|
Post by Admin on Apr 26, 2009 22:57:20 GMT -5
30 năm cuộc chiến Việt - Trung Tiến sĩ Ang Cheng Guan Bài viết riêng cho BBCVietnamese.com từ Singapore Cuộc chiến Việt - Trung (tháng Hai - Ba 1979) đánh dấu điểm tệ hại nhất trong lịch sử quan hệ hiện đại hai nước. Cuộc chiến bắt đầu ngày 17.02.1979 khi chừng 100.000 quân Giải phóng Nhân dân, có xe tăng và pháo binh hỗ trợ, vượt qua đường biên giới 1300 cây số. 'Dạy bài học' Giao tranh ngắn ngủi nhưng đẫm máu kéo tới ngày 5.3.1979 khi Bắc Kinh loan báo rút quân. Phải tới ngày 16.3 thì việc triệt thoái mới hoàn tất. Nhưng cho tới mãi cuối thập niên 1980, Trung Quốc tiếp tục gây áp lực lên Việt Nam tại biên giới, và dọa dạy chọ người Việt bài học thứ hai. Tháng Bảy 1978, khi Trung Quốc lần đầu nói rõ ý định dạy "Việt Nam một bài học", đó là để phản ứng lại sự đối xử của chính phủ Việt Nam với người Hoa. Bắc Kinh cáo buộc Hà Nội ngược đãi Hoa kiều, xóa bỏ thỏa thuận năm 1955 theo đó không bắt Hoa kiều phải trở thành công dân Việt Nam. Đến ngày 11.7.1978, Trung Quốc đóng cửa biên giới Việt - Trung để kiểm soát dòng tị nạn vào Trung Quốc. Nhưng lý do thực sự của chiến tranh lại liên quan mối quan hệ tay ba thay đổi giữa Việt Nam, Trung Quốc và Liên Xô, và sự xâm lấn Campuchia là điểm sôi chót. Ngày 5.7.1979, trong vòng đàm phán giữa Bắc Kinh và Hà Nội, Trung Quốc bỏ qua vấn đề Hoa kiều và biên giới, mà đòi cuộc thương lượng "tiếp tục từ vấn đề then chốt - chống lại bá quyền". Trung Quốc nói việc Việt Nam xâm lấn Campuchia là một phần kế hoạch thành lập Liên bang Đông Dương, đi theo "mưu đồ bá chủ thế giới" của Liên Xô. Ngay từ tháng Chín 1975, Trung Quốc đã ép Lê Duẩn từ bỏ quan hệ gần gũi với Liên Xô bằng việc ký tuyên bố chung chống bá quyền - nhưng Lê Duẩn từ chối. Mỹ xa, đành chọn Liên Xô Chúng ta biết Bắc Kinh bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc chiến Việt - Trung ngay từ tháng Tám 1978. Ngày 3.11.1978, Hà Nội và Moscow ký hiệp ước hữu nghị Việt - Xô. Câu hỏi lớn cần đặt là vì sao Việt Nam chỉ ký nó vào lúc này cho dù đã có quan hệ gần với Moscow từ giữa thập niên 1960? Cuộc chiến 1979 là đỉnh điểm của những căng thẳng và khác biệt đã bị tạm đè nén vì cuộc chiến Việt Nam Câu trả lời đầy đủ đòi hỏi ta phải dựng lại những cố gắng bình thường hóa quan hệ với Mỹ của Việt Nam sau tháng Tư 1975, và đặt nó trong quan hệ Việt - Trung trong giai đoạn này. Còn câu trả lời ngắn gọn thì là đến tháng Mười 1978, rõ ràng sẽ không sớm có sự bình thường hóa quan hệ Mỹ - Việt. Washington đã chọn Trung Quốc thay vì Việt Nam. Việt Nam chỉ còn lá bài Liên Xô để chống lại cái mà họ xem là mối đe dọa phương Bắc. Ngay cả ASEAN, tổ chức hợp tác chặt với Bắc Kinh trong suốt thập niên 1980 để buộc Việt Nam rút khỏi Campuchia, cũng thường xuyên thừa nhận rằng phải xem xét quan ngại an ninh của Việt Nam, và rằng tổ chức này không muốn đưa Việt Nam từ tay Liên Xô ngả sang làm vệ tinh Trung Quốc. Đây là quan điểm được cả năm, và sau đó là sáu, nước ASEAN chia sẻ. Không nước nào vui vẻ với sự trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc. Như đại diện của Singapore tại Liên Hiệp Quốc, Tommy Koh nói tại Liên Hiệp Quốc: "Lẽ ra Trung Quốc không nên tự mình quyết định luật lệ..." Tiến trình bình thường hóa Biên giới hai nước hiện nay là địa điểm giao thương tấp nập Sự sup sụp của Liên Xô và Chiến tranh Lạnh chấm dứt năm 1989-90 thúc đẩy Việt Nam và Trung Quốc xét lại quan hệ. Campuchia là trở ngại chính. Ngay từ tháng Hai 1985, Lê Duẩn đã bày tỏ niềm tin rằng tình hữu nghị Việt - Trung sẽ phải được phục hồi. Sau đó, có tin nói Lê Đức Thọ thăm Paris, ngoài là để dự hội nghị đảng Cộng sản Pháp, nhưng cũng để bí mật gặp phía Trung Quốc. Cuộc họp Việt - Trung lần đầu sau chín năm, ở cấp thứ trưởng, diễn ra tháng Giêng 1989. Vòng hai được tổ chức từ 8-10 tháng Năm 1989. Nhưng sự khôi phục quan hệ còn phải chờ việc giải quyết mâu thuẫn Xô - Trung. Và điều này diễn ra trong tháng Năm 1989, khi Gorbachev lần đầu thăm Trung Quốc, gần ba năm sau diễn văn cột mốc của ông tại Vladivostok, trong đó ông bày tỏ ý định cải thiện quan hệ với Trung Quốc, niềm tin rằng tương lai Campuchia phải do người Campuchia định đoạt và cũng kêu gọi Việt - Trung bình thường hóa. Không lâu sau hội nghị Xô - Trung, một cuộc họp bí mật diễn ra tại Thành Đô tháng Chín 1990. Tháng Tám 1991, Lê Đức Anh, khi đó là Bộ trưởng Quốc phòng, có chuyến thăm không loan báo tới Trung Quốc. Lúc này, thế hệ lãnh đạo Việt Nam giữ vai trò chủ chốt thời Chiến tranh Lạnh, như Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, đã qua đời. Chúng ta vẫn không biết những gì diễn ra trong các cuộc họp bí mật và không quá bí mật đó, nhưng rõ ràng trong giai đoạn này, đặc biệt là nửa cuối thập niên 1980, Việt Nam không đủ mạnh để dằng co với Trung Quốc, vì bị cô lập, kinh tế suy sụp và dần mất sự bảo trợ của Liên Xô, nước tan rã vào tháng 12.1991. Tin Trung Quốc và Việt Nam sẽ bình thường quan hệ được chính thức loan báo tháng Chín 1991, khi Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm thăm Bắc Kinh. Gần mà xa Kể từ 1991, quan hệ Việt - Trung rõ ràng đã tăng tiến rất nhiều. Nhưng không có nghĩa là chỉ có màu hồng. Vấn đề tranh cãi nhất, chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, sẽ không thể giải quyết trong thời gian dài, nhưng tới nay, lãnh đạo hai nước đã bày tỏ ý chí chính trị không để vấn đề vượt quá kiểm soát. Có hai quan điểm về quan hệ Việt - Trung. Một trường phái nói rằng quan hệ này chủ yếu được định hình bằng những ký ức lịch sử. Theo đó, cuộc chiến năm 1979 có thể xem là tất yếu và câu hỏi không phải là liệu nó có xảy ra lần nữa hay không, mà là khi nào? Trường phái khác cho rằng mối quan hệ được định hình bởi những thế lực bên ngoài hoặc những tính toán địa chính trị. Theo quan điểm của tôi, cuộc chiến 1979 là đỉnh điểm của những căng thẳng và khác biệt đã bị tạm đè nén vì cuộc chiến Việt Nam, khi thế giới vẫn còn được hình dung như hai khối ý thức hệ. Khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt và xuất hiện mẫu hình mới trong quan hệ Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ, những khác biệt tạm gác trước đây giờ lại xuất hiện. Hình thù địa chính trị mới, cộng thêm thành kiến ngàn đời, đã làm bùng phát những nghi kỵ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cuộc chiến 1979 là ví dụ kinh điển khi những cái nhìn, hình thành từ kinh nghiệm quá khứ, có thể tạo ra hiểu nhầm và rồi làm những dự báo tự biến thành sự thật. Ngay cả khi một số điều vẫn giữ nguyên, thì hệ thống quốc tế đã thay đổi đáng kể từ năm 1979 và còn tiếp tục chuyển động. Quan hệ Việt - Trung, giống như mọi mối quan hệ, vẫn còn là "công trình dang dở". Về tác giả:Tiến sĩ Ang Cheng Guan hiện làm việc ở Viện Giáo dục Quốc gia Singapore sau thời gian làm người đứng đầu Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng của Đại học Công nghệ Nanyang (NTU). Ông là tác giả của nhiều sách về cuộc chiến Việt Nam, trong đó có Vietnamese Communist Relations with China and the Second Indo-China Conflict, 1956-1962 (1997), và Ending the Vietnam War: The Vietnamese Communists' Perspective (2004).
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 23:00:06 GMT -5
Từ đồng chí thành kẻ thù Tiến sĩ Nicholas Khoo Viết cho BBCVietnamese.com từ Đại học Liverpool Quân Trung Quốc đánh Lạng Sơn năm 1979 Vì sao cuộc chiến biên giới Việt - Trung 1979 xảy ra? Một số nhà phân tích nhấn mạnh vai trò của những tranh chấp trên bộ và trên biển giữa hai nước; xung đột Việt - Trung tại Campuchia; và vai trò của người Hoa trong quan hệ Việt - Trung. Những người khác thừa nhận tầm quan trọng của những yếu tố này, nhưng đặt chúng trong bối cảnh xung đột lớn hơn giữa Liên Xô và Trung Quốc (TQ). Phân tích của tôi dựa trên cái nhìn sau để xem lại những sự kiện lớn xảy ra trước cuộc chiến 1979. Quan hệ Việt - Trung sau 1975 Những người cộng sản TQ xem quan hệ với cộng sản Việt Nam (VN) chủ yếu qua lăng kính của mâu thuẫn Xô - Trung gia tăng sau khi quan hệ đồng minh Xô - Trung sụp đổ đầu thập niên 1960. Từ cái nhìn này, những diễn biến trong 10 năm trước 1975 thật làm họ lo ngại. Trong cuộc chiến Đông Dương lần Hai (1965-75), Liên Xô thay thế TQ, trở thành nhà cung cấp chính về quân sự và kinh tế. Sau 1975, TQ không rõ về ý định chiến lược của Hà Nội đối với Moscow. Sự triệt thoái của Mỹ khỏi Đông Nam Á sau Hiệp định Paris 1973 giúp gỡ bỏ một đối trọng của Liên Xô trong vùng, và làm phức tạp cố gắng phản kích Liên Xô của Trung Quốc. Tháng Tám 1975, trong chuyến đi quan trọng nhờ giúp đỡ kinh tế, Phó Thủ tướng và Chủ tịch Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Lê Thanh Nghị đã thăm Bắc Kinh trước khi sang Moscow. Họ không thể đạt thỏa thuận về gói viện trợ của TQ cho VN. Sang tháng Chín, VN lại thử tìm viện trợ. Mặc dù lần này có thỏa thuận về gói kinh tế, nhưng TQ không giúp về quân sự. Trong dấu hiệu chứng tỏ họ lo ngại về quan hệ Việt - Xô, một chủ đề quan trọng được thảo luận trong chuyến thăm là về mục tiêu của LX ở Biển Đông. Đáng chú ý, vào cuối chuyến thăm, hai bên không ra tuyên bố chung. Có vị thế kinh tế tương đối mạnh hơn TQ, Liên Xô hào phóng hơn với VN. Trong chuyến thăm Moscow tháng Mười của Tổng Bí thư Lê Duẩn, Liên Xô đồng ý viện trợ 3 tỉ đôla từ 1976 đến 80. TQ hẳn cũng để ý lời ngợi ca dạt dào dành cho Liên Xô trong tuyên bố chung cuối chuyến thăm của lãnh đạo VN. Đáng nói, tuyên bố chung ủng hộ chính sách hòa hoãn (detente) của Liên Xô, vốn bị TQ chống đối. Một bước ngoặt quan trọng trong quan hệ Việt - Xô là Đại hội Đảng Lao động Việt Nam lần Bốn tháng 12.1976. Những nhân vật gắn bó với TQ bị cô lập. Hoàng Văn Hoan, Ủy viên Bộ Chính trị từ 1956 và Đại sứ ở TQ từ 1950-57, mất hết chức vụ trong đảng. Ba cựu đại sứ tại TQ cũng mất chức Ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng. Ngày 7.6.1977, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ghé Bắc Kinh trước lúc sang Moscow. Khi gặp Phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm hôm 10.6, hai bên thẳng thắn bàn nhiều chủ đề, kể cả cáo buộc một số viên chức VN có tuyên bố chống Tàu, bất đồng về biên giới đất liền và biển, và sự ngược đãi người Hoa ở VN. TQ nói họ vẫn sẵn sang cho việc cải thiện quan hệ. Hơn ba tuần sau, Lê Thanh Nghị thăm Moscow để ký nhiều thỏa thuận kinh tế. Trên đường về, ông ghé Bắc Kinh nhưng không tìm thêm được gói kinh tế nào. Ngày 30.7.1977, hai tuần sau khi VN và Lào ký hiệp ước đồng minh, Ngoại trưởng TQ Hoàng Hoa có bài diễn văn nhắc nhiều tới sự nguy hiểm của "chủ nghĩa xét lại Sô Viết", và công khai cảnh cáo VN về hậu quả của một cuộc xâm lấn Campuchia. Vấn đề Campuchia Càng lúc Campuchia càng trở thành trường đấu cho xung đột Xô - Trung và Việt - Trung. TQ kiên quyết chính sách bảo đảm sự tồn tại của một Campuchia độc lập, cai trị bởi chính thể Khmer Đỏ thân cận với TQ. Những người cộng sản TQ xem quan hệ với cộng sản Việt Nam chủ yếu qua lăng kính của mâu thuẫn Xô – Trung LX thì bảo trợ cho VN, trong khi VN thì muốn Campuchia và Lào nằm gọn trong vòng ảnh hưởng của mình. Đã thắng Pháp, Mỹ và nay làm đồng minh của Liên Xô, VN sẽ không để ảnh hưởng với Lào và Campuchia bị TQ và Khmer Đỏ đe dọa. Cuối tháng Chín 1977, xung đột nổ ra tại biên giới VN - Campuchia, cùng với nó là sự xấu đi trong quan hệ Việt - Trung. Lê Duẩn thăm Bắc Kinh tháng 11.1977, muốn có thêm viện trợ kinh tế. Nhưng lấy cớ gặp khó khăn mấy năm qua, TQ cho hay họ không thể cấp viện trợ. VN cũng không làm bữa tiệc đãi chủ nhà như thông lệ. Ngày hôm sau, Tân Hoa xã đăng bài lên án COMECON, khối tương trợ kinh tế Sô Viết mà VN mới nộp đơn gia nhập. Sau chuyến thăm của Lê Duẩn, TQ bày tỏ sự gắn bó với Campuchia. Ngày 3.12.1977, Phó Thủ tướng TQ Trần Vĩnh Quý dẫn phái đoàn tới Campuchia. Không lâu sau đó, các đợt đánh phá của Khmer Đỏ vào VN khiến VN mở cuộc tấn công lớn. Đến ngày 18.1.1978, để chứng tỏ cam kết bảo vệ, quả phụ của Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, thăm Phnom Penh. TQ thấy có bàn tay của Liên Xô đằng sau hành động của VN. Trong lúc xảy ra các va chạm ở biên giới Việt - Cambodia, ngày 19.1.1978, Tân Hoa xã khẳng định Moscow hy vọng lợi dụng thù địch giữa VN và Campuchia để tăng ảnh hưởng ở Đông Á. Cuộc chiến Việt - Trung 1979 để lại nhiều hệ lụy Những diễn biến sau đó trong chính sách của VN với người Hoa làm TQ càng tin Hà Nội theo đuổi chính sách gắn kết với Liên Xô chống TQ. Tại hội nghị của Đảng tháng Hai 1978, Hà Nội quyết định đánh tư sản mại bản ở miền Nam. Ngày 23.3, Hà Nội loan báo quốc hữu hoa toàn bộ doanh nghiệp tư. Trong một chiến dịch dùng bạo lực, đến giữa tháng Tư, chính quyền đã thu gom hơn 30.000 doanh nghiệp tư ở miền Nam, mà đa số do người Hoa sở hữu. Nó đã tạo ra cuộc trốn chạy lớn cả ở biên giới Việt - Trung phía bắc và ra đến Biển Đông. Ngày 30.4, Bắc Kinh chính thức có tuyên bố, bày tỏ lo ngại cho người tị nạn và nói họ đang theo dõi tình hình. Cùng ngày hôm đó, đảo chính ở Afghanistan đã đưa lãnh đạo thân Xô, Nur Mohammed Taraki, lên nắm quyền. Nó được VN thừa nhận ngày 3.5. Nhìn từ Bắc Kinh, đây là thêm một bước bao vây của Liên Xô. Ngày 26.5, TQ loan báo gửi tàu đến VN để đón về những người Hoa đang trốn chạy. Ngày 7.6, Đặng Tiểu Bình nói thẳng "VN đang ngả về Liên Xô, kẻ thù của TQ." Ngày 16.6, TQ loan báo sẽ đóng cửa tòa lãnh sự ở TP. HCM và lãnh sự quán VN ở Quảng Châu, Côn Minh và Nam Ninh. Tháng Sáu năm đó, VN chính thức gia nhập COMECON. Ngày 3.7, Bắc Kinh dừng mọi viện trợ cho Hà Nội. Hội đàm song phương về người Hoa cũng bế tắc. VN quyết tâm chống lại cố gắng hạn chế ảnh hưởng của họ tại Campuchia. Trong một cuộc gặp tại Hà Nội giữa Lê Duẩn và đại sứ Nga, ông Duẩn bày tỏ ý định "giải quyết cho xong vấn đề [Campuchia] trước đầu năm 1979." Hiệp ước Việt - Xô được ký ngày 3.11.1978. Phản ứng của TQ là chuẩn bị tâm lý cho quốc tế cho một đáp trả mạnh mẽ chống lại trục Hà Nội - Moscow. TQ tìm cách thắt chặt quan hệ với Nhật và ASEAN. Đặng Tiểu Bình thăm Tokyo tháng Tám 1978, ký hiệp định hữu nghị và hòa bình. Đáng chú ý, nó có đoạn "chống sự độc bá" mà được xem là nhắm vào Liên Xô. Rồi đến tháng 11, sau khi Thứ trưởng Ngoại giao VN Phan Hiền (tháng Bảy) và Thủ tướng Phạm Văn Đồng (tháng Chín) thăm Đông Nam Á, Đặng Tiểu Bình cũng công du Malaysia, Singapore, Thái Lan. Sau khi đã mở màn công tác ngoại giao, Trung Quốc bày tỏ thái độ cứng rắn với VN. Bức điện Bắc Kinh gửi Hà Nội ngày 13.12 cảnh báo "sự kiên nhẫn và kiềm chế của TQ có giới hạn". Ngày 25.12.1978, quân VN bắt đầu đánh Campuchia. TQ phản ứng bằng cách lên kế hoạch cho cuộc chiến biên giới. Trong khi đi thăm Mỹ, Đặng Tiểu Bình thông báo cho chính quyền Carter rằng VN sẽ trả giá. Theo Cố vấn An ninh của Tổng thống Carter, Zbigniew Brzezinski, Đặng nói với chủ nhà rằng TQ "xem là điều cần thiết khi kiềm hãm tham vọng của VN và cho chúng bài học hạn chế thích hợp". Đúng như lời Đặng, ngay sau khi ông trở về nhà, TQ mở cuộc chiến chống VN trong tháng Hai và Ba 1979. Các cựu "đồng chí và anh em" (lời của Hồ Chí Minh) nay hóa ra là kẻ thù. Về tác giả:Ông Nicholas Khoo lấy bằng tiến sĩ ở Đại học Columbia, Mỹ với luận án về quan hệ giữa Trung Quốc với Liên Xô và Việt Nam thời Chiến tranh Lạnh. Quyển sách của ông, dựa trên luận án, dự kiến sẽ được NXB ĐH Columbia in. Ông hiện dạy tại ĐH Liverpool, Anh.
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 23:03:00 GMT -5
Việt Nam làm gì để tự vệ? Tiến sĩ Alexander Vuving Viết riêng cho BBCVietnamese.com từ Mỹ Ai sống cạnh một anh hàng xóm khổng lồ trong một thế giới vô chính phủ cũng phải canh cánh câu hỏi: Khi nào thì anh ta có thể đánh mình, và làm sao để mình không bị anh ta đánh? Đây cũng là một câu hỏi thường trực cho các chính sách quốc phòng và ngoại giao của Việt Nam, và anh hàng xóm khổng lồ của Việt Nam là Trung Quốc. Quy luật lịch sử Khi nào thì Trung Quốc có thể đánh Việt Nam? Tương lai không thể nói trước được, nhưng nếu lịch sử cho thấy có quy luật thì có nhiều khả năng quy luật đó sẽ tiếp tục ứng nghiệm trong tương lai. Lịch sử từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời có ba lần lớn và một số lần nhỏ hơn Trung Quốc ra quân đánh Việt Nam. Lần thứ nhất năm 1974, Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng hòa. Lần thứ hai năm 1979, Trung Quốc tấn công toàn tuyến biên giới trên bộ, vào sâu nhiều chục cây số, phá huỷ cơ sở vật chất, rồi rút về sau đúng một tháng. Lần thứ ba năm 1988, Trung Quốc chiếm 6 bãi đá trong vùng lân cận các đảo do Việt Nam kiểm soát ở quần đảo Trường Sa, riêng vụ đụng độ chiếm đá Gạc Ma (Johnson South Reef) bắn cháy ba tàu vận tải và giết khoảng 70 thuỷ thủ của Hải quân Việt Nam. Những lần đánh nhỏ hơn bao gồm các cuộc tấn công ở biên giới sau cuộc chiến 1979, liên tục cho đến năm 1988. Trong thời gian này, Trung Quốc đã chiếm được một số điểm cao chiến lược dọc biên giới như ở các huyện Vị Xuyên, Yên Minh (tỉnh Hà Giang) và Cao Lộc, Tràng Định (tỉnh Lạng Sơn). Các cuộc lấn chiếm này dường như đã được hợp pháp hóa tại Hiệp ước biên giới trên bộ năm 1999. Ngoài ra, trên quần đảo Trường Sa sau năm 1988, Trung Quốc đã chiếm thêm các bãi đá ở gần vị trí đóng quân của Việt Nam như Én Đất (Eldad Reef) và Đá Ba Đầu (Whitson Reef) vào các năm 1990, 1992, và sau đó chiếm đá Vành Khăn (Mischief Reef) ở gần Philippin năm 1995. Thế và Thời Tư duy chiến lược Trung Hoa đặc biệt coi trọng chữ Thế và chữ Thời. Các cuộc tấn công Việt Nam cho thấy có một quy luật khá nhất quán trong việc Trung Quốc chớp thời cơ vào lúc thế của họ đi lên và thế của đối phương đi xuống để tung quân ra đánh. Thời điểm tháng 1-1974, Trung Quốc đánh Hoàng Sa đang do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát là sau khi Mỹ cam kết chấm dứt can thiệp quân sự ở Việt Nam (Hiệp định Paris tháng 1-1973) và Quốc hội Mỹ cấm Chính phủ can thiệp trở lại (Tu chính án Case-Church tháng 6-1973), tạo ra một khoảng trống quyền lực ở khu vực và khiến cho Việt Nam Cộng hòa chới với không nơi nương tựa. Trong khi đó thế của Trung Quốc đang dâng lên với việc Bắc Kinh trở thành một thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (tháng 10-1971) và từ địa vị kẻ thù của cả hai siêu cường (Liên Xô và Mỹ) trở thành đối tác của Mỹ (với Thông cáo chung Thượng Hải tháng 2-1972). Trung Quốc tấn công Việt Nam năm 1979 là để trả đũa Việt Nam đưa quân vào Campuchia nhưng cũng là khi thế của Việt Nam đi xuống trong khi thế của Trung Quốc đi lên. Một tháng sau khi Việt Nam và Liên Xô ký liên minh quân sự (tháng 11-1978) thì Trung Quốc và Mỹ cũng tuyên bố lập quan hệ ngoại giao. Đồng thời, Việt Nam đang bị thế giới ngoài phe Liên Xô tẩy chay vì chiếm đóng Campuchia nên thế của Việt Nam đang xuống rất thấp. Các cuộc tấn công của Trung Quốc dọc biên giới trong các năm từ 1980 đến 1988 diễn ra trong bối cảnh Việt Nam tiếp tục bị bao vây cô lập với thế giới bên ngoài trong khi Liên Xô, chỗ dựa chủ yếu của Việt Nam, cũng bị cô lập trên trường quốc tế (do đưa quân vào Afghanistan) và, cộng với những khó khăn kinh tế, phải đi vào giai đoạn hòa hoãn và thỏa hiệp với Trung Quốc cũng như phương Tây. Hai nước Việt Trung đã quyết định xong về biên giới trên bộ Chiến dịch chiếm một phần Trường Sa năm 1988 của Trung Quốc khởi sự từ năm 1986, khi Liên Xô chuyển sang nhượng bộ chiến lược với phương Tây và Trung Quốc, đồng thời rục rịch rút lui ảnh hưởng khỏi Đông Nam Á cũng như toàn thế giới. Bài nói tại Vladivostok của lãnh tụ Liên Xô Gorbachov ngày 28-7-1986 tỏ ý Liên Xô sẵn sàng chấp nhận các điều kiện Trung Quốc đưa ra để bình thường hóa quan hệ Xô-Trung (Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan và giảm căng thẳng ở biên giới Xô-Trung, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia) đánh dấu sự thay đổi chiến lược trong chính sách của Liên Xô ở châu Á, đồng thời cũng là chỉ dấu cho thấy thế của Liên Xô đi xuống và thế của Trung Quốc đi lên. Trong các năm sau, việc Liên Xô rút lui trong khi Mỹ không trám vào đã thực sự tạo ra một khoảng trống quyền lực ở khu vực. Trong khi ấy Việt Nam vẫn bám vào Liên Xô mà không phá được thế bị cô lập. Một nghị quyết mật của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam điều chỉnh cơ bản chiến lược đối ngoại từ dựa vào Liên Xô sang "đa phương hóa" chỉ được thông qua vào tháng 5-1988, hai tháng sau vụ đụng độ ở quần đảo Trường Sa. Xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam giai đoạn 1980-1988 có thể coi là dư chấn của cuộc chiến năm 1979. Các cuộc chiếm đảo ở Trường Sa thời kỳ 1990-1992 cũng có thể coi là dư chấn của chiến dịch năm 1988. Thời kỳ 1980-1988, Việt Nam tiếp tục bị bao vây cô lập trong khi Liên Xô, chỗ dựa chủ yếu của Việt Nam, đi vào giai đoạn hòa hoãn và thỏa hiệp với Trung Quốc. Thời kỳ 1990-1992, tuy là những năm Trung Quốc bị phương Tây cô lập phần nào sau vụ Thiên An Môn, cũng lại là những năm Việt Nam mất hẳn chỗ dựa ở Liên Xô và các nước Đông Âu trong khi vẫn chưa được nhận vào ASEAN và chưa bình thường hóa quan hệ được với Mỹ. Việt Nam làm gì? Hiện nay Việt Nam có thể làm gì để Trung Quốc không đánh? Lý thuyết quan hệ quốc tế gợi ý năm phương pháp chính: 1) cùng chung một nhà, 2) ràng buộc bằng lợi ích, 3) ràng buộc bằng thể chế, 4) răn đe quân sự, 5) răn đe ngoại giao. Phương pháp "cùng chung một nhà" xem ra không ổn vì ít nhất ba lý do. Thứ nhất, Trung Quốc rất thiếu cảm tình với Việt Nam và kinh nghiệm quan hệ với Việt Nam khiến Trung Quốc tin rằng Việt Nam hay tráo trở. Các cuộc thăm dò dư luận ở Trung Quốc cho thấy Việt Nam cùng với Mỹ và Nhật Bản là ba nước bị người Trung Quốc ghét nhất trên thế giới. Thứ hai, Trung Quốc chỉ coi Việt Nam là đồng chí chứ không phải đồng minh. Thứ ba, lịch sử cho thấy quan hệ "gắn bó như môi với răng" giữa Hà Nội và Bắc Kinh vẫn không ngăn được Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa, nẫng tay trên người "đồng chí anh em" Bắc Việt. Phương pháp "ràng buộc bằng lợi ích" sẽ không ngăn được Trung Quốc đánh ở Biển Đông vì lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông có vị trí rất cao trong chiến lược lớn của Trung Quốc. Biển Đông là yết hầu con đường tiếp tế vật tư và nhiên liệu cho Trung Quốc từ Trung Đông, châu Âu, châu Phi, Nam Á và Đông Nam Á, với 2/3 lượng dầu khí nhập khẩu và 4/5 lượng hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc đi qua. Biển Đông cũng là bàn đạp để khống chế Đông Nam Á, một khu vực mà nếu Trung Quốc khống chế được thì sẽ có thể quy phục được Nhật Bản và trung lập hóa cả Mỹ lẫn Ấn Độ, còn nếu Trung Quốc không khống chế được thì sẽ không thể ngoi lên địa vị đứng đầu châu Á. Trung Quốc không có lợi ích nào ở Việt Nam, kể cả trong hiện tại lẫn trong tương lai, lớn hơn lợi ích ở Biển Đông để Trung Quốc phải đánh đổi. Phương pháp "ràng buộc bằng thể chế" càng khó ngăn cản Trung Quốc ra tay khi cần thiết vì Trung Quốc cũng như các nước lớn khác chỉ tuân thủ thể chế quốc tế nếu thể chế ấy phục vụ lợi ích chiến lược của họ. Trong trường hợp lợi ích chiến lược của họ đòi hỏi làm khác đi, họ sẽ có cách giải thích thể chế quốc tế theo kiểu riêng để biện minh cho hành động của mình. Trung Quốc đã làm như thế khi xâm lăng Việt Nam năm 1979, nói rằng để trừng phạt Việt Nam xâm lăng Campuchia. Đây không phải là đặc điểm riêng của Trung Quốc mà các nước lớn đều như vậy. Mỹ và phương Tây đánh Nam Tư rồi tách Kosovo ra khỏi nước này hay Nga đánh Gruzia rồi tách Nam Ossetia và Abkhazia ra khỏi nước này đều nói là dựa trên luật pháp và thể chế quốc tế nhưng đó là luật pháp và thể chế quốc tế theo cách giải thích riêng của họ. Ải Chi Lăng là di tích lịch sử nhắc lại trận quân Lê Lợi chém Liễu Thăng hồi thế kỷ 15 Phương pháp "răn đe quân sự" không phải là cách mà Việt Nam có thể làm với Trung Quốc trong lúc này vì Việt Nam không có vũ khí hạt nhân để răn đe chiến lược (trong khi Trung Quốc có) và lực lượng quân sự thông thường của Việt Nam hiện còn quá yếu để có thể tạo sức mạnh răn đe chiến thuật đối với Trung Quốc. Còn lại duy nhất phương pháp "răn đe ngoại giao". Phương pháp này là dùng quan hệ với các nước mạnh hơn Trung Quốc và áp lực của quốc tế để Trung Quốc không dám đánh Việt Nam. Hiện nay trong khu vực, Trung Quốc vẫn phải kiêng dè Mỹ, do đó Việt Nam quan hệ càng gần gũi với Mỹ bao nhiêu càng có tác dụng răn đe bấy nhiêu. Một điểm nữa Việt Nam có thể tận dụng là Trung Quốc muốn thế giới tin rằng họ không phải là mối đe dọa đối với các nước. Nếu những lấn lướt ức hiếp của Trung Quốc với Việt Nam được thế giới quan tâm và hiểu như bước đầu của một mối đe dọa lớn hơn đối với họ thì thứ nhất, chúng có thể làm Trung Quốc yếu thế đi, và thứ hai, đó cũng là một lý do để Trung Quốc phải cân nhắc kỹ hơn nếu có ý định đánh Việt Nam. Bài học lịch sử Quy luật rút ra từ lịch sử ba lần Trung Quốc đánh Việt Nam và qua phân tích năm phương pháp nói trên cho thấy để tránh không bị Trung Quốc đánh, Việt Nam phải làm được ba điều. Thứ nhất, phải liên tục nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, đặc biệt chú ý trong tương quan với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc có thêm bạn thì Việt Nam cũng phải có thêm bạn mạnh hơn và nếu Trung Quốc xích lại gần các nước thì Việt Nam còn phải xích lại gần các nước hơn. Không bao giờ được để Việt Nam ở thế cô lập hơn Trung Quốc trên thế giới. Sống cạnh một anh hàng xóm khổng lồ mà không để bị đánh hoặc ăn hiếp quả là rất khó nhưng vẫn có thể được Thứ hai, phải hết sức bén nhạy với cán cân quyền lực trong khu vực và phải lập tức mạnh dạn điều chỉnh chiến lược đối ngoại khi tương quan lực lượng trong khu vực biến đổi bất lợi cho Việt Nam. Thứ ba, phải sáng suốt tìm ra ai là kẻ mạnh trong khu vực và đâu là chỗ yếu của Trung Quốc để thực hiện kế răn đe ngoại giao. Trong dài hạn, chỉ có kết hợp răn đe ngoại giao (kết thân với nước lớn và tranh thủ dư luận thế giới) với răn đe quân sự (quân đội mạnh, đặc biệt hải quân và không quân) và liên tục nâng cao vị thế quốc tế của mình thì Việt Nam mới có thể tương đối yên tâm không bị Trung Quốc đánh. Sống cạnh một anh hàng xóm khổng lồ mà không để bị đánh hoặc ăn hiếp quả là rất khó nhưng vẫn có thể được, nhất là khi anh hàng xóm đó chưa phải là kẻ mạnh nhất trong vùng. Bài viết thể hiện ý kiến riêng của tác giả, tiến sĩ Alexander Vuving (Vũ Hồng Lâm), không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Bộ Quốc phòng và Chính phủ Hoa Kỳ.
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 23:08:49 GMT -5
Ván bài bốn bên Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng Viết riêng cho BBCVietnamese.com từ London Nhiều nước khi đó sững sờ khi hai nước cộng sản trở thành thù địch Tháng tư năm 1975, phó thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm tổ chức một buổi tiếp tân tại Bắc Kinh để chào mừng chiến thắng của Cộng Sản tại miền Nam Việt Nam. Lờ phái đoàn Hà Nội như không hiện diện, Lý tuyên bố Trung Quốc đã dành sẵn một chiếc tầu chở đầy thuốc men, thực phẩm và các đồ nhu yếu khác sẵn sàng cập bến Đà Nẵng hoặc Sài Gòn ngay sau khi giải phóng. Trương Như Tảng, người cầm đầu phái đoàn chính phủ Cộng Hòa miền Nam thuật lại: - Hàm ý của tuyên bố trên tất cả những ai có mặt đều hiểu rõ. Trong suốt thời gian chúng tôi ở Bắc Kinh, Trung Quốc đã đối xử với chúng tôi một cách thân thiện hơn nhiều so với phái đoàn của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Rõ ràng họ đã dùng cơ hội này để tỏ thái độ của họ với việc Hà Nội ngả hẳn theo Liên Xô và báo hiệu cho Chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa miền Nam Việt nam rằng họ sẵn sàng ủng hộ một chính sách độc lập với miền Bắc. Chuyến thăm Bắc Kinh Nhưng nếu Bắc Kinh đặt hy vọng rằng phe cộng sản miền Nam có thể có một độc lập nào đó với Hà Nội, họ đã thất vọng lớn. Trong một tiến trình vội vã, ngay từ tháng sáu 1975, Hà Nội đã thanh trừng các phần tử miền Nam nào có ý muốn độc lập với miền Bắc. Toàn bộ chính quyền miền Nam nằm trong tay những người từ miền Bắc gởi vào. Mặc dầu vậy, ngày 22 tháng 9 năm 1975, Lê Duẩn và Lê Thanh Nghị vẫn cầm đầu một phái đoàn sang Bắc Kinh cầu viện. Đây là lần đầu tiên Lê Duẩn sang Bắc Kinh với tư cách lãnh tụ của một nước Việt Nam thống nhất. Cuộc gặp gỡ này là một thất vọng cho cả hai bên. Đối tác chính của Lê Duẩn là Đặng Tiểu Bình, mới được phục hồi sau 4 năm bị quản thúc tại gia. Trong bài diễn văn đón mừng Lê Duẩn, Đặng nhấn mạnh đến nguy cơ của chủ nghĩa bá quyền và kêu gọi Duẩn hãy đi cùng với Trung Quốc chống lại Liên Xô. Trả lời lại Đặng, Duẩn tuyên bố nếu không có sự giúp đỡ của toàn khối xã hội chủ nghĩa anh em thì chiến thắng tại Việt Nam là một chuyện không thể có được. Nói một cách khác, Duẩn từ chối không chịu đi với Trung Quốc chống lại Liên Xô. Mặc dầu vậy, Duẩn vẫn năn nỉ xin Bắc Kinh viện trợ như trước năm 1973. Cố nhiên là điều này bị Trung Quốc từ chối. Hiện nay các bạn không phải là đất nước nghèo nhất. Chúng tôi mới là đất nước nghèo nhất. Mao Trạch Đông nói với Lê Duẩn Năm 1973, khi Chu Ân Lai yêu cầu Lê Duẩn ngưng cuộc chiến tại miền Nam trong mấy năm tới, Chu đã hứa sẽ viện trợ cho Hà Nội ở mức độ năm 1973 trong vòng năm năm, nhưng lần này khi Duẩn nhắc lại lời hứa đó, phía Trung Quốc đã từ chối thẳng thừng. Trong cuộc gặp gỡ với Lê Duẩn vào ngày 24 tháng 9, Mao nói thẳng với Duẩn: - Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã để lại cho các bạn những khối lượng lớn vũ khí, kho tàng, máy bay, tầu chiến. Hiện nay các bạn không phải là đất nước nghèo nhất. Chúng tôi mới là đất nước nghèo nhất. Chúng tôi có 800 triệu người phải nuôi. Chu Ân Lai lúc này đã bị bệnh nặng, mọi việc điều hành hàng ngày đều nằm trong tay Đặng Tiểu Bình. Khác với Chu, Đặng không có những quan hệ cá nhân chặt chẽ với Việt Nam như quan hệ của Chu với Hồ Chí Minh, chính vì vậy mà Đặng có một thái độ cứng rắn hơn là các lãnh tụ Trung Quốc khác đối với Việt Nam. Chủ quyền hai đảo Trong cuộc gặp gỡ ngày 24 tháng 9, Đặng và Duẩn đã đụng mạnh trong vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa. Năm 1958 khi Trung Quốc tuyên bố lãnh thổ của họ bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Hà Nội đã không phản đối. Ngược lại Phạm văn Đồng trong một giác thư gởi cho Chu Ân Lai đã viết là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa "công nhận và ủng hộ" tuyên bố của Trung quốc về lãnh thổ và lãnh hải và "tôn trọng" quyết định này. Năm 1974, khi Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa từ trong tay chính phủ miền Nam Việt Nam, Hà Nội đã yên lặng không phản ứng. Nhưng sau khi tiến chiếm xong miền Nam, Hà Nội đã công khai tuyên bố đòi chủ quyền trên hai quần đảo này. Khi gặp gỡ Lê Duẩn vào ngày 29 tháng 9, Đặng đã giận dữ trách Duẩn về những luận điệu tuyên truyền chống Trung Quốc của báo chí Hà Nội: - Chúng tôi không thoải mái chút nào khi đọc báo chí Việt Nam. Các bạn cứ nhấn mạnh đến nguy cơ từ phương Bắc. Nguy cơ phương Bắc của chúng tôi là sự hiện diện của quân đội Sô Viết ở biên giới phía Bắc chúng tôi nhưng đối với các bạn điều này có nghĩa là Trung Quốc. Rõ ràng ngay từ lúc đó Đặng Tiểu Bình đã có một mối căm hận lớn đối với cái mà Đặng gọi là "sự vô ân bạc nghĩa" của chính quyền Hà Nội. Lê Duẩn kết thúc chuyến đi thăm Bắc Kinh mà không có một thông cáo chung nào được đưa ra. Duẩn còn hủy cả một bữa tiệc trả lễ các lãnh tụ Trung Quốc trước khi ra về, một hành động được coi là đặc biệt bất thường trong các quan hệ ngoại giao quốc tế. Hà Nội và Bắc Kinh đã chính thức cho thấy sự chia rẽ của họ. Quan hệ 'đặc biệt' ở Đông Dương Tháng 11 năm 1975, Hà Nội tổ chức Hội nghị Hiệp Thương toàn quốc để thống nhất hai miền Nam Bắc đồng thời tìm cách kéo Lào và Campuchia vào trong một quan hệ đặc biệt dưới sự lãnh đạo của Việt Nam. Tháng 2 năm 1976, Kaysone Phomvihane tổng bí thư đảng Cộng Sản Lào sang thăm Hà Nội. Một bản thông cáo chung ký giữa Kaysone và Lê Duẩn vào ngày 12 tháng 2 tuyên bố hai nước Lào Việt có một quan hệ đặc biệt về hợp tác và hứa sẽ có những hành động chung chống lại "bọn đế quốc và phản động tay sai". Bản thông cáo chung cũng hứa sẽ tăng cường "tình hữu nghị giữa Lào, Campuchia và Việt Nam". Đối với Pol Pot, bản thông cáo này là một cảnh cáo rằng Hà Nội sẽ không để cho Campuchia đồng minh với Trung Cộng chống lại Việt Nam. Với cái chết của Chu Ân Lai vào đầu năm 1976 và cái chết của Mao vào cuối năm đó, Trung Quốc rơi vào trong cảnh tranh quyền hỗn loạn. Mặc dầu tháng 10 năm 1976 nhóm "bốn người" bị Hoa Quốc Phong thanh trừng nhưng một cuộc tranh chấp mới lại diễn ra giữa Hoa Quốc Phong, người được Mao chọn làm thừa kế, và Đặng Tiểu Bình. Trong thời gian đó quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam nằm trong một tình thế nửa vời. Hai bên vẫn giữ quan hệ ngoại giao và Trung Quốc còn tiếp tục viện trợ cho Hà Nội nhưng ở một mức độ thấp hơn nhiều so với trước. Tuy nhiên các cuộc đụng độ tại biên giới vẫn nổ ra ngày một nhiều hơn. Thăm dò Mỹ Kẹt ở giữa cuộc tranh chấp của hai nước đàn anh, và nhận thức khả năng viện trợ thấp kém của cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, Hà Nội tìm cách bắt lại liên lạc với các nước phương Tây nhất là Mỹ. Chiến thắng của Jimmy Carter trong cuộc bầu cử 1976 mở cho Hà Nội hy vọng là có thể kiếm được viện trợ của Mỹ mà Nixon đã hứa trong hiệp định Paris. Những cuộc tiếp xúc đầu tiên được mở ra tại Paris vào đầu năm 1977 giữa Richard Holbrooke và Phan Hiền nhằm bình thường hóa quan hệ ngoại giao nhưng không đi đến đâu vì, say men chiến thắng, Hà Nội nhất định đòi Mỹ phải bồi thường chiến tranh trước khi nói đến chuyện bình thường hóa. Trong khi đó quan hệ giữa Hà Nội và Phnom Penh môt ngày một xấu đi. Việc "cáp duồn" những người Việt còn ở lại Campuchia và việc thanh trừng những phần tử cuối cùng thân Việt Nam bên trong đảng Cộng Sản Campuchia vào tháng 4 năm 1977 đã dẫn đến những cuộc tấn công bằng các đại đơn vị của Khmer Đỏ vào vùng biên giới. Trong khi đó một đợt lạnh giá bất thường đã làm tiêu hủy một phần lớn mùa màng tại miền Bắc dẫn đến việc Hà Nội phải kêu gọi Liên Hiệp Quốc và các nước thân hữu trợ giúp cứu đói. Nhưng những lời kêu gọi của Hà Nội không gây được phản ứng bao nhiêu. Việc vội vã sáp nhập miền Nam vào với miền Bắc và chính sách đưa các người có liên hệ với chính quyền miền Nam đi "học tập cải tạo" đã làm các chính phủ phương Tây dội và tách rời với Hà Nội. Đi theo Liên Xô Một lính Trung Quốc viết khẩu hiệu bằng tiếng Việt tại Lạng Sơn Cuối tháng sáu 1977, hội nghị trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam quyết định chuyển hướng. Đối nội, một kế hoạch tập thể hóa công nông nghiệp tại miền Nam được đưa ra. Đối ngoại, Hà Nội quyết định đi sát theo Liên Xô và sửa soạn tiến đánh Campuchia. Tháng 10 năm 1977 Lê Duẩn bay sang Liên Xô. Tại Moscow, Duẩn đạt được một thỏa hiệp mới với Brezhnev trong đó Liên Xô nhận cung cấp cho Hà Nội hai tầu ngầm, một khu trục hạm, một số tầu tuần tiễu và bốn phi đội Mig 21. Đổi lại, Hà Nội bắt đầu chuyển các vũ khí của Mỹ để lại tại miền Nam cho Ethiopia, một đàn em mới của Liên Xô. Mười ngày sau khi ở Liên Xô về, Duẩn bay sang Bắc Kinh để tìm cách thuyết phục Trung Quốc ngưng ủng hộ cho Khmer Đỏ. Cuộc gặp gỡ trở thành một cuộc cãi nhau tay đôi bằng những lời bóng gió. Tuyên bố trong bữa tiệc khoản đãi Lê Duẩn, Hoa Quốc Phong nói: - Trung Quốc kiên quyết đồng minh với mọi nước có nguy cơ bị xâm lược hoặc can thiệp lật đổ bởi những thế lực đế quốc hoặc đế quốc núp dưới chiêu bài xã hội chủ nghĩa, và sẽ thành lập một mặt trận thống nhất rộng rãi nhất chống lại chủ nghĩa bá quyền. Lê Duẩn cũng trả lời lại Hoa Quốc Phong bằng tuyên bố: - Việt Nam nhất định không cho phép một lực lượng đế quốc hoặc thế lực phản động nào xâm phạm vào nền độc lập tự do của đất nước. Cái vỏ ngoài lịch sự trong bang giao giữa hai nước càng ngày càng tiêu tan. Chuyến đi của Lê Duẩn sang Bắc Kinh có hậu quả là khiến cho Trung Quốc quyết định ngả hẳn về phía Pol Pot mà trước đó sau khi phe cực tả "bốn người" bị lật đổ Trung Quốc đã từ từ tách ra. Đụng độ Quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh trở nên căng thẳng hơn vào năm 1978. Ngày 20 tháng 3, Hà Nội bắt đầu chiến dịch đàn áp người Hoa tại Việt Nam. Mượn cớ đánh tư sản mại bản, hàng ngàn công an vũ trang và bộ đội bao vây khu vực của người Hoa tại Chợ Lớn và lục soát từng nhà một để kiếm vàng và kiểm kê tài sản. Chính cái đòn mở đầu chống lại tư bản miền Nam cũng là phát súng mở đầu cho cuộc đụng độ công khai với Trung Quốc. Trong những ngày sau, hàng ngàn người Hoa bắt đầu bị áp lực phải rời khỏi Việt nam. Bắt đầu từ mùa hè năm 1978, Công An tại nhiều tỉnh miền Nam bắt đầu tổ chức nhũng cuộc vượt biên lớn công khai cho những người Hoa (và những người Việt tự nhận là người Hoa) mở đầu cho một cuộc di dân vỹ đại mà trong hai năm đưa gần một triệu người Việt ra khỏi xứ. Chiến tranh 1979 dẫn tới hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ Việt - Trung Như trong một bi kịch Hy lạp, Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia càng ngày càng xích lại gần hơn vào một cuộc chiến mà các bên đều không muốn. Điều mỉa mai là bây giờ chính Hoa Kỳ, nước mà trước kia Bắc Kinh và Hà Nội liên minh để tìm cách đẩy ra khỏi Đông Dương nay lại được chính hai nước này mời trở lại. Ngày 5 tháng 7 Mỹ và Trung cộng họp mật tại Bắc Kinh để thảo luận việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Ngày 7 tháng 7 Hà Nội xin mở lại thương thuyết với Washington và chính thức bỏ điều kiện đòi Mỹ viện trợ trước khi đi đến bình thường hóa. Tháng chín Nguyễn Cơ Thạch sang New York và xin gặp Richard Holbrooke. Trong cuộc gặp gỡ lần này Thạch không đặt một điều kiện tiên quyết gì mà chỉ xin Mỹ đồng ý ra một tuyên bố chung là sẽ bình thường hóa quan hệ giữa hai bên. Tuy nhiên trong cuộc tranh chấp nội bộ giữa phe chủ trương nghiêng về phía Việt Nam, Cyrus Vance và Richard Holbrooke, và phe chủ trương nghiêng về phía Trung Quốc do Brzezinski chủ xướng, tổng thống Jimmy Carter ngả theo Brzezinski và việc bình thường hóa quan hệ giữa Washington và Hà Nội bị dẹp bỏ. Thất bại tại Washington, Hà Nội quyết định đi sát thêm với Moscow. Ngày 3 tháng 11 năm 1978 Lê Duẩn ký với Brezhnev một hiệp ước tương trợ kinh tế quân sự 25 năm và gia nhập khối Comecon. Ngày 15 tháng 12, Jimmy Carter tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Và ngày 25 tháng 12 Việt Nam mở cuộc tấn công xâm lược vào Campuchia. Trái với những hy vọng của Trung Quốc, lực lượng Khmer Đỏ đã tan rã nhanh chóng trước sự tấn công của Hà Nội. Chỉ trong vòng hai tuần, ngày 7 tháng giêng năm 1979, Phnom Penh thất thủ. Trước tình thế đó, ngày 14 tháng giêng, Trung Quốc gởi một phái đoàn sang Thái Lan để họp bàn về việc tổ chức một hệ thống tiếp tế cho Khmer Đỏ tiếp tục chiến tranh du kích chống lại Việt nam tại Campuchia. Đồng thời ngày 28 tháng giêng năm 1979 Đặng Tiểu Bình sang Mỹ gặp Jimmy Carter. Được sự đồng tình ngầm của Carter, ngày 17 tháng 2 Trung Quốc mở ra cuộc chiến biên giới chống lại Việt Nam mở đầu cho một chu kỳ mới trong quan hệ giữa hai nước Việt Trung. Về tác giả:Ông Lê Mạnh Hùng lấy bằng tiến sĩ ở trường SOAS, London năm 2000 với luận án về Ảnh hưởng của Thế chiến Hai đối với kinh tế Việt Nam. Hiện sống ở London, ông vừa xuất bản tác phẩm mới nhất, "Nhìn Lại Sử Việt: Từ Tiền Sử đến Tự Chủ" (Virginia: Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông, 2007).
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 23:11:22 GMT -5
Nhìn lại nhân vật Hoàng Văn Hoan Một sự kiện quan trọng trong giai đoạn xung đột Trung - Việt hồi năm 1979 là vụ bỏ trốn của ông Hoàng Văn Hoan mà đến nay vẫn ít được nói đến. Tình hữu nghị giữa hai nước cộng sản Việt Nam - Trung Quốc đổ vỡ năm 1979 Không chỉ với chính quyền Việt Nam và cả với dư luận quốc tế, việc một nhân vật cao cấp, công thần của chế độ bỏ đi theo kẻ thù của Hà Nội hồi đó là chuyện 'động trời'. Báo Time 20/08/1979 có bài đặc biệt về cuộc bỏ trốn của ông Hoàng Văn Hoan sang Trung Quốc. Bài 'Hanoi's Push' cho rằng vụ ông Hoàng Văn Hoan (1905-1991), nguyên phó chủ tịch Quốc hội, một đồng chí cũ của Hồ Chí Minh bỏ đi vào tháng 7/1979 và tố cáo chế độ là 'cú giáng thứ nhì vào hình ảnh của họ'. Cú giáng thứ nhất, như tờ báo Mỹ, là 'cuộc tháo chạy của 900 nghìn người' trong vòng bốn năm trước đó, nhắc đến các đợt thuyền nhân bỏ nước ra đi. Về với Trung Quốc Time đưa tin rằng tuần trước đó, ông Hoàng Văn Hoan, 74 tuổi, phát biểu tại Bắc Kinh cáo buộc Hà Nội đối xử với người Hoa 'tệ hơn Hitler đối xử người Do Thái'. Ông Hoan, cựu ủy viên Bộ Chính trị cho đến 1976, cũng cho rằng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông Lê Duẩn, đã 'trở thành tay sai ngoại bang', ám chỉ Liên Xô. Bỏ trốn sang Trung Quốc, ông Hoan như trở về với những đồng chí chia sẻ quan điểm cộng sản kiểu Trung Quốc của ông. Các tài liệu của Phương Tây từ 1966 đã xác định ông, cùng những ủy viên BCT khác như Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh là 'phái thân Trung Quốc' (pro-Chinese).Theo đại tá Bùi Tín, cựu Phó Tổng biên tập báo Nhân Dân, người cũng bỏ Việt Nam nhưng sang Phương Tây để vận động cho dân chủ, thì quan điểm 'đặc sệt thân Tàu' của ông Hoan đã được biết đến từ trước năm 1979. Ông Bùi Tín nói ông Hoan xuất thân từ một gia đình Hán học, hoạt động nhiều năm ở Hoa Nam và 'tiếp thu văn hóa, tư tưởng Trung Quốc trực tiếp từ nguồn': "Ông không đồng tình với quan điểm đứng giữa Liên Xô và Trung Quốc, ông theo phái nghiêng hẳn về Trung Quốc." Ông không đồng tình với quan điểm đứng giữa Liên Xô và Trung Quốc, ông theo phái nghiêng hẳn về Trung Quốc Bùi Tín nói về Hoàng Văn Hoan "Ông không thấy Trung Quốc có hai mặt: cách mạng và bành trướng". Từng sang Trung Quốc hoạt động với bí danh Lý Quang Hoa cùng các ông Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan trở thành nhân vật cao cấp phụ trách ngoại giao của Việt Minh. Sau đó ông được Hồ Chí Minh, người đồng hương Nghệ An, cử làm đại sứ đầu tiên của VNDCCH tại Bắc Kinh. Các tài liệu nước ngoài mô tả ông Hoan có vị trí hơn một đại sứ bình thường vì thường được Mao Trạch Đông tiếp riêng để bàn thảo các vấn đề hai nước, kể cả chiến lược đánh miền Nam của Ban lãnh đạo Hà Nội. Số phận của ông sau khi sang Trung Quốc qua ngả Pakistan vào tháng 7/1979 cùng gia đình cũng phản ánh thái độ của Trung Quốc với Việt Nam và quan hệ hai bên. Xuất bản cuốn 'Giọt nước trong biển cả', ông đưa ra quan điểm 'tố cáo tập đoàn Lê Duẩn' đã phản bội đường lối Hồ Chí Minh và làm hại đến 'tình hữu nghị với Trung Quốc'. Cuốn sách được dịch sang tiếng Anh 'A Drop in the Ocean: Hoang Van Hoan's Revolutionary Reminiscences' do Bắc Kinh xuất bản năm 1988, xác định tư cách của ông như một nhân vật Mao-ít đến cùng. Ông cũng đưa ra cáo buộc rằng Trung ương Đảng ở Việt Nam từ 1982 đã chỉ đạo việc trồng nha phiến để bán ra quốc tế lấy đôla. 'Không giống Hồ Chí Minh' Ông Bùi Tín, hiện sống tại Paris cho hay ông Hoan khá đơn độc trong đường lối thân Trung Quốc và bác bỏ cách tuyên truyền của Trung Quốc rằng ông Hoan là người duy nhất 'trung thành với đường lối Hồ Chí Minh'. Ông nói: "Ông Hồ khéo léo với Trung Quốc hơn nhiều và luôn cố gắng cân bằng giữa Liên Xô và Trung Quốc." Ông Hồ khéo léo với Trung Quốc hơn nhiều và luôn cố gắng cân bằng giữa Liên Xô và Trung Quốc Bùi Tín "Một lần ra đón ông Hồ tại sân bay chúng tôi thấy ông mặc áo khoác có huy hiệu Mao sau chuyến đi thăm Trung Quốc về. Ông hiểu ý và cười rằng 'chỉ đeo ở áo ngoài thôi đấy nhé". Trái lại, theo ông Tín, Hoàng Văn Hoan hoàn toàn theo đường lối Maoist, ủng hộ Trung Quốc trong cuộc chiến 1979, chế độ Pol Pot và phái bảo thủ tại Trung Quốc. Mặc dù ông Hoan đã đào thoát sang Trung Quốc và được coi là phản bội, ông Tín vẫn đánh giá: "Ông ấy là một người rất yêu nước, nhưng mỗi người yêu nước theo hiểu biết, theo kiểu của người ta. Tôi vẫn tôn trọng ông ấy, nhưng không thể đồng tình với quan điểm của ông được." Ở Việt Nam, ông Hoàng Văn Hoan bị tuyên án tử hình vắng mặt và trở thành biểu tượng của sự phản bội. Đài báo so sánh Hoan với Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc và dùng hình ảnh ông để nói về các kẻ thù bên trong. Đảng cộng sản đã thực hiện một cuộc thanh lọc nội bộ để loại bỏ tất cả những ai bị nghi là có dính líu đến ông Hoàng Văn Hoan. Trong khi đó, Trung Quốc quyết tâm bảo vệ ông Hoan và coi việc đối xử với ông như một điều kiện để bình thường hóa quan hệ. Năm 1991, Trung Quốc tổ chức lễ tang cấp nhà nước dành cho ông Hoàng Văn Hoan tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, nơi an nghỉ của nhiều cố lãnh tụ cao cấp nhất của Đảng, Nhà nước, và quân đội Trung Quốc. Việc chấp nhận vị trí của ông Hoan trong lịch sử đầy biến động của Việt Nam xem ra vẫn còn là điều khó khăn ở trong nước dù gần đây, nhà chức trách đã có động tác để hình ông trên trang web của Quốc hội. Nhưng cho đến nay, số phận của gia đình ông (xem bài đi kèm 'Số phận ông Hoàng Văn Hoan' ở mục Các bài liên quan) cũng là câu chuyện đáng nói và phản ánh cách giải quyết chuyện nội bộ với những người bị coi là 'phản bội' trong lòng một hệ thống đóng kín.
|
|
|
Post by vietnam on May 10, 2009 20:51:28 GMT -5
LỜI PHÂN TRẦN CỦA TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỀ NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 Trần viết Đại Hưng Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 đã trôi qua được trên 31 năm. Thường thì thời gian là yếu tố xóa nhòa mọi nỗi đau của quá khứ, nhưng đối với đa số người miền Nam, vết đau 30 tháng 4 còn tươi rói vì những đau đớn, mất mát xảy ra cho họ và gia đình do Cộng sản gây ra sau ngày 30 tháng 4. Hàng ngàn người bỏ mình trong những trại tù cải tạo độc ác, tàn bạo của Cộng sản, hàng trăm ngàn người bỏ mình trên biển cả khi vượt biển tìm tự do. Nghĩ đến ngày 30 tháng 4, đa số người dân miền Nam oán trách Đại tướng Dương văn Minh ra lệnh đầu hàng để đưa đến cảnh ‘ nước mất nhà tan “ sau này. Từ trước đến nay đã có nhiều dư luận phê phán chuyện đầu hàng ô nhục của tướng Minh nhưng tâm tư và suy nghĩ của tướng Minh khi quyết định đầu hàng Cộng sản là chuyện không ai suy đoán nổi. Ôâng Minh không viết sách và tránh trả lời phỏng vấn nên khó ai đoán biết tâm tư , suy nghĩ của ông khi đầu hàng như thế nào. Sau này mới biết tướng Minh đã bộc bạch tâm tư suy nghĩ của ông về quyết định đầu hàng trong biến cố 30 tháng 4 trong một lá thư gửi cho một người đàn em cũ là Trung tướng Nguyễn chánh Thi vào năm 1987 khi tướng Minh ở Pháp. Xin cám ơn Trung tướng Thi đã cho phép người viết bài này công bố bức thư của tướng Minh để soi sáng phần nào lịch sử Việt Nam cận đại. Đại tướng Dương văn Minh nhậm chức Tổng thống do Tổng thống Trần văn Hương trao lại chỉ vài ngày trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.( Dương văn Minh nhậm chức tổng thống vào ngày 27 tháng 4 năm 1975..Bởi vậy người ta thường gọi Dương văn Minh là tổng thống 3 ngày ). Buổi chiều nhậm chức tổng thống trong dinh Độc lập thì trời u ám và có mưa.. Phóng viên Nguyễn mạnh Tiến ( hiện nay đang làm ở Đài Á châu tự do) lúc ấy đang làm cho Đài phát thanh Sài Gòn, đã tường thuật buổi lễ nhậm chức này. Phóng viên Tiến đã bắt đầu bài phóng sự tường trình bằng câu nói “ Buổi lễ nhậm chức tổng thống xảy ra vào buổi chiều trong dinh Độc lập trong khi bên ngoài trời mưa u ám như tình thế đất nước hiện nay..” Trực giác cảm nhận của Phóng viên Tiến thật chính xác vì chỉ vài ngày sau, miền Nam rơi vào tay Cộng sản để rồi đưa đến bao tang tóc, mất mát cho dân chúng miền Nam. Toàn bộ bức thư của tướng Dương văn Minh viết cho tướng Nguyễn chánh Thi có nội dung như sau: 15-4-87 “ Thi, Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm. Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không _ Pháp chẳng giúp đỡ gì _ mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên. Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết. Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần- lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi. Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Đỗ Mậu ( cũng như nhiều người ) không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã nhắn nhủ để cứu dân. Riêng tôi, tôi không tự tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ: _ Tôi không tự sát vì thân thể mình do Trời Đất ( Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có quyền hy sinh. _ Mình có quyền hy sinh: tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v..v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi. Đây là một lý thuyết tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới. Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày sum họp trên quê cha đất tổ. Tôi đã nói nhiều quá ! Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn được gặp lại các bạn. Thân mến Dương văn Minh Đọc những lời phân trần trên của tướng Minh cho thấy những ảnh hưởng đến từ bên ngoài về quyết định đầu hàng Cộng sản ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ôâng cũng biện bạch cho quyết định không tự tử của ông sau khi đầu hàng. Thật ra những người đặt vấn đề tướng Minh nên tự tử vì nhìn gương của những bậc tiền bối như cụ Phan thanh Giản đã uống thuốc độc tự tử khi phải giao mấy tỉnh ở miền Nam cho Pháp và quan Tổng đốc Hoàng Diệu treo cổ tự tử khi thành Hà Nội mất vào tay quân Pháp. Sau này nhìn những tấm gương tử tiết của 5 vị tướng Phạm văn Phú, Trần văn Hai, Lê nguyên Vỹ, Lê văn Hưng, Nguyễn khoa Nam người ta lại tiếc cho tướng Dương văn Minh đã không tử tiết để nêu gương anh dũng cho ngàn sau. Dĩ nhiên quyết định tìm đến cái chết không phải lúc nào cũng là một quyết định dễ dàng trong bất kỳ tình huống nào của cuộc sống. Tướng Minh đã biện luận cho quyết định không tự sát để duy trì mạng sống của ông vì lề lối suy nghĩ của ông và ông cho biết là ông sẵn sàng nhận chịu mọi sự phê phán của thế gian. Tướng Minh đã qua đời cách đây mấy năm ở California, Hoa Kỳ, Tổng thống Thiệu cũng qua đời ở Boston, Hoa Kỳ không lâu sau khi ông Minh từ trần. Phải nói rằng khi Tổng thống Nguyễn văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975 thì tình hình miền Nam đã đi tới giai đoạn hết thuốc chữa. Quyết định không viện trợ khẩn cấp 300 triệu của Quốc Hội Mỹ coi như cái chết của miền Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Sau này có nhiều dư luận đặt vấn đề là tại sao Tổng thống Nguyễn văn Thiệu không bán đi 16 tấn vàng để lấy tiền mua vũ khí cho quân đội miền Nam tiếp tục chiến đấu. Dĩ nhiên Tổng thống Thiệu không phải ngu dại gì mà không biết đến điều ấy nhưng phải thấy rằng chuyện giật sập miền Nam năm 1975 là quyết định của Mỹ và chắc chắn Mỹ sẽ không dễ dàng cho phép ông Thiệu bán vàng để mua vũ khí bảo vệ miền Nam. Số vàng 16 tấn này sau này lọt vào tay Cộng sản sau 1975 và theo sự tiết lộ của Bùi Tín thì số vàng này cũng dần dần bị tẩu tán bởi những tay lãnh đạo tham ô ở miền Bắc. Phải nói là ở thời điểm ký Hiệp định Paris năm 1973, chắc chắn ở cương vị lãnh đạo, Tổng thống Nguyễn văn Thiệu cũng nhìn thấy rõ sự rút lui chạy làng của người đồng minh Hoa Kỳ.. Đáng lý ra ông Thiệu phải lo xây dựng chiến khu ở miền Tây để phòng sau này Sài gòn có bị mất thì ông sẽ về miền Tây lãnh đạo cuộc kháng chiến. Nhưng ông Thiệu không phải là người lãnh đạo yêu nước, thương dân. Ông chỉ quan tâm nhiều đến mạng sống và của cải của ông và gia đình. Ông tiếp tục bám víu quyền lực ngày nào còn viện trợ Mỹ, nghĩa là ngày nào còn xôi thịt. Cuộc bầu cử độc diễn năm 1971 cho thấy ông Thiệu dùng mọi thủ đoạn xấu xa, bẩn thỉu để duy trì quyền lực. Đến khi đất nước lâm nguy, Mỹ cúp viện trợ thì lúc ấy ông mới từ chức và tình chuyện “ được làm vua, thua chạy trước “. Tội làm mất miền Nam là của Tổng thống mặt trơ trán bóng vô liêm sỉ Nguyễn văn Thiệu chứ nhất định không phải là tội của tướng Dương văn Minh. Một điều nữa cũng nên nói ra ở đây là trong những ngày hấp hối của miền Nam, có một chuyện lạ kỳ là Trung Cộng đã tìm cách liên lạc với chính phủ Dương văn Minh với ý định muốn viện trợ cho miền Nam chống lại sự tấn công của Cộng sản miền Bắc. Trong một cuộc nói chuyện thân mật với anh em sinh viên ở Pháp sau khi định cư ở Pháp , tướng Dương văn Minh có kể lại chuyện này và cho biết ông từ chối đề nghị giúp đỡ của Trung Cộng vì nghĩ rằng Trung Hoa là kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt. Ông Minh cho rằng chuyện nhận viện trợ của Trung Cộng là một chuyện làm không có lợi cho đất nước Việt Nam. Cựu dân biểu Lý quý Chung ( vốn là bộ trưởng thông tin trong chính phủ Dương văn Minh) trong cuốn sách “ Hồi ký không tên “ xuất bản ở Việt Nam mới đây cũng có nói đến chuyện này nhưng ông Chung không dám nêu đích danh Trung Cộng mà chỉ nói đến một cách bóng gió. Lý do là mối quan hệ giữa Việt Cộng và Trung cộng đang hồi thắm thiết hữu nghị nên ông Trung không dám nêu đích danh Trung Cộng là kẻ đã tìm cách viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của Việt Nam Cộng Hòa nhằm cứu vãn sự sụp đổ của miền Nam trước sự tấn công của miền Bắc. Tại sao Trung cộng đã viện trợ cho Việt cộng trong nhiều năm mà lại tìm cách cứu vãn miền Nam khỏi sự sụp đổ trong những ngày tháng cuối cùng ? Câu trả lời là mặc dù Trung cộng viện trợ cho Việt cộng vì là anh em trong khối xã hội chủ nghĩa nhưng Trung cộng rất ngại chuyện Việt cộng chiến thắng ở miền Nam vì Trung cộng nghĩ rằng một nước Việt Nam thống nhất và hùng cường sẽ là trở ngại cho âm mưu bành trướng bá quyền của Trung cộng. Đó là nguyên nhân Trung cộng làm một chuyện rất nghịch lý và khó hiểu là tìm cách thương thảo để viện trợ cho chính phủ Dương văn Minh của miền Nam trong những giờ phút hấp hối. Trung cộng tìm cách viện trợ cho miền Nam không phải vì thiện ý mong muốn nhân dân miền Nam được sống trong tự do mà vì không muốn nhìn thấy một nước Việt Nam thống nhất hùng cường, và chuyện này có hại có âm mưu bành trướng lãnh thổ của Trung cộng. Sau ngày đổi đời 30 tháng 4 năm 1975, Cộng sản đã không cho “tắm máu “ hàng loạt như một số phóng viên ngoại quốc dự đoán nhưng đã cho “ phơi xương” từ từ những người miền Nam ngã ngựa trong những trại tù cải tạo. Chính vị sự chết chóc do Cộng sản gây ra cho người miền Nam sau 30 tháng 4 làm cho người ta oán trách quyết định đầu hàng của Dương văn Minh. Nói Dương văn Minh đầu hàng để tránh sự đổ máu cho nhân dân miền Nam là một nhận xét không hoàn toàn đúng. Sài gòn không bị san thành bình địa vì quyết định đầu hàng của Dương văn Minh nhưng máu của người miền Nam vẫn tiếp tục đổ sau ngày 30 tháng 4.. Cựu Thủ tướng Vc Võ văn Kiệt đã thẳng thắn ca ngợi quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh trong một bài viết kỷ niệm ngày 30 tháng 4 mới đây. Dĩ nhiên quyêt định này đã tiết kiệm nhiều sinh mạng bộ đội miền Bắc. Cộng sản trả ơn cho Dương văn Minh bằng cách không đưa Dương văn Minh vào trại cải tạo và cho ra đi nước ngoài định cư sau này. Nếu sau ngày 30 tháng 4 mà không có sự trả thù tàn bạo của Cộng sản đối với những người miền Nam ngã ngựa thì dư luận phê phán chắc chắn sẽ bớt nghiêm khắc về quyêt định đầu hàng của Dương văn Minh. Đỗ Mậu trong cuốn hồi ký “ Việt Nam máu lửa quê hương tôi “ đã phê phán ông Minh vận động để lên chức tổng thống trong những ngày cuối của miền Nam là một chuyện “ ách giữa đàng, mang vào cổ “ . Đó là một nhận xét chí lý. Ôâng Minh không phải là một nhà chính trị khôn ngoan, can đảm, quyền biến. Ôâng đã sai lầm khi tìm cách giành chức tổng thống trong giờ phút đất nước dầu sôi lửa bỏng nên ông đã phải hứng chịu nhiều sự chê trách, phê phán trong quyết định đầu hàng nhục nhã trong ngày 30 tháng 4. Có đọc lá thư trên mới thấy Dương văn Minh là con người hiền hòa, nhưng rõ ràng ông không có cái Dũng của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Đại tướng Võ nguyên Giáp của miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi gia đình, sai lầm của người chủ gia đình có thể dẫn tới chuyện gia đình ấy suy sụp, tan vỡ. Còn nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn Minh mà “ tham sinh úy tử “ , nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến thì chỉ đưa quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người làm chính trị là phải luôn tự lượng sức mình, nếu mình “ tài hèn, trí đoản “ mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lãnh đạo quốc gia thì chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho mình những sự nhục nhã ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách. Los Angeles, một chiều hiu quạnh, đìu hiu đầu tháng 10 năm 2006 TRẦN VIẾT ĐẠI HƯNG
|
|
|
Post by vietnam on May 12, 2009 2:12:59 GMT -5
Láng giềng hữu nghịDương Danh Huy -- 08 tháng 05, 2009 Sau khi Việt Nam và Malaysia nộp báo cáo chung về thềm lục địa mở rộng ngoài khơi miền Nam, và Việt Nam nộp báo cáo về thềm lục địa mở rộng ngoài khơi miền Trung, Trung Quốc đã phản đối hai báo cáo này. Đây là phản đối của Trung Quốc: www.minhbien.org/wp-content/uploads/2009/05/chn_2009re_mys_vnm_e.pdfwww.minhbien.org/wp-content/uploads/2009/05/chn_2009re_vnm.pdfCác phản đối của Trung Quốc không dựa trên quy định khoa học nào của UNCLOS về việc tính phạm vi vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, mà chỉ nói rằng nước này có chủ quyền không ai tranh cãi được đối với các đảo trong Biển Đông và các vùng biển lân cận, và nước này có quyền chủ quyền đối với biển và thềm lục địa trong các liên quan, như trong bản đồ đính kèm theo phản đối. Bản đồ Trung Quốc đính kèm với các phản đối chỉ vẽ một ranh giới biển duy nhất: ranh giới lưỡi bò. Bản đồ 1: Việt Nam và Malaysia báo cáo chung về vùng màu hồng giữa bản đồ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” (*) Bản đồ 2: Đường cam là thềm lục địa Việt Nam đăng ký ngoài khơi miền Trung Tương lai Trung Quốc muốn “ổn định” cho VN mình là cái lưỡi bò. Hợp tác toàn diện dọc ranh giới lưỡi bò. Bản đồ 3: Bản đồ nước láng giềng hữu nghị dùng trong phản đối của nước này (*) Chú thích thêm ngày 10/5/09: Sự thật là ở Á Châu, Myanmar, Iran, Pakistan, North Korea quan trọng cho TQ hơn VN và TQ giúp những nước này. VN chẳng có quái gì quan trọng cho TQ, chỉ là vật cản cho TQ. 16 chữ vàng là lời lẽ ngoại giao, ru ngủ thôi, ai dại mới tin. Láng giềng hữu nghị 2 bên ranh giới lưỡi bò. Tất cả từ điển VN cần cắt nghĩa của từ “khốn nạn” và dán vào nghĩa của từ “hữu nghị”, ghi chú “(liên quan tới Trung Quốc)”. Hy vọng người Việt sẽ ngày càng thức tỉnh về Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông. Hy vọng sẽ không bao giờ ngủ hay bị ru ngủ.
|
|
|
Post by tuhieu on May 13, 2009 18:51:54 GMT -5
Khoa học và chính trị -------------------------------------------------------------------------------- Triết học - tư tưởng - tôn giáo Vũ Cao Đàm 22 giờ ngày 6 tháng 10 năm 2008, trên VTV1 có một chương trình khá thú vị bàn về một chủ đề hiếm thấy trên các phương tiện truyền thông đại chúng: tự do tư tưởng trong khoa học xã hội. Trong chương trình có nhiều ý kiến đáng chú ý của một số nhà nghiên cứu khoa học xã hội, trong đó có Giáo sư Võ Khánh Vinh, phó chủ tịch Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Ý kiến của các vị đều rất thống nhất, cho rằng, trong thời gian qua, những người nghiên cứu khoa học xã hội thường mong muốn giữ được “an toàn”, tránh bị quy chụp chính trị, đã chọn những đề tài nặng về giải thích tính đúng đắn và sự sáng suốt về quan điểm đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN), ít muốn đụng chạm những chủ đề nhạy cảm về chính trị. Nhiều vị đồng tình với đề nghị của giáo sư Nguyễn Đức Bình cho ra Tạp chí “Tranh Luận” lưu hành nội bộ để các nhà nghiên cứu khoa học xã hội thảo luận thẳng thắn những vấn đề đặt trước nhu cầu phát triển của đất nước. Chương trình của VTV1 còn giới thiệu bản dự thảo quy chế dân chủ trong khoa học xã hội, theo giới thiệu, đó là bản dự thảo đã được thảo luận suốt 18 năm, nay đã đến lúc đủ điều kiện chín muồi để công bố. Trao đổi với những người xem truyền hình VTV1 đêm đó, tôi được nghe hầu hết ý kiến cho rằng, đây là một tín hiệu tốt đẹp cho giới nghiên cứu khoa học xã hội Việt Nam. Đâu chỉ có số phận của khoa học xã hội? Lịch sử khoa học cho thấy, những bi kịch trong mối quan hệ giữa khoa học và chính trị đâu chỉ có rơi vào số phận các nhà khoa học xã hội. Vụ án Lưxenkô ở Liên Xô diễn ra từ cuối thập niên 1930 đến đầu thập niên 1940 là một vụ án mà giới chính trị đánh vào giới khoa học tự nhiên, khi các nhà di truyền học hiện đại truyền bá thuyết Mendel - Morgan vào Liên Xô. Họ đã bị lên án là truyền bá một học thuyết duy tâm tư sản phản động. Chỉ sau vài tháng phát động phong trào phê phán di truyền học hiện đại, trên ba ngàn nhà sinh học Xô Viết bị kết án, bị khai trừ đảng, bị bỏ tù và xử bắn. Vavilov, viện trưởng Viện Di truyền học thuộc Viện Hàn lâm Nông nghiệp Liên Xô bị bắt bỏ tù từ năm 1940, bị đái ra máu và chết trong tù vào năm 1942. Hiệu trưởng Đại học Kazan bị cách chức và bị khai trừ khỏi Đảng. Có thể nói, đây là một vụ tàn sát khoa học đẫm máu nhất thế kỷ 20, kéo lùi nền sinh học Xô Viết từ chỗ là đối thủ cạnh tranh đáng gờm trong các phương hướng nghiên cứu ứng dụng di truyền học hiện đại vào nông nghiệp, y học, quân sự,... đến chỗ tụt hậu hàng nửa thế kỷ so với các cường quốc sinh học(1). Một chủ đề không mới Thật ra, mối quan hệ giữa khoa học và chính trị không phải là một chủ đề mới. Lịch sử đã chứng kiến các vua chúa đốt sách và thực hiện chính sách ngu dân. Napoleon là một người có công lao to lớn với nền khoa học Pháp, ông đã dành nhiều ưu đãi cho các nhà toán học, thiên văn học, hóa học và những ngành khoa học ứng dụng. Trong cuộc chinh phạt Ai Cập, ông đã mang theo một đoàn quân bác học đi giữa vành đai bảo vệ của các chiến binh, để lập ở đó một viện khoa học, nhưng cũng chính Napoleon đã tỏ thái độ kỳ thị với hàng loạt ngành khoa học xã hội, như lịch sử, triết học, đặc biệt là trường phái triết học của Thế kỷ Ánh sáng. Napoleon chống Kant một cách đặc biệt gay gắt, gọi Kant là một “tên bịp bợm”. Rồi đến kinh tế học chính trị cũng chịu chung số phận, nhất là trường phái kinh tế học chính trị theo chủ nghĩa trọng nông(2). Hàng loạt nhà khoa học xã hội trong các nước xã hội chủ nghĩa đã bị xử lý cầm tù không xét xử vì đã đưa những quan điểm trái ngược với quan điểm chính thống, như quan điểm về kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền, hòa giải và hòa hợp dân tộc thay vì chủ nghĩa quốc tế. Trong cuốn sách nổi tiếng “Chức năng xã hội của khoa học” của nhà vật lý chất rắn người Anh, John Bernal, xuất bản ở Vương Quốc Anh năm 1939, có một chương thú vị, “Khoa học và biến đổi xã hội”, trong đó ông dành một phần tuy không dài, nhưng súc tích, được đặt tên là “Khoa học và Chính trị”(3). Bernal đưa nhận định rằng, nhà khoa học mong muốn sử dụng các thành tựu của mình để làm biến đổi xã hội, trong khi nhà chính trị cũng mong muốn sử dụng đường lối chính trị của mình để cải biến xã hội. Trong trường hợp này, nhà khoa học đã đặt mình vào thế cạnh tranh với nhà chính trị. Điều đó cũng là lý do giải thích vì sao không ít nhà chính trị đã thẳng tay đàn áp khoa học. Ngược lại cũng có tình huống khác. Đó là nhà chính trị đã trọng dụng nhà khoa học vì sự nghiệp cách mạng của mình, và một số nhà khoa học đã tự nguyện phục vụ mục tiêu xã hội của nhà chính trị. Trường hợp những nhà khoa học và kỹ thuật tên tuổi như Tôn Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Mạnh Tường, Ngụy Như Kon Tum, v.v… cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh đi vào cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chính vì sự gặp nhau của những ý tưởng cao cả này. Nhưng dần dần xuất hiện những tình thế khác. Đó là trong sự hợp tác giữa nhà chính trị và nhà khoa học vì lợi ích chung của toàn xã hội, dần dần len lỏi những động cơ vụ lợi và mối quan hệ hai chiều này sẽ nghiêng dần về một nhóm quyền lực chính trị. Với thế mạnh của mình, họ thu hút một số nhà khoa học làm công cụ phục vụ cho lợi ích riêng, và đương nhiên, một số nhà khoa học không còn giữ được tư cách, trở thành kẻ cơ hội, trở thành những “nàng hầu” của nhóm quyền lực chính trị. Số khác thì tìm cách lánh xa chính trị, gọi là để tránh tiếng cơ hội chính trị, nhưng nếu không xử lý đúng đắn quan hệ này dễ trở thành kẻ đối lập với quyền lực chính trị và mang vạ vào thân. Giữa cái mớ bong bong ấy, sự xuất hiện những kẻ cơ hội, khi gặp giới khoa học thì nói chính trị, khi đi với giới chính trị thì nói khoa học là khó tránh khỏi, và đó thực sự là những quái thai của một nền khoa học và chính trị bệnh hoạn. Triết học marxist nói gì về quan hệ giữa khoa học và chính trị? Triết học marxist xem khoa học cũng như tôn giáo và ý thức hệ chính trị là những hình thái ý thức xã hội. Cũng theo quan điểm triết học marxist, mỗi hình thái ý thức xã hội có một chức năng xã hội riêng biệt, và có những hình thức biểu hiện riêng biệt. Hơn nữa các hình thái ý thức xã hội thì tương tác, nhưng không lệ thuộc lẫn nhau(4). Có nghĩa, khoa học không có chức năng minh họa và giải thích cho các hình thái ý thức xã hội khác. Đây là điều mà nhiều người nhầm lẫn, kể cả trong giới chính trị và trong tôn giáo. Chẳng hạn, Giáo hội đã phẫn nộ và mang xử án Galileo khi ông tuyên bố ủng hộ thuyết nhật tâm, trái với tín điều trong kinh thánh. Nhưng Giáo hội đã đủ tỉnh táo nhận ra sai lầm của mình: hơn ba trăm năm sau Giáo hoàng John Paul Đệ Nhị đã lập một ủy ban xem xét lại vụ án và đến năm 1992 đã tuyên bố minh oan cho Galileo. Tương tự việc làm của Giáo hội, mười năm sau khi Stalin chết, vào giữa thập niên 1960, Nhà nước Liên Xô cũng đã xem xét lại vụ án Lưxenko và phục hồi danh dự cho Vavilov và các nhà sinh học bị xử trí trong vụ án này. Nhiều người đã không hiểu mối quan hệ giữa khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác, như đã được chỉ ra rất rõ trong những luận điểm rất quan trọng của triết học marxist. Họ nghĩ một cách chân thành rằng khoa học phải phục vụ chính trị, phải chạy theo để giải thích tính đúng đắn của đường lối chính trị, cũng như tôn giáo, đòi khoa học phải nói theo kinh thánh. Trong xu thế ấy, người ta phê phán và lên án những kẻ nói ngược là thiếu “lập trường quan điểm”, là bấp bênh dao động là lẽ đương nhiên. Vấn đề là nhiều người đã không hiểu mối quan hệ giữa khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác, như đã được chỉ ra rất rõ trong những luận điểm rất quan trọng của triết học marxist. Họ nghĩ một cách chân thành rằng khoa học phải phục vụ chính trị, phải chạy theo để giải thích tính đúng đắn của đường lối chính trị, cũng như tôn giáo, đòi khoa học phải nói theo kinh thánh. Trong xu thế ấy, người ta phê phán và lên án những kẻ nói ngược là thiếu “lập trường quan điểm”, là bấp bênh dao động là lẽ đương nhiên. Không phải ngẫu nhiên, sau sự biến Hungary năm 1956 là những cuộc đàn áp các nhà khoa học. Nhận thức được tính chất sai lầm của những vụ án kiểu vụ án sinh học Xô Viết, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Hungary đã ra nghị quyết về khoa học, trong đó có một quan điểm được ghi nhận: “Cần có biện pháp bảo vệ các nhà nghiên cứu khoa học xã hội khỏi những nguy cơ về chính trị”. Thay lời kết luận Tôi nhớ, khi đến dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, tôi được tặng một quyển sổ, trang đầu tiên ghi mấy dòng như lời đề tựa: “Khoa học xã hội phải có nhiệm vụ giải thích cho đường lối chính trị…” Hèn nào, trong buổi truyền hình đêm 6 tháng 10 vừa qua, các vị giáo sư khả kính của chúng ta bộc bạch ý nghĩ của mình… Nghiên cứu giải thích “đường lối quan điểm” là an toàn nhất (!) Tôi thật ấn tượng nhớ lại, khi mới nhậm chức Tổng bí thư của Đảng CSVN, ông Đỗ Mười có cuộc gặp gỡ các nhà khoa học tại Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam. Phát biểu trong buổi đó, ông đã nhắc đi nhắc lại hai ý: “Khoa học phải phản biện cho đường lối chính trị của Đảng” và “Khoa học phải xây dựng luận cứ cho đường lối chính trị của Đảng”. Có lẽ đây là lần đầu tiên một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng CSVN đưa ra một quan điểm hết sức chuẩn xác về mối quan hệ giữa khoa học với chính trị. Vũ Cao Đàm -------------------------------------------------------------------------------- Ghi chú (1)Theo số liệu công bố trong Tạp chí Tia lửa nhỏ (Ogoniok) Số 8&9 năm 1986 (nguyên bản tiếng Nga) (2) Takle E. (1999), Napoleon Bonapart (Bản tiếng Việt), Nxb Quân đội Nhân dân, pp. 181-183 (3) Bernal J. (1939), The Social Function of Science, Ed. Roudlege, p.402. (4) Xem: Từ điển Triết học (1977), Nxb Tiến bộ, Moskva (Bản tiếng Việt) Bài của Vũ Cao Đàm trên Tia Sáng về mối quan hệ giữa Khoa học với Chính trị. Ông Đàm nhắc tới việc người ta đã thảo luận suốt 18 năm (!) về một bản dự thảo quy chế dân chủ trong khoa học xã hội. Vâng, người ta mất 18 năm để thảo luận xem khoa học xã hội được phép "dân chủ" tới mức nào, được phép đi lệch so với quan điểm marxist tới độ nào, và đến chừng nào thì phải dừng lại ở việc minh họa, giải thích. Và trong 18 năm đó, khoa học Việt Nam biết đi đâu, về đâu? Lấy ví dụ có nghiên cứu nào thực sự trung thực tìm hiểu, phân tích về tình trạng mất đất đai của nông dân, về tỷ lệ tô thuế của "bần nông mới", hay về tình trạng bãi công của công nhân xảy ra trong thời gian qua?.... Tôi cho là không, bởi vì như ông Đàm nhắc tới "Tôi nhớ, khi đến dự lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, tôi được tặng một quyển sổ, trang đầu tiên ghi mấy dòng như lời đề tựa: “Khoa học xã hội phải có nhiệm vụ giải thích cho đường lối chính trị…” Không chỉ khoa học xã hội, cả khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật cũng chịu những ảnh hưởng tương tự, dù có ở mức độ ít hơn. Ông Đàm cũng nhắc tới chủ nghĩa Lysenko trong khoa học (mà ông gọi là vụ án Lưxenkô), một ví dụ điển hình của việc khoa học phục vụ chính trị, và đã kéo lùi ngành sinh học của Liên Xô chậm đi ít nhất là nửa thế kỷ. Nếu ai từng đọc sách giáo khoa thời trước cải cách giáo dục hồi những năm 80 có thể sẽ nhớ được tên Lysenko. Khóa tôi có lẽ là khóa đầu tiên học sinh học Mendel trong nhà trường phổ thông. Và bây giờ, cái "dân chủ" nhất có thể được phép mà Đảng (với đại diện là GS. Nguyễn Đức Bình, nhà lý luận chủ chốt của ĐCS Việt Nam) cho phép là gì: Là việc ra đời một tạp chí có tên "Tranh Luận" lưu hành nội bộ (!) "để các nhà nghiên cứu khoa học xã hội thảo luận thẳng thắn những vấn đề đặt trước nhu cầu phát triển của đất nước." Một tờ tạp chí "lưu hành nội bộ"? Tức là sự "thảo luận thẳng thắn" của các vị chỉ được coi như là trí thức hiến kế "nội bộ" cho Đảng. Đấy là trường hợp tốt nhất, nhưng tôi ngờ rằng đó chỉ là cái van Đảng mở ra để các vị trí thức xả bớt khí tức đi, kiểu như giờ không viết trên Tia Sáng hay Talawas nữa mà chuyển sang viết cho tạp chí Tranh Luận của giáo sư Bình chẳng hạn. Còn trường hợp xấu nhất, có thể nó còn là một "cái bẫy chuột", một cái sàng để sàng bớt những "anh trí thức" nào cứng đầu, thích "thảo luận thẳng thắn" những vấn đề của đất nước. Trong lịch sử Đảng ta và các đảng anh em, không thiếu gì những bẫy chuột như thế, từ Trăm hoa đua nở bên Bạn, tới Nhân văn Giai phẩm bên ta, hay gần đây là Góp ý cho Đại hội X. LINH’s Blog
|
|
|
Post by tuhieu on May 13, 2009 20:25:05 GMT -5
Chân dung người đi tìm chủ thuyết phát triển cho Việt Nam Tác giả: Hiền Lương Danh Mục: • Tài Liệu - Tủ Sách Ngày đăng: 12/1/2008
Mặc dù không có được học hàm, học vị cao (Giáo sư, Tiến sĩ), nhưng nhà dân chủ kỳ cựu Lê Hồng Hà (sinh năm 1926), được anh em dân chủ Việt Nam biết đến là một cây lý luận sắc sảo.
Cuối năm 1944, ông Lê Hồng Hà tham gia hoạt động cách mạng tại Sở Công an Hà Nội; năm 1946 được kết nạp vào Đảng CSVN; năm 1951 được cử sang Trung Quốc đào tạo nghiệp vụ, sau đó về giữ chức vụ Phó hiệu trưởng trường nghiệp vụ Công an hàng đầu của Việt Nam - trường Công an trung ương, nay là Học viện An ninh nhân dân ở Thanh Xuân, Hà Nội. Chức vụ cuối cùng trong ngành Công an của ông là Chánh Văn phòng Bộ Công an. Trước khi nghỉ hưu (1993), ông Lê Hồng Hà là chuyên viên nghiên cứu của Bộ Lao động. Sau khi nghỉ hưu, ông bắt đầu hoạt động dân chủ. Tháng 6/1995, sau gần nửa thế kỷ tham gia đảng CSVN, ông Lê Hồng Hà bị khai trừ và bị bắt giam, xử 02 năm tù (12/1995) về tội danh tiết lộ bí mật nhà nước (không phải là “bí mật công tác” như tướng Quắc trong vụ án PMU18 gần đây).
Ông Lê Hồng Hà là người hiểu rõ đảng CSVN về lý luận cũng như thực tiễn mà ông đã có quá trình gắn kết trên nhiều cương vị khác nhau, khẳng định đảng CSVN là lực lượng chính trị lãnh đạo đất nước, không thế lực nào có thể thay thế được. Chính vì vậy, mặc dù bị khai trừ, bị tống giam, bản thân ông vẫn kiên trì nghiên cứu lý luận, vạch ra cho Đảng CSVN những sai lầm khiếm khuyết về tư tưởng cũng như cương lĩnh hành động, kiên định với chủ trương đấu tranh ôn hòa, trở thành một trong những nhà bất đồng chính kiến hàng đầu ở Việt Nam.
Sau khi ra tù, năm 1996, ông đề ra sách lược “Tiệm tiến”, sau đó là “Tự vỡ”. Năm 2007, khi phong trào dân chủ bị đàn áp khốc liệt, một số anh, chị em đấu tranh dân chủ kiên cường bị bắt giam như Nguyễn Văn Đài, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Phong, Trần Khải Thanh Thủy, bác sĩ Lê Nguyên Sang, Lê Nguyên Đạo, Nguyễn Bắc Truyển,… từ Hà Nội ông đã hội đàm dân chủ qua điện thoại với TS Nguyễn Xuân Tụ và nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt, tiếp tục khẳng định chủ trương đấu tranh ôn hòa. Gần đây, ngày 18/7/2008, ông đã có bài viết “Đi tìm chủ thuyết phát triển cho Việt Nam từ đầu thế kỷ 21 đến nay”, kiên trì kiến nghị đảng CSVN đoạn tuyệt chủ nghĩa ngoại nhập Marx Lénine, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh thuần khiết (không thêu dệt) làm nền tảng tư tưởng, đưa đất nước hội nhập vững chắc vào thế giới.
Dẫu vẫn biết, chủ thuyết phát triển cho Việt Nam mà ông vừa nêu ra sẽ có chung số phận với sách lược “Tiệm tiến”, “Tự vỡ” trước đây cũng như sáng kiến dân chủ ngày 18/3/2007 gần đây: cả hai phía (đảng CSVN, anh em dân chủ trong nước) đều không mấy mặn mà, hải ngoại thì chỉ trích quyết liệt. Điều khiến ông buồn nhiều nhất có thể là đảng CSVN chẳng hề tỏ ra quan tâm đến các luận cứ của chủ thuyết mà ông đã dày công nghiên cứu, không mảy may cho ông một cơ hội để bảo vệ chủ thuyết của mình.
Riêng anh em dân chủ hoạt động dạng phong trào, lấy việc “cọ xát” với chính quyền, đối đầu với Công an làm thước đo bản lĩnh dân chủ nhằm gây chú ý của hải ngoại, chắc chắn phản đối, cho rằng ông là dân chủ nửa vời. Tiêu biểu cho sách lược này là Phương Nam Đỗ Nam Hải. Quan điểm của họ là đảng CSVN không thể “tự vỡ” nếu không có lực tác động tương hổ từ các nhà đấu tranh dân chủ và áp lực quốc tế; lãnh tụ Hồ Chí Minh chỉ là thần tượng do đảng CSVN thêu dệt.
Với anh em hải ngoại, ông chẳng mấy buồn phiền bởi vì ông xác định yếu tố nội quyết định cho dân chủ Việt Nam. Đây là sự khác biệt giữa ông với một số anh em hoạt động dân chủ dạng phong trào. Trong số danh xưng dân chủ, đảng chính trị, được chưng lên Internet thời gian qua không thấy có tên ông là điều dễ hiểu. Là người tâm huyết với dân chủ, ông không thể không buồn khi chứng kiến một số anh em hoạt động dân chủ với động cơ cá nhân, hoạt động dân chủ để kiếm tiền hải ngoại, hoặc tạo lý do để xin định cư Hoa Kỳ. Vì vậy, khi bị đàn áp, một số anh em bị mua chuộc, chạy trốn, đầu hàng để tránh tù tội, chính quyền có điều kiện để cài cắm nhân sự, tạo dựng dân chủ “cuội” đánh phá phong trào. Điều này làm ông đau lắm, bởi ông đã từng giữ nhiều chức vụ cao trong ngành Công an. Cuối cùng, ông buồn nhất là đến giờ này một số anh em vẫn chưa chịu nhận thấy sai lầm do vội vàng công bố danh xưng khi chưa có lực lượng và cương lĩnh hành động cụ thể, tổn thất dường như đã được báo trước mà vẫn cứ làm. Riêng tôi, vững tin chủ thuyết của ông sẽ được nhiều trí thức tiến bộ đón nhận, ông có thể tự hào sẽ có ngày nó được chiêm nghiệm.
Ở cái tuổi bát thập cổ lai hi, nhà bất đồng chính kiến Lê Hồng Hà tiếp tục đi tìm chủ thuyết phát triển cho Việt Nam. Đó là bi kịch cuối đời, góc tối của những khát vọng dân chủ đang nung nấu trong tâm can của ông, chỉ có ông thấy rõ nhất. Biết đến bao giờ góc tối này mới bừng sáng, anh em dân chủ, nhân dân và những đảng viên CSVN tiến bộ nhìn nhận và xúc tiến chủ thuyết của ông, tạo ra các tiền đề cho dân tộc Việt hóa Rồng?
Cuối năm 1996, ông đã đưa ra dự báo quá trình “tự vỡ” của đảng CSVN sẽ diễn ra trong quảng thời gian từ 10 đến 15 năm. Nay đã cuối năm 2008, Việt Nam sẽ có đột biến trong vài, ba năm tới? Hy vọng dự báo của ông chính xác, ông sẽ hãnh diện ra đi trong sự tiếc nuối của anh em dân chủ trong và ngoài nước, cũng như những đảng viên CSVN chân chính. Có lẽ điều quan trọng nhất, nhân dân Việt Nam sẽ vinh danh ông là Giáo sư bất đồng chính kiến lỗi lạc.
Sài Gòn 6 tháng 11 năm 2008 Hiền Lương
|
|
|
Post by tuhieu on May 21, 2009 18:00:28 GMT -5
Công hàm Phạm Văn Đồng 15/05/2009 | 1:30 sáng |
Tác giả: Dương Danh Huy
Chuyên mục: Vấn đề Biển Đông Thẻ: Công hàm của TT Phạm Văn Đồng > Hoàng Sa-Trường Sa
Gần đây có một số ý kiến về “vô hiệu hoá” hay “hoá giải” công hàm thường được gọi là “Công hàm Phạm Văn Đồng” (CHPVD).
Tôi cho là một số ý kiến trong số đó hoàn toàn không có giá trị pháp lý.
Ý kiến thứ nhất được thể hiện qua việc kêu gọi Quốc hội Việt Nam tuyên bố rằng CHPVD không có hiệu lực.
Tuyên bố đó không có giá trị pháp lý.
Nếu CHPVD có hiệu lực ràng buộc đối với CHXHCNVN thì tuyên bố đơn phương của Việt Nam rằng nó không có hiệu lực, chính nó là một tuyên bố không giá trị pháp lý. Đó là ý nghĩa của từ “ràng buộc”.
Nếu CHPVD không có hiệu lực ràng buộc đối với CHXHCNVN thì việc Việt Nam tuyên bố rằng nó không có hiệu lực, cũng không có giá trị pháp lý.
Trên thực tế, Quốc hội Việt Nam (CHXHCNVN) đã ký công hàm sáp nhập Hoàng Sa, Trường Sa vào các tỉnh của Việt Nam và đã có một số động thái khác. Những động thái này có nghĩa Quốc hội Việt Nam cho là CHPVD không có hiệu lực ràng buộc Việt Nam phải công nhận là Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, và Quốc hội Việt Nam đã thể hiện quan điểm đó qua các động thái. Nếu bây giờ tuyên bố rằng CHPVD không có hiệu lực ràng buộc Việt Nam phải công nhận là Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, thì có thêm gì không?
Ý kiến thứ nhì là CHPVD làm cho Việt Nam ngày nay bị mất chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng nếu trong tương lai Việt Nam có một chính phủ phủ định Đảng Cộng sản, phủ định chính phủ Việt Nam ngày nay, đặc biệt là phủ định chính Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, và tuyên bố là mình thừa kế di sản Việt Nam Cộng hoà, thì chính phủ đó sẽ có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Trước khi nói thêm, tôi phải nói là ở đây tôi chỉ nói trong phạm trù chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, tôi không nói tới thể chế nào, ý thức hệ nào, đảng phái nào tốt xấu ra sao.
Ý kiến thứ nhì sai lầm vì nước Việt Nam trong tương lai bắt buộc phải và chỉ có thể (*) thừa kế từ nước Việt Nam ngày nay.
Nếu nước Việt Nam ngày nay không còn chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thì không tồn tại chủ quyền Việt Nam đối với hai quần đảo này để mà nước Việt Nam trong tương lai thừa kế.
Nếu Việt Nam ngày nay bị CHPVD ràng buộc thì Việt Nam trong tương lai cũng sẽ bị CHPVD ràng buộc.
Không có chuyện “cộng sản” không có chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa nhưng “quốc gia” hay “dân chủ” thì có.
Không có chuyện CHPVD ràng buộc “cộng sản” nhưng không ràng buộc “quốc gia” hay “dân chủ”.
Không có chuyện Việt Nam (bao gồm hai miền Nam, Bắc) trong tương lai có thể chọn thừa kế từ Việt Nam Cộng hoà mà không thừa kế từ CHXHCNVN hay Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Có thể (nhưng chưa khẳng định được) là CHPVD ràng buộc miền Bắc trước 30/4/75 không được tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Quốc (a).
Nhưng CHPVD không làm cho miền Nam trước 30/4/75 mất chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
Nước Việt Nam bao gồm hai miền Bắc Nam sau 30/4/75 thừa kế hai điều trái ngược nhau:
(a) Trách nhiệm, nếu có gây ra bởi CHPVD, không được tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Quốc, thừa kế từ những gì Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã làm.
(b) Chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, thừa kế từ miền Nam.
Có ý kiến cho là tính không tồn tại sự thừa kế (b) vì chính phủ Việt Nam Cộng hoà không còn tồn tại, hay là chính phủ bị thua, hay là bị lật bằng bạo lực, hay là bị cho là “Ngụy”.
Lưu ý là sự thừa kế ở đây là thừa kế trong sự tiếp nối quốc gia, không phải là thừa kế trong sự tiếp nối chính phủ. Vì vậy, nếu cho là sự thừa kế (b) không tồn tại vì những lý do trên là không chính xác.
Câu hỏi là theo toà hay luật pháp quốc tế thì (a) hay (b) quan trọng hơn, phải bỏ cái nào để giữ cái nào.
Ghi chú
(*) Trừ khi sáp nhập với nước khác
|
|
|
Post by vietnam on May 22, 2009 18:45:28 GMT -5
Hoa kiều ở bắc Việt Nam thời chiến Tiến sĩ Balazs Szalontai Viết riêng cho BBCVietnamese.com Cộng đồng Hoa kiều góp vai trò lớn trong phát triển kinh tế thời chiến Vấn đề người Hoa thiểu số tại bắc Việt Nam đã gây rắc rối cho mối quan hệ giữa Hà Nội với Bắc Kinh từ trước khi có cuộc chiến Việt Trung năm 1979. Những dấu hiệu đầu tiên về sự rạn nứt xuất phát từ thời gian chiến tranh Việt Nam, chủ yếu phản ánh những bất đồng lớn hơn về các vấn đề chiến lược và ngoại giao. Cộng đồng người Hoa nói chung trở thành con bài trong trò chơi chính trị quyền lực giữa Trung Quốc với Bắc Việt thay vì là một người chơi độc lập. Mắc kẹt giữa hai nhà nước, người Hoa thiểu số hầu như không có mấy ‘đất dụng võ' để tạo ảnh hưởng. Bắc Kinh càng gia tăng nỗ lực mở rộng thêm ảnh hưởng đối với cộng đồng Hoa kiều, giới chức Bắc Việt lại càng nghi ngờ và đàn áp, và người Hoa thiểu số càng thấy họ không thể nào không bị ảnh hưởng vì xung đột. Vai trò thay đổi Điều trớ trêu là ban đầu, nhà nước Cộng sản TQ không coi cộng đồng Hoa kiều ở Bắc VN là công cụ thích hợp để họ đạt được mục tiêu. Năm 1955, đại sứ TQ tại Hà Nội nói với một nhân viên ngoại giao Hungary rằng cộng đồng Hoa kiều ở VN không có đóng góp gì lớn cho cuộc đấu tranh của Việt Minh chống lại sự cai trị của Pháp, một phần không nhỏ là vì "chân tay của Tưởng Giới Thạch ảnh hưởng mạnh tới họ". Sự tham gia ít ỏi của người Hoa vào phong trào chống thực dân cũng chỉ là một biểu hiện cho thấy sự hội nhập xã hội ở mức tương đối thấp của họ vào cộng đồng người Việt chiếm đa số. Năm 1974, có khoảng 200 ngàn người Hoa sống tại bắc VN, trong đó 50 ngàn người ở Hải Phòng, 45 ngàn ở Nam Định, 30 ngàn ở Hà Nội và phần còn lại là ở các khu vực gần biên giới Việt Trung. Các cộng đồng người Hoa sống khá khép kín, chẳng hạn việc hôn nhân giữa người Hoa và người Việt không phải là chuyện phổ biến. Rất ít người Hoa muốn hồi hương hẳn về TQ, mà đa phần thường thực hiện các chuyến thăm ngắn về TQ. Năm 1973, 6500 Hoa kiều về thăm lại thân nhân của họ ở TQ. Các bậc cha mẹ người Hoa thường tìm kiếm cơ hội cho con được học hành ở TQ, nhưng việc giảng dạy bằng tiếng Trung do các thầy cô người Hoa thực hiện cũng sẵn có trong các trường đặc biệt mà giới chức Bắc Việt đã lập ra cho cộng đồng người Hoa. Như các cán bộ Việt Nam phàn nàn, chương trình học của các trường Hoa kiều thường chú trọng đến văn hóa và lịch sử của Trung Quốc hơn là Việt Nam. Cộng đồng người Hoa gánh chịu hậu quả trong ván bài chính trị giữa Trung Quốc và Bắc Việt Tuy nhiên, mặt khác, cộng đồng Hoa kiều đóng góp lớn vào việc phát triển kinh tế của đất nước. 60% người Hoa thiểu số là nghệ nhân và dân buôn bán. Với sự đồng ý của giới chức Việt Nam, người gốc Hoa được buôn bán mạnh qua biên giới với Trung Quốc. Người buôn bán Hoa kiều mang về một lượng hàng tiêu dùng lớn cần thiết cho bắc Việt Nam, được đổi lại bằng vàng bạc. Một phần vì lý do này mà họ không muốn làm phật lòng láng giềng hùng mạnh phía bắc. Do vậy, trong thời gian mà quan hệ giữa Trung Quốc và Bắc Việt thân thiết, người ta không cho rằng những buôn bán qua biên giới này tạo ra rủi ro nghiêm trọng. Căng thẳng Tuy nhiên, xung đột Việt Trung xảy ra đã mang lại những thay đổi lớn. Năm 1961-62, lãnh đạo đảng Cộng sản TQ lần đầu tiên đã xúi một nhóm công nhân Trung Quốc tại Mông Cổ gây áp lực lên chính phủ ‘thân Liên Xô' này thông qua các cuộc đình công lớn. Lãnh đạo ĐCSTQ lại áp dụng chiến thuật này đối với Bắc Việt Nam. Năm 1967-68, mối quan hệ giữa TQ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bị sa sút nghiêm trọng, chủ yếu vì TQ phản đối quyết định của Việt Nam mở rộng hợp tác với Liên Xô và bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ tại Paris.Trong số các vụ việc, có vụ công nhân Trung Quốc ở VN đã gây âu đả với các chuyên gia kỹ thuật Liên Xô với mục tiêu là buộc giới lãnh đạo còn "do dự" của Việt Nam phải lựa chọn: hoặc đứng về phía Liên Xô, hoặc đứng về phía TQ. Khi căng thẳng gia tăng dẫn đến các vụ đụng độ giữa dân Việt Nam với các đơn vị hậu cần mà TQ triển khai ở Bắc Việt, Hà Nội đề nghị chính phủ TQ rút quân. Năm 1970, Bắc Kinh tuân thủ, nhưng các sự cố tiếp tục xảy ra, chí ít cũng do Việt Nam và TQ đang cạnh tranh quanh vấn đề Campuchia, và Hà Nội không hài lòng với cách tiếp cận của Trung Quốc và Mỹ. Theo báo cáo của đại sứ quán Hungary, năm 1974, hàng ngàn lính TQ mặc thường phục đã vào khu vực tranh chấp tại tỉnh Cao Bằng, nơi giới chức Bắc Việt cũng đề nghị binh lính của họ mặc thường phục trục xuất người Trung Quốc mà không dẫn đến nổ súng. Trong khi đó, giới ngoại giao TQ liên lạc chặt chẽ với các cộng đồng Hoa kiều. Trong khi một số người Hoa tích cực học theo lý thuyết của Mao Trạch Đông, những người khác coi chính sách cực tả của cuộc Cách mạng Văn hóa là điều khủng khiếp. Tuy nhiên, đa phần vẫn quyết tâm giữ bản sắc dân tộc của họ và giữ mối quan hệ với TQ, bất kể ai lên nắm quyền. Một ví dụ là khi chính quyền bắc Việt Nam tung ra chiến dịch buộc người Hoa chấp nhận quốc tịch VN, chỉ một nhóm cán bộ người Hoa nghe theo, mà đa phần là các cá nhân đã quá bị đồng hóa theo nếp sống người Việt. Sau đó, giới chức muốn tịch thu hộ chiếu TQ của người gốc Hoa bằng nhiều lý do, nhưng đa phần người Hoa từ chối, nói rằng hộ chiếu TQ là tối cần thiết để họ về thăm lại thân nhân. Các biện pháp đồng hóa của giới chức Bắc Việt còn được kết hợp với các biện pháp mang tính phân biệt. Chính quyền ngừng thuê các phiên dịch người Hoa, hay tuyển dụng người Hoa vào làm tại các nơi thường xuyên liên lạc với người nước ngoài, như khách sạn, hải quan, sân bay..vv.. Người gốc Hoa hiếm khi được nhận vào quân đội, và ngay cả khi xung phong đầu quân thì cũng chỉ được làm ở các đơn vị hậu cần chứ không được tham gia vào lính chiến đấu ra tuyến đầu ở miền Nam. Hệ quả của bất tín Đúng là cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội đã có những biện pháp nhất định nhằm ngăn ngừa xung đột leo thang. Cuối năm 1973, đại sứ quán TQ đã giảm các hoạt động tuyên truyền nhắm vào người Hoa, vì họ biết chuyện này khiến lãnh đạo chính quyền Bắc Việt tức giận ra sao. Trước khi TQ chiếm Hoàng Sa thì lãnh đạo VN cũng thường cho người Hoa về thăm thân nhân ở TQ mà không gây cản trở gì. Giống như các đụng độ khi trước, những biểu hiện của chủ nghĩa thực dụng này chủ yếu đều tính đến nước cờ ngoại giao. Như ông Hoàng Tùng, tổng biên tập báo Nhân Dân, có lần nói với một nhà ngoại giao Hungary vào tháng 6/1973, là một cuộc đối đầu trực diện với Trung Quốc chẳng khác nào một vụ "tự tử quốc gia". Bên cạnh đó, Bắc Việt rất cần viện trợ kinh tế của TQ. Rất nhiều nhà máy bị bom Mỹ phá hủy được xây dựng lại là nhờ sự trợ giúp của Trung Quốc. Tuy nhiên, sự không tin cậy lẫn nhau cũng như quyền lợi chiến lược ngày càng tách rời giữa Trung Quốc và Bắc Việt không thể nào được khắc phục bằng một vài cử chỉ hợp tác. Một biểu hiện căng thẳng nữa là lãnh đạo Cộng sản Việt Nam ngày càng thích viện dẫn truyền thống lịch sử chống Bắc thuộc của Việt Nam. Chẳng hạn vào đầu năm 1973, các diễn văn và xã luận của chính quyền Bắc Việt ăn mừng hiệp định Paris bằng việc nhắc lại chuyện Hai Bà Trưng và Nguyễn Huệ chiến thắng quân xâm lược TQ. Trong bầu không khí đó, hầu như không có cơ hội cho Hà Nội và cộng đồng Hoa kiều tạo lập một quan hệ dễ thở. Sau khi tìm cách có sự tham gia của cộng đồng Hoa kiều trong các ván bài ngoại giao, Bắc Kinh đã làm tăng thêm sự nghi ngờ của lãnh đạo Bắc Việt, và kết quả là cộng đồng Hoa kiều phải gánh chịu hậu quả. Về tác giả:Tiến sĩ Balazs Szalontai từng dạy ở Đại học Khoa học Công nghệ Mông Cổ và hiện là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006).
|
|
|
Post by votieugiap on Aug 10, 2009 19:23:38 GMT -5
Thuỷ điện Lan Thương, nắn dòng Mekong: Nguy cơ báo trướcLiên hợp quốc đã đưa ra cảnh báo, việc Trung Quốc xây dựng một loạt đập thủy điện trên sông Mekong sẽ là mối đe dọa lớn cho tương lai của Đông Nam Á. Xin giới thiệu những đánh giá của Tiến sĩ Tyson R. Roberts đăng trên Internationalrivers: Hoàng hôn trên dòng Mekong. (Ảnh: Theminters) Trung Quốc có ý định phát triển thuỷ điện trên sông Mekong (nước này gọi là sông Lan Thương) tại Vân Nam cũng như làm một tuyến đường thuỷ chính nối Vân Nam tới Biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Hoa Nam) với khoảng cánh khoảng 2.500km. Kế hoạch đó đặt ra những vấn đề chưa từng thấy về môi trường và xã hội với các nước thuộc hạ nguồn sông Mekong như Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Sự suy giảm sinh thái trầm trọng với sông Mekong từ dự án là điều được biết trước. Và dĩ nhiên, những ảnh hưởng ấy sẽ không chỉ giới hạn với dòng sông này. Các nước vùng hạ nguồn sẽ buộc phải thực hiện những nỗ lực to lớn và kiệt sức nhưng không có hiệu quả để tự bảo vệ họ và tránh tác động với ngành nông nghiệp, nghề cá cũng như sinh kế. Campuchia và Việt Nam, hai nước xa nhất ở hạ nguồn sẽ không còn hưởng lợi ích từ Mekong, đồng thời phải trải qua ảnh hưởng tiêu cực tồi tệ nhất từ dự án trên, đặc biệt là Biển Hồ của Campuchia cũng như vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Bản thân Trung Quốc cũng sẽ không tránh khỏi tác động bất lợi từ dự án trên. Quan ngại đặc biệt là vấn đề trầm tích của các hồ chứa thuộc đập thuỷ điện Lan Thương; lở đất xảy ra sẽ thường xuyên hơn, lớn hơn cũng như nhiều hậu quả khác mà các đập và hồ chứa gây ra. Tuổi thọ thực tế của các đập thuỷ điện trên dòng Lan Thương dường như sẽ chỉ là vài chục năm thay vì một trăm năm như các nhà đề xuất dự án dự báo và mong muốn. Nguy cơ thấy rõ Theo các nhóm môi trường và chuyên gia, do các đập nước xây dựng ở những hẻm núi dốc đứng tại Vân Nam, Trung Quốc nhằm sản xuất điện cho nước này, mực nước ở sông Mekong đang tăng và giảm tới 1m/giờ, xáo trộn môi trường sống của cá, xói mòn bờ sông, cuốn trôi trầm tích và dinh dưỡng khi nó chảy về phía Nam. Ian Campbell, quan chức môi trường cấp cao tại Văn phòng Ủy ban sông Mekong (MRC) tại Vientiane (Lào) nói: ’’Các đập nước của Trung Quốc là thủ phạm gây ra hầu hết mọi thứ. Tuy nhiên, không có nghiên cứu khoa học, mức độ tác động vẫn hoàn toàn có tính chất suy đoán". Dự án cung cấp điện “các đập thủy điện Lan Thương” do Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đưa ra sẽ cho phép điều chỉnh lưu lượng nước vùng hạ du và cuối cùng là phát triển toàn bộ sông Mekong cho vận chuyển đường thuỷ. Lợi ích của dự án thuỷ điện - đường thuỷ với các nước vùng hạ nguồn đòi hỏi việc khảo sát, xem xét thận trọng. Người dân địa phương và các nước vùng hạ du phản đối dự án đập thuỷ điện - tuyến đường thuỷ ngày một gia tăng khi những thị trấn ven sông ở Myanmar, Lào, Thái Lan đã là nơi sớm nhất đã nếm trải những tác động tiêu cực rõ ràng từ việc xây hệ thống đập vùng thượng nguồn Mekong. Khả năng những nước vùng hạ du sẽ buộc phải dành phần lớn trong các quỹ phát triển cũng như nhiều nguồn lực khác để giảm thiểu tác động bất lợi từ dự án. Ảnh hưởng tiêu cực về môi trường và xã hội là quan ngại lớn nhất. Sáu hoặc bảy đập thuỷ điện, với độ cao từ 110-300 mét xây dựng trên dòng chính của sông Mekong (sông Lan Thương) ở tỉnh Vân Nam sẽ sản xuất điện vào năm 2020. Những đập này sẽ là mối đe doạ với sinh kế, tài sản, cuộc sống của mọi người dân các nước vùng hạ du. Với diện tích và sức chứa khổng lồ của các hồ chứa, hai đập cao nhất (254 và 300 mét) đặc biệt mang lại nguy cơ lớn nhất. Hiệu ứng “domino” (tác động lôi kéo) của chúng gây nguy hiểm cho toàn bộ hệ thống. Chưa kể việc chặt cây, đốt rừng làm nông nghiệp, xây dựng đường sá sẽ làm gia tăng tỉ lệ xói mòn của các hẻm núi dốc đứng mà sông chảy qua phía trên các đập. Động đất thường xuyên và ngày một lớn, lở đất, cùng hàng loạt nguy cơ nghiêm trọng với đập Lan Thương, có lẽ cũng gia tăng. Lở đất Nguy cơ này được công nhận là phổ biến nhất. Đập Tiểu Loan cao 300 mét với hồ chứa dài 169km dự kiến hoàn thành và bắt đầu chứa nước vào năm 2010. Đập Nuozhadu cao 254 mét (hồ chứa nước dài 226km) dự kiến hoàn thành sớm nhất vào năm 2017. Ước tính mỗi hồ tại đập cần ít nhất 10 năm để chứa đủ lượng nước cao 248m và 205m tương ứng. Hiện tại, hệ sinh thái Mekong trong điều kiện tương đối “lành mạnh”. Xây dựng hệ thống đập ở dòng chảy chính vùng thượng nguồn Lan Thương cũng như mạng lưới đường thuỷ sẽ làm tổn thất về mặt môi trường, làm giảm giá trị nghiêm trọng của sinh thái học. Việc tách trầm tích thượng nguồn và các chất dinh dưỡng trong các hồ chứa cũng như “điều khiển” dòng chảy trên cơ sở kiểm soát lượng nước thoát ra từ các đập thuỷ điện sẽ gây ra những tác động tiêu cực chính. Thuỷ năng tự nhiên của dòng sông bị giảm đi, xả nước không đúng quy luật liên quan tới phát điện cũng như những thay đổi tổng thể khác sẽ có hại tới quá trình đơn giản hoá sinh thái học, sụt giảm giá trị sinh thái sông Mekong. Tác động môi trường sẽ không riêng lẻ mà là tổng thể, tích luỹ. Tổn thất to lớn về mặt sinh học chỉ là một trong những hậu quả nghiêm trọng được dự báo. Sẽ không chỉ là việc mất đi một số loài sinh vật đặc biệt, mà còn là những hậu quả bất lợi với con người cũng như thực trạng sụt giảm về số lượng rất nhiều loài cá di trú vốn đóng vai trò quan trọng trong công nghiệp đánh bắt cá ở sông Mekong. Thuỷ năng tự nhiên là thuộc tính cốt lõi của sông. Hiệu suất, sức khoẻ và sự duy trì của một con sông cũng như các thuộc tính đặc biệt của môi trường sống ven sông như vùng thác ghềnh, cửa sông, châu thổ đều liên quan trực tiếp tới thuỷ năng tự nhiên. Nó vận chuyển trầm tích và chất dinh dưỡng hạ nguồn, cung cấp nước và phù sa cho những đồng bằng châu thổ lớn, bổ sung nước ngầm và nâng cao năng suất, sự màu mỡ của đất. Trong khi các tác động tiêu cực sẽ xảy ra với tất cả các nước có sông Mekong bao gồm cả Trung Quốc, thì hậu quả tồi tệ nhất sẽ là những quốc gia vùng hạ nguồn cách xa nhất với khu vực thượng nguồn: Campuchia và Việt Nam - nước hưởng lợi ít nhất và chịu tổn thất nhiều nhất. Tác động tiêu cực từ sự thay đổi sông Mekong của Trung Quốc bao gồm ảnh hưởng với nghề cá, nông nghiệp, chất lượng nước, sức khoẻ và lâm nghiệp. Những thành phố, trung tâm cư dân lớn ở bên bờ Mekong tại Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam sẽ là “tâm điểm” của nhiều tác động về mặt vật lý học như xói mòn, lũ lụt bởi hệ thống đập thuỷ điện Lan Thương. Tạo ra một tuyến đường thuỷ thích hợp ở sông Mekong sẽ liên quan tới việc di dời đá ngầm, các bãi cát cửa sông, đảo và nhiều thay đổi to lớn khác của lòng sông cũng như dòng chảy. Việc bảo trì tuyến đường yêu cầu liên tục nạo vét sông trên diện rộng. Ảnh hưởng riêng từ tuyến đường thuỷ với khu vực hạ nguồn là suy giảm trầm trọng môi trường sống của các loài cá cũng như chất lượng nước. Giao thông đường thuỷ tấp nập chắc chắn để lại hậu quả ô nhiễm với cộng đồng ven sông cũng như năng suất mùa màng gieo trồng, cá và các sinh vật khác sinh sống tại sông Mekong. Khơi dòng Mekong nhằm tối đa hoá khả năng vận chuyển đường thuỷ - mục đích rõ ràng của người Trung Quốc - sẽ làm giảm khả năng cản dòng của toàn bộ dòng chảy chính sông Mekong khu vực dưới Vân Nam. Nước sẽ chảy nhanh hơn ra biển, gây mất khả năng trữ nước. Hậu quả là khiến lượng nước thoát đi trong dòng chính của Mekong lớn hơn bao giờ hết, trong cả mùa khô lẫn mùa mưa. Nguy cơ lụt lội gia tăng (kể cả lũ quét), hạn hán thêm trầm trọng. Khả năng trữ nước giảm cũng là nguyên nhân gây ra những thay đổi lớn với hệ sinh thái của sông và giảm năng suất nông nghiệp. Tỉnh Vân Nam – khu vực xây dựng hệ thống đập trên sông Lan Thương – đã phá rừng diện rộng từ năm 1950. Trung Quốc vẫn nỗ lực bảo vệ lưu vực sông của hệ thống đập Thuỷ điện Lan Thương bằng các đồn điền cây trồng nhưng tới nay, vẫn chưa nhìn thấy thành công. Biến Mekong thành một tuyến đường thuỷ là rất khó khăn vì lòng sông nhiều đá ngầm, kênh rạch nhỏ, vô số thác ghềnh và đảo. Tạo tuyến đường thuỷ trên phân khúc này sẽ lập tức “phơi bày” rừng cho chặt cây đốn gỗ với quy mô lớn. Những người đốn gỗ không ngại ngần tạo ra thêm nhiều đường sá và tìm tới nhiều nơi khác dọc theo khu vực sông để khai khẩn. Phá rừng trên diện rộng sẽ làm gia tăng tính bất thường của lượng mưa, làm trầm trọng hoá nạn lũ lụt, hạn hán vùng hạ du. * Tyson R. Roberts (Tiến sĩ, Đại học Stanford 1968) nghiên cứu ngư học tại lưu vực sông Mekong từ năm 1970 và chuyên làm việc trong lĩnh vực đánh giá tác động với môi trường của những dự án thuỷ điện ở Mekong. Ông đã giành nhiều giải thưởng trong lĩnh vực nghiên cứu ngư học tại vùng nhiệt đới châu Á. (Còn tiếp)
|
|
|
Post by votieugiap on Aug 10, 2009 19:26:37 GMT -5
TQ khai thác sông Mê Kông và nguy cơ giết chết ĐBSCL ĐBSCL của nước ta ở cuối nguồn sông Mê Kông, chịu tác động của tất cả những biến động của thượng nguồn, đồng thời còn chịu tác động từ phía biển do biến đổi khí hậu. Chủ động đối phó với những nguy cơ ấy là việc không thể coi nhẹ và phải chuẩn bị sớm. Những dự án của Trung Quốc trên sông Mê Kông đang làm ảnh hưởng đến các vùng nước ven sông cũng như chính con sông này. Phó Chủ tịch Tổng hội Xây dựng VN, Chủ tịch Hội Đập lớn và Phát triển nguồn nước VN, nguyên phó Chủ tịch Ủy ban sông Mê Kông VN, GS.TS khoa học Phạm Hồng Giang cùng trao đổi về vấn đề này. - Xin ông cho biết về các công trình đang được xây dựng trên thượng nguồn sông Mê Kông hiện nay. - GS.TSKH Phạm Hồng Giang: Thượng nguồn sông Mê Kông ở trong lãnh thổ Trung Quốc (TQ) được gọi là sông Lan Giang (Lan Thương). Bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (có độ cao khoảng 5.000m so với mặt nước biển) nhưng phần lớn lưu vực nằm trong tỉnh Vân Nam. Khi đến lãnh thổ Lào, Thái Lan, cao trình đáy sông chỉ còn khoảng 400m nên ở thượng nguồn sông có độ dốc lớn. Tiềm năng thủy điện sông Mê Kông phần lớn ở đó. Khai thác thủy điện và khoáng sản là hai điểm mạnh của tỉnh Vân Nam (TQ). Đập Đại Chiếu Sơn trên sông Lan Thương. Ảnh: Doanh nhân SG cuối tuần Chương trình phát triển thủy điện vùng thượng nguồn sông Mê Kông không còn là chuyện mới. Nó đã được chuẩn bị và triển khai từ lâu và dư luận trong vùng cũng như thế giới đã lên tiếng hơn 10 năm nay (trang tin điện tử-www.vncold.vn- của Hội Đập Lớn VN đã đăng nhiều bài về chủ đề này). Chương trình có 15 đập thủy điện lớn trên dòng chính, đã và đang xây dựng một nửa, trong đó có các đập lớn đã xong như Xiaowan (cao 292m, công suất thủy điện 4.200 MW, dung tích hồ hơn 15 tỉ m3), Nuozhadu (cao 260m, công suất thủy điện 5.500 MW, dung tích hồ gần 23 tỉ m3 )… Đối với số con đập còn lại, tuy chưa bắt tay xây dựng nhưng cũng đã thiết kế xong. Tổng lượng nước dự trữ trong các hồ nói trên vào khoảng 55 tỉ m3 . Tổng công suất các nhà máy thủy điện vào khoảng 24 GW. Mấy năm trước đã hoàn thành dự án phá một số ghềnh thác trên dòng sông chính từ TQ đến Lào để mở rộng tuyến giao thông đường thủy từ vùng sâu phía Tây Nam TQ xuống các nước Đông Nam Á. Ngoài ra, để tăng lượng nước chuyển từ sông Dương Tử lên phía Bắc đang thiếu nước nghiêm trọng, TQ đang triển khai hệ thống kênh lớn với quy mô không kém Vạn Lý Trường Thành. Có nhiều đề xuất cần lấy bổ sung thêm nước sông Lan Thương để chuyển lên phía Bắc. Việc này không khó vì ở vùng thượng nguồn, hai sông Lan Thương và Dương Tử rất gần nhau, có nơi chỉ khoảng mấy chục km. Để đưa nước sông Lan Thương sang sông Dương Tử cần đào đường hầm nối hai sông ấy mà phương tiện kĩ thuật hiện nay có thể giải quyết tương đối dễ dàng. Nguy cơ giết chết đồng bằng sông Cửu Long - Theo ông, việc xây dựng đập và các công trình khác trên sông Mê Kông của TQ có ảnh hưởng thế nào đến các nước trong vùng? - Điều đáng lo ngại thứ nhất là vì mục tiêu tăng lợi ích phát điện trên thượng nguồn mà sẽ có nhiều lúc không giúp điều tiết nguồn nước ở hạ du, trái lại còn có thể làm cho lũ và khô kiệt ở hạ du gay gắt thêm. Nếu các đập ở thượng nguồn xả cùng lúc với lũ tự nhiên thì lũ có tính nhân tạo sẽ cao hơn rất nhiều. Thứ hai là tác động xấu đến môi trường ở hạ du. Những đập chắn ngang dòng chính tạo ra những biến đổi về lượng phù sa, những tổn thất về đa dạng sinh học, nhất là thủy sản, đe dọa cuộc sống của hàng chục triệu ngư dân các nước ven sông. Hơn nữa, nếu nước về hạ du có lẫn cả nước thải công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp khai khoáng(mà tỉnh Vân Nam TQ rất giàu khoáng sản) thì tổn thất ở hạ du không lường được . Thứ ba là tác động đến dòng chảy. Những ghềnh thác bị phá đi mà lưu lượng nước được duy trì thích đáng thì góp phần cải thiện giao thông đường thủy nhưng sẽ làm cho lũ thượng nguồn xả xuống về thượng du nhanh hơn và về mùa khô, nếu ít nước từ thượng nguồn thì sông cạn cũng nhanh hơn. Thứ tư là nếu nước sông Mê Kông bị chuyển sang lưu vực khác thì chắc chắn tình trạng thiếu nước ở hạ du sẽ rất nghiêm trọng, nhất là về mùa khô. Thượng nguồn của sông Mê Kông - sông Lan Thương ở cao nguyên Tây Tạng. Ảnh: Doanh nhân SG cuối tuần - Còn mức độ ảnh hưởng với riêng Việt Nam, thưa ông? - Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ở cuối nguồn, tương đối xa thượng nguồn ở tỉnh Vân Nam TQ. Trong toàn bộ lưu vực sông Mê Kông, phần lãnh thổ thuộc TQ chỉ chiếm 18% nên những biến động trên thượng nguồn tác động tới ĐBSCL không trực tiếp như tới Thái Lan và Lào. Tuy nhiên việc một quốc gia ven sông tự ý xây dựng những công trình trên dòng chính, lấy nước của dòng chính tạo ra tiền lệ không tốt cho toàn lưu vực. Nếu tất cả các quốc gia ven sông đều hành động như vậy thì chẳng những sẽ gây tổn hại chung mà tổn hại riêng cho chính mình. Lào đang cần phát triển thủy điện,Thái Lan muốn lấy nước vào vùng Đông Bắc rồi chuyển nước xuống lưu vực sông Chao Pharaya ở phía Nam, Campuchia dự định tăng vụ và tăng diện tích tưới trong mùa khô. Sông Mê Kông sẽ cạn nước. Trong tình huống xấu đó, ĐBSCL sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất do ở cuối nguồn. Nguy cơ lớn nhất là thiếu nước trong mùa khô. Lại thêm tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng lên mặn thâm nhập sâu trên toàn vùng đồng bằng. Nếu điều này xảy ra thì ĐBSCL sẽ không còn là vùng đồng bằng trù phú nữa mà trở thành hoang mạc cằn cỗi. Cần một cơ quan điều phối lợi ích BÀI LIÊN QUAN “Nhập tài nguyên, xuất hàng hoá” - chiến lược TQ với Đông Dương Chiến lược khai thác tài nguyên tiểu vùng sông Mekong của TQ - Vậy theo ông, phải có những giải pháp gì để bảo đảm quyền lợi cũng như sự an toàn đối với các nước thuộc vùng sông Mê Kông nói chung và Việt Nam nói riêng? - Lợi ích của các cộng đồng dân cư ven sông từ thượng nguồn đến hạ nguồn thường khác nhau, thậm chí xung đột . Vì vậy cần phải có sự bàn bạc để đảm bảo hài hòa các lợi ích đó. Nếu lưu vực trong phạm vi một quốc gia thì chính phủ có trách nhiệm điều hòa các lợi ích. Khi lưu vực trải ra ở nhiều quốc gia thì cần phải có một tổ chức của các quốc gia đó chịu trách nhiệm quản lý chung lưu vực. Ở một số sông quốc tế, như sông Danube có dòng chính chảy qua 10 nước (Đức, Áo, Slovakia, Hungary, Croatia, Serbia, Romania, Bulgaria, Moldova và Ukraine) và lưu vực còn có những phần thuộc 9 nước khác nữa(Ý, Balan, Thụy Sĩ, Czech, Slovenia, Bosnia & Herzegovia, Mecedonia và Albania) ở Trung và Nam Âu, đã có cơ quan điều phối lợi ích trong toàn lưu vực. - Châu Âu đã vậy, còn vùng sông Mê Kông thì đến bao giờ? Sông Mê Kông chưa đạt được điều đó. Từ những năm 1970 có Ủy hội sông Mê Kông do LHQ tổ chức. Đến năm 1995, bốn nước hạ du là Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam ký hiệp định tại Chiang Rai (Thái Lan) với mục đích hợp tác trao đổi thông tin và phối hợp duy trì dòng chảy, môi trường sông Mê Kông. TQ không tham gia vì không muốn có sự ràng buộc nào đó mà theo họ thì sông chỉ thuộc chủ quyền quốc gia mà không có khái niệm sông quốc tế. Vậy khi nào sẽ có một cơ quan điều phối giữa các nước khai thác sông Mê Kông, thưa ông? - Đã có khá nhiều hội thảo về các lưu vực sông quốc tế nhưng tất cả mới chỉ dừng ở việc giới thiệu kinh nghiệm, ra lời kêu gọi, mà chưa đi đến các quyết định có tính pháp lý đối với các quốc gia. Chẳng hạn như tại Diễn đàn Toàn cầu về nước (Global Water Forum) ở Bonn (CHLB Đức) năm 1998 mà một trong những người chủ trì là bà Angela Merkel, lúc đó là bộ trưởng và nay là Thủ tướng CHLB Đức, sau khi trình bày các mô hình phối hợp quản lý sông liên quốc gia, người ta đã ra lời kêu gọi rất hay là: “Hãy để cho nước không phải là tiềm ẩn xung đột mà là tác nhân của hợp tác”. Song mọi việc cũng chỉ đạt được đến đó! Mọi người trông đợi các tổ chức quốc tế lớn, đặc biệt là Liên Hiệp Quốc, có sự quan tâm nhiều hơn và những nỗ lực mạnh mẽ hơn nhằm ban hành văn bản pháp lý về các lưu vực sông quốc tế. Giải pháp chủ động đối phó - Để chủ động đối phó với những nguy cơ từ thượng nguồn, cần phải có những giải pháp gì với ĐBSCL? - Như tôi đã nêu ở trên, ĐBSCL của nước ta ở cuối nguồn, chịu tác động của tất cả những biến động của thượng nguồn, đồng thời còn chịu tác động từ phía biển do biến đổi khí hậu. Chủ động đối phó với những nguy cơ ấy là việc không thể coi nhẹ và phải chuẩn bị sớm. Giải pháp thủy lợi là xây dựng các công trình ở vùng cửa sông nhằm giữ nước ngọt, ngăn mặn mùa khô. Nước ngọt được trữ và giữ trong hệ thống sông và kênh rạch. Hiện nay đã có một số cống đập ngăn mặn ở cuối kênh thông ra biển và ở cửa sông Ba Lai, một trong chín cửa sông Cửu Long. Những cống đập khác ở các cửa sông lớn, đương nhiên, sẽ có quy mô rất lớn, lớn hơn những công trình khổng lồ vốn rất nổi tiếng như tại cửa sông Rhein ở Hà Lan. Công việc chuẩn bị và xây dựng những công trình đó cần đến thời gian nhiều thập kỷ.
|
|
|
Post by votieugiap on Aug 10, 2009 19:31:49 GMT -5
Đập thủy điện ở Trung Quốc làm đảo lộn sông Mekong (TuanVietNam) - Chưa có một hiệp định quốc tế nào đề cập đến việc khai thác các sông xuyên quốc gia, Trung Quốc đang nắm ưu thế, kiểm soát nước ở thượng nguồn sông Mekong. Bài viết là những nghiên cứu và quan điểm cá nhân của Michael Richardson, học giả nghiên cứu tại Viện Đông Nam Á học có trụ sở tại Singapore về những ảnh hưởng của việc xây dựng đập thủy điện tại Trung Quốc. Trở lại năm 1986, việc Trung Quốc bắt đầu xây dựng chuỗi các đập thủy điện đầu tiên không mấy thu hút được sự chú ý của các nước hạ lưu Đông Nam Á. Nhưng vào thời điểm hiện tại, khi Trung Quốc đang đẩy nhanh tiến độ xây dựng đập thủy điện thứ 4 ở thượng lưu sông Mekong thì những quan ngại về tác động của chúng tới môi trường trong khu vực ngày càng tăng. Ảnh: lookatvietnam.com Thêm vào đó, những bất đồng giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á khiến việc đưa ra một giải pháp có sự đồng thuận của cả 2 bên gần như là không thể. Bốn quốc gia ở hạ lưu sông Mekong gồm Việt Nam, Campuchia, Thái Lan, và Lào quan ngại trước việc Trung Quốc khai thác thủy lực của sông Mekong và thay đổi dòng chảy tự nhiên của nó trên quy mô lớn. Trên 60 triệu dân sống ven sông sẽ bị ảnh hưởng không nhỏ bởi những hoạt động trên thượng nguồn. Báo cáo của Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) và Viện Công nghệ châu Á (AIT) có cảnh báo rằng kế hoạch của Trung Quốc xây dựng 8 đập trên sông Mekong (phần chảy qua Trung Quốc có tên Lancang), có thể đe dọa đáng kể tới bản thân con sông cũng như tài nguyên tự nhiên của nó. Vào tháng 6, Thủ tướng Thái Lan đã xuất trình một đệ đơn yêu cầu tạm dừng việc xây dựng đập. 11,000 người đã ký vào đơn, phần đông trong số đó là nông dân và ngư dân kiếm sống ven sông. Có một số chuyên gia cho rằng nếu các bên đều nhìn nhận theo hướng phê phán vấn đề này thì quan hệ giữa Trung Quốc và láng giềng Đông Nam Á có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhưng với việc sức mạnh và ảnh hưởng của Trung Quốc ngày một tăng, chính phủ ở các quốc gia trên đã chọn giải pháp im lặng. Lào, Campuchia và Thái Lan đã đề xuất các kế hoạch xây dựng đập trên những phần sông Mekong chảy qua địa phận nước mình. Trong khi đó, Việt Nam lên tiếng yêu cầu Trung Quốc xem xét các trường hợp môi trường địa phương bị ảnh hưởng bởi các đập ở thượng nguồn. Rất nhiều người cho rằng Mekong là dòng sông của Đông Nam Á, nhưng thực ra khởi nguồn của nó là từ cao nguyên Tây Tạng. Một nửa chiều dài của nó chảy qua tỉnh Vân Nam Trung Quốc trước khi đi qua Đông Nam Á. Vì hiện nay chưa có một hiệp định quốc tế nào đề cập đến việc khai thác các sông xuyên quốc gia, Trung Quốc đang nắm ưu thế, kiểm soát nước ở thượng nguồn sông Mekong. Trung Quốc có quyền phát triển phần sông chảy qua địa phận nước mình nếu thấy phù hợp và tự ý thực hiện không cần sự tư vấn của các quốc gia láng giềng, càng không cần sự đồng tình của họ. Lưu vực sông Mekong nhận nước từ một diện tích 795,000 km2. Ủy hội sông Mekong (MRC) một tổ chức đa chính phủ thành lập năm 1995 bởi bốn nước hạ du sông Mekong đã ước tính rằng riêng tiềm năng thủy điện của hạ lưu đã lên tới con số khổng lồ 30,000 MW. Nhưng MRC cũng nhận định rằng có những thách thức lớn trong việc cân bằng giữa lợi ích của việc xây đập là năng lượng sạch, dự trữ nước, và kiểm soát lũ với những tác động tiêu cực khác. Đó là việc di dân, ngăn cản dòng di chuyển lên xuống của cá, và thay đổi dòng chảy của nước và phù sa. Các đập tại Vân Nam sẽ sản sinh ra 15,500 MW điện cho các thành phố và các nhà máy, giúp thay thế các nhiên liệu ô nhiễm mà cụ thể ở đây là than và dầu. Tám đập này có công suất tương đương với 30 nhà máy nhiệt điệt cỡ lớn. Đập thứ 4 trên sông Mekong ở Trung Quốc tại Tiểu Loan (Xiaowan) sẽ hoàn thành vào năm 2012 với chi phí gần 4 tỉ đô la Mỹ. Tường đập sẽ giữ kỷ lục cao nhất thế giới với chiều cao 292m. Hồ chứa của nó sẽ chứa 15 tỉ m3 nước, gấp 5 lần khả năng lưu trữ của 3 đập còn lại cộng lại. Kể từ cuối năm 2008, khi các kỹ sư Trung Quốc đóng cửa kênh rẽ nước của đập thủy điện Tiểu Loan, hồ nước đã được làm đầy để chuẩn bị cho việc chạy tuốc bin điện đầu tiên vào tháng 9. Khi đầy, diện tích hồ chứa vào khoảng trên 190 m2. Với khả năng sinh ra 4,200 MW điện, Tiểu Loan sẽ là đập lớn nhất trên sông Mekong. Tuy nhiên Trung Quốc đang dự tính hoàn thành một đập khác dưới đập Tiểu Loan tại Nọa Trát Độ (Nouzhadu). Tuy không cao bằng nhưng nó sẽ chứa một thể tích nước lớn hơn gần 23 tỉ m3 và sinh ra 5,000 MW điện. Giới chức Trung Quốc đảm bảo rằng các đập tại Vân Nam có những tác động tích cực đến môi trường. Họ nói bằng việc giữ nước lại trong mùa mưa, các đập sẽ giúp kiểm soát lũ lụt và xói lở bờ sông ở hạ du. Ngược lại, việc tháo nước từ bể chứa để sinh điện vào mùa hè sẽ cải thiện tình trạng thiếu nước ở hạ du sông Mekong vào mùa khô. Tuy nhiên, theo báo cáo của UNEP-AIT, Tonle Sap, nơi trú ngụ của các loài cá hạ lưu sông Mekong, và đồng bằng sông Cửu Long - vựa lúa của Việt Nam, có nguy cơ gặp bất lợi do những thay đổi từ chu kỳ lũ lụt và hạn hán đặc biệt của sông Mekong. Hồ Tonle Sap nối với sông Mekong bởi sông Tonle Sap. Các nhà khoa học đang lo lắng rằng việc giảm bớt dòng nước lũ tự nhiên của sông Mekong sẽ dẫn tới mực nước hồ bị xuống thấp, ảnh hưởng đến trữ lượng cá vốn đã và đang chịu sức ép từ việc khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường. Mối quan tâm của Việt Nam chính là lượng nước bị mất đi sẽ làm trầm trọng hóa vấn đề vùng trũng tại Đồng bằng sông Cửu Long đang bị nước biển xâm chiếm. Biến đổi khí hậu và hiện tượng tăng mực nước biển có thể dẫn đến nguy cơ một diện tích lớn đất canh tác nông nghiệp bị xâm thực và hàng triệu người phải chuyển chỗ vào cuối thế kỷ này. Ủy hội sông Mekong (MRC) đã thảo luận hợp tác kỹ thuật với các chuyên gia Trung Quốc để đưa ra các nhận định, đánh giá về những thay đổi của hạ lưu sông dưới tác động của việc phát triển thủy điện. Nhưng Trung Quốc từ chối việc tham gia MRC cũng như xem xét các hướng dẫn quản lý tài nguyên của MRC. Trung Quốc mong muốn vai trò của mình chỉ dừng lại ở mức đối tác đối thoại. Một khi trở thành viên chính thức của MRC, các kế hoạch đập thủy điện của Trung Quốc sẽ bị MRC phân tích chi tiết đồng thời sức ép lên Bắc Kinh sẽ gia tăng, khiến Trung Quốc phải xét đến lợi ích của các nước còn lại trong kế hoạch của mình. Trong khi việc xây dựng đập tại Trung Quốc tiến triển theo đúng kế hoạch, các đề án tương tự tại các phần sông Mekong ở Đông Nam Á đã bị tạm dừng. Trước khi các nền kinh tế hướng xuất khẩu của châu Á bị tác động mạnh bởi khủng khoảng kinh tế toàn cầu, Campuchia, Lào, và Thái Lan đã thông báo các kế hoạch xây dựng đập tại hạ lưu sông Mekong. Hiện nay tại Lào, sông Mekong sản xuất ra được trên 3,200 MW điện. Nhưng ngay cả việc sản xuất điện này cũng không tránh được tác động của cuộc khủng hoảng. Thái Lan, khách hàng tiêu thụ điện chính tại hạ du sông Mekong đã thông báo sẽ cắt giảm đáng kể lượng điện nhập khẩu từ Lào. Mặt tích cực ở đây là chính lúc này, các nước Đông Nam Á có một khoảng lặng để nhìn nhận lại những ảnh hưởng của việc xây dựng đập trên sông Mekong đến cuộc sống của những người dân ở lưu vực sông. Tuy nhiên, không một kế hoạch quản lý sông Mekong thực sự hiệu quả nào có thể được đưa ra nếu không có sự tham gia đầy đủ của Trung Quốc. Bắc Kinh đang có ý định hội nhập kinh tế sâu sắc hơn với các nước Đông Nam Á trong đó có việc hợp tác về thương mại, đầu tư, truyền thông, vận tải, và năng lượng với các nước tiểu vùng sông Mekong. Nhưng chiến lược này có thể đem lại kết quả ngược lại sự mong đợi nếu các nước trong khu vực đưa ra kết luận rằng các đập thủy điện của Trung Quốc đang có tác động ngược đến sự phát triển của họ trong tương lai. Quỳnh Anh (dịch từ Yaleglobal.yale.edu)
|
|
|
Post by votieugiap on Aug 10, 2009 19:35:30 GMT -5
Phát triển kinh tế phải gắn với môi trường Tại diễn đàn Phát triển Mê Kông, Tokyo - Nhật Bản ngày 13/07/2005, WWF (World Widelife Fund - Quỹ Động vật Hoang dã Toàn cầu) cho rằng khối tư nhân đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong phát triển bền vững của tiểu vùng sông Mê Kông. Những cánh rừng nhiệt đới ở vùng biên giới Lào và Việt Nam. WWF đã kêu gọi các đại biểu của khối tư nhân tham gia Diễn đàn Phát triển Mê Kông (Mekong Development Forum - MDF) tổ chức vào trung tuần tháng 7 vừa qua cần khẳng định, họ có trách nhiệm trong việc bảo đảm phát triển kinh tế ở tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (Greater Mekong Subregion - GMS) bền vững về mặt xã hội và môi trường. Trọng tâm của diễn đàn này là xem xét tiềm năng của các mối quan hệ hợp tác giữa khối tư nhân và khối công cộng, trong quá trình xây dựng và thực hiện những dự án cơ sở hạ tầng quan trọng tại khu vực GMS. Diễn đàn này cũng sẽ nêu bật các dự án và các khoản đầu tư tiềm năng trong hàng loạt các lĩnh vực, bao gồm lâm nghiệp, giao thông, năng lượng và quản lý chất thải. Hơn 80 nhân viên cao cấp, đại diện cho các công ty đa quốc gia lớn từ Úc, Trung Quốc, Nhật bản, Hàn Quốc, Malaysia, Niu Dilân, Philippines và Singapore, sẽ tham dự diễn đàn này. “Khối tư nhân đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển của khu vực, và WWF kêu gọi các doanh nghiệp và công ty phải đóng góp một cách tích cực vào việc ưu tiên phát triển cân bằng cả về kinh tế, xã hội và môi trường tại một trong những tiểu khu vực nghèo nhất của châu Á-Thái Bình Dương,” Tiến sĩ Isabelle Louis, Giám đốc Chương trình Châu Á-Thái Bình Dương của WWF, phát biểu. Trách nhiệm Xã hội của Doanh nghiệp (Corporate Social Responsibility - CSR), là một phương pháp tiếp cận mà rất nhiều công ty đa quốc gia đã thông qua và thực hiện thành công, nhằm giải quyết những khía cạnh về xã hội và môi trường trong các hoạt động kinh doanh của mình. Ví dụ như ngân hàng HSBC đã đưa ra những tiêu chí để kiểm tra những đơn xin vay tiền cho các dự án lâm nghiệp hoặc hạ tầng đường thuỷ. “Nhiều công ty đa quốc gia lớn đã đặt CSR là trọng tâm trong các hoạt động kinh doanh của mình, và đã có rất nhiều ví dụ thành công trong khu vực này,” Tiến sĩ Louis nói. WWF khẳng định, không thể xem xét và thông qua các dự án đơn lẻ thuộc các lĩnh vực khác nhau một cách độc lập, mà cần phải cân nhắc tất cả các dự án này trong một tổng thể lớn hơn, có kết hợp đánh giá những tác động cộng hưởng ở phạm vi cấp cảnh quan hoặc trong toàn lưu vực sông Mê Kông. Các sáng kiến được xây dựng dựa trên các nguyên tắc về phát triển bền vững, ví dụ như Hiệp ước Toàn cầu của Liên hiệp quốc, đã được cộng đồng kinh doanh quốc tế biết đến và áp dụng rộng rãi. Do đó, Diễn đàn Phát triển Mê Kông có thể đưa ra những vấn đề này ở cấp khu vực, tạo một cơ sở cho các thảo luận liên quan đến các quan hệ hợp tác giữa khối công cộng và tư nhân. Các tổ chức xã hội dân sự cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong quá trình này. WWF kêu gọi các công ty đa quốc gia trong khu vực tham dự diễn đàn này phải đảm bảo rằng các chương trình đầu tư của họ trong khu vực phải đóng góp vào việc xây dựng những hình thức phát triển kinh tế có tính bền vững về xã hội và môi trường. Diễn đàn Phát triển Mê Kông, do ADB và Chính phủ Nhật Bản đồng tổ chức, có mục tiêu tăng cường hiểu biết của khối tư nhân về những thử thách chung mà các nước GMS đang đối mặt, trong khi vẫn thu hút sự chú ý vào hàng loạt các cơ hội đầu tư tại tiểu khu vực này. Sáu nước của khu vực GMS, là Campuchia, Trung Quốc (tỉnh Vân Nam và Quảng Tây), Lào, Myanma, Thái Lan và Việt Nam, đã cam kết tăng cường hợp tác trong quá trình phát triển, với sự điều phối của Ngân hàng Phát triển Châu Á. Hương Cát (Nguồn: WWF)
|
|
|
Post by vietnam on Sept 14, 2009 3:03:08 GMT -5
Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau.
Kỳ 1: Ký ức một đảo trưởng Tác Giả On The NetĐăng ngày 10.09.09Bút Ký On The Net
View all articles by On The Net Đàn Chim Việt: Dư luận đang ngỡ ngàng trước một loạt bài đăng trên báo Tuổi Trẻ - cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đây là những bài viết liên quan tới trận hải chiến không cân sức cuối cùng vào 1/1974 giữa những người lính Việt Nam Cộng Hòa với hải quân Trung Quốc để bảo vệ quần đảo Hoàng Sa thân yêu của chúng ta. Với thái độ trân trọng, bài báo gọi những người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa là "những người con đất Việt". Tác giả bài báo cũng gặp, trò chuyện và ghi lại những câu chuyện rất cảm động mà chưa một lần trong suốt hơn một phần ba thế kỷ qua chúng ta được biết tới từ mấy trăm tờ báo trong nước. E rằng, những bài viết như vậy có thể bị kiểm duyệt và xóa bỏ trong nay mai, chúng tôi xin phổ biến lại tới bạn đọc.
--------------------------------------------------------------------------------
Kỳ 1: Hoàng Sa trong ký ức một đảo trưởng
Ông Nguyễn Văn Đức Cách nay đúng 40 năm, ông Nguyễn Văn Đức đã cùng các cộng sự vượt trùng dương đến với Hoàng Sa. Nhiệm vụ của ông là canh giữ biển trời Tổ quốc với chức vụ là đảo trưởng theo lệnh của Bộ chỉ huy biệt khu Quảng Đà. Lúc đó ông vừa tròn 22 tuổi, là một trong những đảo trưởng trẻ nhất từng làm nhiệm vụ trấn giữ tại quần đảo Hoàng Sa. 1. Mái đầu ông Nguyễn Văn Đức đã điểm muối tiêu của tuổi ngoài 60. Hỏi ngày nào đáng nhớ trong cuộc đời của mình, ông trả lời không chút đắn đo: “Đó là ngày 14-10-1969, tôi nhận được tờ sự vụ lệnh biên chế về trung đội Hoàng Sa ra đảo làm nhiệm vụ dưới chức danh đảo trưởng”.
Buột miệng hỏi ông về những lo lắng trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, ông phản ứng: “Tại sao phải lo lắng? Đó là đất của cha ông mình để lại, là máu mủ thân yêu của Tổ quốc nên chúng tôi ra đi như lẽ bình thường, hiển nhiên. Chẳng có chút gì phải lo sợ khi chúng tôi đi trong tâm thế của một người Việt ra canh giữ đảo biển của người Việt! Khi đó quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, thuộc về người Việt, đó là sự thật lịch sử không thể chối cãi”.
Một ngày cuối tháng 10-1969, ông Đức cùng trung đội Hoàng Sa gồm 34 người và bốn nhân viên khí tượng rời cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) lên đường làm nhiệm vụ. Sau hơn 24 giờ lênh đênh trên biển, Hoàng Sa thân yêu hiện dần lên trước mắt ông.
Ông Đức nhớ lại: “Lúc đầu biển khá êm, nhưng khi rời đất liền được khoảng hơn 100km thì sóng lớn dần. Từ xa Hoàng Sa hiện lên giữa nền xanh của đại dương. Bao bọc quanh Hoàng Sa là những rạn san hô rộng lớn, vì thế chúng tôi không thể cặp tàu vào được mà phải dùng canô để chuyển quân và quân trang vào đảo. Trên đảo có một tòa nhà lớn được xây dựng từ thời Pháp thuộc, cao khoảng 8m, tường dày 2m dành cho đảo trưởng.
Trong phòng làm việc của đảo trưởng có một bức tường ghi tên tất cả những người lính đã ra đây giữ đảo. Và tên của chúng tôi đã được ghi lên đó, đó là niềm vinh dự lớn lao của một người con đất Việt. Xung quanh đảo là những rừng cây, tuy không to lớn nhưng cũng đủ để che chắn nắng gió cho lính đảo. Hình ảnh lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất tuyệt đẹp của Tổ quốc nơi xa đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ y nguyên. Xúc động lắm”.
2. Ông Nguyễn Văn Đức kể: “Nhiệm vụ của chúng tôi là đo đạc, báo cáo về sở chỉ huy ở đất liền những tin tức ở Hoàng Sa mỗi ngày. Anh em khí tượng làm nhiệm vụ quan trắc và báo cáo tình hình thời tiết để phục vụ cho tàu bè lưu thông trong vùng. Trang bị vũ trang lúc ấy không nhiều, chỉ có hai khẩu đại liên 50mm nhưng anh em vẫn kiểm soát được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Tàu bè quốc tế ngang qua đều tôn trọng chủ quyền của chúng ta, và chúng ta cũng sẵn sàng hỗ trợ tàu bè khi gặp bão tố. Những lúc rảnh rỗi chúng tôi thường dùng canô đi qua các đảo lân cận để chơi vì cảnh quan ở đây rất hữu tình. Đảo Cát, đảo Chim, đảo Elbe, đảo Duncan, đảo Drumond... chúng tôi đều đã đặt chân đến”.
Tờ sự vụ lệnh quyết định điều chuẩn úy Nguyễn Văn Đức làm đảo trưởng Hoàng Sa tháng 10-1969 trong đợt thay quân thứ 38 của quân đội chính quyền Sài Gòn tại Hoàng Sa - Ảnh: Thế Anh
Trầm ngâm nhớ lại những ngày tháng gắn bó với mảnh đất xa xôi của Tổ quốc, cựu chuẩn úy Nguyễn Văn Đức kể tiếp: “Khi thủy triều xuống, cả rạn san hô hiện lên tuyệt đẹp như một rừng hoa biển. Mỗi khi nhớ đất liền, anh em lại lấy vài cành san hô bỏ vô chậu, bắt vài con cá nhỏ ngồi ngắm nghía bên tách cà phê đen. Có sống ở đảo mới thấy nhớ đất liền, yêu quê cha đất tổ. Thời tiết ở đây khá ôn hòa nhưng gió mạnh lắm, nhiều khi anh em bị gió đẩy ngã sóng soài. Tuy vất vả, thiếu thốn nhưng anh em thấy vui và hãnh diện khi được trấn giữ biển đảo quê nhà”.
Ông nói có hai di tích ở đảo Hoàng Sa ông không thể nào quên. Đó là cái miếu nhỏ ở góc đảo mà anh em lính đảo vẫn thường ra đó để tìm chút an bình giữa sóng gió.
Ông kể: “Mỗi khi sóng to gió lớn hay thấy lòng bất an, anh em chúng tôi thường tìm đến ngôi miếu. Lạ lắm, chỉ cần ngửi thấy mùi nhang khói là cảm giác ở xa đất liền như được gần lại. Hơn nữa, mùi nhang khói như gợi lên những tiềm thức về quê cha đất tổ, nhớ về nguồn cội. Đó là những điều cần thiết để những người con đất Việt như chúng tôi yên lòng nơi đầu sóng ngọn gió giữ gìn biển đảo của cha ông để lại. Cạnh đó là một nghĩa trang có hơn 30 ngôi mộ là hài cốt của những chiến sĩ người Việt ngã xuống vì bệnh tật nơi đảo xa, là nắm xương của những người con Việt đã nằm xuống sau những lần đụng độ với âm mưu xâm lược của ngoại bang.
Ở đó còn có cả hài cốt của những ngư dân từ miền Trung, miền Bắc gặp nạn trên đường mưu sinh. Và cũng có cả những nắm xương của lính nước ngoài bị chúng ta hạ gục khi âm mưu đánh chiếm đảo. Có một điều là chúng tôi không phân biệt địch ta khi họ đã ngã xuống, mỗi ngày rằm hay cuối tháng chúng tôi đều thắp nhang lên những nấm mồ hoang. Có lẽ đó là một nét đặc biệt của người Việt mình, là một hành xử đầy tính nhân văn, “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn” mà mỗi người Việt chúng ta còn lưu giữ được từ dòng máu Lạc Hồng!”.
Bia chủ quyền VN ở Hoàng Sa được dựng vào những năm 1930 (ảnh chụp tại phòng lưu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng)
3. Ngày 19-1-1974, ngày quân Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa - một phần máu xương của Tổ quốc VN, là ngày ông Đức cảm thấy đau đớn nhất trong cuộc đời mình. Ông xúc động kể lại: “Khi hay tin Hoàng Sa bị quân Trung Quốc tước đoạt bằng vũ lực, tôi đau đớn đến mức nước mắt không thể chảy được, lòng dạ như ai xát muối. Tôi biết ngoài kia những đứa con của đất Việt sẽ phải đổ máu vì quê hương. Tôi đau vì một mảnh đất tuyệt đẹp và giàu có của nước nhà đã bị ngoại bang vô cớ cướp đoạt. Đó là nỗi đau của một người con đất Việt!”.
Là một người từng học và hiểu biết về luật quốc tế, ngay trong ngày Hoàng Sa bị chiếm đó ông đã âm thầm lục tìm lại những tài liệu liên quan, gói ghém cẩn thận nhằm làm bằng chứng chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa. Đó là tờ sự vụ lệnh đã nhàu nát và úa vàng vì thời gian.
35 năm sau, ông Đức quyết định liên hệ với chính quyền và báo Tuổi Trẻ để cung cấp những bằng chứng quý báu đó. Có lẽ những ai quen biết ông đều không mấy khó hiểu về hành động yêu nước của ông khi biết trong ngày 30-4-1975, ông đã từng xuống tàu để rời Việt Nam, nhưng trong một tích tắc của thời khắc lịch sử ông đã nhảy lại lên bờ, bởi ông biết không nơi đâu bằng quê hương.
Ông Đức lần giở lại tờ sự vụ lệnh năm nào rồi nói: “Chừng nào Hoàng Sa vẫn còn trong tay ngoại bang thì niềm vui vẫn chưa thể gọi là trọn vẹn được. Tôi sợ rằng lớp trẻ sẽ quên mất Hoàng Sa, sẽ quên mất một phần máu thịt của Tổ quốc, sẽ quên mất rằng có rất nhiều người con của đất Việt đã ngã xuống vì Hoàng Sa trong ngày đáng nhớ 19-1-1974”. Có lẽ đó không chỉ là điều trăn trở của riêng ông.
Còn tiếp
Nguồn; Tuổi Trẻ Online
|
|
|
Post by vietnam on Sept 14, 2009 3:07:02 GMT -5
Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau - Kỳ 2: Biển động Tác Giả On The NetĐăng ngày 11.09.09Bút Ký On The Net
View all articles by On The Net Đàn Chim Việt: Dư luận đang ngỡ ngàng trước một loạt bài đăng trên báo Tuổi Trẻ - cơ quan ngôn luận của Đoàn Thanh Niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Đây là những bài viết liên quan tới trận hải chiến không cân sức cuối cùng vào 1/1974 giữa những người lính Việt Nam Cộng Hòa với hải quân Trung Quốc để bảo vệ quần đảo Hoàng Sa thân yêu của chúng ta. Với thái độ trân trọng, bài báo gọi những người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa là "những người con đất Việt". Tác giả bài báo cũng gặp, trò chuyện và ghi lại những câu chuyện rất cảm động mà chưa một lần trong suốt hơn một phần ba thế kỷ qua chúng ta được biết tới từ mấy trăm tờ báo trong nước. E rằng, những bài viết như vậy có thể bị kiểm duyệt và xóa bỏ trong nay mai, chúng tôi xin phổ biến lại tới bạn đọc.
--------------------------------------------------------------------------------
Khi tôi (1) ghi lại những dòng hồi ký này, sự việc đã xảy ra 35 năm (1974 - 2009). Đã 35 năm trôi qua, những gì tận mắt tôi đã chứng kiến, những gì tôi đã trực tiếp tham gia trong trận hải chiến với hải quân Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19-1-1974 vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi.
Lúc bấy giờ tôi là thượng sĩ giám lộ (giám sát lộ trình - hàng hải) trên khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 (chiến hạm tối tân nhất của hải quân Sài Gòn thời bấy giờ) với chức danh hạ sĩ quan phụ tá trưởng ngành giám lộ, kiêm hạ sĩ quan phụ tá trưởng khối hành quân.
Với chức danh đó, lúc nào (trong nhiệm sở tác chiến hay hải hành) tôi đều phải có mặt thường xuyên trên đài chỉ huy, thường xuyên bên hạm trưởng Vũ Hữu San (trung tá hải quân). Nhiệm vụ của anh em chúng tôi là ghi lại nhật ký tác chiến, nhật ký hàng hải, xác định vị trí của chiến hạm, đồng thời nhận và chuyển những tài liệu bằng đèn và cờ.
Hôm ấy, ngày 16-1-1974, gió mùa đông bắc thổi mạnh trên biển Đông. Biển động mạnh. Chiến hạm chúng tôi đang tuần tiễu vùng biển Quảng Ngãi từ Sa Huỳnh đến cù lao Ré (đảo Lý Sơn). Đây đã là ngày thứ 14 lênh đênh trên biển. Chỉ còn một ngày nữa chiến hạm sẽ được về Đà Nẵng nghỉ bến, anh em thủy thủ đoàn rộn ràng nghĩ đến ngày được vào đất liền.
Chưa kịp dùng cơm trưa thì từ trung tâm truyền tin đưa lên đài chỉ huy một công điện thượng khẩn: lệnh cho tàu về ngay Đà Nẵng. 17 giờ tàu về đến quân cảng Đà Nẵng (cảng Tiên Sa). Hạm trưởng San và đại úy Diên - trưởng khối hành quân, được lệnh lên họp khẩn cấp ở trung tâm hành quân Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải. Từ trung tâm hành quân, hạm trưởng điện về tàu lệnh cho ban ẩm thực lên bờ đi chợ (tiếp tế lương thực).
20 giờ hạm trưởng San về tàu. Lệnh cấm trại 100% được ban ra. Ban cơ khí chuẩn bị bắt ống để nhận dầu và nước ngọt. Đến 21g, hai chiếc xe GMC chở một trung đội với đầy đủ vũ khí đạn dược xuất hiện. Lần đầu tiên trước mắt tôi được chứng kiến một toán quân mặc quân phục lạ lùng. Sau một hồi dọ hỏi tôi mới biết đây là lực lượng biệt hải. Tôi được lệnh từ đại úy Diên chuẩn bị hải đồ đi Hoàng Sa. 23g, tàu khẩn cấp rời cảng Tiên Sa trực chỉ Hoàng Sa. Tôi cảm giác có một chuyện gì lớn lao sắp xảy ra.
Ngày N+1
11g30 ngày 17-1, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã có mặt tại quần đảo Hoàng Sa. Trước đó ngày 16-1, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 do hải quân trung tá Lê Văn Thự làm hạm trưởng cũng đã có mặt tại Hoàng Sa.
HQ-4 tiến gần đảo Vĩnh Lạc. Còi tác chiến vang lên, tất cả thủy thủ đoàn đã sẵn sàng ở vị trí chiến đấu. 14 giờ, trung đội biệt hải được lệnh rời tàu trên ba xuồng cao su, 20 phút sau trung đội biệt hải đã đổ bộ lên rìa đảo an toàn và nhận lệnh tiến sâu vào đảo lục soát.
Báo cáo từ đoàn quân gửi về: không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi bằng chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước.
Các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ giả lên, hóa ra chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo mà ai đó đã dựng lên để chứng tỏ có người Trung Quốc đã sống và chết trên đảo mà thôi. 16g30, lực lượng biệt hải được lệnh rút về tàu.
Đến buổi chiều, phòng chiến báo theo dõi qua hệ thống rađa tầm xa đã phát hiện hai mục tiêu trên biển đang di chuyển đến quần đảo Hoàng Sa. Từ nóc đài chỉ huy, các bộ phận quan sát bằng ống nhòm đã nhìn thấy hai tàu chiến lạ. Trung tâm chiến báo được lệnh theo dõi và báo cáo thường xuyên mọi hoạt động, hướng đi, khoảng cách của hai tàu trên.
Đêm 17 rạng 18-1 là một đêm cực kỳ căng thẳng. Còi nhiệm sở tác chiến báo động suốt đêm. Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. Tàu HQ-4 và HQ-16 dùng tín hiệu cảnh cáo: Đây là lãnh hải của Việt Nam. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay! Phía Trung Quốc đáp trả, cho rằng Hoàng Sa là của họ.
Tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc chặn đường tàu VN trên đường ra Hoàng Sa - Ảnh tư liệu
Ngày N+2
Sáng 18-1, chiến hạm HQ-4 của chúng tôi tiến về đảo Cam Tuyền. Lúc 8g, trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ lên đảo. Sau khi lục soát chỉ phát hiện những nấm mộ mới đắp không hài cốt y như ở đảo Vĩnh Lạc.
Đến 11g, đài khí tượng và quân đồn trú đảo Hoàng Sa báo cáo có hai tàu đánh cá vũ trang mang cờ Trung Quốc xâm nhập và tiến gần đến đảo Hoàng Sa, tàu HQ 4 và HQ 16 được lệnh tiến về đảo Hoàng Sa. Khi tiến đến gần tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc, tàu HQ-4 dùng tín hiệu cảnh cáo và đuổi đi nhưng cả hai tàu Trung Quốc cố tình khiêu khích.
Tàu HQ-4 tiến thẳng đến một tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc. Trên tàu có khoảng 30 thuyền viên mặc đồng phục màu xanh dương đậm. Tàu được trang bị hai thượng liên (một đằng trước mũi và một đằng sau lái tàu), ngoài ra có rất nhiều súng AK 47. Tàu HQ-4 quyết định áp sát mạn tàu đánh cá Trung Quốc để xua đuổi.
Hai bên đánh nhau bằng... võ mồm. Thấy không tác dụng, tàu HQ-4 lùi ra dùng mũi tàu ủi thẳng vào tàu Trung Quốc, mũi tàu HQ-4 và neo mũi vướng vào cửa và hành lang phòng lái làm gãy hành lang và cong cửa phòng lái của tàu Trung Quốc. Trước thái độ cương quyết của hải quân VN, họ vội vàng tháo lui. Chiến hạm HQ-16 cũng quyết liệt xua đuổi tàu đánh cá vũ trang còn lại.
Cũng trong sáng 18-1, tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5 do trung tá hải quân Phạm Trọng Quỳnh làm hạm trưởng được lệnh tăng cường ra Hoàng Sa. Cùng đi trên HQ-5 có đại tá Hà Văn Ngạc, được giao nhiệm vụ chỉ huy trưởng lực lượng bảo vệ Hoàng Sa. Ngoài ra, đi theo tàu có một trung đội người nhái (lực lượng đặc biệt của hải quân).
Lúc 15g30 chiều 18-1, lệnh đại tá Ngạc cho ba chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-16 sắp đội hình hàng dọc tiến thẳng về đảo Duy Mộng. Khoảng 16g, có hai tàu chiến Trung Quốc bắt đầu khiêu khích, cắt đường ngang mũi HQ-4 và HQ-16. Đội hình bị chia cắt không thể tiến lên được vì các tàu rất gần nhau, các khẩu đại bác sẵn sàng nhả đạn nhưng không ai được lệnh nổ súng.
Đêm 18 rạng ngày 19-1, tàu chiến và tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc vẫn tiếp tục khiêu khích, tiến đến gần đảo Hoàng Sa. Chiến hạm HQ-4 phải dùng còi hơi thật to và đèn hồ quang trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu Trung Quốc. Tình hình dịu hơn khi tàu Trung Quốc rút lui về hướng bắc.
Đến nửa đêm, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 do thiếu tá hải quân Ngụy Văn Thà làm hạm trưởng đã ra chi viện cho lực lượng bảo vệ Hoàng Sa.
Còn tiếp
Nguồn: Tuổi Trẻ Online
-------------------------------------------------------------------------------- (1): Tác giả câu chuyện này là người đã có mặt trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 35 năm trước: ông Lữ Công Bảy - quân nhân trên chiến hạm Trần Khánh Dư HQ-4. Sau 1975, ông Bảy vẫn ở lại VN, phục vụ trong lực lượng hải quân quân đội nhân dân VN. Hiện ông là nhân viên bảo vệ của Đài truyền hình VN tại TP.HCM.
|
|
|
Post by vietnam on Sept 14, 2009 3:09:34 GMT -5
Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau - Kỳ 3: Tử chiến Tác Giả On The NetĐăng ngày 12.09.09Bút Ký On The Net
View all articles by On The Net Đàn Chim Việt: Đúng như chúng tôi đã dự đoán. Sau khi đăng 2 bài trong phóng sự dài kỳ liên quan tới trận hải chiển cuối cùng diễn ra 19/1/1974, trước khi Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm, báo Tuổi Trẻ đã (phải) dừng loạt bài này.
Trong hai bài đã đăng, báo Tuổi Trẻ đã dành những lời lẽ trân trọng, đi ngoài "lề phải", khi nhắc tới những người đã ngã xuống để bảo vệ Hoàng Sa và những nhân chứng còn sống tới ngày nay.
Sau 2 bài đã đăng, hiện báo Tuổi Trẻ đã cáo lỗi như sau: "Vì lý do ngoài ý muốn, chúng tôi xin tạm dừng hồ sơ “Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau”. Chúng tôi sẽ tiếp tục đề tài này vào thời điểm thích hợp. Chân thành cáo lỗi cùng bạn đọc."
Đàn Chim Việt xin chuyển tới bạn đọc phần 3 và 4 của loạt phóng sự này từ một nguồn khác. Có thể nó không hoàn toàn giống với bài mà Tuổi Trẻ định đăng tải.
-------------------------------------------------------------------------------- Kỳ 1: Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau Kỳ 2: Biển động Kỳ 3: Tử chiến
Vào thời điểm hết sức căng thẳng này, việc thông tin liên lạc giữa lực lượng bảo vệ Hoàng Sa và Bộ tư lệnh vùng 1 duyên hải đã bị đứt. Tần số liên lạc bị phá rối, trên hệ thống bộ đàm chỉ nghe toàn tiếng Hoa . Đại tá Hà Văn Ngạc, lúc đó đang ở trên chiến hạm HQ 5, được tòan quyền hành động. (Quyết định nổ súng được thực hiện sau cuộc điện đàm giữa đại tá Ngạc và tư lệnh hải quân vùng 1 Hồ Văn Kỳ Thọai. Thế còn tư lệnh Hải quân VNCH đang ở đâu ? Ông ấy- đề đốc Trần Văn Chơn- đang ở trên… trời. Tướng Chơn đang ngồi trên chuyến bay ra Đà Nẵng. Lúc ông tới căn cứ hải quân, mọi việc đã xong xuôi – BT)
Đại tá Ngạc ra lệnh: chuyển bốn tàu theo đội hình hàng dọc (Formation - one) theo tín hiệu cờ của khối Minh ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) để giữ bí mật ; khi tín hiệu cờ chuyển sang Formation - two (đội hình hàng ngang) tất cả các khẩu đại bác hướng lên đảo; khi nhận lệnh bắn thì tất cả khai hỏa lên đảo dọn đường lập đầu cầu để biệt hải và người nhái đổ bộ chiếm lại đảo.
Hạm trưởng San bực bội trước lệnh này. Trước khi chuẩn bị nổ súng đại tá Ngạc có hỏi ý kiến từng hạm trưởng. Đến khi hỏi ý kiến HQ 4, hạm trưởng Vũ Hữu San gằn từng tiếng trong bộ đàm: “Trình đại bàng, tôi là quân nhân, tôi chấp hành quân lệnh nhưng hiện nay nước cờ đã bị lộ, không còn yếu tố bất ngờ, muốn đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực lượng trên biển trước khi tính đến việc đổ quân, hiện nay tàu địch gấp đôi tàu ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng đến giờ đầy trên đảo, ta chỉ có 2 trung đội thì làm sao thành công được ”, rồi ông nói tiếp: “Tôi là quân nhân tôi chấp nhận hi sinh vì tổ quốc nhưng…”. Rồi ông cúp máy và ra lệnh “tất cả các khẩu súng nhắm thẳng vào tàu địch “
Đúng 10g20 , bốn chiến hạm HQ4, HQ5, HQ10, HQ16 đồng loạt khai hỏa. Như đã chuẩn bị trước, hạm trưởng San ra lệnh “bắn” đồng thời ông cũng ra lệnh (lúc đó máy tàu đang ở vị trí stop) hai máy tiến Full (bỏ qua thông lệ tiến 1, tiến 2, tiến 3) hết tay lái sang phải... Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì trúng đạn, vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa.
Chiến hạm HQ 4 chạy uốn lượn như con rắn, hết phải rồi hết trái nên đã tránh được loạt đạn đại bác đầu tiên của địch. Thế rồi, các cột nước bùng lên, đạn rít xung quanh tàu vèo vèo. Một mảnh đạn phạt lủng đài chỉ huy, văng ra trúng chân trung úy Ria đang cố gắng theo dõi tàu địch qua màn hình radar. Thượng sĩ giám lộ Ry trúng mảnh đạn nơi cánh tay trái. Hạ sĩ giám lộ Phấn ,xạ thủ đại liên 30 trên nóc ĐCH, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo. Tiếng la ơi ới của các nơi bị thương vọng lên ĐCH.
Tuy nhiên chiến hạm HQ 4 vẫn vững vàng trong cuộc hải chiến . Đài quan sát trên nóc báo cáo có địch đang đuổi theo. Tôi nhìn ra phía sau vừa thấy 2 tàu địch thì từ mạn phải HQ 5 cắt đuôi HQ 4 phóng thẳng vào 2 tàu địch. Những khối cầu lửa từ mũi HQ 5 bắn ra (đại bác 127 ly) bay thẳng vào tàu địch. Một chiếc trúng đạn bốc cháy, một chiếc quay ngang và sau đó lãnh đủ hàng loạt đạn từ HQ 4.
Không thấy một tàu địch nào, cũng không thấy HQ 16 và HQ 10 đâu cả. Ngay lúc đó HQ 5 cho biết ụ tháp đại bác 127 ly đã bị trúng đạn, 3 quân nhân tử thương 2 bị thương nặng. Liên lạc mãi với HQ 16 và HQ 10 không được.
Thật ra ngay từ loạt đạn đầu tiên HQ 10 đã bị loại khỏi vòng chiến vì HQ 10 nhỏ, cũ kỹ các khẩu đại bác xoay trở bằng tay nên bị trúng liền 2 quả 100 ly từ tàu địch .Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi ,trinh sát giám lộ Vương Thương, báo cáo HQ 10 đã bị trúng đạn. Hạm trưởng Thà đứt đầu, hạm phó Trí trọng thương ngay bụng sĩ quan , hạ sĩ quan và thủy thủ trên ĐCH đều bị tử thương và bị thương.
Riêng Vương Thương bị mảnh đạn cắt ngang mông trái, máu ra nhiều nhưng vẫn còn tỉnh táo, báo tình hình về soái hạm HQ5. Anh cùng 21 quân nhân xuống được bè cứu sinh và sau 2 ngày đêm được một thương thuyền Hà Lan cứu đưa về Đà Nẵng. Nhưng Vương Thương đã chết trên bè vì máu ra quá nhiều . Anh ra đi trước ngày tổ chức làm đám cưới. Lẻ ra anh đã được về phép cưới vợ. Giấy phép đã cầm trên tay, nhưng hạm trưởng Ngụy Văn Thà động viên anh ở lại, vì anh đã quá rành vùng quần đảo Hoàng Sa. Anh đã theo tàu ra Hoàng Sa như ăn cơm bữa, hải đảo xa xôi nào cũng lưu dấu bước chân anh. Nay vì tổ quốc , anh đã thanh thản ra đi, bỏ lại người vợ chưa cưới nơi cố đô Huế.
HQ 4 và HQ 5 quay đầu về hướng Nam. Sau đó 1 giờ không còn thấy HQ 5 ở đâu. HQ 5 do máy yếu và một máy bị sự cố chưa kịp khắc phục, nên “rớt” lại đâu đó. Trên biển trở nên HQ 4 lẻ loi một mình. Hạm trưởng San vẻ một đường trực chỉ về Đà Nẵng.
Bây giờ tôi mới rời được ĐCH. Trên hành lang xuống nơi nghỉ ngơi, tôi đã chứng kiến một sự kinh khủng sau chiến trận. Hành lang dưới tàu tanh đến ngộp thở: mùi máu, mùi cồn, bông băng… mấy ngày liền không có thời gian thu dọn. Hơn 130 thủy thủ đoàn bám chặt vị trí chiến đấu giờ đều mệt lả, nằm đâu ngủ đó. Họ chỉ cầm hơi bằng mì gói, nước ngọt và lương thực khô. Các binh sĩ biệt hải kiệt sức nằm rải rác trên hành lang phòng ăn. Trong phòng y tế, các binh sĩ người nhái bị thương cũng nằm la liệt. Một binh sĩ bị đạn bắn thủng cằm từ trái qua phải, mặt sưng vù. Anh ngồi bất động, máu không còn chảy ra nữa, nhưng khóe miệng những vệt máu lẫn nước bọt vẫn rỉ ra. HS Danh nằm thoi thóp trên băng ca, ngực anh đầy bông băng nhuốm máu. Tôi rờ lên trán anh nóng hổi, hỏi anh có khỏe không? Anh mở mắt rồi gật đầu, nhưng lịm dần rồi chết.
Khoảng 16 giờ 30 tôi đang trong giấc ngủ sâu vì đã mấy hôm không chợp mắt, thì còi tập họp vang lên. Tất cả thủy thủ đoàn tập họp đầy đủ nghe thông báo :“Tất cả chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, tàu được lệnh quay lại Hoàng Sa. Nếu cần sẽ ủi thẳng lên bờ đảo Hoàng Sa, chiến đấu đến cùng để giữ đảo”.
Nhìn sau lái tàu, tôi biết tàu đang quay lại và hướng thẳng về Hoàng Sa. Tất cả đều bất động , không ai nói với ai một lời nào trước giờ phút cảm tử này .
Thế rồi, giữa khỏanh khắc yên lặng kỳ lạ và căng thẳng đó, một câu nói được thốt ra, tôi còn nhớ mãi: “Dù sao đánh nhau với Trung Quốc nếu có chết cũng vinh quang hơn… ”.
Nguồn: Blog Bùi Thanh
|
|
|
Post by vietnam on Sept 14, 2009 3:12:10 GMT -5
HS - tường trình 35 năm sau, Kỳ 4: Hải chiến 30 phút và nỗi đau 30 năm Tác Giả On The NetĐăng ngày hôm quaBút Ký On The Net View all articles by On The Net Đàn Chim Việt: Đúng như chúng tôi đã dự đoán. Sau khi đăng 2 bài trong phóng sự dài kỳ liên quan tới trận hải chiển cuối cùng diễn ra 19/1/1974, trước khi Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm, báo Tuổi Trẻ đã (phải) dừng loạt bài này. Trong hai bài đã đăng, báo Tuổi Trẻ đã dành những lời lẽ trân trọng, đi ngoài "lề phải", khi nhắc tới những người đã ngã xuống để bảo vệ Hoàng Sa và những nhân chứng còn sống tới ngày nay. Sau 2 bài đã đăng, hiện báo Tuổi Trẻ đã cáo lỗi như sau: "Vì lý do ngoài ý muốn, chúng tôi xin tạm dừng hồ sơ “Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau”. Chúng tôi sẽ tiếp tục đề tài này vào thời điểm thích hợp. Chân thành cáo lỗi cùng bạn đọc." Đàn Chim Việt xin chuyển tới bạn đọc phần 3 và 4 của loạt phóng sự này từ một nguồn khác. Có thể nó không hoàn toàn giống với bài mà Tuổi Trẻ định đăng tải. -------------------------------------------------------------------------------- Kỳ 1: Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau Kỳ 2: Biển động Kỳ 3: Tử chiến Kỳ 4: Hải chiến 30 phút và nỗi đau 30 năm Ngay sau khi nhận được lệnh tác xạ chuyển đi từ soái hạm HQ-5, các chiến hạm VN đồng loạt khai hỏa vào mục tiêu được chỉ định là các chiến hạm địch đối đầu. Các khẩu đại bác 40 ly và 20 ly tác xạ rất chính xác và hiệu quả vì có nhịp bắn nhanh và mục tiêu lớn lại nằm trong tầm tác xạ hữu hiệu. Các khẩu đại bác 76 ly trên Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư tác xạ cũng rất chính xác nhưng nhịp bắn không được nhanh vì hệ thống radar kiểm xạ viễn khiển bị hỏng từ lâu. Những giàn đại pháo 127 ly trên các Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng và Lý Thường Kiệt có nhịp bắn chậm hơn trong lúc các chiến hạm đôi bên vận chuyển với vận tốc cao nên rất khó nhắm vào mục tiêu. Với chiến thuật “tốc chiến, tốc thắng”, các chiến hạm VN chiếm được thế thượng phong vì bắn trước với cỡ súng lớn hơn. Các tàu Trung Quốc bị thiệt hại nhiều trong những phút đầu tiên này nhưng cũng chống trả mãnh liệt. Trên Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 thuộc phân đội Bắc, lệnh tác xạ của Hạm Trưởng, HQ Trung Tá Lê Văn Thự, được đáp ứng ngay bằng quả đạn đầu tiên của khẩu đại pháo 127 ly do Trung Úy Ðoàn Viết Ất làm trưởng khẩu. Sau đó, các khẩu đại bác 40 ly và 20 ly từ trước mũi đến sau lái thi nhau bắn vào tàu địch. Giống như như HQ-5, vũ khí chính của Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt là khẩu đại pháo 127 ly (5 inch) đặt tại sân trước. Cũng ở sân trước, đàng sau của khẩu đại pháo là giàn đại bác 40 ly đôi (2 nòng) nằm một tầng cao hơn ngay dưới đài chỉ huy. Hai bên hông đài chỉ huy là các khẩu đại bác 20 ly đôi (2 nòng). Tại sân sau có các khẩu đại bác 40 ly đơn, một bên tả hạm, một bên hữu hạm. Sau đây là lời tường thuật của của một nhân chứng, sĩ quan hải hành Đào Dân ,có mặt trên đài chỉ huy HQ-16 trong lúc xảy ra trận hải chiến: “Cả chiến hạm như bị giật lùi vì tiếng khai hỏa của đại pháo 127 ly. Những người trên đài chỉ huy chú tâm đến nỗi ai cũng có cảm tưởng mình nhìn thấy được đường đi của viên đại bác dầu tiên. Rồi tiếng nổ dồn dập của khẩu đại bác 40 ly đôi trước mũi và khẩu 40 ly đơn sau lái hữu hạm, cùng với tiếng nổ liên hồi của đại bác 20 ly làm thành một hòa âm khó tả. Khói thuốc súng từ trước mũi, sau lái, boong trên phía sau và ngay đài chỉ huy phía dưới bay lên làm mờ cả một vùng trời trên chiến hạm … Từ lỗ tròn của ổ đại bác 127 ly trước mũi, Trung Úy Ất đã đứng hẳn người lên, nhô cả thân mình lên trên ụ súng để tận mắt chứng kiến kết quả của những viên đạn đang nổ, điều chỉnh những sai sót. Tiếng oang oang thường ngày của Ất được dịp phát ra từ đó mà ở đài chỉ huy chúng tôi còn nghe được. “Lên hai độ”, “xuống một độ”, “bên phải”, “bên trái một chút”. Cả đài chỉ huy cùng chăm chú theo dõi từng viên đại pháo phát nổ xung quanh tàu địch, bỗng ồ lên như ong vỡ tổ:” Trúng rồi!” Tôi nhìn lên, chếch về phía bên phải mũi tàu, một chiến hạm địch đang bốc khói. Có lẽ là khói của viên đạn nổ tung ngay đài chỉ huy vì sau đó, dường như hoạt động của tàu này có phần chậm lại”. Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ-10 là một thành phần của phân đội Bắc dưới quyền điều động của HQ-16. Trong lúc hải chiến, HQ-10 nằm chếch về hướng Nam, cách HQ-16 chừng 1 hải lý. Vì là một tàu loại rà mìn được biến cải, nên chiến hạm HQ-10 chậm và nhỏ nhất trong số các đơn vị VN tham chiến. Ngoài ra, ngay từ khi gia nhập Hải Đội Hoàng Sa, tình trạng kỹ thuật của HQ-10 đã không được khả quan vì chỉ còn một máy chánh, radar lại bị hư. Trước đây, trên đường đi từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa vào ngày 18/1, soái hạm HQ-5 đã phải rời đội hình, bỏ HQ-10 lại phía sau vì chạy quá chậm. Tuy cần đi trước cho kịp giờ hẹn với các chiến hạm bạn tại Hoàng Sa, HQ-5 vẫn dùng radar của mình để hướng dẫn HQ-10 hải hành trong đêm. Vũ khí chính của HQ-10 là khẩu trọng pháo 76.2 ly đặt tại sân trước, 2 đại bác 40 ly đơn tại sân giữa và 4 đại bác 20 ly đặt hai bên hông đài chỉ huy và sân sau. Theo kế hoạch lúc ban đầu, phân đội Bắc có nhiệm vụ yểm trợ hải pháo để phân đội Nam đổ quân chiếm đảo Quang Hòa. Nhưng sau khi cuộc đổ bộ bất thành vì quân Trung Quốc trên đảo quá đông và tàu yểm trợ của chúng cũng rất nhiều – tổng cộng 11 chiếc đủ loại – nên sau khi thảo luận kỹ càng, lực lượng VN quyết định tiêu diệt các chiến hạm địch trước. Đây là một quyết định rất sáng suốt vì nếu phá được đoàn tàu yểm trợ, địch quân trên đảo sẽ bị cô lập và sẽ bị đánh tan dễ dàng. Do đó, HQ-10 cũng được chỉ định một mục tiêu tác xạ, đó là chiếc tàu TQ mang số 396. Theo lời tường thuật của các nhân chứng, chỉ trong vòng 5 phút đầu, các khẩu hải pháo trên HQ-10 đã bắn tê liệt chiến hạm địch, phòng lái và hầm máy bị cháy khiến chiếc tàu này không còn điều khiển được nữa, cứ chạy vòng vòng làm mồi cho hỏa lực chính xác của HQ-10. Tuy nhiên, vì chỉ còn một máy, xoay trở rất khó khăn nên HQ-10 cũng bị trúng nhiều đạn địch. Hạm Trưởng, HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà bị tử trận, Hạm Phó là HQ Đại Úy Nguyễn Thành Trí bị thương nặng. Sau khi bắn hạ tàu địch, cuối cùng Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo cũng bị hy-sinh. Một số nhân viên xuống được bè thoát được, mang theo vị Hạm Phó, nhưng chẳng bao lâu, viên Đại Úy hạm phó cũng đền nợ nước vì bị mất máu quá nhiều. Chiến hạm Nhật Tảo HQ-10 đã bị quân TQ bắn chìm. Cả hạm trưởng và hạm phó đều hy sinh Trong số các tàu VN tham chiến, có lẽ chỉ Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 mới xứng đáng mang danh “chiến hạm”. Trong khi các chiến hạm khác tuy được gọi là Tuần Dương Hạm hay Hộ Tống Hạm, nhưng thật ra chỉ là loại tuần duyên (Coast Guard) hay tàu rà mìn của Hoa Kỳ. HQ-4 nguyên là một Khu Trục Hộ Tống Hạm được trang bị radar phòng không tối tân (DER – Destroyer Escort Radar). Vũ khí chính là hai giàn đại pháo 76.2 ly có radar kiểm xạ (radar control) với khả năng tự dò tìm góc độ và tầm xa để “khóa chặt” (lock on) mục tiêu. HQ-4 dưới sự chỉ huy đầy kinh nghiệm của Hạm Trưởng Vũ Hữu San đã bắn hạ dễ dàng các chiến hạm Trung Quốc. Nhưng rất tiếc, vào thời điểm năm 1974 khi cuộc chiến tại Việt Nam gần tàn, khả năng tác chiến của HQ-4 đã giảm sút nhiều mặc dù thủy thủ đoàn rất thiện chiến. Một điểm khá bất lợi nữa là HQ-4 ngoài hai khẩu 76.2 ly, không có đại bác 40 ly bắn nhanh. Trong một trận hải chiến khi mục tiêu chỉ các trên dưới một hải lý, một dàn 40 ly bắn nhanh sẽ có lợi thế hơn một khẩu 76.2 ly bắn chậm. Nhưng dù với những bất lợi nói trên, dưới quyền chỉ huy sáng suốt, kinh nghiệm của Hạm Trưởng Vũ Hữu San cùng sự quả cảm, gan dạ của thủy thủ đoàn, HQ-4 đã xứng đáng mang danh Khu Trục Hạm. Ngay sau khi nhận được lệnh tác xạ vào tàu địch, hai khẩu đại bác 76.2 ly đã chuẩn-bị từ lâu, khai hỏa chính xác trúng ngay tàu địch lúc đó nằm trong khoảng cách 1,600 yards. Chỉ trong vòng vài phút đầu, chiếc Kronstadt 271 là soái hạm của hải đội TQ đã bị bắn cháy không còn khả năng tác chiến. Nhưng cũng như những chiến hạm đồng đội khác, HQ-4 là một mục tiêu khá lớn cho tàu địch nên cũng bị trúng nhiều vết đạn. Tuy-nhiên các máy móc chính, nhất là hệ thống truyền tin vẫn trong tình trạng khiển dụng tốt. Trên soái hạm HQ-5, khi lệnh tác chiến được ban hành, các ổ súng nổ dòn dã hướng về tàu địch. Trong lúc tác chiến, Hạm Trưởng, HQ Trung Tá Phạm Trọng Quỳnh, lo việc di chuyển chiến hạm để vào vị trí tác xạ hữu hiệu nhất cũng như để tránh các vùng san hô, đá ngầm nguy hiểm trong khi Hạm Phó và Sĩ Quan Hải Pháo lo việc chỉ huy tác chiến. Mục tiêu của HQ-5 là chiếc Kronstadt mang số 274 . Mặc dầu 274 chống trả mãnh liệt nhưng bị hư hại nặng vì trúng nhiều đạn 40 ly và 20 ly nên bị loại ra khỏi vòng chiến. Để dễ bề lẩn tránh, tàu địch phun ra một màn khói ngụy trang khiến HQ-5 khó nhận biết chính xác mục tiêu. Tuy nhiên, bị trúng đạn quá nặng, chiếc Kronstadt này bắt buộc phải ủi vô bờ san hô phía Nam đảo Quang Hòa để tránh bị chìm. Tuy đã loại được đối thủ, nhưng tình trạng tác chiến của HQ-5 cũng không mấy khả quan. Tới khoảng 10 giờ 50 sáng tức là vào phút thứ 25 của trận chiến, tất cả các ổ súng lớn trên chiến hạm đều bị trở ngại tác xạ không bắn được, ngoại trừ khẩu đại bác 40 ly bên tả hạm do Thượng Sĩ Tài làm trưởng khẩu. Như vậy, nguyên hông phải của chiến hạm không còn trọng pháo để bảo vệ. Nguy hiểm hơn nữa, các chiến hạm còn lại của TQ tập trung lực lượng nhắm vào HQ-5 như để trả thù cho đồng bọn. Tuy bị bao vây và bắt đầu bị trúng nhiều đạn địch, khẩu đại bác 40 ly độc nhất còn lại phản pháo ác liệt khiến địch phải chùn lại. Trung Tá San cho biết cũng trong lúc đó, các chiến hạm VN quan sát thấy có bốn lượng sóng lớn trắng xóa đang tiến tới từ hướng Đông Bắc với vận tốc rất nhanh và có tin các phi tiễn đĩnh loại Komar của địch đang trên đường đến tiếp viện. Trước tình thế bất lợi, vả lại các chiến hạm chính của địch tham chiến cũng đã bị hư hại, Đại Tá Hà Văn Ngạc đã ra lệnh cho các chiến hạm VN rời vùng giao tranh để bảo toàn lực lượng. Khi rời khỏi vùng giao tranh vào khoảng 11 giờ sáng ngày 19/1, hải đội VN cũng chia làm hai cánh. HQ-16 vì hoạt động ở khu phía Bắc và đã bị thiệt hại khá nặng có nguy cơ bị chìm nên đã đổi đường ngược lên phía Bắc, hướng về đảo Hoàng Sa rồi sau đó di chuyển về hướng Tây nhắm về Đà Nẵng. Trong khi đó phân đội Nam gồm HQ-4 và HQ-5 hải hành về hướng Đông Nam. Phía TQ cũng không còn sức để đuổi theo. Khoảng ba tiếng đồng hồ sau, vào lúc 2 giờ 15 phút, phân đội Nam gồm HQ-4 và HQ-5 nhận được lệnh của Ðề Ðốc Trần Văn Chơn, Tư Lệnh Hải quân VN lúc đó có mặt tại Ðà Nẵng. Ông yêu cầu tất cả các chiến binh phải quay trở lại cố thủ tại Hoàng Sa. Các chiến hạm liền đổi đường về hướng Tây Bắc trở lại vùng đã xảy ra trận hải chiến hồi sáng. Nhưng khi gần tới Hoàng Sa, vào lúc 5 giờ 20 chiều, lệnh cố thủ được hủy bỏ, phân đội Nam được lệnh trở về Đà Nẵng. Về lệnh “cố thủ” này, Trung Tá Vũ Hữu San, Hạm Trưởng Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 nhớ lại: “Sau Hoàng Sa 24 năm, chúng tôi còn sống và vẫn đi tìm trong mấy chục triệu sách thư viện nhưng cho đến nay, đã không thể nào tìm thấy được cái lý tưởng nào cao xa hơn được biểu lộ qua hình ảnh Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ-4 và Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-5 tuân hành quân lệnh chuẩn bị lên cạn phơi xác mình. Quân lịnh như núi! Lịnh này đúng hay sai cũng là lệnh! Đến chiều tối, lệnh hải hành rời bỏ Hoàng Sa mới được ban ra và chúng tôi các chiến hạm mang đầy vết thương vẫn còn đang rỉ máu, được về Đà Nẵng để lo mai táng cho các bạn đã hy sinh, đưa đồng đội bị thương vào quân y viện và sửa chữa chiến hạm . . .”. Còn Ðề Ðốc Trần Văn Chơn cho biết về lệnh “quay trở lại Hoàng Sa” như sau: “Vì sau trận hải chiến, hệ thống truyền tin của các chiến hạm không được toàn hảo nên tôi không biết rõ tình hình tại Hoàng Sa do đó đã ra lệnh cho các chiến hạm trở lại để bảo vệ lãnh thổ. Khi hệ thống truyền tin được sửa chữa xong, tôi biết rõ hơn về tình trạng các chiến hạm nên đã ra lệnh trở về Ðà Nẵng.” Đến ngày 20 tháng 1, các chiến hạm HQ/VNCH về tới Đà Nẵng. HQ-4 và HQ-5 cập cầu Thống Nhất tại bến thương cảng hối 7 giờ 30 sáng. Riêng Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 được Tuần Dương Hạm Trần Bình Trọng HQ-6 hộ tống cập cầu Tiên Sa thuộc BTL/V1DH vào lúc 10 giờ sáng. Thiệt hại về phía VN: 1 chiến hạm bị chìm và 3 chiếc khác bị hư hại. Nhiều binh sĩ tử thương và bị thương . Ngoài ra, còn một số binh sĩ và nhân viên dân chính bị bắt giữ vào ngày 20/1/74 khi phi cơ và chiến hạm Trung Quốc oanh, pháo kích rồi cho quân đổ bộ lên các đảo. Nhóm tù binh này gồm 14 nhân viên thuộc HQ-4 được đổ bộ lên đảo Cam Tuyền vào khoảng 10 giờ sáng ngày 18/1 và 34 binh sĩ Địa Phương Quân cùng nhân viên khí tượng, trong số này có một nhân viên dân chính Hoa Kỳ tên Gerald Emil Kosh. Những người bị bắt bị đưa về đảo Hải Nam vào ngày 21/1 và sau cùng bì giam tại nhà lao Thu Dung thuộc tỉnh Quảng Châu. Năm thương bệnh binh được trao trả vào ngày 31/1 tại cầu Shumchum là ranh giới giữa Hồng Kông và tỉnh Quảng Đông. Sau 27 ngày bị giam giữ, trước sự đòi hỏi hợp lý của VN và dưới áp lực của giới ngoại giao cũng như hội Hồng Thập Tự quốc tế, Trung Quốc đã phải phóng thích toàn bộ số 43 tù binh còn lại. Trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa giữa Hải quân quân đội Saigon và Hải quân Trung Quốc diễn ra trong vòng 30 phút, một thời gian tương đối ngắn ngủi, nhưng hậu quả còn kéo dài cho tới ngày nay. Sau khi chiếm được Hoàng Sa, lực lượng TQ tiến sâu hơn về phía Nam, chiếm thêm một số đảo thuộc vùng Trường Sa. Hiện nay, các đảo tại Hoàng Sa đã được xây dựng thành những căn cứ quân sự quan trọng, có phi trường và cầu tàu khá tối tân. Ngoài ra, TQ cũng đã có quân đồn trú thường trực và xây cất công sự phòng thủ rất kiên cố trên nhiều hải đảo khác tại Biển Ðông. Tham vọng của Trung Quốc còn biểu lộ trắng trợn hơn khi họ đơn phương vẽ lại bản đồ, đòi chủ quyền hầu như trọn Biển Ðông, có nơi chỉ cách bờ biển Việt Nam vài chục hải lý. Mất quần đảo Hòang Sa và những đảo khác ở Trường Sa, chúng ta mất những tiền đồn quan trọng của quốc gia, mất những mỏ dầu vào tay gã khổng lồ đang khát dầu, và đặc biệt, chúng ta mất những nơi che chở an tòan cho ngư dân khốn khổ của chúng ta vào mùa giông bão. Nhưng chúng ta luôn nhớ Hòang Sa và quần đảo thân yêu ấy mãi mãi là của chúng ta. Những người đi trước đã đổ máu vì mảnh đất này, do vậy, hỡi các bạn trẻ, đừng bao giờ quên điều đó ! Nơi ấy là Tổ quốc chúng ta! Nguồn: Blog Bùi Thanh. (Blogger Bùi Thanh: Một lần nữa, xin cám ơn các nhân chứng Hòang Sa 1974 đã đồng ý cho tôi khai thác và công bố tư liệu này trên blog)
|
|