom được thả là bom có điều khiển. Nhưng chúng lại chiếm tới 75% số thiệt hại gây ra cho đối phương. Nhưng vũ khí điều khiển bằng laser vẫn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, môi trường (sương mù, khói, mưa, bão cát). Người ta vẫn cần một giải pháp toàn diện. Vào năm 1991, hệ thống GPS mới bắt đầu hoạt động. Trước khi JDAM ra đời, đã có ý tưởng về loại vũ khí tương tự, nhưng không ai dám chắc nó có thể hoạt động không. Tới khi các kỹ sư thật sự bắt tay vào chế tạo, người ta mới thấy rằng nó không chỉ khả thi mà còn rẻ chưa bằng 1 nửa giá ước tính, $18,000 so với $40,000. Hiện nay giá là $26,000 do sử dụng công nghệ hiện đại hơn, độ tin cậy cao hơn. Vậy là năm 1996, JDAM bắt đầu được sản xuất. Và nó được sử dụng lần đầu vào năm 1999 tại Kosovo. Thật ngạc nhiên là tới 98% trong số 652 JDAM đánh trúng mục tiêu. Năm 2001, JDAM làn vũ khí lý tưởng để hỗ trợ cho vài trăm lính đặc nhiệm Mỹ ở Afghanistan. Tới tháng 1/2002, Mỹ đã thả một nửa, 10,000 JDAM, trong tổng số dự trữ của họ ở Afghanistan. 6500 JDAM được sử dụng trong chiến dịch xâm lăng Iraq năm 2003. Nhưng từ đó việc sử dụng JDAM không còn nhiều như trước, chủ yếu vì lục quân đã có những vũ khí định vị vệ tinh riêng của mình như pháo, rocket điều khiển. Hiện Mỹ sản xuất 3,000 JDAM một tháng với mục tiêu xây dựng mức dự trữ 200,000 đơn vị. TQ, Nga, và châu Âu vẫn đang ráo riết hoàn thiện hệ thống định vị vệ tinh của riêng mình.
|
|
|
Post by vietnam on May 14, 2009 19:07:35 GMT -5
CSVN mua thêm 12 máy bay Su-30MK2 của Nga Thursday, May 14, 2009 Chiến đấu cơ đa năng Sukhoi Su-30MK2 mà CSVN vừa đặt mua của Nga 12 chiếc. (Hình từ defenseindustry.com) Việt Nam đặt mua 12 chiến đấu cơ Su-30MK2 của Nga MẠC TƯ KHOA (Moscow) – Nga đã nhận được đơn đặt mua 12 chiếc chiến đấu cơ Su-30MK2 từ Việt Nam, gía trị hơn 500 triệu đô-la, theo báo Vedomosti tường thuật hôm qua thứ Năm ngày 14 tháng Năm, trích dẫn nguồn tin từ viên chức cao cấp ngành hàng không Nga. Hợp đồng với công ty xuất cảng vũ khí độc quyền của nhà nước Nga Rosoboronexport được ký vào hôm tháng Một, theo bản tường thuật, và cũng theo đó, những chiến đấu cơ phản lực này sẽ được bán cho Việt Nam nhưng không có vũ khí trang bị cho chiến đấu cơ. Hợp đồng cho hỏa tiển và những vũ khí khác để trang bị cho chiến đấu cơ có thể trị gía thêm hằng trăm triệu đô-la nữa. Một nguồn tin từ ngành kỹ nghệ quốc phòng Nga xác nhận bản tường thuật của báo Vedomosti và nói thêm rằng chiếc chiến đấu cơ đầu tiên sẽ được giao cho Việt Nam trong năm 2009, theo bản tin của thông tấn xã Interfax. Chiến đấu cơ Su-30MK2 vốn được cải tiến từ Su-27 nhưng tối tân hơn nhiều. Nguồn: AP -------------------------------------------------------------------------------- “Hợp đồng chuyển giao Su-30MK2 được ký bởi công ty Rosoboronexport hôm đầu năm,” nguồn tin cho Interfax hay. “Chiếc Su-30MK2 đầu tiên sẽ được giao vào cuối năm nay.” Nguồn tin từ ngành kỹ nghệ quốc phòng qua bản tin của Interfax cho hay hợp đồng này gía trị hơn 600 triệu đô-la, chứ không phải 500 triệu theo như báo Vedomosti. Mới tháng rồi, báo chí đã tường thuật chuyện Nga đã có được một thương ước bán cho hải quân Việt Nam sáu chiếc tàu ngầm. Với những hợp đồng này, Việt Nam trở thành một trong năm khách hàng đặt mua vũ khí sộp nhất của Nga, bên cạnh Ấn Độ, Algeria, Venezuela và Trung Quốc, theo báo Vedomosti. Xuất cảng vũ khí đã là một trong những ngành mang vào cho Nga nhiều lợi nhuận nhất kể từ khi Liên bang Xô-Viết sụp đổ. Nga đã bán vũ khí cao kỹ lục trong năm 2008, với tổng gía trị lên tới 8.35 tỉ đô-la, theo con số mà tổng thống Dmitry Medvedev cho hay hôm tháng Một, và công ty Rosobonexport nói tháng rồi là họ hy vọng sẽ có kết qủa bán cao tương tự cho năm 2009 này. Theo bản tin của Reuters, chiến đấu cơ Su-30 này, được biết đến như "Flanker-C" đối với khối NATO, vốn được cải tiến từ Su-27 nhưng tối tân hơn nhiều. Chuyến bay thử đầu tiên xảy ra vào thời còn Liên bang Xô-Viết nhưng Su-30 chỉ được đưa vào sử dụng trong thời hậu cộng sản ở Nga trong năm 1996. *************************** MOSCOW 14-5 (TH) CSVN vừa đặt mua của Nga 12 chiếc chiến đấu cơ đa năng Su-30MK2 trị giá hơn $500 triệu USD, theo bản tin Vedomosti của Nga viết theo lời của viên chức cao cấp ngành kỹ nghệ hàng không và được thông tấn xã AFP thuật lại. Hợp đồng mua nói trên ký với công ty xuất cảng võ khí của Nga Rosoboronexport từ Tháng Giêng 2009 nay mới được tiết lộ có lẽ nhắm đến tác dụng chính trị vào lúc có nhiều diễn biến sôi nổi liên quan đến Biển Đông đang diễn ra. Theo các nguồn tin trên, các máy bay này được bán mà “không có trang bị võ khí” (without on-board weapons) và cũng không được biết khi nào thì hàng sẽ được trao. Hợp đồng mua hỏa tiễn, bom, đạn… trang bị thêm trị giá hàng trăm triệu đô la nữa. Cách đây ít ngày, tin tức cho hay Nga đã thoả thuận bán cho CSVN 6 tàu ngầm thế hệ kilo-class với giá $1.8 tỉ đô la. Với những hợp đồng vừa kể, CSVN xếp hàng thứ năm về khách hàng mua võ khí của Nga sau những nước như Ấn Độ, Algeria, Venezuela và Trung quốc, theo báo Vedomosti. Bán võ khí trên thị trường quốc tế là loại hàng hoá đem đến lợi nhuận lớn cho kỹ nghệ quốc phòng của Nga nói riêng và nói chung cho các ngành sản xuất kỹ nghệ của nứơc này kể từ khi Liên Xô sụp đổ đầu thập niên 90. Năm 2008, Nga xuất cảng một số võ khí và trang bị quốc phòng trị giá $8.35 tỉ USD, theo lời tổng thống Nga Dmitry Medvedev nói hồi Tháng Hai. Công ty Rosoboroexport cho hay hồi tháng trước là năm nay cũng sẽ đạt thương vụ tương tự. Máy bay Sukhoi SU-30 là thế hệ chiến đấu cơ cải tiến từ SU-27 có hai động cơ phản lực siêu thanh và 2 phi công. Công ty sản xuất hàng không Sukhoi Aviation Corporation bắt đầu chế tạo từ 1996. Hai nhiệm vụ chính của nó là tấn công và không chiến (strike/fighter) trong mọi hoàn cảnh thời tiết, không đối không và không đối địa, tương tự khả năng của loại chiến đầu cơ F-15E Strike Eagle của Hoa Kỳ. Loại máy bay này có nhiều phiên bản khác nhau tuỳ theo tiền thì được trang bị những loại võ khí nào. Chúng đã được xuất cảng tới nhiều nước trên thế giới và CSVN cũng từng có mua một số trước đây, nay mua thêm. Ngoài CSVN, những nước khác hiện đang sử dụng Sukhoi SU-30MK như Trung quốc, Ấn Độ, Mã Lai, Algeria, Venezuela. Nhờ trang bị hệ thống tiếp xăng từ trên không, nó có thể thi hành các nhiệm vụ chiến đấu xa căn cứ xuất phát. Tốc độ của nó đạt Mach 2 khi bay cao và đạt 1,350 km/giờ ở độ thấp. Nó có thể thi hành nhiệm vụ với khoảng 4.5 giờ bay và tầm hoạt động 3,000 km. Nếu được tiếp xăng trên không, nó có thể tăng giờ hoạt động trên không tới 10 giờ và với tầm hoạt động 5,200 km. Với tầm hoạt động xa, nó là loại phi cơ chiến lược để thi hành nhiều nhiệm vụ tác chiến khác nhau từ tuần tiễu, yểm trợ tác chiến, tấn công bất kể ngày đêm, kể cả tấn công mục tiêu trên biển. Sukhoi SU-30MK2 trang bị một súng đại bác 30 ly, hoả tiễn hướng dẫn bằng radar, hoả tiễn tầm nhiệt, bom hướng dẫn định vị gắn trên 12 vị trí dưới cánh và thân. Hiện Không quân CSVN đang có khoảng 24 Sukhoi SU-30, 36 Sukhoi SU-27, 126 Mig 21, 80 Sukhoi SU-22. Trừ SU-30, những thứ kia đều già nua cũ kỹ, trang bị kém. Sau chuyến viếng thăm của tổng thống Nga Putin tại Việt Nam năm 2001, CSVN bắt đầu mua võ khí của Nga nhiều hơn để bổ khuyết cho trang bị quốc phòng quá yếm kém của mình. Năm 2003, CSVN mua hệ thống hoả tiễn phòng không S-300 trị giá $300 triệu USD. Kế đến, năm 2004 mua 12 chiếc tàu tấn công nhanh cỡ nhỏ trang bị hoả tiễn trị giá $120 triệu USD. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo chí, tổng giám đốc Rosoboroexport là Anatoly Isaikin cho hay hồi năm ngoái, máy bay chiến đấu là món hàng bán chạy nhất của công ty quốc doanh độc quyền xuất cảng võ khí này. Loại máy bay bán chạy nhất là Sukhoi SU-35 tức loại máy bay chiến đấu tối tân hơn loại SU-30MK mà Hà Nội đặt mua. Một chuyên viên nghiên cứu về Việt Nam của Nga, Vladimir Kolotov, giáo sư đại học quốc gia St. Peterbourg, cho rằng sự lớn mạnh của Trung quốc là mối đe doạ trực tiếp đến an ninh của Việt Nam. Theo ông, nhiều phần Trung quốc sẽ không sử dụng võ lực nhưng sẽ lấy chính trị và kinh tế để ép Việt Nam. **************************** Tích tiểu thành đại Chỉ vài ngày sau khi một hợp đồng mua 12 chiếc Su-30MK2 của Việt nam được công bố, giá mỗi chiếc khoảng hơn 40 triệu dollar, con số này được giảm xuống còn 8 chiếc vì lí do khó khăn kinh tế. Tuy vậy, điều này cũng không có ý nghĩa nhiều lắm vì đằng nào VN cũng khó có thể cùng lúc mua 12 chiếc máy bay với tổng giá trị nửa tỷ dollar mà sẽ chia làm nhiều đợt. Hợp đồng này sẽ nâng cao đáng kể khả năng phòng thủ trên biển của VN vì phiên bản này của Su-30 có các hệ thống điện tử chuyên dùng cho tên lửa diệt hạm. Su-30 là phiên bản nâng cao phát triển lên từ Su-27, là loại máy bay mà VN đã sử dụng trong gần 1 thập niên nay. Ngoài ra, VN cũng đang sử dụng Su-30MKK. Là một trong những loại chiến đấu cơ cường kích hiện đại nhất thế giới hiện nay, sự bổ sung của Su-30MK2 là một bước đi cần thiết trong việc nâng cấp sức mạnh quân sự của Việt nam. Tuy vậy, một lần nữa phải nhấn mạnh rằng con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất. Không phải việc VN mua được bao nhiêu máy bay mới, mà chính là số giờ bay trung bình hàng năm của các phi công sẽ cho thấy sức mạnh thật sự của không quân. Bên cạnh đó, một chiếc máy bay dù hiện đại đến đâu, nhưng nếu tỷ lệ sẵn sàng thấp, nghĩa là đa số thời gian nó phải nằm 'đắp chiếu', hoặc thiếu vũ khí, trang thiết bị kèm theo thì cũng không có tác dụng. Vũ khí càng hiện đại thì việc duy tu, bảo dưỡng càng phức tạp và tốn kém. Nhất là khi mà đó là máy bay của Su, không phải Mig. Trước kia, Mig gần như đồng nghĩa với phi cơ Liên xô. Những chiếc Mig được thiết kế với triết lý là chế tạo những mẫu máy bay giá rẻ, sử dụng cho những lực lượng không quân có trình độ phi công không quá cao, vì phương thức tác chiến trên không của LX và đồng minh dựa rất nhiều vào sự chỉ huy từ đài điều khiển mặt đất. Điều này có nghĩa là máy bay không cần có độ tin cậu quá cao, vì nó sẽ ít được dùng trong huấn luyện. Ví dụ như Mig-29 chỉ được thiết kế với mức 100 giờ bay mỗi năm. Ngoài ra, Mig cũng không yêu cầu quá cao về vấn đề bảo dưỡng, duy tu. Hình ảnh những chiếc Mig phơi sương gió tại những sân bay dã chiến đã rất quen thuộc. Trong khi đó, Sukhoi, với Su-27, đã chuyển sang triết lý khác, họ thiết kế những máy bay với ý nghĩ trong đầu rằng nó sẽ được dành cho những phi công hạng nhất, đồng thời nó cũng đòi hỏi cao về vấn đề hậu cần, duy trì. Do đó, ít máy bay hơn nhưng phi công được huấn luyện tốt hơn, thực hiện việc bảo trì đầy đủ và sẵn sàng chiến đấu cao thì vẫn tốt hơn. Cỗ máy chiến tranh vận hành như một hệ thống hoàn chỉnh, không đơn giản là vũ khí X vs. vũ khí Y. Do đó, không chỉ những loại vũ khí trực tiếp tham chiến (chiến đấu cơ, chiến hạm…) mà các loại khí tài hỗ trợ khác cũng đóng vai trò quyết định. Trước đó, VN đã mua 4 hệ thống radar thụ động Kolchuga của Ukraina. Mỗi hệ thống gồm 3 cảm biến, cho phép thực hiện phép đo tam giác để xác định vị trí mục tiêu, cả trên không và trên biển, tối đa 32 mục tiêu. Ngoài ra còn có 3 máy bay tuần tra và thám sát hàng hải CASA C212 của TBN với radar của Thụy điển, 10 máy bay huấn luyện Yak-52, 4 máy bay huấn luyện L-39 đã qua sử dụng. Ngoài việc đầu tư một cách khá toàn diện thì những hợp đồng trên còn cho thấy sự đa dạng hóa trong nguồn cung. Khi nói đến vũ khí, thì không phải lúc nào cũng chỉ là những cái tên như Nga, Mỹ, Anh…mà còn rất nhiều những nước khác cũng xuất khẩu vũ khí. Mỗi nước đều có những 'đặc sản', thế mạnh riêng của mình. Đôi khi những nước không được nổi tiếng lắm lại ít bị những ràng buộc và toan tính chính trị trong vấn đề mua bán vũ khí. Ngoài ra, dùng thiết bị của nhiều nước trong cùng 1 hệ thống vũ khí cũng là một xu hướng phổ biến. Ngay cả Nga khi chào bán máy bay của mình cũng thường đi kèm option trang bị thiết bị điện tử của phương tây cho dễ bán hơn. Do đó, việc tăng cường sức mạnh quốc phòng với điều kiện ngân sách hạn chế tuy khó, nhưng không phải là không thể, quan trọng là có một chiến lược, kế hoạch đúng đắn.
|
|
|
Post by vietnam on May 14, 2009 19:18:05 GMT -5
Vũ trang cho V-22 Khi được triển khai tới Afghanistan, V-22 sẽ được trang bị một súng máy đa nòng cỡ 7.62mm. Súng được điều khiển từ xa thông qua 1 camera. Nó chủ yếu được dùng để phòng thủ, tự bảo vệ chứ không phải nhằm biền V-22 thành một máy bay tấn công. Posted by Mili-Tec at 00:42 0 comments Labels: Hình ảnh Súng nước chống hải tặc Khi mà nạn hải tặc ở Somali vẫn đang nóng bỏng, các chuyến tàu hàng phải tìm cách bảo vệ mình. Việc đem theo vũ khí vẫn được xem là không khả thi, vì đa số các cảng có quy định rất chặt chẽ cấm các tàu hàng mang theo vũ khí. Do đó, họ phải xoay xở với những gì mình có. Một trong những cách thức hữu dụng nhất là dùng những vòi chữa lữa có sẵn trên mọi con tàu để đẩy lùi những xuồng cao tốc của hải tặc. Từ đó, Unifire, một hãng chuyên sản xuất thiết bị chữa lửa của Thụy điển và Raytheon, một đại gia quốc phòng, đã hợp tác cho ra đời một hệ thống vòi rồng chuyên dùng để chống lại hải tặc. Nó có thể làm chìm một xuồng hơi ở khoảng cách 100m. Sức mạnh của luồng nước đủ để đẩy một vật 85kg đi xa 75m. Ngoài ra, nó còn có thể phun bột tiêu đi xa 200m. Lượng nước nó đẩy đi trong 1 phút là 5000 lít. Đặc biệt, nó có thể được điều khiển từ xa, do đó thủy thủ không cần phải lộ diện trước làn đạn của hải tặc. Hệ thống có một bộ theo dõi vật thể nhỏ trên mặt nước. Chủ yếu gồm một bộ vi xử lý đặc biệt nối với radar định hướng có sẵn trên tàu, cho phép nó phát hiện và theo dõi những mục tiêu di động nhỏ trên mặt biển. Khi đó, một camera sẽ được hướng về phía mục tiêu tình nghi để xác định lại chính xác hơn. Posted by Mili-Tec at 00:29 0 comments Labels: Chống khủng bố Nga xây dựng lại trường đào tạo phi công hải quân Nga sẽ chi 730 triệu dollar để xây dựng một trung tâm đào tạo phi công hải quân, hoạt động trên tàu sân bay, ở Eisk, trên bờ biển Azov. Dưới thời LX, trung tâm duy nhất thuộc loại này nằm ở Ukraina, do đó, sau 1991, Nga không có nơi để đào tạo các phi công hải quân của mình. Trong khi đó, Ukraina lại không có nhu cầu đó nên đang đề nghị cho các nước khác thuê lại, đặc biệt là TQ. Một năm trước, hải quân Nga thông báo rằng họ đã nhận được sự đồng ý về kế hoạch xây dựng một đội tàu sân bay lớn. Việc chế tạo chiếc đầu tiên dự kiến bắt đầu trong 3-4 năm nữa. Nga hy vọng sẽ có 5-6 chiếc trong vòng nửa thế kỷ tới. Posted by Mili-Tec at 00:02 0 comments Labels: Không lực hải quân 14.5.09 Quái vật ở Kandahar Một bức ảnh vừa được đăng trên một tạp chí hàng không của Pháp, nó được gửi đến từ 2007 nhưng mãi đến bây giờ mới được công bố. Vật thể trong bức ảnh được cho là một mẫu UAV bí mật đang hoạt động ở sân bay Kandahar, Afghanistan. Nếu đúng vậy thì đây là mẫu UAV đầu tiên sử dụng thiết kế 'cánh bay', nghĩa là toàn bộ chiếc máy bay là 1 cái cánh lớn. Những lời đồn đại về một máy bay không người lái bí mật ở Kandahar đã xuất hiện từ khá lâu, thậm chí người ta đã phác thảo lại hình dạng của nó theo lời các nhân chứng, và nó được gọi là quái vật ở Kandahar. Đối chiếu với ảnh thực thì độ tương đồng là rất lớn, và nó gần như đã khẳng định sự tồn tại của chiếc UAV này. Thiết kế 'cánh bay' có diện tích cung cấp lực nâng lớn, do đó tăng thời gian hoạt động, đồng thời nó cũng là một thiết kế có tính 'tàng hình'.
|
|
|
Post by tuhieu on May 18, 2009 15:12:09 GMT -5
NBS -Tấm khiên trên không Ngày 13/5 vừa qua, quốc hội Đức chấp thuận việc mua 2 hệ thống NBS với giá 185 triệu dollar. NBS là một hệ thống C-RAM của hãng Rheinmetall AG cũng của Đức, được phát triển lên từ hệ thống Skyshield. C-RAM là tên gọi chung của những hệ thống phòng không tầm gần chuyên chống lại hỏa tiễn, pháo, pháo cối. Hiện hệ thống được sử dụng rộng rãi nhất là Phalanx của Anh, Mỹ. Một hệ thống của nó gồm 1 trạm điều khiển, 2 trạm cảm biến gồm radar và thiết bị quang điện tử, và 6 ụ súng 35mm. Toàn bộ hệ thống có mức độ tự động hóa cao, đây là đặc điểm chung của các C-RAM, vì nó chống lại các mục tiêu có tốc độ rất cao và ở tầm gần. Người vận hành hầu như chỉ có nhiệm vụ giám sát tình trạng chung, việc phát hiện và tiêu diệt mục tiêu diễn ra tự động. Nó còn có thể được kết nối vào các hệ thống phòng không khác nếu muốn. Đạn 35mm của nó chứa 152 đạn con làm bằng tungsten, mỗi cái nặng 3.3g. Một ngòi nổ điện tử sẽ kích nổ viên đạn khi cách mục tiêu khoảng 20m tạo thành một 'đám mây' kim loại dày đặc và phá hủy mục tiêu khi nó bay qua. ******************** Israel huấn luyện F-16 vs. Mig-29 Không quân Israel được cho là đã thuê một số chiếc Mig-29 và đang dùng nó trong những bài tập không chiến tầm gần với F-16 của mình. Chúng sẽ được gắn rất nhiều cảm biến đặc biệt tại khắp các vị trí và hệ thống của máy bay và sẽ truyền dữ liệu thời gian thực về mặt đất trong suốt bài tập. Ngoài ra, không quân Israel còn đang thực hiện những bài huấn luyện trong đó cho F-16 bay với tải trọng tối đa. Những động thái cho thấy khả năng Israel sẽ không kích Iran ngày càng lớn.
|
|
|
Post by lacthuan on May 18, 2009 18:34:45 GMT -5
Tàu ngầm của Iran Bức không ảnh chụp quân cảng của Iran tại Bandar Abbas. Phía tay trái là chiếc Kilo, còn phía phải là 4 chiếc tàu ngầm mini, có lẽ là loại Yugo. Chúng có thể được dùng để chuyên chở biệt kích, rải mìn, do thám…Iran còn 2 chiếc Kilo nữa, nhưng không có mặt ở đây
|
|
|
Post by votieugiap on May 20, 2009 13:02:52 GMT -5
Yêu cầu ngoại ngữ Rover Cũng như những người khác, quân đội Pháp hiểu rõ tầm quan trọng và lợi ích của những vũ khí chính xác như bom thông minh và tên lửa có điều khiển của không quân hỗ trợ cho lực lượng mặt đất. Tuy vậy, trong thực tế phối hợp tác chiến với Nato tại Afghanistan, họ gặp nhiều khó khăn và không tận dụng được hết khả năng của chúng. Thứ nhất, họ không có đủ FAC, là đội phối hợp không lực tiền phương. Họ được không quân biệt phái theo các đơn vị lục quân và báo thông tin về vị trí mục tiêu cho máy bay bắn phá. Thứ hai, những FAC có sẵn lại không thông thạo tiếng Anh, là ngôn ngữ chung trong tác chiến của Nato. Những phi công Pháp thì có thể giao tiếp bằng tiếng Anh không mấy khó khăn, nhưng các FAC thì ít có cơ hội thực hành hơn. Ngoài ra, Pháp cũng chưa có Rover. Nó là một thiết bị giống như một máy tính xách tay loại nhỏ có khả năng kết nối vệ tinh. Nó sẽ truyền hình ảnh từ các cảm biến của máy bay trực tiếp xuống cho các FAC, nghĩa là họ sẽ nhìn thấy những gì phi công đang nhìn thấy. Được phát minh theo yêu cầu trực tiếp của lính đặc nhiệm Mỹ ở Afghanistan từ 2002, Rover là một bước tiến lớn trong phối hợp tác chiến giữa không quân và lục quân. Trước kia thông tin chỉ theo 1 chiều, nghĩa là FAC cung cấp thông tin tọa độ cho máy bay. Rover cung cấp khả năng thông tin 2 chiều, khi mà FAC giờ đây có thể kiểm tra xem phi công có đang nhắm đúng mục tiêu mà mình muốn hay không. Ngoài ra, với những thế hệ sau, FAC có thể chỉ đơn giản nhìn vào màn hình cảm ứng và click vào mục tiêu trên đó để chỉ điểm cho phi công mà không cần phải mất thời gian đọc toạn độ hay chiếu tia laser vào mục tiêu. Ngoài ra, với khả năng truy cập trực tiếp vào các cảm biến của máy bay (gồm cả UAV), Rover giúp các đơn vị mặt đất tiếp cận với những thông tin trinh sát, thám sát theo thời gian thực mà không phải qua các cấp trung gian khác. Đa số những vấn đề trên của người Pháp là do họ đã rút khỏi các cơ cấu quân sự của Nato từ những năm 60. Pháp vẫn là thành viên Nato, nhưng quân đội của họ không tập luyện chung và theo các quy trình chuẩn hóa của tổ chức này nữa. Trong cuộc chiến vùng Vịnh 1991, Pháp được giao riêng cánh phía tây, không lo việc phải phối hợp với các nước khác, nhưng ở Afghanistan lại là chuyện khác.
|
|
|
Post by vietnam on May 27, 2009 20:09:27 GMT -5
Tổng diễn tập cho các sư đoàn cơ giới TQ
Cuối năm nay, TQ sẽ tiến hành một cuộc tập trận lớn với các sư đoàn từ 4 trong 7 quân khu sẽ di chuyển một đoạn đường dài, có thể đến 2400km bằng phương tiện riêng của đơn vị, và tham gia tác chiến cùng nhau. Không quân cũng sẽ tham gia, cùng với các phương tiện truyền thông hiện đại, tác chiến điện tử lần đầu được sử dụng ở quy mô lớn…
Đây là một trải nghiệm mới của TQ, chuyển từ phương thức cũ là dùng xe lửa để di chuyển các đơn vị đến một địa điểm tập kết gần chiến trường. Sau thế chiến thứ 2, các nước phương tây đã hoàn toàn cơ giới hóa quân đội của họ, để các đơn vị có thể tự di chuyển hàng ngàn km. Và TQ đang đi theo hướng đó.
Hiện 70% trong tổng số 60 sư đoàn của TQ được cơ giới hóa. Những sư đoàn bộ binh cơ giới thường có khoảng 600 xe bọc thép và vài ngàn xe tải. Một số đơn vị được tổ chức thành những sư đoàn phản ứng nhanh, luôn được đặt trong tình trạng sẵn sàng cao. Những sư đoàn này dùng xe bọc thép bánh hơi thay thế một phần các xe bọc thép bánh xích. Vì xe bánh hơi thích hợp hơn khi di chuyển trên đường nhựa.
Một sư đoàn cơ giới nặng khoảng 15,000 tấn. Và cần gần 2 ngày để di chuyển nó bằng xe lửa đi xa hàng ngàn km mà không làm hao mòn trang thiết bị nhiều. Tuy vậy, khi chiến tranh nổ ra, đường sắt là mục tiêu đánh phá quan trọng. Do đó các đơn vị phải có khả năng tự di chuyển. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on May 30, 2009 13:38:29 GMT -5
Những cựu binh trên bầu trời
Không quân Mỹ đang bắt đầu một chương trình nâng cấp cho số chiến đấu cơ F-15 của mình, để tăng tuổi thọ của chúng từ 8000 giờ lên 12000, để lấp chỗ trống khi F-35 bị trễ hạn. Trước đó, F-16 cũng được nâng cấp từ 4000h lên 8000h. A-10 được kéo dài từ 8000 lên 28000. B-52 tăng gần gấp đôi, lên 28000. Việc kéo dài tuổi thọ của máy bay so với tuổi thọ được thiết kế là điều khá bình thường, vì sự tiến bộ liên tục của công nghệ vật liệu, bảo trì, lắp ráp…Tuy vậy, nó cũng cho thấy một vấn đề lớn hơn hiện nay, đó là tình trạng lão hóa của các đội máy bay trên phạm vi thế giới. Nguyên nhân chủ yếu không gì ngoài sự kết thúc của chiến tranh lạnh mà sự sụp đổ của LX, khiến cho chi phí quốc phòng của các cường quốc bị cắt giảm mạnh. Đa số chiến đấu cơ hiện nay được thiết kế từ cuối chiến tranh lạnh, và từ sau đó tới nay, các dự án phát triển giảm mạnh về số lượng do ngân sách hạn hẹp, và tương tự là ngân sách mua sắm mới.
Không quân TQ đầu năm nay cũng cho nghỉ hưu những chiếc Su-27 đầu tiên của mình, 24 trong đó đã đạt ngưỡng giới hạn 5000h bay. Tuy nhiên, một số bộ phận có tuổi thọ cao hơn, nên vẫn còn có thể dùng làm phụ tùng thay thế.
Máy bay của LX trước kia thường có tuổi thọ ngắn hơn, đặc biệt là động cơ. Mig-29 chỉ được thiết kế bay 2500h. Hiện nay Nga đang đề nghị các hợp đồng nâng cấp lên 4000h. Mig-29 có lẽ là máy bay cuối cùng của LX được thiềt kế với tuổi thọ ngắn như vậy, những máy bay sau, bắt đầu từ Su-27, được chú trọng nhiều hơn vào thời gian hoạt động, ít nhất là so với tiêu chuẩn của LX trước đây.
Không quân TQ, cũng như nhiều nước khác, chỉ định 2 phi công cho 1 máy bay. Một chiếc Su-27, với 5000h bay và tuổi thọ 20 năm, cho phép mỗi phi công bay từ 120-130h bay mỗi năm. Vẫn còn ít hơn nhiều so với các nước phương tây. Tiêu chuẩn Nato là tối thiểu 180h, các phi công Mỹ có thể tới 400h. Tuy vậy, 120h bay cũng là lớn hơn nhiều so với trước kia rồi. Posted by Mili-Tec ..............................................................................
Nga - Khi cơ hội trôi qua
Thế giớ đang trải qua đợt khủng hoảng kinh tế trầm trọng nhất kể từ sau kì Đại suy thoái những năm 30. Hầu như mọi quốc gia đều bị ảnh hưởng. Tuy vậy, những nước như nước Nga phải chịu ảnh hưởng kép, không chỉ là ảnh hưởng dây chuyền mà còn là việc giá dầu giảm mạnh, trong khi đây là nguồn thu chính của Nga.
Sau 8 năm tăng trưởng với tốc độ trung bình 7%, năm nay dự kiến kinh tế Nga sẽ suy giảm 6%. Quý 1 năm nay, kinh tế giảm 9.5% so với cùng kỳ năm ngoái, và 23.2% so với quí trước. Tỷ lệ thất nghiệp tăng tới 10.2%. Việc này gần như sẽ làm gián đoạn quá trình tái trang bị quy mô lớn cho quân đội Nga. Mặc dù kinh tế thế giới nói chung đã thấy chút ánh sáng cuối đường hầm, nhưng giá dầu có lẽ sẽ khó mà đạt lại thời kì hoàng kim với 120-140 dollar/ thùng như trước kia. Và giờ đây khi nhìn lại, nhiều người Nga tự hỏi về hiệu quả của kế hoạch tái vũ trang này trong 8 năm trước đó.
Một trong những vấn đề được quan tâm nhất là về không quân Nga, đặc biệt là dự án chế tạo chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 của Sukhoi. Và điều kì lạ là mặc dù trong thời gian qua, Sukhoi rất thành công về mặt thương mại với dòng Su-27/30 của mình thì lại càng tạo nhiều chỉ trích và tâm trạng bi quan. Lí do chính nằm trong việc nền công nghiệp quốc phòng Nga hiện phụ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu. Sukhoi cũng không là ngoại lệ, và khi mà Pogosian (Chủ tịch Sukhoi Corporation) kiếm được lợi nhuận khổng lồ thì nhiều người trong giới quân sự Nga cho rằng Sukhoi và quân đội Nga đã quá lo cho các hợp đồng xuất khẩu (chủ yếu là các thiết kế có sẵn) thay vì tập trung vào các dự án thiết kế mới, trong khi người Mỹ đã đi trước, như chính sự xác nhận của nhiều chuyên gia, như tổng công trình sư của Mig.
Trong khi người Mỹ đã đưa vào hoạt động chiếc chiến đấu cơ thế hệ 5 đầu tiên cách đây nửa thập niên (2003) thì quá trình phát triển chiếc tương ứng của Nga, Pak-FA, vẫn mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu, dự kiến đến cuối năm nay sẽ bay thử lần đầu. Thật ra, trước kia, LX cũng thường đi sau Mỹ như vậy. Ví dụ như với thế hệ thứ 4, trong khi F-15, F-16 tham gia biên chế vào khoảng năm 1976 thì Mig-29, Su-27 là 1984, 1986. Tuy vậy, lần này khoảng cách có vẻ sẽ lớn hơn. F-22 thực hiện chuyến bay đầu tiên vào 1990, 13 năm trước khi nó chính thức hoạt động. Nếu lấy đó làm chuẩn thì phải đến 2022, Nga mới có chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 của mình.
Có ý kiến cho rằng Nga có thể rút ngắn thời gian nghiên cứu PAK-FA so với F-22 trước kia nhờ vào lợi thế của người đi sau. Họ có thể học được những kinh nghiệm từ dự án F-22, hay nói cụ thể hơn là nhờ vào những thông tin tình báo mà họ thu được.
Tuy vậy, cũng có khả năng ngược lại. Vì cả F-22 và Pak-FA đều là máy bay tàng hình. Khi mà người Mỹ bắt tay vào chế tạo F-22 thì họ đã có hàng chục năm kinh nghiệm trong công nghệ tàng hình, với F-117A và B-2. Trong khi đó, đây mới là lần đầu tiên người Nga thật sự chế tạo một máy bay tàng hình. Ngoài ra, một số công nghệ khác hiện vẫn chưa được hoàn thiện. Ví dụ như hiện nay Nga vẫn chưa thể hàng xuất hàng loạt radar quét điện tử chủ động (AESA).
Trong suốt 8 năm khi mà giá dầu ở mức cao, không quân Nga chỉ có thể tăng cường thêm 2 trung đoàn (48-50 chiếc) Su-27 SM. Trong khi đó, việc phát triển các loại máy bay mới gặp rất nhiều khó khăn. Su-35, được coi là mẫu máy bay lấp chỗ trống khi thế hệ thứ 5 chưa ra đời, hiện có 3 mẫu thử nghiệm (prototype), một chiếc bị cháy trong vì trục trặc động cơ. Nhưng trầm trọng hơn nhiều là việc họ vẫn chưa thể đưa mẫu radar quét điện tử chủ động (AESA) đầu tiên của mình vào sản xuất hàng loạt vì vẫn còn một số vấn đề kỹ thuật chưa thể giải quyết dứt điểm được.
Su-35 thực chất chỉ là giải pháp chữa cháy. Nó vẫn chỉ là một bản nâng cấp của dòng Su-27, thuộc thế hệ thứ 4. Thậm chí 1 số chuyên gia hoài nghi còn cho rằng nếu xét về mặt điện tử, radar, hệ thống vũ khí thì nó vẫn chưa bằng F-15E Strike Eagle thời chiến tranh vùng Vịnh. Ngoài ra, nhiều chuyên gia còn thất vọng về việc, nói chung, cho đến nay Nga chưa thể tạo ra một máy bay có hiệu quả tải trọng cao, nghĩa là mang được nhiều vũ khí so với khối lượng của chính nó, tăng hiệu suất của radar vẫn phải dựa vào việc tăng kích thước của nó, dẫn đến kích thước của vòm radar cũng phải lớn theo (các máy bay của LX/Nga thường lớn hơn so với các mẫu tương ứng của Mỹ) kéo theo đó là tăng diện tích phản xạ radar, dễ bị phát hiện hơn.
Một vấn đề nữa là hiện không quân Nga đang thiếu tên lửa không đối không. Các cơ sở sản xuất nằm rải rác trong lãnh thổ LX trước kia, mà nay trở thành những nước độc lập, ví dụ như Yuzhmash ở Ukraina. Ngoài ra, những tên lửa của Nga thường có cánh quá lớn, làm tăng diện tích phản xạ radar của máy bay.
Gần một thập kỷ với nguồn tiền dồi dào từ giá dầu cao, nhưng người Nga dường như vẫn chưa kịp sửa chữa những vấn đề của mình. Khủng hoảng kinh tế rồi sẽ đi qua, nhưng giá dầu khó mà có thể đạt được mốc như trước kia, ít ra là trong tương lai gần. Có vẻ như cơ hội đã trôi qua. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by vietnam on Jun 2, 2009 17:57:18 GMT -5
GPS - Hải đăng trong không gian
Không lâu sau khi có thông tin cho rằng hệ thống định vị toàn cầu GPS sẽ phải tạm ngừng hoạt động trong tương lai gần vì không được bổ sung vệ tinh mới thay thế thì các quan chức lầu năm góc đã chính thức lên tiếng bác bỏ giả thuyết trên. Theo đó, số vệ tinh tối thiểu cần thiết để duy trì hoạt động của GPS 24/24 trên phạm vi toàn cầu là 24. Con số hiện nay là 31. Chương trình chế tạo vệ tinh GPS được thực hiện tốt, và các vệ tinh luôn có tuổi thọ cao hơn thiết kế, chưa kể còn một số vệ tinh dự phòng. Và theo lời của một quan chức thì xác suất xảy ra việc ngừng hoạt động còn nhỏ hơn xác suất trúng vé độc đắc.
GPS hiện là hệ thống vệ tinh định vị duy nhất hoạt động trên phạm vi toàn cầu, và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong các hoạt động dân sự cũng như quân sự. Không chỉ giúp định hướng các phương tiện từ máy bay, tàu chiến đến thiết giáp và cả từng cá nhân người lính, GPS còn mở đường một thế hệ những vũ khí chính xác từ bom đến pháo binh, tạo ra một cuộc cách mạng trong tác chiến.
Và tất nhiên và cùng với đó, người ta cũng tìm cách phát triển công nghệ gây nhiễu GPS. Tuy vậy, việc gây nhiễu cũng là con dao 2 lưỡi, vì bản thân thiết bị gây nhiễu cũng là một nguồn phát tín hiệu chủ động, và nếu đối phương có khả năng tác chiến điện tử tốt, họ có thể dò ngược ra những nguồn này. Như trong cuộc chiến vùng vịnh lần 2, quân đội Iraq sử dụng những thiết bị gây nhiễu cơ động, nhưng cuối cùng vẫn bị phát hiện và tiêu diệt. Do đó, sử dụng 100 nguồn gây nhiễu nhỏ rải đều trên một khu vực lớn sẽ hiệu quả hơn một thiết bị công suất lớn. Khi bị gây nhiễu, các vũ khí thông minh sẽ chuyển từ GPS sang chế độ dẫn đường bằng quán tính, có độ chính xác thấp hơn.
Cao hơn gây nhiễu là việc giả tín hiệu, khiến cho bộ dẫn đường tin rằng mình đang nhận tín hiệu từ vệ tinh nhưng thật ra đó là tín hiệu giả của đối phương và khiến cho vũ khí rơi chệch mục tiêu. Tuy nhiên, việc tạo tín hiệu giả này phải mất nhiều thời gian, với độ lệch được tích tụ từ từ. Nếu bộ dẫn đường nhận thấy có độ sai lệch quá lớn giữa những lần xử lý tín hiệu, nó sẽ nhận biết đây là tín hiệu giả. Nếu có đủ thời gian, đối phương với khả năng tác chiến điện tử mạnh có thể điều khiển vũ khí tấn công ngược lại. Tuy vậy, đây là một công việc rất phức tạp và đòi hỏi một trình độ công nghệ rất cao.
Thực tế thì GPS và chống-GPS cũng giống như nhiều cuộc đua thanh kiếm-tấm khiên cổ điển trong quân sự. Giống như radar, ngay sau khi nó ra đời thì ngay lập tức những công nghệ chống radar cũng được phát minh, tuy vậy radar cũng tiếp tục tiến hóa và vai trò của nó vẫn ngày một quan trọng. Tương tự, GPS hôm nay hiển nhiên là có khả năng chống nhiễu tốt hơn vài năm trước nhờ những tiến bộ về các thiết bị điện tử cũng như phần mềm. Trong nhiều trường hợp, vấn đề tín hiệu vệ tinh yếu còn gây đau đầu hơn cả việc bị đối phương gây nhiễu.
RSN (Công nghệ định vị mặt đất tăng cường) mới được phát triển nhằm đối phó với cả việc gây nhiễu và tín hiệu yếu. Cơ bản thì RSN kết hợp các thuật toán, ứng dụng xác suất thống kê và cải tiếng angten để nhận cả tín hiệu GPS và từ nguồn khác, kết hợp lại để ước tính ra thông số bị thiếu khi mất tín hiệu, nếu phần mềm cho rằng thông số này chính xác hơn là chuyển sang back-up (tức là dùng quán tính) thì nó sẽ dùng RSN. Nguồn khác có thể là từ máy bay hoặc thiết bị phát sóng trên mặt đất.
Gần tương tự là công nghệ vệ tinh giả. Nói chung, công nghệ vệ tinh giả nhằm giả lập những ứng dụng của vệ tinh nhờ những thiết bị không đặt trong không gian. Trong trường hợp cụ thể để hỗ trợ GPS, một thiết bị vệ tinh giả bao gồm một bộ chống nhiễu GPS, tích hợp với bộ thiết bị đo quán tính, máy phát tín hiệu GPS, bộ nguồn, datalink. Các thiết bị này có thể đặt trên máy bay, UAV, trên mặt đất…Công nghệ này cung cấp khả năng chống nhiễu rất tốt trong một khu vực nhất định.
Một hướng đi nữa trong việc chống nhiễu là thiết kế lại angten, cho phép nó nhận biết hướng của tín hiệu nhiễu và không nhận tín hiệu từ hướng đó.
GPS có phiên bản quân sự, được mã hóa và độ chính xác cao và bản dùng cho dân sự không có mã hóa. Tuy nhiên, dưới thời TT Clinton, tín hiệu dân sự được cải tiến giảm sai số cho phép tín hiện dùng cho dân sự có độ chính xác gần bằng của quân sự. Hiện có nhiều nước đã phát triển những vũ khí chính xác sử dụng tín hiệu GPS dân sự, bao gồm cả Nga, TQ, Ấn độ…GPS dân sự hiển nhiên là dễ bị gây nhiễu hơn nhiều so với quân sự. Mặc dù ra đời sau, nhưng công nghệ vũ khí chính xác sử dụng vệ tinh lại rẻ tiền và ít phức tạp hơn công nghệ dẫn bằng laser ra đời trước đó. Vấn đề quan trọng là bạn có sở hữu một hệ thống vệ tinh định vị riêng hay không.
|
|
|
Post by votieugiap on Jun 20, 2009 18:09:59 GMT -5
Hoa Kỳ tăng cường phòng thủ ở Hawaii Friday, June 19, 2009 Bắc Hàn: Sẽ Bắn Phi Đạn Về Hawaii Việt Báo Thứ Sáu, 6/19/2009, 12:00:00 AM Bắc Hàn: Sẽ Bắn Phi Đạn Về Hawaii Bắc Hàn Có 5,000 Vũ Khí Hóa Học, Vi Trùng SEOUL - 1 tờ báo Nhật đưa tin: vào đầu Tháng 7, Bắc Hàn có thể sẽ phóng phi đạn tầm xa về hướng Hawaii, lãnh thổ của Hoa Kỳ giữa Thái Bình Dương. Theo bài đăng trên báo Yomiuri, bán chạy nhất nước, dẫn tài liệu phân tích của Bộ quốc phòng Nhật và ảnh chụp của vệ tinh Hoa Kỳ, phi đạn Taepodong 2 sẽ đuợc phóng từ căn cứ Dongchang-ni tại vùng duyên hải tây bắc của Bắc Hàn. Thời điểm bắn thử là từ ngày 4-7 đến ngày 8-7. Phi đạn Taepodong sẽ bay qua quần đảo Nhật, nhưng không tới Hawaii có khoảng cách 4500 dặm. Phát ngôn viên Bộ quốc phòng Nhật không bình luận. Tại thủ đô Hoa Kỳ, hôm Thứ Ba Tướng tham mưu phó liên quân James Cartwright cho hay phải ít nhất 3 năm nữa, chế độ Pyongyang mới có phi đạn đủ sức bắn tới bờ tây Hoa Kỳ. Tại thủ đô Nam Hàn, thứ trưởng Bộ thống nhất Hong Yang-ho tuyên bố chương trình nguyên tử của Bắc Hàn là rất nguy hiểm, sẽ làm thay đổi từ căn bản điều kiện an ninh khu vực. Theo nhóm nghiên cứu độc lập Crisis Group, Bắc Hàn hiện có từ 2500 đến 5000 vũ khí nguy hiểm các loại, gồm vũ khí hoá học và vi trùng có thể bắn đi bằng phi đạn tầm xa hay trọng pháo, đe dọa gây tổn thất nhân mạng lớn tại Nam Hàn. Tại thủ đô Nga hôm Thứ Tư, sau các cuôäc hội đàm tại Điện Kremlin, TT Medvedev và lãnh tụ Hồ Cẩm Đào cùng hô hào 1 giải pháp ôn hoà và khuyến cáo Pyongyang nhanh chóng trở lại đàm phán 6 Phe đang bị đóng băng. Thông cáo chung ghi : Nga và Trung Quốc sẵn sàng tiếp tay làm hạ căng thẳng tại bán đảo Hàn và kêu gọi các phe tiếp tục các nỗ lực giải quyết các bất đồng. Thông cáo chung Medvedev-Hồ đuợc sọan bằng ngôn từ cẩn trọng để không có ý khiêu khích Bắc Hàn. Hôm Thứ Tư, TT Lee tuyên bố tại thủ đô Washington : sự hợp tác của Moscow và Bắc Kinh là cấp thiết để thuyết phục Bắc Hàn ngưng chương trình nguyên tử. Ông Lee nhấn mạnh : vũ khí nguyên tử là không hữu ích cho nhu cầu an ninh và ổn định trong vùng SEOUL - Tiếp theo tin về phi đạn tầm xa của Bắc Hàn sắp bắn thử hướng tới Hawaii, Hoa Kỳ cho biết 1 hệ thống phi đạn nghênh cản đã được bố trí tại tiểu bang đảo. Hơm Thứ Năm, bộ trưởng quốc phịng Robert Gates cho hay Hoa Kỳ đã thiết lập các phịng thủ bổ túc quanh nhĩm đảo Hawaii, gồm 1 hệ thống phi đạn địa đối khơng di động và radar báo động sớm để cĩ thể bắn hủy phi đạn địch trên khơng. Bộ trưởng Gates tuyên bố với phĩng viên tại thủ đơ Washington như trên sau khi báo Yomiuri tại Nhật dẫn tin tình báo cho biết Bắc Hàn cĩ thể phĩng phi đạn tầm xa 4000 dặm giữa ngày 4 và 8-7. Phía Nam Hàn lại lên tiếng hơ hào Pyongyang đáp ứng các khuyến cáo cuả quốc tế. Nghị quyết mới của HĐ Bảo An kêu gọi 192 nước thành viên khám xét thương thuyền tình nghi chở vũ khí của Bắc Hàn, nếu nước chủ tàu cho phép. Trong khi đĩ, 2 viên chức Hoa Kỳ ẩn danh xác nhận trong vụ đầu tiên, Hoa Kỳ bắt đầu theo dõi 1 tàu mang hiệu kỳ Bắc Hàn mới rời cảng Bắc Hàn. Tàu Kang Nam đang vuợt Thái Bình Dương từng can dự các hoạt động phổ biến vũ khí cấm. Chưa rõ chuyến hàng này là gì. Một khu trục hạm Nhật bắn hỏa tiễn trong một cuộc thao dượt ngoài khơi Hawaii. (Hình tài liệu AP) Hình duoi: Trong hình do hải quân Hoa Kỳ cung cấp, chiếc tàu vận tải MV Blue Marlin đang tiến vào hải cảng Pearl Harbor, Hawaii chở theo một hệ thống radar mang tên Sea Based X-Band. Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates nói rằng kế hoạch phòng thủ Hawaii đang được tăng cường nhằm đề phòng Cộng Sản Bắc Hàn có thể bắn hỏa tiễn đến nơi đây. (Hình: US Navy - Ryan C. McGinley/AP) SEOUL, Nam Hàn (AP) - Chính phủ Hoa Kỳ cho hay đã bố trí các hệ thống phòng thủ chống hỏa tiễn quanh Hawaii tiếp theo sau các báo cáo nói rằng Bắc Hàn đang chuẩn bị phóng hỏa tiễn liên lục địa về hướng quần đảo này vào dịp lễ Ðộc Lập của Hoa Kỳ tháng tới đây. Tuần qua, chế độ Cộng Sản Bắc Hàn tuyên bố sẽ tăng cường kho võ khí nguyên tử của mình và đe dọa chiến tranh để phản đối các biện pháp trừng phạt do Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đưa ra tiếp theo việc Bắc Hàn cho thử võ khí nguyên tử lần thứ nhì hôm 25 Tháng Năm. Quốc gia này đã thử võ khí nguyên tử lần đầu tiên hồi Tháng Tư và có nghi ngờ rằng họ đang chuẩn bị thử lần thứ ba. Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, ông Robert Gates, hôm Thứ Năm nói rằng quân đội Mỹ đã tăng cường phòng thủ quanh Hawaii, gồm có các hệ thống chống hỏa tiễn lưu động trên đất liền và một dàn radar gần đó. Hệ thống phòng thủ này có thể bắn rớt hỏa tiễn đang bay tới ngay giữa không trung. “Tuy không muốn nói rõ chúng ta sẽ làm gì, tôi có thể nói rằng... chúng ta sẵn sàng có biện pháp đáp ứng, nếu cần thiết, để bảo vệ người dân và lãnh thổ Hoa Kỳ,” ông Gates nói với báo chí tại Washington. Lời tuyên bố của ông Gates được đưa ra sau khi tờ báo Yomiuri ở Nhật loan tải tin tức nói rằng Bắc Hàn có thể bắn thử hỏa tiễn loại Taepodong-2 với tầm xa tới 6,500 cây số, vào khoảng thời gian có ngày lễ Ðộc Lập 4 Tháng Bảy ở Hoa Kỳ tới đây. Tờ Yomiuri cho hay hỏa tiễn này, có thể được phóng từ giàn phóng Tongchang-ri, sẽ bay qua Nhật Bản nhưng sẽ không đủ sức bay tới Hawaii, vốn cách bán đảo Triều Tiên khoảng 7,200 cây số. Bắc Hàn đã từng bắn đi một hỏa tiễn tương tự hôm 4 Tháng Bảy ba năm trước đây, nhưng hỏa tiễn này phát nổ chỉ vài giây sau khi rời khỏi giàn phóng. (V.Giang) Một khu trục hạm Nhật bắn hỏa tiễn trong một cuộc thao dượt ngoài khơi Hawaii. (Hình tài liệu AP) Hình bên: Trong hình do hải quân Hoa Kỳ cung cấp, chiếc tàu vận tải MV Blue Marlin đang tiến vào hải cảng Pearl Harbor, Hawaii chở theo một hệ thống radar mang tên Sea Based X-Band. Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates nói rằng kế hoạch phòng thủ Hawaii đang được tăng cường nhằm đề phòng Cộng Sản Bắc Hàn có thể bắn hỏa tiễn đến nơi đây. (Hình: US Navy - Ryan C. McGinley/AP) SEOUL, Nam Hàn (AP) - Chính phủ Hoa Kỳ cho hay đã bố trí các hệ thống phòng thủ chống hỏa tiễn quanh Hawaii tiếp theo sau các báo cáo nói rằng Bắc Hàn đang chuẩn bị phóng hỏa tiễn liên lục địa về hướng quần đảo này vào dịp lễ Ðộc Lập của Hoa Kỳ tháng tới đây. Tuần qua, chế độ Cộng Sản Bắc Hàn tuyên bố sẽ tăng cường kho võ khí nguyên tử của mình và đe dọa chiến tranh để phản đối các biện pháp trừng phạt do Hội Ðồng Bảo An Liên Hiệp Quốc đưa ra tiếp theo việc Bắc Hàn cho thử võ khí nguyên tử lần thứ nhì hôm 25 Tháng Năm. Quốc gia này đã thử võ khí nguyên tử lần đầu tiên hồi Tháng Tư và có nghi ngờ rằng họ đang chuẩn bị thử lần thứ ba. Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ, ông Robert Gates, hôm Thứ Năm nói rằng quân đội Mỹ đã tăng cường phòng thủ quanh Hawaii, gồm có các hệ thống chống hỏa tiễn lưu động trên đất liền và một dàn radar gần đó. Hệ thống phòng thủ này có thể bắn rớt hỏa tiễn đang bay tới ngay giữa không trung. “Tuy không muốn nói rõ chúng ta sẽ làm gì, tôi có thể nói rằng... chúng ta sẵn sàng có biện pháp đáp ứng, nếu cần thiết, để bảo vệ người dân và lãnh thổ Hoa Kỳ,” ông Gates nói với báo chí tại Washington. Lời tuyên bố của ông Gates được đưa ra sau khi tờ báo Yomiuri ở Nhật loan tải tin tức nói rằng Bắc Hàn có thể bắn thử hỏa tiễn loại Taepodong-2 với tầm xa tới 6,500 cây số, vào khoảng thời gian có ngày lễ Ðộc Lập 4 Tháng Bảy ở Hoa Kỳ tới đây. Tờ Yomiuri cho hay hỏa tiễn này, có thể được phóng từ giàn phóng Tongchang-ri, sẽ bay qua Nhật Bản nhưng sẽ không đủ sức bay tới Hawaii, vốn cách bán đảo Triều Tiên khoảng 7,200 cây số. Bắc Hàn đã từng bắn đi một hỏa tiễn tương tự hôm 4 Tháng Bảy ba năm trước đây, nhưng hỏa tiễn này phát nổ chỉ vài giây sau khi rời khỏi giàn phóng. (V.Giang)
|
|
|
Post by vietnam on Jun 29, 2009 15:07:56 GMT -5
JDAM vs. Al Qaeda 6 quả bom điều khiển bằng GPS (JDAM) biến một căn cứ của Al Qaeda tại Afghanistan thành tro bụi. Ở góc trên, bên phải, các bạn có thể thấy rõ hình ảnh của một quả bom đang rơi xuống mục tiêu. Posted by Mili-Tec
|
|
|
Post by votieugiap on Jul 29, 2009 18:45:20 GMT -5
CƠNG NGHỆ PHỤC VỤ CHIẾN TRANH
VỚI CÁC LOẠI VŨ KHÍ HIỆN ĐẠI CỦA HOA KỲ
Lê Chánh Thiêm
Theo đà tiến bộ của con người, những phát minh, phát kiến trong khoa hoc, cơng nghệ...ngày càng nhiều và được áp dụng trong mọi lãnh vực. Tuỳ theo nhu cầu, mỗi phát minh đem lại một giá trị. Riêng trong nhu cầu chiến tranh, cuộc chiến một mất một cịn, các tiến bộ khoa học được đem áp dụng một cách triệt để. Dĩ nhiên sẽ mang lại kết quả cho quốc gia nào áp dụng kỹ thuật cơng nghệ, khoa học,...nếu cĩ cuộc đối đầu xảy ra.
Kể từ ngày cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt, nhất là sau vụ khủng bố ngày 11-9-2002 tại Hoa Kỳ, cuộc đối đầu ngày nay giữa Phương Tây, dẫn đầu là Hoa Kỳ với các thế lực khủng bố quốc tế đang đến hồi gay go nhất. Hơn nữa, chiến lược, chiến thuật, địch thủ cũng như chiến trường ngày nay khác xa lúc trước. Do vậy, con người cố gắng áp dụng khoa học kỹ thuật chừng nào hay chừng nấy. Tiết kiệm sinh mạng, nhân lực, thanh tốn chiến trường nhanh chĩng...là những tiêu chuẩn được các nhà lãnh đạo đặt lên hàng đầu mà khơng đặt nặng tốn kém. Trên căn bản nầy, Hoa Kỳ đã và đang chế tạo, áp dụng các loại vũ khí, phương tiện hiện đại hầu áp dụng trên các chiến trường theo nhu cầu. Trong phạm vi bài viết nầy, thử lược qua các loại phương tiện phục vụ cho chiến tranh ngày nay.
MÁY BAY DO THÁM GLOBAL HAWK:
Trong thập niên 60, với thế hệ phi cơ do thám U-2, Hoa Kỳ đã thành cơng trong việc do thám Nga Sơ và sẽ khơng đình hoản nếu khơng cĩ biến cố chiếc U-2 do Francis Gary Powers lái đã bị rơi trên đất Nga. Ngày nay, cùng với máy bay do thám khơng người lái Predator (Dã Thú), máy bay trinh sát RC-135, máy bay khơng người lái Global Hawk là một phi cơ do thám hữu hiệu của quân lực Hoa Kỳ.
Global Hawk được trung tâm Hàng Khơng Ryan, thuộc tập đồn Grumman Northrop của Mỹ, thiết kế và chế tạo. Chi phí mỗi chiếc máy bay nầy từ 10 đến 20 triệu USD tuỳ theo các trang bị phụ. Global Hawk được trung tâm hàng khơng Ryan, thuộc tập đồn Grumman Northrop của Mỹ, thiết kế và chế tạo. Chi phí mỗi chiếc máy bay nầy từ 10 đến 20 triệu USA tuỳ theo các trang bị phụ. Global Hawk hoạt động do thám trên một vùng diện tích rộng đến 137.000 km2, vẫy vùng liên tục trên khơng trung lâu đến 36 giờ đồng hồ. Với các thiết bị sẳn cĩ, nĩ cĩ thể nghe trộm đường truyền tín hiệu, bằng radar hay sĩng hồng ngoại, nĩ đánh dấu các mục tiêu, sau đĩ ghi hình các hoạt động dưới mặt đất trong khu vực hoạt động. Quân đội Mỹ sử dụng Global Hawk để mục đích phát giác, phân loại, theo dõi và giám sát đối phương từ xa mà vẫn rõ ràng, các tin tức ghi nhận từ mục tiêu đang hoạt động.
Tuy khơng cần người lái nhưng loại phi cơ nầy hoạt động rất đắc lực. Chỉ huy phĩ của Osama bin Laden là Mohammed Atef cùng với hàng chục tên tay chân thân tín của Atef đã bị phi cơ khơng người lái Predator giết chết. Gần đây, một phi cơ khơng người lái đã giết chết Qaes Salim Sinan al-Harethi, trưởng nhĩm Al Qaeda tại Yemen.
Được trang bị các kỹ thuật tối tân nhất cho dù cĩ tốn kém, chắc chắn Globail Hawk sẽ giúp ích nhiều cho ngành tình báo của quân lực Mỹ trong nỗ lực dị tìm để thu nhập được những thơng tin tình báo cần thiết mà họ cần.
EP 3 ARIES, MÁY BAY GIÁN ĐIỆP:
Đây là loại máy bay được các nhà chuyên mơn cho là "điệp viên trên khơng" dưới tên gọi tắt là ARIES (hệ thống do thám điện tử hội nhập trên khơng). Tuy là loại máy bay 4 động cơ cánh quạt bán phản lực, với vẻ xấu xí, cũ kỹ bên ngồi nhưng cĩ thể bay lâu 12 giờ, bay xa 6.000 km khơng cần tiếp tế nhiên liệu. EP 3 ARIES được trang bị những phương tiện kỹ thuật cao với các loại radar, các thiết bị tín hiệu điện tử, các máy liên lạc cực mạnh gọi là "long range electronic sureillance equipments", thường được gọi đùa là "bộ máy ghi thu băng và làm nhiễu sĩng" (recording and jamming). Thơng thường, mỗi chiếc EP 3 ARIES cĩ 24 nhân viên, 19 người trong số này là các chuyên gia của Hải Quân Hoa Kỳ, mỗi người cĩ một nhiệm vụ tình báo riêng. Phi hành đồn là những chuyên viên kỹ thuật giỏi, chuyên gia điện tử rành nhiều nghề, cĩ kiến thức cao, thường là các chuyên gia ưu tú trong quân đội nên hoạt động hữu hiệu. EP 3 được dùng trong các khoảng trống trên khơng trung giữa các vệ tinh viễn thám khơng thể phủ trùm lên nhau.
EP 3 ARIES cĩ thể phát giác những tín hiệu điện tử, truyền tin, trinh thám...rất xa của mục tiêu cần do thám; cĩ thể xoay các antenna đến hướng cần theo dõi mặc dầu phi cơ đang bay hướng khác. EP 3 ARIES cĩ thể nhận các liên lạc vơ tuyến (các máy truyền tin, radio, E-mail, cellular phone, fax, telegram...) và hữu tuyến qua các thiết bị điện tử do hảng Texas Instrument thiết kế. Các nhân viên phi cơ cĩ thể giải các bản mật mã, cĩ thể biết được nhiều thứ ngơn ngữ, ngay cả các thổ ngữ ở khu vực cầndo thám mà đối phương thường dùng các loại thổ ngữ nầy để đề phịng bị nghe lén. Chúng ta biết Mỹ đã dùng người Iroquois (da đỏ) làm tín hiệu thính viên vì ngơn ngữ nầy khơng cĩ chữ viết, người Tàu dùng tiếng Mơng Cổ và ngơn ngữ nầy khĩ đọc, khĩ nĩi trong mục đích nĩi trên. Trên EP 3 ARIES cịn cĩ một máy xử lý giọng nĩi tự động, cĩ thể xác định ngơn ngữ của người đang nĩi, phân biệt được giọng nĩi, xác định được vị trí người đang nĩi (trên máy bay, tàu hay ở mặt đất), đây là phương tiện tân tiến.
Đa số các máy bay EP 3 ARIES do hải quân Hoa Kỳ điều hành, đĩng tại các căn cứ: Whidbey Island (tiểu bang Washington, gần Seattles), căn cứ Khơng quân Rota ở Spain (Tây Ban Nha) và căn cứ Khơng quân ở Okinawa, Nhật để theo dõi 3 khu vực. Hải quân Mỹ hiện cĩ 12 chiếc EP 3 ARIES đang hoạt động, 6 chiếc tại căn cứ Whidbey, số cịn lại đĩng ở căn cứ Rota và Okinawa.
EP 3 ARIES nhận và chuyển các thơng tin cho quân sự Mỹ để giám định, phân loại để chuyển đến các nơi cĩ liên hệ hầu cĩ biện pháp thích nghi kịp thời. EP 3 ARIES được sử dụng theo dõi các hoạt động của hải quân (với khơng quân là nhiệm vụ của máy bay do thám RC-135). Tuy nhiên, chúng cũng cĩ thể nhận và chuyển các tín hiệu những tin tức trong vùng trách nhiệm.
Khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt, mục tiêu theo dõi đã thay đổi. Hiện nay, các chuyến bay do thám thường tập trung ở 3 khu vực: eo biển Đài Loan (giữa Đài Loan và Đại Lục) và hai quần đảo Trường Sa, Hồng Sa, nơi cĩ trữ lượng dầu lớn, đang cĩ tranh chấp. Trong khu vực đầu, Mỹ theo dõi chặt chẻ mọi hoạt động quân sự của Trung Cộng ngõ hầu Ngũ Giác Đài cĩ các quyết định kịp thời. Ken Allard, nhà phân tích quân sự của hệ thống truyền thơng NBC nhận xét:
"Loại máy bay này rất quan trọng trong việc theo dõi hoạt động quân sự của Trung Quốc. Chúng tạo lợi thế chiến lược cho những người ra quyết định ở Mỹ".
Chiếc EP-3 ARIES II đụng độ với khơng quân Trung Cộng và phải hạ cánh xuống đảo Hải Nam khi đang thi hành cơng tác do thám Trung Cộng. Trong chuyến bay nầy, Hoa Kỳ muốn bắt tín hiệu khai hoả từ chiếc khu trục hạm (destroyer) của hải quân Trung Cộng đang diệu võ dương oai với Đài Loan. Trên chiếc khu trục hạm này cĩ trang bị hoả tiển do Nga chế tạo. Nếu lấy được mật mã khai hoả, sẽ cĩ lợi cho Mỹ vơ ngần. Biết được mật mã của hoả tiển, nếu cĩ chiến tranh, lúc Trung Cộng khai hoả hoả tiển, Mỹ cĩ thể điều khiển hoả tiễn bay đến mục tiêu nào họ muốn, cĩ thể đĩ là một cơ-sở quân sự, một chiến hạm, phi trường...nào đĩ của Trung Cộng. Đây là một trong các nhiệm vụ quan trọng của cơng tác do thám mà người Mỹ đặt nặng.
VẬN TẢI CƠ VŨ TRANG AC-130:
Các chuyên gia quân sự gọi phi cơ AC-130 gọi là "Pháo đài bay Rồng phun lửa" vì nĩ được trang bị hoả tiển nhẹ, các súng liên thanh hạng nặng, súng đại bác với số lượng đạn mang theo đáng kể. Đây là loại máy bay áp dụng chiến lược "tiêu huỷ mục tiêu".
Tuy bay thấp và chậm nhưng mục tiêu đã được các loại máy bay phĩng pháo "dọn bãi" trước, nĩ chỉ làm nhiệm vụ "kết thúc chiến trường". Ngồi ra, AC-130 cĩ thể hỗ trợ cho các đơn vị diện địa, các cuộc hành quân, tiếp tế thả dù quân trang quân dụng theo nhu cầu của mục tiêu, chiến trường mà phi cơ trực thăng khơng làm được.
PHI CƠ ĐA NĂNG F-35 JSF:
Bộ quốc phịng Mỹ đã chấp thuận dự án thay thế các loại phi cơ đã cũ bằng loại phi cơ F 35 JSF (Joint Strike Fighter) cho khơng quân, hải quân và thuỷ quân lục chiến. Đồng thời, phi cơ nầy cũng được Khơng quân và hải quân Hồng Gia Anh quốc thay thế phi cơ của họ. Đây là loại phản lực oanh tạc chiến đấu cơ với khả năng cao trong nhiệm vụ tiêu diệt các mục tiêu cũng như khơng chiến, nhiều ưu điểm hơn hẳn các loại phi cơ cũ.
Các chuyên gia quân sự cho rằng F-35 là phi cơ "độc nhất vơ nhị" vì là loại phản lực cơ nhưng cĩ thể lên xuống thẳng đứng như phi cơ trực thăng. Phi cơ do hảng Locheed Martin Aeronautics Co. tại cơ xưởng tại Fort Wort, Texas chế tạo dựa trên kỹ thuật "lift fan design". Kỹ thuật nầy cịn cĩ thể tăng cường sức đẩy cho hệ thống phản lực khi cần trong trường hợp đặc biệt.
F-35 là loại phản lực cơ siêu thanh chỉ một người lái, trọng lượng 24,000 lbs, cĩ thể mang theo 17.000lbs vũ khí, 16.000lbs xăng. Đây là chiếc máy bay trang bị nhiều kỹ thuật của nhiều hãng: Động cơ máy bay do hãng Pratt & Whitney chế tạo, hệ thống Radar điện tử tối tân AESA do hãng Vision System International chế tạo, hệ thống đo lường điện tử do Snader Litton Amecon chế tạo, hệ thống xác định mục tiêu do hãng Lockheed Martin chế tạo. Với hệ thống súng liên thanh được điều khiển bằng tia laser, khả năng tác chiến rất và chính xác.
Theo dự trù, 1.700 chiếc sẽ trang bị cho khơng quân Mỹ với giá 28 triệu Mỹ kim một chiếc. Hải quân Mỹ với 408 chiếc mỗi chiếc 35 triệu Mỹ kim vì khác hệ thống lên xuống, cần cĩ hệ thống bánh đáp với dây mĩc, lớn hơn để được nhiều vũ khí hơn. Thuỷ quân lục chiến Mỹ cần 480 chiếc với giá 38 triệu một chiếc vì hệ thống điều khiển đặc biệt hơn: cần cĩ máy phản lực dưới thân để phi cơ cĩ thể lên xuống thẳng đứng hay cĩ thể đứng một chỗ hoặc xoay trịn trên khơng như một chiếc trực thăng. Hoa Kỳ và Anh Quốc cĩ cĩ loại phi cơ AV-8 Harrier cĩ tính năng lên thẳng tương tự nhưng khác ở chỗ AV-8 Harrier khơng cĩ hệ thống phản lực. AV-8 Harrier do Anh Quốc chế tạo cho hải quân Hồng Gia Anh sau đĩ được hãng Boeing của Mỹ tân trang.
Ngồi Hoa Kỳ và Anh Quốc ra, các nước Canada, Ý, Hoa Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Đan Mạch cũng cĩ dự định đặt mua loại F-35 tân tiến nầy để trang bị cho quân lực của họ.
OANH TẠC CƠ B-1B:
Là loại oanh tạc cơ siêu thanh xa cánh thẳng, cĩ tên là B-1B "Lancer", trực thuộc khơng quân Hoa Kỳ. B-1B là máy bay duy nhất cĩ thể bay vịng quanh thế giới nếu được tiếp nhiên liệu trên khơng (do tiếp tế cơ KC-10). Mỗi chiếc B-1B trị giá khoảng 280 triệu dollars.
B-1B Lancer là kiểu máy bay đã gây nên nhiều tranh luận tại Mỹ. Dưới thời Richard Nixon, B-1B được chấp nhận chế tạo từ năm 1970 cho nhiệm vụ mang bom nguyên tử vì nĩ cĩ thể bay xa. Cơ xưởng sản xuất B-1 đặt tại Rockwell International ở Palmdale, Nam California.
Trước những tranh cãi quanh về tính năng, kỹ thuật cũng như phí tổn quá cao, năm 1977, Jimmy Carter cho ngừng chương trình sản xuất B-1. Tổng thống Ronald Reagan cho tái tục chương trình nầy sau bốn năm gián đoạn trước những căng thẳng của chiến tranh lạnh. B-1B "Lancer" là tên của kiểu máy bay đã cải tiến kỹ thuật. Chiếc máy bay thứ 100 được hồn thành vào năm 1988.
Chiến tranh lạnh kết thúc mà máy bay B-1 chưa được sử dụng, việc chở bom nguyên tử khơng cịn cần thiết và đến lúc dùng hoả tiển cĩ hiệu quả hơn. Tổng thống George W. Bush cho lệnh sửa chữa B-1B để mang bom thường, dự án với kinh phí là 3 tỷ dollars. Gần đây bộ quốc phịng Mỹ đưa kế hoạch giảm bớt 1/3 số máy bay này, chỉ sử dụng khoảng 60 chiếc. B-1 đĩng tại các căn cứ lớn ở quốc nội (Ellsworth, South Dakota) hay quốc ngoại (Diego Garcia, một quần đảo thuộc Anh, nơi đặt căn cứ cho phi cơ ném bom hạng nặng B-1B và B-52H).
Mỗi chiếc B-1B cĩ thể mang 24 bom loại JDAM (bom điều khiển bằng hướng dẫn qua vệ tinh) trong khi máy nhỏ chỉ mang được 1 hay 2 trái hoặc chiếc B-2 chỉ mang được 16 trái. Phi cơ B-1B được dùng trong chiến dịch oanh tạc Afghannistan.
JDAM: dam là tên một loại bom mới của quân đội Mỹ. Trong cuộc chiến vùng Vịnh vào năm 1991, các phi cơ oanh kích của Hoa Kỳ phải quay trở lại căn cứ mà khơng thể thả bom xuống trận địa do mây và khĩi từ các giếng dầu của hệ thống hướng dẫn bằng tia laser khơng thể nhìn thấy mục tiêu. Từ trở ngại nầy, ý tưởng chế tạo ra loại bom thơng minh của tướng McPeak được các chuyên gia quân sự Mỹ nghiên cứu và vào năm 1998, Boeing sản xuất ra bom Jdam. Jdam nặng 2,000lbs, được điều khiển qua vệ tinh khắc phục được những nhược điểm của các loại bom cũ.
Phi cơng Mỹ thích sử dụng loại bom Jdam hơn dùng bom định vị bằng tia laser. Ném bom định vị bằng laser, phi cơng phải hạ thấp độ cao để xác định mục tiêu (tối thiểu là 5.000m cách mặt đất). Sau đĩ, chiếu luồng laser để hướng dẫn trái bom đến mục tiêu. Bay thấp rất nguy hiểm hơn, hơn nữa tia laser cĩ thể bị lệch đi do ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác. Do vậy, trái bom cĩ thể khơng trúng đích như mong muốn.
Với bom Jdam, phi cơng chỉ cần nhấn nút và ung dung bay trở về, chắc chắn rằng nhiệm vụ đã hồn thành bởi vì trái bom sẽ phối hợp với hệ thống vệ tinh định vị hồn cầu (GPS) tìm diệt mục tiêu. Bộ não của bom là một thiết bị nhận tín hiệu GPS và thi hành theo lệnh. Ngồi ra, cịn cĩ thiết bị điều chỉnh hướng bay với các cánh trên đuơi quả bom, theo các dữ liệu về toạ độ mục tiêu được vệ tinh cung cấp. Bom định vị bằng laser dễ đi lạc nếu cĩ khĩi, sương mù, mưa giĩ hay bão, nhưng với tín hiệu GPS, bom Jdam hoạt động rất hữu hiệu ngay cả trong thời tiết xấu nên cịn được gọi là "bom thơng minh". Ngồi ra, bom Jdam được gắn đuơi định hướng nên biết đường bay đến mục đích do máy bay hay hệ thống định vị tồn cầu cung cấp nên chính xác, các chuyên gia muốn biết thiết kế độ chính xác chỉ trong vịng 3 thước của các mục tiêu nên được gọi là "bom chính xác" ngoại trừ trường hợp mục tiêu định sẳn lúc ban đầu bị sai. Một tướng Khơng Quân Mỹ cho biết: "Trong cuộc chiến ở A-Phú-Hản" loại bom Jdam đã được cải tiến nên cĩ thể giội bom xuống khoảng 3 thước của mục tiêu. Thậm chí nếu kẻ thù cố làm cho hệ thống định vị tri1 tồn cầu của vệ tinh giảm tác dụng đi, Jdam vẫn hoạt động chính xác".
Những chiếc đuơi của bom được hãng chế tạo máy bay Boeing sản xuất trong một cơ xưởng ở thành phố St. Louis, Missouri. Jdam khơng địi hỏi phi cơng phải xác định mục tiêu, máy bay được phép thả bom từ độ cao an tồn tuyệt đối (11.000m) và thời gian phĩng ngắn hơn. Trung tá James Dunn thuộc Khơng Quân Mỹ nhận định:
-Nếu như phi cơng phĩng một hoả tiển tự điều khiển đường bay (cruise missile) anh ta cần phải mất đến 1 tiếng đồng hồ. Trong khi phĩng một quả bom Jdam chỉ mất 10 phút".
Trong chiến tranh với Iraq năm 1991, Hoa Kỳ sử dụng khoảng 7% loại bom thơng minh, trong cuộc xung đột tại Kosovo, con số gia tăng đến 30%, trong cuộc chiến ở Afghanistan, Mỹ đã sử dụng 60% loại bom này. Trong các cuộc chiến tương lai, cĩ lẽ loại bom nầy sẽ rất hữu dụng.
Nhược điểm của Jdam là do dựa vào tín hiệu từ vệ tinh, nếu đối phương dựng đài phát tín hiệu làm nhiễu các tín hiệu GPS, bom Jdam cĩ thể bị đánh lừa. Muốn thực hiện điều này, địi hỏi đối phương phải cĩ nhiều tiền, phải cĩ một đội ngu nghiên cứu giỏi, cĩ trình độ kỹ thuật, cơng nghệ cao cộng với các điều kiện nghiên cứu khác mà khơng phải nước nào cũng cĩ thể làm được những điều nầy.
Trong tương lai nếu xảy ra chiến tranh, chắc chắn Mỹ sẽ khơng sử dụng các loại oanh tạc cơ F-117 chỉ thả mỗi lần vài quả bom điều khiển bởi tia laser mà họ sẽ dùng oanh tạc cơ B-2 cĩ thể mang 16 quả Jdam hay oanh tạc cơ B-1B mang được 24 quả bom Jdam trong một phi vụ. Tướng Tommy Frank, Tham Mưu Trưởng quân đội Mỹ cho biết: "Trong cuộc chiến vùng Vịnh , chúng tơi sử dụng 10 oanh tạc cơ để oanh tạc một mục tiêu. Nhưng hiện nay, chúng tơi cĩ thể sử dụng một oanh tạc cơ để khơng tập hai mục tiêu".
Với lượng dự trữ 20 ngàn quả Jdam, các chiến lược gia Ngũ Giác Đài cho rằng khơng đủ cung ứng cho chiến trường nên họ hối thúc hãng Boeing gia tăng sản xuất để cung ứng cho quân đội Mỹ.
|
|
|
Post by votieugiap on Jul 29, 2009 18:46:20 GMT -5
BOM ÁP NHIỆT BLU-118/B.
Với các mục tiêu là hanh động, núi non hiểm trở, hầm hố (như trong cuộc chiến tại Afghanistan) để tránh tổn thất về nhân mạng, Hoa Kỳ dùng loại bom áp nhiệt BLU-118B. Đây là một phát minh của một di dân Mỹ gốc Việt: Bà Dương Nguyệt Aùnh.
Sau khi được thả xuống mục tiêu, bom chui lọt qua cửa hầm và nổ tung. Sau khi nổ, nĩ phĩng ra hàng ngàn mảnh thép, phá tung những bờ thành, sàn hầm, biến tất cả thành tro bụi chỉ trong nháy mắt, hang động bị huỷ diệt một cách kinh khiếp, tạo ra nhiệt lượng cao và sức ép luồn vào các địa đạo để tiêu diệt sự sĩ6ng bên trong hang. Điều đặc biệt là sau khi nổ một thời gian lâu mà nhiệt độ cao và sức ép vẫn duy trì.
Thơng thường, sức cơng phá của các loại bom khác bị núi non, hầm hố, hang động cản trở, nhưng khi bom BLU-118/B nổ, sức ép và nhiệt đã len lỏi qua các khe của hang, xuyên ra thật xa mà vẫn đủ sức để tiêu diệt sự sống, xa đến cả 1,100 feet.
BOM E:
Đây là một loại bom ứng dụng nguyên tắc của tia X, khơng gây tác hại cho nhân mạng mà chỉ phá huỹ hay làm tê liệt các hệ thống điện, các đường khí đốt (gas), các loại vũ khí sinh hố trong các kho chứa, tấn cơng các cơ sở sản xuất vũ khí, phá sĩng hệ thống vơ tuyến...Sau khi nổ, bom tạo nên sĩng cao tần (giống như sĩng xung động của bom A, bom H), sĩng nầy cĩ thể xuyên đến các kho hầm theo các lỗ thơng hơi hay các đường dây cáp để vơ hiệu hố các loại vũ khí tồng trữ hay đang sản xuất. Khi đối phương mang các loại vũ khí bị bom gây nên sẽ khơng cịn hiệu quả như lúc ban đầu. Bom được trang bị trên phi cơ oanh tạc, máy bay khơng người lái hay được phĩng đi bằng hoả tiễn.
Đây là sản phẩm của Anh Quốc, sản xuất trong một cơ sở Tây Nam nước Anh được Hoa Kỳ đặt mua để trang bị cho quân đội.
BOM MININUKE B 61-11:
Đây là một loại bom nhỏ (đường kính 34cm, dài 3,59m, nặng 315kg), B61-11 dùng để cơng phá các hầm hố, các cơng sự phịng thủ, các căn cứ, các kho tàng, nhà máy nằm sâu trong lịng đất...cĩ sức cơng phá tương đương 400 tấn thuốc nổ TNT (trinitrotoluent). Với biệt danh Mininuke (bom hạt nhân nhỏ), sức cơng phá nhỏ (tương đương 400 tấn TNT nếu so với 13,000 tấn TNT của quả bom thả xuống Hiroshima) nhưng nhờ cĩ thể xuyên sâu đến 6m dưới lịng đất mới nổ và khi nổ, sức cơng phá cĩ xu hướng theo chiều sâu nên vơ cùng lợi hại.
Ý nghĩa sản xuất một loại bom với những tính năng nĩi trên xảy ra trong biến cố Libya. Mỹ nghi Libya cĩ các cơ sở sản xuất vũ khí nằm sâu dưới lịng đất ở Tarhunah cần phải huỹ diệt. Là một loại bom bí mật, mới sản xuất, B61-11 chứa chất plutonium, dự án sản xuất bắt đầu từ năm 1989.
Trong cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991, để chuẩn bị cho chiến tranh, việc phá huỷ các cơng trình ngầm dưới đất của Iraq là một nhu cầu của Mỹ. Các loại bom của quân đội Mỹ lúc đĩ chưa đủ sức phá những hầm hố, kho tàng, sở chỉ huy nằm dưới đất cảu Iraq. Vì vậy, họ cĩ chương trình phát triển loại bom cĩ thể "nổ trong lịng đất", và vào tháng 2/1991, bom GBU 28 ra đời. GBU 28 chỉ là bom cải tiến từ các loại bom cũ, là một thứ vũ khí sử dụng chất nổ truyền thống tritonal, dài 5,72 m, đường kính 37cm, nặng 2 tấn. Hai bom GBU 28 đã được thả từ máy bay F-111 xuống Iraq.
B61-11 được phịng thí nghiệm khoa học Los Alamos nghiên cứu. Các thơng tin v6è kỹ thuật cho biết sức cơng phá:bom GBU 28 với 306 kg chất nổ tritonal, tương đương khoảng 385kg TNT, sức nổ của B61-11 tương đương khoảng 300 tấn TNT.
Theo nhu cầu của chiến trường, viện chính sách cơng chúng Quốc Gia Mỹ tuyên bố về sự cần thiết phải sử dụng vũ khí hạt nhân nhẹ: "Trong tương lai, nước Mỹ cĩ thể cần sử dụng loại vũ khí hạt nhân đơn giản, cĩ sức cơng phá yếu, được điều khiển , để chống lại các mục tiêu cụ thể và kiên cố như các nhà máy sản xuất vũ khí hố học dưới lịng đất".
SÚNG LASER CHỐNG HOẢ TIỄN GẮN TRÊN PHI CƠ:
Trong kế hoạch "Chiến tranh các vì sao" với nhiệm vụ phịng thủ lãnh thổ khi bị tấn cơng, Hoa Kỳ áp dụng nhiều thành tựu khoa học. Mới đây, Mỹ đã thành cơng việc dùng hoả tiển bắn hạ một hoả tiển khác đang bay. Ngồi ra, ngành cơng nghiệp và quốc phịng đã thí nghiệm một kiểu máy bay phản lực Jumbo cĩ trang bị súng laser để bắn hạ hoả tiển. Với thành tựu nầy sẽ là yếu tố then chốt gíup hệ thống phịng thủ dễ dàng bắn hạ hoả tiển đối phương nhắm vào đất Hoa Kỳ.
Với kế hoạch nầy, các máy bay tuần tiểu tại các vùng quan trọng với cao độ trên 12 ngàn thước (quân đội Mỹ dùng Boeing 747-400). Các hệ thống quan sát sử dụng tia laser sẽ theo dõi tất cả mọi hoạt động trong phạm vi giới hạn, sẽ thơng báo mọi diễn tiến của hoạt động khả nghi (hoả tiển địch) về máy bay. Khi đã phát giác, nĩ sẽ theo sát hoả tiễn trong lúc các hệ thống trên máy bay sẽ tính tốn phương hướng, vận tốc, và các dữ liệu khác của hoả tiễn để ước tính các chi tiết cần thiết đối phĩ. Sau một thời gian rất ngắn ước tính, một chùm tia laser sẽ được phĩng từ phi cơ sang hoả tiễn đang bay trong khoảng từ 3 đến 5 giây đủ sức xuyên thủng lớp vỏ hoả tiển để kích nổ để phá huỷ nĩ trên khơng trung trước khi đến mục tiêu đối phương đã nhắm đến.
LASER DỊ MÌN:
Ngồi áp dụng laser cho chiến lược phịng thủ nĩi trên, các nhà khoa học Mỹ tại căn cứ quân sự Waynesville, Missouri vừa sáng chế ra hệ thống dị mìn mới. Hệ thống nầy sử dụng kỹ thuật laser để phát giác và phá huỷ mìn bẫy, bom đạn...nằm rãi rác trên chiến trường. Những thứ nầy là mối đe doạ cho mọi người vì cĩ thể nổ bất cứ lúc nào.
Hệ thống dị mìn Zeus của Mỹ gồm mộ máy phĩng laser cực mạnh đặt trên một chiếc xe bọc thép (để giữ an tồn cho quân nhân sử dụng). Người lính ngồi trong xe dùng một cần điều khiển để phĩng chùm laser ra vùng cần dị mìm bẫy. Một chùm laser cĩ cơng suất từ 500 đến 2.000 watt cĩ thể xuyên thủng vỏ thép của mìn bẫy, bom đạn làm cho chúng bùng nổ.
Theo các chuyên gia Mỹ, Zeus cĩ thể phát giác tất cả bom đạn, mìn bẫy (vỏ, nhựa, kim loại) ở khoảng cách từ 25 đến 250 mét. Yếu điểm của Zeus là chùm laser khơng thể xuyên sâu xuống đất nên Zeus thích hợp cho việc dị mìn ở chiến trường chứ chưa thể dị mìn chơn sâu dưới đất được.
VŨ KHÍ THỜI TIẾT HAARP:
Chương trình mang tên HAARP cĩ khả năng chế ngự khí hậu: cĩ thể tạo ra những thay đổi thời tiết tại địa phương được chọn làm mục tiêu, cĩ thể gây ra lũ lụt, bạ và động đất.
Chương trình nầy ra đời tại Gokoma, tiểu bang Alaska, với sự bảo trợ của Khơng quân và Hải quân Mỹ, HAARP là một trong những loại vũ khí tinh vi mới của chiến lược phịng thủ của Mỹ. HAARP gồm một hệ thống antena cực mạnh cĩ thể "tạo ra những thay đổi cĩ thể kiểm sốt được trong tần điện ly". Hệ thống nầy tạo một sự thay đổi thời tiết theo ý muốn. Là một tiến bộ của nhân loại cĩ thể làm thay đổi thiên nhiên. Theo tờ Times của Anh cho biết: "các phương pháp được sử dụng bao gồm kích hoạt những cơn giơng bão, khiến nước các dịng sơng bốc hơi để từ đĩ xuất hiện mưa, gây ngập lụt ở các mục tiêu trên trái d0ất mà Mỹ muốn".
Được biết sĩng điện từ tần số thấp, khi dội về trái đất ở cường độ cao cũng cĩ thể tác động đến não bộ con người, đến điện từ trường của trái đất, làm xáo trộn các hệ thống sinh thái, ảnh hưởng đến thời tiết, khí hậu, nơng nghiệp. HAARP là một thứ "vũ khí" hết sức nguy hiểm, cĩ thể thay đổi bộ mặt trái đất.
Chương trình nầy bị các tổ chức bảo vệ mơi trường ở Mỹ phản đối. Tiến sĩ Nicholas Begich, một trong những người đi đầu trong chiến dịch chống HAARP gọi nĩ như một cơng nghệ phát sĩng radio siêu mạnh, cĩ thể tập trung các tia sĩng và làm thủng tầng điện ly" (ozone) (tầng nằm trên cao trong bầu khí quyển, cĩ nhiệm vụ bảo vệ trái đất)". Tiến sĩ Rosalie Bertell, một khoa học gia cho rằng "các chuyên gia quân đội Mỹ đang làm việc trong những hệ thống thời tiết được xem là vũ khí tiềm năng".
PACKBOT, ROBOT CHIẾN TRƯỜNG:
Trên mặt trận Afghanistan, quân đội Mỹ đã đưa robot tên Packbot vào chiến trường, đảm nhiệm những sứ mệnh nguy hiểm thay con người. Packbot được giao cho đại uý Robert Merritt, người chỉ huy đơn vị lục địa quân tại căn cứ các bức ảnh, tin tức. Ngồi ra, robot cịn cĩ nhiệm vụ kiểm sốt các bãi chiến trường sau trận chiến, thám sát các tồ nhà, hang động. Mỗi chiếc xe robot Packbot trị giá 45.000 mỹ kim.
Các nhà khoa học Mỹ dự trù sẽ cải cách robot Packbot nầy bằng cách lắp thêm camera, súng ống và lựu đạn cho nĩ để cĩ thể sự dụng vào việc khác: nhiệm vụ của một binh sĩ hoặc như một chuyên viên để thám sát địa thế, theo dõi, báo cáo chất độc tại chiến trường.
ROBOT TÌM ĐỊCH QUÂN:
Cũng trên mặt trận Afghanistan, lần đầu tiên trong quân sự, quân lực Mỹ đưa robot vào chiến trường. Ngày 29/ 7/ 2002, sư đồn 82 Khơng Kỵ Mỹ căn cứ tại Fort Bragg, đã sử dụng robot Hermes để len lỏi vào các hang động ở Afghanistan để lục lọi tìm người, khí tài của quân khủng bố Al Qaeda. Robot Hermes dài 3 feet, nặng 43lbs, di chuyển nhờ hai bánh kéo bằng dây xích như bánh xe tăng màu xanh lục.
Trên thân robot Hermes được đặt hai máy camera. Những hình ảnh quay được sẽ được truyền bằng sĩng điện từ cho người điều khiển ở ngồi hang. Bánh xích của robot cĩ thể vượt qua mọi chướng ngại, cĩ thể len lỏi qua những hĩc kẹt rất nhỏ của quân nhân hay quân khuyển khơng qua được, tránh được hơi độc, chất độc cĩ thể gây thương vong cho binh sĩ. Robot Hemes cịn dùng để tiền sát hay rà mìn bẫy, giúp cho binh sĩ tránh khỏi những cuộc phục kích hay mìn bẫy sát thương. Với mìn bẫy gài trên cao, robot cũng phát giác được nhờ máy camera.
Mỗi robot Hermes cĩ thể mang theo 12 camera, nhiều súng tự động hay phĩng lựu, được điều khiển từ xa. Robot Hermes cĩ giá 40.000 mỹ kim mỗi chiếc.
SÚNG LASER, BOM VI-BA:
Đây là loại vũ khí chưa được xử dụng, là súng hay bom khi nổ khơng cĩ miểng, đả thương con người bằng tia laser và các sĩng vi-ba, khơng làm chết người mà chỉ gây thương tật suốt đời. Tia laser sẽ làm mù mắt, sĩng vi-ba sẽ làm phỏng da trầm trọng, nước trong cơ thể con người cĩ thể bị nung sơi, địch quân sẽ cảm thấy nĩng nảy, khĩ chịu tột cùng cho dù núp, trốn bất cứ nơi đâu. Đây là loại vũ khí nguy hiểm vì nĩ khơng làm chết ngay địch quân mà gây thương tật vĩnh viễn, tạo một gánh nặng tài chánh (phải nuơi nấng thương binh suốt đời) và tâm lý (sợ sệt) cho quốc gia địch. Trước đây loại mìn cĩc cũng khơng làm chết người (khi đạp phải, nĩ nhảy lên ngang gối mới nổ làm cho địch quân gãy chân, phải cưa chân, thành phế nhân) nhưng để lại cho xã hội gánh nặng từ các thương binh nầy.
Bom súng laser này bị các tổ chức nhân quyền khắp nơi phản đối kịch liệt nên các chuyên gia quân sự Anh-Mỹ e ngại chưa mang ra sử dụng. Trước đĩ, các nhà bảo vệ nhân quyền đã nhờ đến pháp luật quốc tế để cĩ biện pháp chế tài loại vũ khí nầy. Tuy vậy, nhờ kẻ hở của luật pháp: "trong một quyết định quốc tế vào ngày 30-10-2000 cho phép ứng dụng tia sáng laser để chế tạo loại vũ khí "khơng giết người" (non-lethal) nên các chuyên gia Anh-Mỹ lợi dụng kẻ hở của luật trên để chế tạo loại vũ khí đặc biệt nầy.
QUÂN PHỤC AN TỒN, QUÂN PHỤC CHỐNG ĐỘC:
Trong cuộc chiến Afghanistan, binh sĩ mỹ được trang bị loại quân phục đặc biệt để thích nghi với khí hậu khắc nghiệt tại đĩ, khác hẳn với quân phục cũ. Ngồi màu sắc phù hợp với màu đất, bộ quân phục nầy giúp quân nhân chịu được sức nĩng nung người ban ngày nhưng đêm vừa xuống cái lạnh buốt da kéo đến. Các phát minh mới cũng được ứng dụng, binh sĩ được trang bị máy liên lạc cá nhân với ống liên hợp gắn vào mũ sắt, ống nhắm hồng ngoại tuyến, mặt nạ phịng hơi độc... Trong cuộc chiến chống khủng bố hiện tại và tương lai, Hoa Kỳ e ngại binh sĩ của mình phải đối đầu với trận chiến mà địch quân sẽ dùng vũ khí hố học, sinh học. Để bảo vệ binh sĩ trong chiến trận sinh hố-học, các chuyên gia Mỹ đã nghiên cứu và chế tạo quân phục chống độc. Ứng dụng cơng nghệ mang tên Nano, quân phục được dệt từ các sợi Natrik của Quân lực Mỹ tại Massachussetts cho biết: "Với việc ứng dụng cơng nghệ Nano, người ta đã thay đổi tính chất của các sợi nầy, khiến chúng tăng độ chịu nhiệt, độc cứng và độ đàn hồi".
Vải dệt quân phục nầy là loại sợi đặc biệt, cơng nghệ Nano thay đổi tính chất của sợi để chúng cĩ thể chịu đựng được nhiệt độ (nĩng, lạnh), độ cứng, độ đàn hồi vì thế quân phục cĩ thể chống lạnh, ngăn nĩng.
PHI CƠ SIÊU THANH HYPER-X CỦA HOA KỲ:
Với các kỹ thuật tân lỳ, các chuyên viên hàng khơng của Nasa nghiên cứu và sắp sản xuất các loại siêu thanh mang tên Hyper-X, bay nhanh gấp nhiều lần vận tốc âm thanh. Thế hệ siêu thanh cơ tương lai mang tên X-43 gồm cĩ:
X-43A: Động cơ nổ chạy bằng hydro lỏng, lấy ơxy từ khơng khí. Tốc độ của X-43A lên đến Mach 7, cĩ thể lên đến Mach 10
X-43C: Động cơ nổ theo nguyên lý của động cơ máy bay siêu thanh thường của Khơng lực Hoa Kỳ. Tốc độ tối đa của X-43C sẽ từ Mach 5 đến Mach &.
Đây là những phát minh tân kỳ của lồi người. Máy bay cĩ thể với cao độ 33 km, tốc độ là trên 6.000km/giờ trở lên (hơn Mach gấp 5 lần vận tốc âm thanh), động cơ nổ là sự kết hợp nguyên lý của động cơ máy bay phản lực và hoả tiễn, lấy oxy trực tiếp từ khơng khí nên hiệu suất gấp nhiều lần động cơ phản lực thường.
|
|