|
Post by Admin on Apr 26, 2009 13:39:44 GMT -5
CUỘC CHIẾN CHỐNG VIRUS CÚM VƯỢT QUA MỘT BƯỚC QUYẾT ĐỊNH BS NGUYỄN VĂN THỊNH (4/4/2009) Một vaccin hữu hiệu mặc dầu những biến đổi theo mùa của virus và một điều trị hiệu quả chống lại tất cả các dạng cúm ? Hai thách thức này đang được theo đuổi bởi hai công trình nghiên cứu được thực hiện song hành bởi hai nhóm nghiên cứu châu Âu và Hoa Kỳ. Nhóm nghiên cứu châu Âu, với căn cứ ở Laboratoire européen de biologie moléculaire và ở CNRS (Grenoble), đã nhận diện một “chìa khóa” phân tử cho phép virus buộc những tế bào người bị nhiễm trùng phải chế tạo các protéine siêu vi trùng. Các nhà sinh học đã thành công xác định một cách chính xác thành phần acide aminé của chiếc “chìa khóa” nằm trên một enzyme chung cho tất cả các dạng virus cúm này. “Một loại thuốc, có tác dụng vô hiệu hóa vùng enzyme này, sẽ là một phương tiện rất hiệu quả để ngăn chặn nhiễm trùng”, Rob Ruigrok, đồng tác giả của công trình nghiên cứu đã giải thích như vậy. Nhóm nghiên cứu khác, ở Havard (Boston), vừa mở đường cho một vaccin “vạn ứng” khi khám phá kháng thể người đầu tiên ngăn cản sự đi vào trong tế bào của các dạng virus cúm khác nhau. Bằng cách nào ? Bằng cách gắn vào hémagglutinine, một trong các protéine cấu tạo lớp vỏ của virus.Thế mà, nơi kháng thể đến gắn vào lại ít chịu các biến dị (mutations). Như thế, kháng thể này có thể là nguồn gốc của vaccin đầu tiên hiệu quả chống lại một số lớn virus của bệnh cúm. “ Nhưng việc chế tạo một vaccin như thế sẽ cần nhiều năm tháng, Jianhua Sui, thuộc Harvard Medical chool, tác giảcủa công trình nghiên cứu, đã phát biểu như vậy. Và mặc dầu kháng thể này hiện nay nhận biết các virus của bệnh cúm gia cầm, tuy vậy nó không có khả năng nhận biết virus liên hệ trong các bệnh cúm xảy ra theo mùa (grippes saisonnières). “ Tìm kiếm một kháng thể như thế là mục tiêu của công trình sắp đến của chúng tôi ”, Jianhua Sui đã kết luận như vậy. (SCIENCE ET VIE 4/2009).
|
|
|
Post by tuhieu on May 8, 2009 12:35:00 GMT -5
|
|
|
Post by vietnam on May 23, 2009 4:05:33 GMT -5
Ho Lâu Do Cảm, Cúm Bác sĩ Nguyễn văn Đức, Chuyên Khoa Nội Thương
Ho đứng hàng thứ năm trong các lý do khiến chúng ta đi tìm bác sĩ. Hàng năm người ở Mỹ tiêu hơn 600 triệu đô-la tiền thuốc ho. Chúng ta đang trong mùa lạnh, mùa ho. Người bệnh ho, bác sĩ cũng ho. Cứ như pháo nổ. Ho ngủ không được, ho trong chỗ làm ai nhìn cũng sợ (nhưng rồi vài ngày sau họ cũng phát ho, còn hơn cả mình!). Ho phát bực, rồi buồn cả bác sĩ sao không cho trụ sinh, không chích thuốc cho mau hết ho. Ho được phân làm 3 loại tùy thời gian xảy ra bao lâu: ho cấp tính (acute cough), ho bán cấp tính (subacute cough) còn gọi là ho kéo dài (prolonged cough), và ho kinh niên (chronic cough). (Đi khám bệnh, bạn nhớ cho bác sĩ biết bạn ho đã bao lâu, để bác sĩ dễ định bệnh, nghĩ đến những nguyên nhân nào khiến bạn ho. Yếu tố thời gian bao giờ cũng quan trọng hàng đầu trong y khoa.) Ho cấp tính kéo dài dưới 3 tuần, thường do một bệnh nhiễm đường hô hấp cấp tính (acute respiratory tract infection), như cảm, cúm mùa này. Thường, khi chúng ta bị cảm, cúm, chúng ta ho một hai tuần, nhưng những trường hợp cảm, cúm ho lai rai đến 3 tuần cũng không phải ít. Ho bán cấp tính (ho kéo dài) là những trường hợp chúng ta tiếp tục ho đến 8 tuần lễ. Nếu không có triệu chứng gì quan trọng khác, và thăm khám kỹ cũng chẳng tìm thấy gì lạ lắm, thường ho bán cấp tính cũng gây do cảm, cúm. Một số trường hợp cảm, cúm gây ho đến 7-8 tuần. Ho kinh niên là những trường hợp ho trên 8 tuần. Ba nguyên nhân thường hay gây ho kinh niên là nước sau mũi chảy xuống cổ họng (postnasal drip, do viêm mũi, viêm các xoang quanh mũi), suyễn, và bệnh dội ngược bao tử – thực quản (gastro-esophageal reflux disease). Bài này, chúng ta bàn về cái ho cứ tiếp tục làm phiền ta sau khi nhiễm cảm, cúm.
Nguyên nhân Cảm (cold) hay cúm (flu), do siêu vi, khiến đường hô hấp của chúng ta viêm, và ta ho. Cái ho do cảm, cúm lắm lúc kéo dài đến 2-3 tuần lễ. Thỉnh thoảng, ta còn tiếp tục ho lai rai lâu hơn nữa. Đường hô hấp bị viêm do siêu vi cảm, cúm có khi nhiều tuần sau vẫn chưa lành, khiến các ống thở trở thành nhạy ứng hơn với những tác nhân gây ho bên ngoài, như khí lạnh, khói thuốc, ... Bình thường không sao, nay mới cảm, cứ hít tí khí lạnh, ngửi chút khói thuốc, ta lại ho. Cảm, cúm cũng có thể khiến nước sau hốc mũi ta cứ chảy xuống họng một thời gian dài, khiến ta tiếp tục ho. Chữa trị Sự chữa trị ho cấp tính (dưới 3 tuần) và bán cấp tính (từ 3 đến 8 tuần) gây do cảm, cúm cần sự hiểu biết và kiên nhẫn của chúng ta. Cái ho cấp tính do cảm, cúm có thể rất dữ trong 1-2 tuần đầu, liên miên khiến ta không ngủ được ban đêm, ban ngày cũng khó làm việc. Lúc ho đang dữ nhất như vậy, thuốc ho không giúp nhiều lắm, nhiều vị trong chúng ta nghĩ phải cần đến trụ sinh, hoặc chích thuốc. Nhưng khổ nỗi, trụ sinh không giúp gì cả, vì trụ sinh chỉ đánh được vi trùng (như trong các bệnh sưng phổi, viêm xoang quanh mũi, bệnh ho gà), còn cảm, cúm là bệnh do siêu vi. Việc dùng trụ sinh bừa đi, mong cho cái ho nó chóng bớt hoàn toàn không đúng, ngược lại còn có hại, vì thêm tốn kém, phải chịu những phản ứng phụ của thuốc, và làm các vi trùng trở thành kháng thuốc trụ sinh, khi sưng phổi hoặc viêm xoang quanh mũi thực sự xảy ra, ta phải đổi trụ sinh mới, đắt tiền hơn và có thể gây phản ứng phụ nhiều hơn. Còn thuốc chích, chẳng có thuốc chích nào giúp bớt ho. (Nếu bác sĩ đề nghị chích thuốc cho bạn để bạn mau bớt ho, bạn nên xin tên thuốc chích, và tham khảo trên Internet xem thuốc chích này có đúng để chữa ho khi bị cảm, cúm không. Thời buổi Internet, chúng ta kiểm chứng được việc làm đúng, sai của bác sĩ dễ dàng.) Sau 1-2 tuần, thường cái ho do cảm, cúm sẽ hết hẳn, hoặc dịu bớt, sang thể bán cấp tính, kéo dài thêm một thời gian vài tuần nữa. Sự chữa trị trong giai đoạn bán cấp tính này cũng rất cần sự kiên nhẫn. Nếu ho ít, có vẻ như đang bớt dần, ta không cần chữa. Ho còn nhiều, tùy trường hợp, ta có thể thử dùng cách chữa ngăn nước sau mũi khỏi chảy xuống họng và/hoặc chữa như chữa suyễn (dùng các thuốc xịt làm dãn ống phổi, thuốc xịt atrovent, hoặc thuốc steroid). Trụ sinh trong giai đoạn này cũng không ăn thua gì, trừ khi có sưng phổi, viêm xoang xảy ra, hoặc có dấu chứng ta nghi do bệnh ho gà (sau 2 tuần vẫn còn ho từng cơn dữ đội, khi thở vào có tiếng rít đặc biệt của bệnh ho gà, ói mửa sau khi ho). Bác sĩ không nên dùng trụ sinh để làm vui lòng người bệnh, song ôn tồn giải thích cho người bệnh hiểu rõ cơ chế gây ho sau khi nhiễm cảm, cúm. Ho vì cảm, cúm thường mau chóng hết, tuy có khi lai rai đến 7-8 tuần hay hơn (nếu vẫn khỏe, không nóng sốt, khó thở, bạn không nên hãi sợ sao ho lâu). Chúng ta chữa cái ho dây dưa do cảm, cúm với thuốc ho, thuốc ngăn nước mũi chảy xuống họng, hay các thuốc dùng chữa suyễn, và với sự kiên nhẫn.
Bác sĩ Nguyễn Văn Đức, Chuyên Khoa Nội Thương 8748 E. Valley Blvd., Ste H Rosemead, CA 91770 Tel: (626) 288-3306
|
|
|
Post by vietnam on Jun 14, 2009 15:24:47 GMT -5
Tại sao bệnh Cúm không thanh toán được mà cũng không chữa được? Nguyễn Đình Nguyên Ngày 12/05/2009, giờ Paris- Lúc 11 giờ, có 5251 người bị cúm heo trong số đó có 61 người tử vong trong số 30 nước trên thế giới. Lúc 18 giờ 30, số nạn nhân tăng lên tới 5885 trong số đó có 63 người chết (Mexico: 58, USA: 3 , Canada: 1, Costa Rica: 1). Lúc 23 giờ thì con số lên 5914 và 33 nước bị nhiễm virus. Pháp có 13 trường hợp nhiễm bệnh. OMS (Organisation Mondiale de la Santé, Tổ chức sức khoẻ thế giới) tính bằng toán, thì tại Mexico có thể lên tới 32 ngàn người nhiễm cúm.- Bệnh cúm đã được ông tổ của y khoa hiện đại -Hippocrate mô tả từ năm 420 tr.CN. Tuy nhiên chỉ cho đến cuối thế kỷ 16 thì đại dịch cúm ở người mới xuất hiện, và lần lượt sau đó gần như thế kỷ nào cũng có các trận đại dịch cúm xảy ra. Gần đây nhất, thể kỷ 20, nhân loại hứng chịu ba trận đại dịch cúm: 1918, 1957 và 1968. Khoa học y học hiện đại hiểu biết gần như rất rõ ràng về đặc tính sinh hoá học của virus cúm, thế nhưng cho đến nay, bệnh cúm vẫn được coi là một bệnh không chữa được căn nguyên, chỉ điều trị triệu chứng và chúng ta cũng chưa thanh toán được bệnh cúm nếu không nói là không thể. Tại sao lại như vậy, hy vọng bài viết này giúp cho chúng ta hiểu biết rõ về loại virus này để có thể “sống chung với lũ”. Virus cúm: cấu trúc và đặc điểm sinh học Virus được xếp trong nhóm các tác nhân gây nhiễm trùng, có cấu trúc rất rất nhỏ so với vi khuẩn, nên được gọi là siêu vi khuẩn hay virus. Cũng giống như các giống và loài khác, virus cũng có nhiều loại dựa vào cấu trúc phân tử và mỗi loại cũng có nhiều phân nhóm nhỏ. Virus cúm là nhóm có cấu trúc di truyền chỉ có một nhánh đơn RNA chứ không phải nhánh kép DNA như vi khuẩn hoặc nhân tế bào các loại khác. Virus cúm có nhiều phân nhóm nhỏ, giống như người có chủng tộc gốc Á, Âu, Phi…Phân nhóm này dựa vào cấu trúc kháng nguyên đặc trưng trên bề mặt của nó, như nước da màu tóc ở người. Có ba loại kháng nguyên bề mặt đặc trưng của virus cúm đó là M1 (matrix), HA (hemagglutinin) và NA (neuraminidase). Dựa vào sự khác biệt chính trên kháng nguyên M1 người ta phân virus cúm thành ba nhóm A, B và C. Một điều cần biết, cho đến nay bằng chứng cho thấy rằng tất cả các dòng virus cúm gây bệnh ở bất kỳ động vật nào, kể cả con người đều xuất phát từ loại thuỷ cầm và lông vũ (trong 10 giống loài khác nhau), và nhóm virus cúm nguyên thuỷ đều là virus thuộc nhóm A. Virus nhóm B và C là loại tiến hoá từ A, và virus B và C chỉ gây bệnh ở người mà không có gây bệnh cúm ở động vật; chỉ có rất hiếm một vài đợt lẻ tẻ, người ta tìm thấy virus cúm C gây bệnh ở heo. Và theo sự tiến hoá đó, virus cúm B và C gây bệnh cúm ở người rất nhẹ, nhẹ nhất là C, như gây ra chứng cảm thông thường, không có gì đáng kể. Chỉ có cúm A mới là loại có khả năng gây bệnh nặng. Chính vì thế mà virus cúm nhóm A được quan tâm và nghiên cứu nhiều nhất. Dựa trên đặc điểm cấu trúc của kháng nguyên HA và NA, người ta lại phân cúm A thành những phụ nhóm nữa: HA có 16 phụ nhóm và NA có 9 phụ nhóm. Về mặt lý thuyết, chúng ta có thể có 16 x 9 = 144 loại virus cúm A khác nhau dựa vào phụ nhóm H và N, nhưng trên thực tế chưa có nhiều như vậy, tuỳ thuộc vào sự tiến hoá cũng như khả năng gây bệnh của nó. Tất cả 144 phân nhóm virus A này đều có mặt ở chim, tuy nhiên chỉ có H1, H2, H3, H5, H7 và H9 và N1, N2 và N7 thì có thể lây nhiễm sang người, nhưng cho đến hiện nay chỉ còn có thể thấy H1, H2, H3 và N1 và N2 là còn tồn tại và biến thể lây nhiễm giữa người với người mà thôi. Đối với H5N1 chỉ mới cho thấy có khả năng lây trực tiếp giữa loài lông vũ và người, rồi dừng ở đó, chứ chưa có bằng chứng lây từ người này sang người khác Virus cúm nhóm A, chứa 8 đoạn ARN Virus cúm A loại đầu tiên được xác định đó là A(H1N1), và loại này được cho có nguồn gốc từ heo, nhưng cũng đã được nhiễm từ loại lông vũ (có chứa mầm bệnh không mắc bệnh) sang gây bệnh cho heo; từ heo nó chuyển sang lây cho người, thích nghi ở cơ thể người và lây cho nhau, tạo nên đại dịch cúm 1918. Sơ đồ dưới đây cho thấy sự tiến hoá của virus A. Và như thế trong quá trình tiến hoá đó, có thể có loại mới sinh ra nhưng cũng có loại cũ mất đi, không còn tồn tại nữa, ví dụ như virus A(H3N2)- tác nhân gây đại dịch cúm 1968, hiện không còn tìm thấy. H2N2 là tác nhân gây đại dịch cúm 1957, H1N1 thì từ lúc xuất hiện cho đến nay vẫn tồn tại, nhưng lại thay đổi chút ít về bề mặt, có nghĩa là vẫn thuộc phụ nhóm H1N1, nhưng nó khác đi nhiều, ví như cũng một con người đó, nhưng họ thay đổi thời trang khác nhau theo thời gian. Một đặc điểm đáng lưu ý nhất của virus cúm nhóm A là khả năng biến đổi đặc tính của H và N rất nhanh, dù dưới một tác động rất ít. Virus cúm nhóm A có sự giao lưu giữa các loại khác nhau, nhưng chủ yếu là giữa ba loài: nguồn chính là thuỷ cầm và lông vũ. Virus A từ loại này có thể nhảy sang thích nghi và gây bệnh trực tiếp cho heo hoặc cho người (cúm gia cầm); từ heo lây sang người, nhưng chưa có bằng chứng thấy có sự lây ngược giữa người với chim và heo với chim; có bằng chứng cho thấy có thể virus cúm cũng lây ngược từ người sang heo. Và như vậy, cơ thể heo gần như là một nhà máy trung gian, tiếp nhận virus cúm cả từ loài thuỷ cầm, lông vũ và người vào cơ thể của nó, rồi từ đó nó trộn lẫn, giao chéo sinh ra dòng virus cúm A mới, kể cả cùng phân nhóm hay khác phân nhóm. Tại sao không thể thanh toán được bệnh cúm? Cơ thể con người khi bị nhiễm trùng, có một cơ chế bảo vệ đặc hiệu, để sao cho lần sau nhiễm bệnh đó trở lại hoặc không phát bệnh hoặc nhẹ đi, gọi là quá trình tạo miễn dịch và được miễn dịch. Thí dụ như khi người ta bị nhiễm vi trùng lao lần đầu, cơ thể có thể bị bệnh hoặc không, nhưng cơ thể có khả năng nhận dạng vi trùng lao và sản sinh ra một chất gọi là kháng thể chống lại vi trùng lao này. Lần thứ hai vi trùng lao thâm nhập lại, thì các kháng thể này sẽ ra “chiến đấu” và tiêu diệt vi trùng lao, giúp cho cơ thể không bị bệnh hoặc nếu có cũng nhẹ. Dựa trên nguyên lý miễn dịch này mà chúng ta tạo ra vaccine, tức là chủ động cho cơ thể tiếp xúc với loại vi trùng gây bệnh trước chỉ ở mức độ nhẹ, hay chỉ cho tiếp xúc với kháng nguyên của vi trùng đó thôi, cơ thể tạo sẵn cho mình kháng thể, rồi lần nhiễm thứ hai sẽ không bị hoặc bị nhẹ. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, đối với một loại vi trùng nào có cấu trúc bền vững, và ổn định, thì chúng ta chỉ cần cho chích vaccine một lần thôi, lần sau vi trùng đó vào cơ thể là chết ngay, rồi sau đó không còn nơi để cư trú nữa, và tiệt chủng. Trên thế giới, vi khuẩn loại này rất ít, chỉ có thể có đó là đậu mùa, bại liệt. Đó là lý do tại sao thế giới đã thanh toán được bệnh đậu mùa từ 1979 và đang tiến tới thanh toán bệnh bại liệt. Trong khi đó, các vi trùng còn lại, sau một lần vào cơ thể, bị cơ thể đánh “tơi bời” chúng sẽ tìm cách thích nghi để tồn tại, bằng cách phải thay hình đổi dạng, như vậy dù cơ thể có kháng thể rồi, nhưng lần xâm nhập sau con vi trùng đã khác, cơ thể chúng ta không kịp nhận dạng được nó, chúng ta lại bị bệnh mặc dù đã tiêm phòng. Như đã nói trên, virus cúm A là một loại virus cúm có khả năng thay hình đổi dạng và thích nghi rất nhanh, mỗi mùa mỗi năm chúng hiện diện ở một hình thức khác của cùng một phân nhóm hoặc một phân nhóm khác. Cùng một loại H1N1 nhưng ở địa dư khác nhau, nó cũng khác nhau. Thí dụ A/Memphis/8/88(H3N2), có nghĩa là virus cúm A(H3N2) nhưng tìm được ở Memphis (Mỹ), gắn nhãn số 8, và phát hiện vào năm 1988. Cho nên, dù chúng ta có sản xuất ra bao nhiêu loại vaccine cúm đi nữa, chúng ta cũng chỉ dự đoán chứ không thể biết trước được mùa cúm (đông xuân) năm sau loại cúm A nào sẽ hiện diện trong hằng hà sa số phân nhóm cúm A. May lắm là chúng ta có thể tạo được một lượng kháng thể có thể đối kháng một phần nào đó khi virus cúm xâm nhập hoặc virus có cấu trúc tương đồng, thì cơ thể có thể không mắc bệnh hoặc bị nhẹ. Một khó khăn nữa là ngay cả chúng ta chế và sử dụng vaccine, đó lại là một nguy cơ kích thích cho con virus cúm A nó biến đổi nhanh lẹ hơn và có thể chuyển sang dạng nguy hiểm hơn, nhưng cũng có thể nhẹ hơn để cùng tồn tại như virus cúm B và cúm C chẳng hạn. Xét về mặt nghiêm trọng nó hoàn toàn phụ thuộc vào sự ổn định hay biến đổi của kháng nguyên bề mặt này của con virus cúm. virus cúm B và C là loại tiến hoá “cao cấp” nhất và đã ổn định, chỉ lây bệnh ở người nên con người đã quen và có kháng thể đẻ chống lại nó, nên có nhiễm cũng chỉ nhẹ qua loa. Với đặc tính biến đổi liên tục, nên virus cúm A luôn tránh được sự đề kháng của vật chủ, và nếu là loại mới xuất hiện và gây bệnh ở người thì mức độ sẽ nặng. Như vậy nếu một loại virus cúm A dòng mới-chưa từng thấy trước đây xuất hiện, thích nghi được ở người, lây lan giữa người và người, tiến đến lan rộng, là một nguy cơ đại dịch và khi đó cảnh báo đại dịch được phát động. Một chủng mới của tác nhân gây đợt dịch cúm nặng đang hoành hành ở Mexico, Mỹ và 13 quốc gia khác trong dòng H1N1 kỳ này là virus A/Veracruz/2009(H1N1), tức là virus này nhóm A, mới phát hiện vào năm 2009 lần đầu tiên ở Veracruz (Mexico) thuộc nhóm H1N1 (gọi tắt là V09, theo quy định của giới virus học). Hơn nữa H1N1 này là chủng cúm có nguồn gốc từ heo, đã tiến hoá thành các dòng gây bệnh riêng biệt cho người, heo và chim chóc. Tuy nhiên, với H1N1 này, người ta tìm thấy có sự tích hợp giữa gene của kháng nguyên HA giống với virus ở heo tại Mỹ năm 1999, còn cấu trúc NA và M1 lại giống với virus gây bệnh cho heo ở Âu châu. Chính vì loại virus mới mẻ này mà chúng ta đang đứng trước một nguy cơ đại dịch toàn cầu. Vì lẽ đó, cho đến nay khoa học vẫn còn chịu bó tay trước các đợt cúm hàng năm, cứ đến hẹn lại lên, không nặng thì nhẹ nhưng không có cách nào ngăn cản được, chỉ cố gắng giảm thiểu mức nguy hại của chúng mà thôi. Tại sao bệnh cúm không trị được? Không chỉ chúng ta không thể trị được bệnh cúm ở người mà các loại bệnh do virus nói chung gây nên, khoa học đều “bó tay”. Cần biết qua cơ chế tấn công của virus vào vật chủ- như người để hiểu được lý do này. Đối với vi khuẩn, khi vào cơ thể chúng lưu thông theo tuần hoàn, hoặc sinh sôi nảy nở ở đó hoặc cư trú vào một cơ quan hay một nơi nào đó trong cơ thể để sinh sôi nảy nở và với một số lượng nhất định nào đó sẽ gây bệnh thông qua việc phóng thích độc tố hay tiêu hao chất liệu sống của cơ thể. Kháng sinh được điều chế có tác dụng khi đưa vào cơ thể sẽ lưu thông trong máu hoặc được đưa đến đúng nơi có vi khuẩn trú ngụ, tại đó kháng sinh có thể diệt vi khuẩn (gọi là kháng sinh có tác dụng diệt khuẩn) hay kiềm hãm sự phát triển của vi khuẩn (kháng sinh kiềm khuẩn), có loại có tác dụng cả hai. Như thế, vi khuẩn sẽ bị tiêu diệt hay bị bất hoạt, cơ thể sẽ dần hồi phục và khỏi bệnh. Quy trình virus tấn công, xâm nhập vào tế bào người, nhân lên và tạo virus mới Ngược lại, virus (hay siêu vi khuẩn) có cơ chế phát triển trong cơ thể vật chủ hoàn toàn khác với vi khuẩn. Virus cúm xâm nhập qua đường mũi họng và tấn công vào cơ thể người hay vật vào đường hô hấp trên. Sau khi xâm nhập vào cơ thể, virus không sinh sôi ngay trong dòng máu hay tại một nơi nào đó, mà từng con một, đến gắn vào màng tế bào, với virus cúm A là các tế bào của hệ hô hấp. Sau đó chúng mới đục lỗ các màng tế bào của người và phóng thích cái nhân RNA của mình, gửi vào tế bào người. Tất cả đồng loạt như vậy. Sau khi gửi nhân vào tế bào người rồi, thì nhân này mới sinh sôi nảy nở trong lòng từng tế bào của người, rồi lại phát tán ra bên ngoài. Với một cơ chế tấn công quá đặc biệt như vậy, chúng ta không có cách nào trị được chúng cả. Vì một lẽ đơn giản thuốc dùng phải diệt hoặc kiềm hãm được virus, mà chúng lại trốn cả ở trong tế bào của con người, và chúng ta không thể diệt tế bào của mình để giết con virus, giống như “ném chuột vỡ lọ cổ” vậy! Câu hỏi được đặt ra là tại sao vẫn có thuốc trị virus, vậy nó hoạt động như thế nào? Thực sự là không có thuốc trị hay diệt được virus mà chỉ có kiềm hãm khả năng tăng sinh của virus sau khi chui vào tế bào của cơ thể mà thôi. Như đã đề cập ở trên, cấu trúc bề mặt virus cúm có ba loại kháng nguyên: M1, H và N. Kháng nguyên M1 có tác dụng gắn các phân đoạn di truyền của virus; HA đóng vai trò kết gắn virus vào các thụ thể (receptors) của vật chủ (người) và hoà vào màng tế bào của vật chủ để tiến hành chu kỳ nhân bản. Còn NA thì được cho rằng có vai trò giải phóng các thế hệ virus con cháu đó ra khỏi các tế bào của vật chủ và trợ giúp cho các virus có thể xâm nhập được vào lớp màng bọc ở các tế bào biểu mô hô hấp. Dựa vào đặc tính này mà các thuốc chống virus được sản xuất. Hiện nay trên thị trường có hai nhóm chính, nhóm thuốc có tác dụng ức chế M1. Nhưng loại này rất dễ bị virus cúm A kháng lại, không những vậy mà chúng còn có khả năng tạo ra một gene đề kháng với thuốc này di truyền lại cho thế hệ con cháu. Do đó loại thuốc được cho là có tác dụng nhât đối với virus cúm nhóm A hiện nay là loại ức chế NA, đó là ra zanamivir có biệt dược là Relenza (loại hít vào mũi) và oseltamivir có biệt dược là Tamiflu (viên uống). Chính vì có khả năng ức chế NA, nên chúng ức chế sự tăng sinh của virus trong cơ thể người bệnh. Nhưng như đã đề cập, thuốc chỉ có tác dụng khi virus mới xâm nhập vào cơ thể, thời gian đó chỉ diễn ra khoảng 48-72 giờ đầu, khi virus chưa chui vào trong tế bào của người. Nhưng đó lại là thời gian ủ bệnh, tức là người bệnh chưa có triệu chứng gì cả, không thể biết mà uống thuốc được. Khi người bệnh bắt đầu ho, sốt, sổ mũi thì khi đó, gần như virus đã xâm nhập vào trong tế bào rồi, mới bắt đầu uống thuốc thì mức độ tác dụng của nó không còn nữa. Thuốc chống virus Tamiflu và Relenza có ngăn ngừa được đại dịch không? Câu trả lời là chưa có bằng chứng. Tên gọi đại dịch cúm là để nói lên tầm vóc nguy hiểm của nó ở chỗ nó có thể gây tử vong ở số lượng lớn, trên nhiều quốc gia trong một thời gian ngắn. Cho đến nay, tất cả các nghiên cứu cho thấy rằng Tamiflu chỉ có tác dụng làm giảm triệu chứng và có khả năng rút ngắn ngày bị bệnh hơn là làm giảm bớt độ nguy kịch của triệu chứng. Dùng Tamiflu không làm giảm được số lượng bệnh nhân tử vong do cúm A so với người không dùng, trong khi đó mục đích chặn đại dịch cúm là làm giảm số lượng tử vong do cúm. Hơn nữa, sử dụng Tamiflu cũng cho thấy không có hiệu quả kinh tế trên bình diện quốc gia. Cho nên, Tamiflu chỉ được chỉ định cho một số bệnh nhân nào đó chứ không thể sử dụng đại trà, không dùng để phòng ngừa, vì có thể sinh kháng thuốc. Đã có bằng chứng cho thấy virus cúm A(H1N1) kháng lại Tamiflu, đặc biệt dòng H1N1 gây bệnh ở châu Âu. Và rõ ràng, cũng không nên coi nặng Tamiflu là phương tiện cứu cánh để ngăn ngừa một vụ đại dịch. Vaccine cho loại cúm mới xuất hiện không thể có sớm được, mà cần phải có thời gian. Trong khi đợi được một loại vaccine mới ra đời thì có thể con virus cúm A đã thay hình đổi dạng rồi. Nhưng nhiều chuyên gia cho rằng ít ra cũng tạo được một sự đề kháng nào đó đối với virus cúm A dù không phải đúng loại. Tuy nhiên, cũng phải nghĩ đến một khả năng kích thích cho virus cúm biến đổi sớm hơn. Ngăn ngừa bị nhiễm cúm và ngăn ngừa đại dịch cúm nó hoàn toàn phụ thuộc vào phương pháp phòng bệnh nhiễm trùng căn bản. Đó là phát hiện sớm, cách ly người bệnh, xử trí hạn chế lây lan trong cộng đồng. Thực hành vệ sinh cá nhân, đặc biệt rửa tay sạch sẽ bằng xà phòng, không nên có thói quen đưa tay lên vuốt mặt hay ngoáy mũi. Giữ chế độ sinh hoạt lành mạnh, tăng cường sức khoẻ thể lực, chế độ ăn uống bổ dưỡng là biện phóng phòng bệnh cá nhân tốt nhất và ngăn ngừa đại dịch tốt nhất. Nguyễn Đình Nguyên
|
|
|
Post by vietnam on Jun 14, 2009 15:26:36 GMT -5
Cúm heo và những điều cần biết Nguyễn Đình Nguyên
Chỉ trong vòng hơn một tuần lễ, một đợt diễn biến cúm ở người do virus gây bệnh ở heo (heo, gọi tắt cúm heo) khá bất thường và phức tạp xuất hiện ở Mexico, sau đó lan sang một số nước khác mà đường lây truyền ngoài trực tiếp giữa heo sang người còn được cho là giữa người với người.
Cúm bất thường vì mùa cúm thường xảy ra vào mùa đông-xuân, nhưng hiện nay ở trung-bắc Mỹ đang chuẩn bị vào hè. Tính phức tạp ở chỗ, với vỉ-rút cúm heo, nếu biểu hiện ở người thì thường nhẹ, nhưng theo con số báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ở Mexico đã có đến 7 người tử vong trong tổng số 26 người mắc được xác định chắc chắn là do cúm heo. Cho đến nay trên toàn cầu đã công bố 106 trường hợp và trên 7 nước. Trong khi đó con số do Bộ Y tế Mexico đưa ra số tử vong do cúm được xác định và cả nghi ngờ do cúm heo là 152 trường hợp cho đến hiện nay. Ngoài ra, phân lập virus cho thấy ở trên các bệnh nhân bị nhiễm và mắc bệnh thì thấy mặc dù phân nhóm chính là virus cúm heo dòng H1N1, nhưng cấu trúc của nó rất khác với các chủng H1N1 từng gặp ở người và cả heo từ trước đến nay.
Một trong những cơ chế phòng vệ của người là khả năng nhận dạng virus và tạo sẵn kháng thể trong người, để khi con virus này tấn công lại lần sau thì có thể chống trả dễ dàng, nên dù có nhiễm cũng không biểu hiện hoặc chỉ bị nhẹ rồi khỏi. Tuy nhiên, virus cúm A có đặc điểm là cấu trúc kháng nguyên bề mặt của nó không ổn định, và có nhiều yếu tố tác động có thể làm nó biến đổi một cách dễ dàng. Do đó, với một loại virus mới bị biến hình như vậy và có thể gây bệnh thì chủ thể nhiễm bệnh có thể là người hay vật đều không có khả năng phòng vệ tức thời vì cơ thể chưa kịp sản xuất kháng thể cho loại virus mới này. Nếu độc tố virus mới này đủ mạnh thì khả năng tử vong cao. Cộng thêm, nếu loại virus mới đó có khả năng lây lan nhanh và mạnh giữa người với người mà không khu trú được thì nguy cơ của một đại dịch toàn cầu có thể xảy ra.
Đặc điểm của virus cúm heo và khả năng gây đại dịch Đối với loài heo, bằng chứng khoa học cho thấy nó có thể một lúc cảm nhiễm không chỉ virus cúm của heo (virus A) không thôi mà nó còn nhiễm hỗn hợp cả virus cúm của loài chim và cả virus cúm ở người. Khi đó, cơ thể heo không khác nào là một cái máy trộn, làm kết hợp giữa ba virus ở ba chủng loại khác nhau heo-chim-người và có thể sản sinh ra một dòng virus cúm heo mới. virus mới này lại có thể lây trực tiếp đến người. Chính vì thế, mà WHO và các chuyên gia trên thế giới tỏ ý quan ngại đợt dịch cúm ở người do virus cúm heo gây ra hiện nay. Việc lây truyền trực tiếp virus của heo, từ heo sang người và gây bệnh ở người, hay còn gọi là tình trạng vượt rào cản chủng loại, thì đã rõ. Ngoài ra, xét nghiệm cũng đã tìm thấy sự hiện diện cùng một chủng loại virus mới giống nhau ở các bệnh nhân, mà họ chưa từng có tiền sử tiếp xúc với heo hoặc sống gần vùng heo bị bệnh, làm cho giới khoa học quan ngại đến một sự lây truyền trực tiếp giữa người và người với nhau. Tuy nhiên, hiện nay mức độ lây truyền đó nếu có thì vẫn còn trong tình trạng giới hạn chứ chưa lan rộng. Thế nhưng độc tính của virus mới này khá mạnh, so ra còn mạnh hơn cả độc tính của H5N1 (cúm gia cầm) nếu nhìn vào con số tử vong ở Mexico. Một quan ngại khác, một số kết quả thí nghiệm còn cho thấy dòng virus cúm heo mới này lại đề kháng với loại kháng sinh chống virus được cho là hữu hiệu nhất hiện nay- oseltamivir (hai biệt dược trên thị trường là tamiflu và relenza).
Tông hợp các yếu tố đó của virus cúm heo và đợt cúm do chủng loại có khả năng biến thể này đang gây ra đợt dịch hiện nay mà WHO đã ra cảnh báo mức độ dịch cấp 4, tức là một đợt dịch cúm đã hội đủ các điều kiện để có thể gây ra thành dịch và tiến tới nguy cơ đại dịch toàn cầu: virus mới, vượt rào cản chủng loại, từ heo sang người, độc tố mạnh và có khả năng lây giữa người và người với nhau.
Phòng ngừa Vậy chúng ta có thể làm gì và cần phải làm gì trước đợt bệnh dịch mới này để ngăn ngừa và phòng chống? Theo phương thức ngăn ngừa căn bản dịch tễ học là chúng ta cần phải cắt đứt đường lây truyền trong chu trình giữa heo-virus-người-người.
Phòng ngừa cộng đồng Chúng ta không có khả năng kiểm soát được virus, cũng không thể giết heo, bởi vì rất nhiều con heo mang virus mà không mắc bệnh, và chúng ta không biết nguồn này ở đâu, điều này cũng giống như cúm gia cầm H5N1.
Do đó chỉ có một khâu bảo vệ thụ động và khu trú, tức là cách ly những khu vực được xác nhận là heo có bệnh cúm để giảm thiểu nguy cơ lây trực tiếp từ heo sang người. Ngoài ra còn có nguy cơ lây giữa người với người nên cần khu trú những người có biểu hiện như cúm vừa mới từ vùng dịch đến hoặc trở về thông qua kiểm soát cửa khẩu.
Virus cúm là loại lây lan qua đường hô hấp trên, cụ thể là đường mũi, miệng, nên giảm bởt tình trạng tập trung tụ tập nơi đông người, và hạn chế đến mức tối đa.
Đối với những người đã xác định khả nghi cần phải cách ly, và tránh tiếp xúc với họ. Theo dõi và điều trị bệnh nhân theo phác đồ. Bệnh nhân cần cho đeo khẩu trang để bớt phóng thích nguồn virus ra ngoài. Khẩu trang thích hợp nhất là loại N95, tuy nhiên một loại khẩu trang y tế thông thường cũng chấp nhận được, bởi vì ngay cả khẩu trang N95 thì kích thước của các khe hở mà chúng ta không nhìn thấy đó cũng vẫn lớn hơn nhiều so với kích thước con virus AH1N1.
Phòng ngừa ở mức độ cá nhân Phòng ngừa chủ động tốt nhất cho cá thể là tiêm phòng cúm. Tuy nhiên đối với loại virus cúm heo mới này chúng ta chưa có vaccine đặc hiệu. Dù sao một loại vaccine cúm A thông thường cũng có thể giúp cơ thể tạo kháng thể đối với dòng cúm A. Vaccine cũng chỉ nên dùng vào đầu vụ dịch mới có hiệu quả, tức là cần phải tiêm sớm ít nhất 3 tháng thì cơ thể mới có thể tạo kháng thể chống virus. Người trên 60 tuổi nên tiêm vaccine.
Cho nên phương thức phòng ngừa tốt nhất cho cá nhân hiện nay là thực hành lối sống vệ sinh, rửa tay sạch sẽ, tránh thói quen dùng tay ngoáy mũi, vuốt mặt. Ăn uống hợp vệ sinh, giàu chất bổ dưỡng để nâng cao sức đề kháng của cơ thể, tránh thức khuya, sinh hoạt quá độ làm giảm sức đề kháng của cơ thể. Tránh tụ tập nơi đông người. Nên hạn chế đi đến vùng đã được cảnh báo có dịch, tránh bệnh nhân mắc bệnh ít nhất 1 met, và cần phải mang khẩu trang khi chăm sóc bệnh nhân. Tuy nhiên, việc mang khẩu trang thường ngày không cho thấy có tác dụng gì hơn trong việc bảo vệ khỏi bị nhiễm.
Mặc dù virus cúm có nguồn gốc từ heo, nhưng thịt heo không hề có khả năng lây bệnh. Vì virus cúm heo chỉ sinh sống trong con heo còn sống, và virus cúm rất nhạy cảm, dễ chết khi ra môi trường ngoài, và bị bất hoạt ở 56 độ C, và chết ở 70 độ C. Thịt heo đã mổ cũng không có chứa virus.
Thuốc điều trị Cúm A nói chung và cúm heo nỏi riêng là loại không có thuốc điều trị đặc hiệu, mà cơ thể con người tự đề kháng đến khi bệnh tự khỏi. Thực tế, cúm heo là một loại cúm vừa và nhẹ, ít gây ra bệnh cảnh nặng, trừ trường hợp virus biến thể có độc lực mạnh.
Tuy nhiên, hiện nay trên thị trường vẫn có các thuốc kháng virus được chia làm hai loại, một loại ức chế men và một loại ức chế sự tăng sinh của virus trong cơ thể bệnh. Nhưng các loại thuốc chỉ có tác dụng trong vòng 48 giờ sau khi nhiễm. Trong khi đó thời gian này bệnh nhân gần như không có triệu chứng gì nên không xác định được. Dùng thuốc sau đó gần như không có tác dụng. Thế nhưng mà thuốc cũng không có tác dụng diệt được virus mà cho tới nay các loại thuốc này chỉ cho thấy có khả năng rút ngắn ngày bị bệnh hơn là làm giảm bớt độ nguy kịch của triệu chứng. Cho nên không nên quá phụ thuộc vào các loại thuốc này.
Mức độ nguy hiểm của bệnh cúm tuỳ thuốc vào khả năng đề kháng của cơ thể và biến chứng do cúm gây ra. Do đó điều trị triệu chứng, nâng cao thể trạng, ngăn ngừa và điều trị biến chứng là điều trị chính cho các bệnh nhân bị cúm nặng.
Cúm nhóm A nói chung, cúm heo nói riêng vốn dĩ không xa lạ gì với chung ta đã hàng thế kỷ qua. Tuy hiểu biết về cấu trúc và sinh học của chúng rất rõ, nhưng hầu như khoa học không có phương thức đặc trị cũng như phòng ngừa triệt để. Chu kỳ nào và tại sao cúm thay đổi hàng năm thành dịch lẻ tẻ hay lớn, nặng hay nhẹ gần như chưa biết được. Nhưng không vì thế mà chúng ta phải lo lắng, vì mọi biện pháp chúng ta có thể làm được đều nằm trong phương thức giữ vệ sinh phòng bệnh cá nhân, và theo dõi thông tin từ các cơ quan y tế có thẩm quyền để thực hiện đúng chiến dịch phòng ngừa bệnh.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 14, 2009 15:29:11 GMT -5
Vài nét về virus Cúm heo (Swine influenza virus) Nguyễn Đình Nguyên Lịch sử Lần đầu tiên vào năm 1918, người ta nhận thấy ở heo (heo) mắc chứng bệnh mà triệu chứng giống như bệnh cúm ở người trong đại dịch cúm 1918. Do thương tổn thể hiện giống nhau như thế, nên bác sĩ Koen đã gọi tên bệnh mới này cho heo là “cúm” (flu). Tuy nhiên mãi cho đến 1930, các khoa học gia mới phân lập được loại virus này trên heo, được xác nhận là dòng H1N1. Sau đó, năm 1933, virus dòng H1N1 của người cũng được phân lập. Giữa hai dòng H1N1 trên heo và người này có phần rất giống nhau, vì vậy các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng H1N1 gây bệnh ở heo và người có thể có cùng một nguồn gốc. Các nghiên cứu hồi cứu trên các mẫu huyết thanh lưu trữ xác tín thêm niềm tin là virus gây đại dịch cúm ở người năm 1918 và virus gây bệnh cúm ở heo có chung nguồn gốc. Vì chỉ cho đến 1918 bệnh này mới phát hiện ở heo, trong khi đó thì cúm ở loài người hiện diện đã lâu, cho nên giả thuyết ban đầu các nhà khoa học cho rằng bệnh cúm lây từ người sang heo. Tuy nhiên không có đủ bằng chứng để xác định được nguồn lây chính xác là từ người sang heo hay từ heo sang người. Mãi cho đến năm 1974, các khoa học gia mới phân lập được virus cúm của heo này ở người, ca bệnh đầu tiên ở Fort Dix, tiểu bang New Jersey, Mỹ. Sau đó các xét nghiệm huyết thanh học ở người cũng cho thấy sự hiện diện của virus cúm heo, từ đó một đầu mối nghi ngờ có thể đường lây là từ heo, các virus gây bệnh ở heo vượt hàng rào chủng loại, truyền bệnh sang cho người. Các điều tra dịch tễ học trên diện rộng về sau cho thấy rằng mức độ vụ dịch lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào lượng kháng thể chống virus cúm heo ở người cao hay thấp; ngoài ra, người ta cũng thấy có một mối liên quan giữa quy mô nuôi heo với tỷ lệ bệnh cúm trong vùng đó, và vì thế mà các khoa học gia suy luận rằng chính virus cúm ở heo có thể là nguồn lây bệnh dịch tiềm tàng cho con người. Từ nhóm virus H1N1 cổ điển đó, các đợt dịch sau này người ta còn phát hiện ra các dòng hỗn hợp và lai tạp khác của virus cúm, chẳng hạn có thể tìm thấy H1N1 ở loài chim, H3N2 có nguồn gốc từ người, và dạng tái kết hợp H1N2 giữa chủng H1N1 cổ điển ở heo với H3N2 ở heo (giống với H3N2 ở người). Nếu chủng cúm heo cổ điển H1N1 phổ biến ưu thế ở Bắc Mỹ trước đó, thì cho đến năm 1990 đã bắt đầu có dấu hiệu thay đổi. Ở Canada, người ta phân lập được ở các con heo bị cúm, nhưng thủ phạm lại là H4N6 có nguồn gốc từ chim. Đến năm 1998 thì một virus heo dạng tái hợp mới H3N2 (heo-người và chim-heo-người) đã bắt đầu dấy lên ở Mỹ. Qua đó chúng ta thấy rằng virus cúm A có sự biến đổi và truyền chéo giữa động vật và con người, cứ mỗi lần chuyển dạng kháng nguyên như vậy có khả năng gây ra những dịch cúm lớn và là nguy cơ của đại dịch. Cấu trúc Về mặt cấu trúc, virus cúm được chia làm ba nhóm A, B và C. virus nhóm B và C thường là lành tính và chỉ gây các bệnh cảm cúm thông thường. Trong lịch sử các đại dịch cúm của thế giới, thủ phạm chỉ là virus cúm nhóm A, và mỗi một đại dịch cúm xảy ra, các khoa học gia cho rằng có vai trò biển đổi vật chủ, các virus cúm ở động vật như heo và chim, vượt rào cản chủng loại lây sang người. Yếu tố quan trọng nhất của đại dịch là những virus vượt rào cản chủng loại này có thể thích nghi ngay trong cơ thể người và có thể lây lan trực tiếp từ người sang người thì đại dịch cúm xảy ra. Tuy nhiên, điều này không phải dễ dàng. Đợt đại dịch cúm toàn cầu 1918, thủ phạm được nghi cho virus cúm heo H1N1 nêu trên. 1- Hemagglutinin, 2- Neuraminidase, 3- Matrix Protein, 4- Lipido Bilayer, 5- Polymerase, 6- Nucleoprotein, 7- RNA Influenzavirus A sous-type H1N1 (wikipedia) Về virus cúm A, được phân làm nhiều nhóm phụ dựa vào hai nhóm cấu trúc kháng nguyên bề mặt chính là HA (hemaglutinin antigen) và NA (neuraminidase antigen). . Kháng nguyên HA đóng vai trò kết gắn virus vào các thụ thể (receptors) của vật chủ (người) và hoà vào màng tế bào của vật chủ để tiến hành chu kỳ nhân bản. Còn NA thì được cho rằng có vai trò giải phóng các thế hệ virus con cháu đó ra khỏi các tế bào của vật chủ và trợ giúp cho các virus có thể xâm nhập được vào lớp màng bọc ở các tế bào biểu mô hô hấp. Hiện tại đã nhận dạng được 15 phụ nhóm loại HA và 9 phụ nhóm loại NA. Đáp ứng miễn dịch với virus cúm A và đặc điểm kháng nguyên Một khi người bị nhiễm virus cúm A thì đáp ứng miễn dịch của cơ thể là đầu tiên đánh vào các kháng nguyên HA và thứ phát vào NA, có nghĩa là trong cơ thể người sản sinh ra các kháng thể (là quân lính) đến kết gắn trực tiếp vào các kháng nguyên HA của virus và làm vô hiệu hoá virus này. Khi đó cơ thể có thể không bị bệnh hoặc có bị cũng chỉ nhẹ. Nhưng vì một lý do nào đó, trong một đợt cúm mới, cũng là một loại virus đó, nhưng cấu trúc HA hoặc NA thay đổi, khi đó cơ thể con người chưa kịp sản sinh ra các kháng thể đặc hiệu để có thể tiêu diệt được ngay virus, khi đó bệnh có thể nặng và có thể thành dịch lớn nếu độc tố của kháng nguyên trong virus mới này quá mạnh. Trong khi đó, virus cúm A được cho là loại virus không ổn định, với các kháng nguyên bề mặt HA và NA dễ biến đổi. Mặc dù việc HA và NA trong virus được kiểm soát bởi một gen, nhưng nhiều thành phần quan trọng khác của virus cúm được kiểm soát bằng nhiều gien hoặc sự tương tác của đa gen. Vì thế, các đột biến điểm hoặc các tái hợp di truyền mà có dính líu đến bất kỳ một trong 8 phân đoạn RNA nào của virus cúm nhóm A đều có thể có ảnh hưởng sâu rộng đến thay đổi trong vật chủ, virus và có nguy cơ tiềm tàng cho một đợt dịch cúm. Nhờ vào sự tiến bộ của các kỹ thuật sinh học phân tử, phân tích di truyền được cả 8 phân đoạn RNA của virus, đã mở ra một khung trời khám phá mới đầy thú vị liên quan đến việc đi truy tìm nguồn gốc của virus cúm và xây dựng các chiến lược phòng chống bệnh cúm nhóm A ở động vật. Tức là nếu chúng ta có cách nào đó, có thể tác động vào cấu trúc di truyền của virus cúm A, làm cho chúng giữ ổn định cấu trúc và không đột biến, thì chúng ta có thể kiểm soát được mức độ gây dịch. Thế nhưng, việc duy trì được các virus cúm nhóm A trong quần thê vật chủ tự nhiên phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, như hoạt chất, vật chủ và môi trường và sự tương tác giữa các yếu tố này với nhau. Bất kỳ có một sự biến đổi nào trong các yếu tố này đều có thể làm thay đổi khả năng nhiễm bênh, khả năng lây nhiễm, độc tính virus, hoặc biến đổi vật chủ của virus và các mô hình dịch tễ. Lịch sử và các bằng chứng đã cho thấy có hiện tượng nhảy cóc của virus A từ vật chủ là heo hoặc chim sang người, thì khi đó có diễn ra một tỷ lệ đột biến virus lớn xảy ra cho đến khi nó thích nghi được với vật chủ mới. Và bằng chứng cho thấy hình như heo là cái nhà máy sản sinh ra những virus A tạp lai mới giữa các loài virus giữa heo-chim-người, và chính từ “nhà máy” này mà một đại dịch cúm mới có thể xảy ra. Nếu giả định này đúng, thì có thể có các chu kỳ sản sinh các virus cúm mới xuất hiện ở heo. Đợt dịch cúm nghiêm trọng ở người xảy ra tại Mexico trong tháng qua, đã lan sang Mỹ và một số nơi khác qua khách du lịch mà virus cúm có nguồn gốc là virus cúm heo, vậy liệu đây có phải là một vòng xoắn chu kỳ mới của nó không?
|
|
|
Post by vietnam on Jun 14, 2009 15:32:49 GMT -5
Hiệu quả điều trị cúm A và cúm gia cầm A(H5N1) của thuốc kháng virus thuộc nhóm ức chế neurominidase: Tamiflu và Relenza Nguyễn Đình Nguyên Nạn dịch cúm gia cầm A(H5N1) trong mấy năm qua không lắng xuống, mà còn có xu hướng lan tràn rộng hơn. Đến nay, cúm gia cầm đã lan sang một số nước đông Âu. Toàn thế giới có khoảng trên 100 người bị nhiễm loại virus này và trong đó có khoảng 60 người tử vong, chủ yếu ở các nước đông nam Á, trong đó có Việt Nam. Trước sự cảnh báo dồn dập của các nhà chức trách Y tế thế giới một đại dịch cúm A(H5N1) có thể xảy ra ở người, các nước đổ xô nhau đi mua Tamiflu-một loại kháng virus mà được coi là hữu hiệu trong việc điều trị cúm A, trong đó có cúm gia cầm- về dự trữ. Vì nhu cầu cao, mà chỉ có một hãng dược Roche được độc quyền sản xuất, nên thuốc trở nên khan hiếm, đến độ có sức ép đến hãng dược này phải tính đến việc chi sẻ bản quyền sản xuất cho một số nước khác. Kỳ thực tác dụng điều trị cúm, trong đó có cúm gia cầm A(H5N1) của Tamiflu và Relenza, một thuốc ‘anh em’ như thế nào, bài viết này nhằm trả lời câu hỏi cấp thiết đó. Vắn tắt về cấu trúc của virus A(H5N1), là một loại virus được xếp vào loại virus cúm nhóm A, có cấu trúc kháng nguyên bề mặt là H5 (hemagglutinin, HA, phân nhóm phụ 5) và N1 (neuraminidase, NA phân nhóm phụ 1). Về nguyên lý căn bản của các thuốc kháng virus là hầu hết các loại thuốc kháng virus không nhằm để tiêu diệt virus mà chỉ có thể ngăn cản quá trình nhân lên hoặc phát triển của chúng trong cơ thể vật chủ (ở đây là người). Như vậy, nếu một hoạt chất nào có thể ức chế được một khâu nào đó trong quá trình nhân lên của virus thì chất đó có thể là ‘ứng cử viên’ của hoạt chất kháng virus. Tamiflu là tên biệt dược hay tên thương mại do của một hoá dược kháng virus có tên là gốc là oseltamivir hiện do hãng bào chế Roche được cấp bản quyền độc quyền sản xuất. Tamiflu được chứng minh trong phòng thí nghiệm và trên lâm sàng là có khả năng ức chế được kháng nguyên bề mặt neurominidase của virus cúm. Do đó trên thực tế, oseltamivir có tác dụng kìm hãm được cả virus cúm A và cúm B. Đồng cơ chế tác dụng với oseltamivir còn có một loại kháng virus khác là zamanivir mà có tên biệt dược là Relenza do hãng Glaxo-SmithKline sản xuất. Tuy nhiên, thị trường lại ưa chuộng sử dụng Tamiflu hơn vì Tamiflu là thuốc viên uống, sử dụng tiện lợi; trong khi đó Relenza là thuốc hít qua mũi, nên cách sử dụng bất tiện hơn nhiều. Và cũng cần nói thêm là hiện nay trên thị trường chỉ có hai loại biệt dược này là thuốc có tác dụng ức chế kháng nguyên bề mặt neurominidase của virus cúm A, B mà thôi. Như vậy Tamiflu, Relenza hay bất kỳ một thuốc kháng virus nào khác đều là hoạt chất kháng virus không đặc hiệu và càng không phải là thuốc đặc hiệu trị cúm gia cầm A(H5N1). Đứng về mặt bằng chứng khoa học, thì bằng chứng khoa học có giá trị thuyết phục hơn cả là kết quả được đưa ra từ một phân tích tổng hợp (meta-analysis) dựa trên các thử nghiệm lâm sàng (clinical trial). Một nghiên cứu tổng hợp dựa trên 17 thử nghiệm lâm sàng về hiệu quả ức chế neurominidase trong điều trị và phòng ngừa cúm A và B (Cooper NJ, Sutton AJ, Abrams KR, Wailoo A, Turner DA, Nicholson KG. Effectiveness of neuraminidase inhibitors in treatment and prevention of influenza A and B: systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials, BMJ 2003; 326: 1235-42) công bố kết quả như sau: Cho đến hiện nay, chưa có một nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng nào so sánh trực tiếp tác dụng của hai loại Tamiflu và Relenza với nhau trong điều trị cúm do đó không có kết luận về hiệu quả điều trị cúm A và B của thuốc nào tốt hơn. Các thử nghiệm lâm sàng chỉ so sánh giữa nhóm người dùng thuốc và nhóm người không dùng thuốc mà thôi. Oseltamivir (Tamiflu): Liều dùng 75mg/lần, mỗi ngày hai lần, điều trị trong 5 ngày. - Tác dụng làm giảm thời gian trung bình biểu hiện triệu chứng của cúm khác nhau ở từng nhóm bệnh nhân khác nhau: Nhóm bệnh nhân là người trưởng thành, tiền sử khoẻ mạnh: thuốc có tác dụng giảm bớt thời gian biểu hiện triệu chứng cúm là 1.38 ngày (khoảng 30 giờ) với dao động trong khoảng từ 19 tiếng cho đến 2 ngày so với nhóm người không dùng thuốc. Nhóm bệnh nhân nguy cơ cao, tuổi trên 60: thì trung những người có sử dụng thuốc chỉ làm ngắn thời gian biểu hiện cúm có nửa ngày (10 giờ), và dao động khá lớn, có những người dùng thuốc thì lại có triệu chứng kéo dài hơn (gần 1 ngày) so với những người không dùng thuốc mà thôi. Nhóm trẻ em (1-12 tuổi): nhóm được dùng thuốc làm giảm nhẹ triệu chứng trung bình khoảng 21.5 giờ (dao động từ 8 đến 36 giờ) so với nhóm không dùng thuốc. Kết quả cũng không cho thấy Tamiflu có hiệu quả tốt hơn ở mọi nhóm tuổi bệnh nhân mà làm xét nghiệm có dương tính với cúm. - Tác dụng làm giảm tỷ suất chỉ định dùng kháng sinh do biến chứng: Chỉ mới có một nghiên cứu về vấn đề này, và cho thấy trên nhóm người lớn khoẻ mạnh thì không có sự khác biệt nào cả giữa hai nhóm dùng Tamiflu hoặc không dùng thuốc. Tuy nhiên, đối với nhóm người có xét nghiệm virus cúm dương tính thì mức độ chênh lệch giữa những người không dùng kháng sinh phụ trợ là những người đã được điều trị bằng Tamiflu so với những người không dùng kháng sinh trong nhóm chứng là 87%. Đối với nhóm trẻ em thì tỷ lệ này là 35%. Zanamivir (Relenza): Liều dùng 10mg/lần, mỗi ngày 2 lần, điều trị trong 5 ngày. - Tác dụng làm giảm thời gian biểu hiện triệu chứng: Nhóm người khoẻ mạnh: Những người dùng thuốc có thời gian trung bình giảm triệu chứng là 19 giờ (dao động 8 đến 32 giờ) so với nhóm người không dùng thuốc. Trên nhóm trẻ em trên 5 tuổi: Thời gian làm giảm triệu chứng trung bình là 1 ngày (dao động 12 giờ đến 30 giờ) ở nhóm dùng thuốc so với nhóm không dùng thuốc. - Tác dụng làm giảm tỷ suất chỉ định dùng kháng sinh do biến chứng: Chỉ có hai thử nghiệm lâm sàng đề cập đến vấn đề này, cho thấy mức độ chênh lệch giữa những người không dùng kháng sinh phụ trợ là những người đã được điều trị bằng Relenza so với những người không dùng kháng sinh trong nhóm chứng là 29%. Tác dụng điều trị cúm A(H5N1): Do bệnh cúm A(H5N1) ở người hiện vẫn còn lẻ tẻ, rải rác mặc dù con số mắc bệnh lên đến hơn trăm và tử vong trên dưới 60 người. Do đó chưa có một thử nghiệm lâm sàng nào có thể tiến hành để nghiên cứu tác dụng của thuốc điều trị cúm A(H5N1) cho bệnh nhân cả. Tuy nhiên, cùng là virus cúm nhóm A, nên giới khoa học và lâm sàng đã đề nghị sử dụng hiệu quả của Tamiflu và Relenza trong điều trị cúm A nói chung để áp dụng điều trị cho bệnh nhân bị nhiễm A(H5N1). Một số kết quả lâm sàng thu lại khả quan, nhưng như đã đề cập, những điều trị như thế này mới chỉ là những thử nghiệm, trong những điều kiện khác nhau, chưa đủ tiêu chuẩn để trở thành một bằng chứng khoa học cho tham khảo. Cần phải có thử nghiệm lâm sàng trên nhóm này để tái xác nhận hiệu quả của các kháng virus trong điều trị A(H5N1). Nhận định: Trong khi một đại dịch cúm gia cầm A(H5N1) đang lan tràn trong nhóm gia cầm thông qua loài lông vũ, đã có hiện tượng vượt rào cản chủng loại lây bệnh trực tiếp sang người. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, chúng ta vẫn chưa xác định được cơ chế trực tiếp lây bệnh như thế nào, mà chỉ dừng lại ở quy kết nguy cơ; mà khả năng cao nhất có thể là do tiếp xúc trực tiếp với gia cầm bị mắc bệnh. Nhưng tại sao chỉ có một số rất ít người bị mắc bệnh, còn đại đa số những người có tiếp xúc hoặc phơi nhiễm với gia cầm bị bệnh mà không mắc bệnh thì vẫn chưa thể giải thích được. Việc cảnh báo một đại dịch có thể xảy ra ở người một khi có tình trạng đột biến, và A(H5N1) có thể lây lan trực tiếp giữa người và người là việc cần phải làm của giới chuyên môn. Rất may là điều đó chưa xảy ra. Chưa chứ không phải không, nhưng chúng ta không phải vì thế mà sợ hãi. Việc phòng chống, ngăn ngừa bệnh dịch nói chung và cúm A(H5N1) nói riêng đều quy tụ vào chu trình lây lan, sinh bệnh. Tức là phải hiểu rõ đặc tính của virus, chu trình lây lan, vật chủ trung gian, vật chủ cảm nhiễm. Từ đó chúng ta mới có kế hoạch phòng ngừa có tính cách toàn diện, nhưng các khâu cá nhân, vệ sinh môi trường, cắt đường lây lan bằng phương thức cách ly là những phương thức căn bản trong kiểm soát bệnh dịch là không thể thiếu. Quan trọng hơn cả là phòng bệnh chủ động là vaccine; một khâu khác là điều trị dùng thuốc kháng virus. Do đó, thuốc kháng virus (Tamiflu hoặc Relenza dùng cho cúm A, B) cũng chỉ là một khâu trong chu trình phòng chống dịch bệnh mà thôi. Đó không phải hoàn toàn là phương tiện phòng bệnh chủ động, là phương tiện cứu cánh. Trong khi tác dụng của hai hoạt chất này trong điều trị cúm A và B chỉ mới thấy có tác dụng trên những ngưòi khoẻ mạnh thôi, còn tác dụng của nó trên trẻ em (trên 1 tuổi với Tamiflu và trên 5 tuổi với Ralenza), mà đặc biệt là người cao tuổi, là những người có nguy cơ mắc bệnh và nguy cơ tử vong cao nhất lại chưa cho thấy hữu hiệu hơn là không dùng thuốc. Ngay cả đối với nhóm người có tiền sử khoẻ mạnh thì may ra dùng thuốc điều trị có thể đem lại lợi ích cho cộng đồng (làm rút ngắn thời gian biểu hiện bệnh, làm rút ngắn thời gian nghỉ việc, giảm thiểu hậu quả mất nguồn lực lao động) nhưng về phương diện từng cá thể, thì rút ngắn triệu chứng một ngày hoặc hai ngày giữa nhóm dùng thuốc và nhóm không dùng thuốc thì quả thực không có ý nghĩa lớn. Hơn nữa, việc xác định thời điểm dùng thuốc mới quan trọng. Các loại kháng virus trong nhóm ức chế neurominidase như Tamiflu và Relenza chỉ có hiệu quả khi bệnh nhân còn ở trong thời gian mới nhiễm virus, và virus còn đang ở trong thời gian tăng sinh, vì thuốc chỉ có khả năng làm kìm hãm sự tăng sinh của virus chứ không chữa được thương tổn một khi virus đã tấn công. Do đó muốn có hiệu quả thì cần phải cho bệnh nhân dùng thuốc ngay giai đoạn mới mắc bệnh, virus còn đang trong giai đoạn phát triển chứ chưa gây tổn thương thì mới mong có hiệu quả (Graeme Laver và Elspeth Garman. The Origin and Control of Pandemic Influenza. Science 2001; 293: 1776-1777). Như thế thì, chúng ta cần phải có thêm một loại xét nghiệm sàng lọc nào đó phải đảm bảo nhanh, chính xác và rẻ tiền để xác định được bệnh nhân mắc A(H5N1) trong giai đoạn sớm để mà cho điều trị Tamiflu hoặc Relenza đúng thời điểm để có kết quả. Và điều này vẫn còn là một thử thách lớn đối với các nhà khoa học không những về mặt kỹ thuật mà còn về hiệu quả kinh tế. Một khía cạnh khác cũng phải xét đến là hiện nay chúng ta chỉ mới xác định được A(H5N1) chỉ mới lây trực tiếp từ vật sang người. Một đại dịch cúm gia cầm xảy ra ở người chỉ mới là một tiên đoán, một sự dự phòng trên nguyên tắc ‘phòng bệnh hơn chữa bệnh’. Thế nhưng, loại virus A(H5N1) chịu trách nhiệm gây cúm lây truyền giữa người với người có cấu trúc như thế nào, hẳn chúng ta chưa biết, nhưng chắc không thể giống cấu trúc A(H5N1) mà chúng ta đang biết hiện nay. Trong một tình thế phải làm một điều gì đó, Tamiflu hay Relenza là các ứng cử viên trong việc điều trị bệnh nhân mắc cúm A hoặc B nói chung, chứ chưa phải là thuốc đặc trị (mà không thể có) cho cúm gia cầm A(H5N1) ở người. Hiệu quả như thế nào, chúng ta chưa biết, nhưng bằng chứng đã cho thấy tác dụng điều trị các loại cúm A nói chung vẫn có những hạn chế nhất định, chưa kể đến một khả năng kháng thuốc. Xem ra việc tích trữ Tamiflu với cơ số lớn nhằm dự phòng để điều trị A(H5N1) có thể là một chi phí xa xỉ cho các nước đang phát triển chăng?
|
|
|
Post by vietnam on Jun 14, 2009 15:37:32 GMT -5
Cần phải làm gì để phòng chống cúm gia cầm H5N1? Nguyễn Đình Nguyên Tiến sĩ Nguyễn Đình Nguyên cùng với Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn về Việt Nam đứng lớp 3 cái Workshops về những đề tài : - "Những sai lầm Y học", - "Thiết kế nghiên cứu Y học và phân tích dữ liệu". - Loãng xương" và - "Phân tích số liệu và biểu đồ bằng ngôn ngữ R", - Ứng Dụng CNTT trong y khoa và tình hình CNTT y khoa thế giới (Y tế điện tử, file rất lớn: 6217 Ko) tại Medic, ĐH Y Dược và ĐH Bách Khoa Sài Gòn, từ 28/07 tới 6 giờ chiều ngày 04/08/2006. Qua lại Sydney ngày 13/08/2006. Tất cả tài liệu của 3 Workshop được gom lại nơi WORKSHOPS 2006 GS Nguyễn Văn Tuấn và Ts Nguyễn Đình Nguyên cùng với hình ảnh sinh hoạt của các anh chị em sinh viên hậu đại học Trước khi đọc những bài trên, xin hãy xem lại Bài giảng về Thống kê Sinh học (Biostatistics) Khi RFA phỏng vấn, Ts. Nguyên đã "nói chuyện qua điện thoại đơn thuần, không hề có một chút chuẩn bị nào cả", trong lúc "đang ngồi ãn sáng, chỉ ăn phở gà thôi, vì gà VIỆT NAM mới ngon mà không bao giờ tìm thấy ở ngoại quốc". 2006.08.17 Gia Minh, phóng viên đài RFA Báo chí Việt Nam suốt những ngày qua liên tiếp cập nhật những văn bản mang tính cấp bách của chính phủ về công tác phòng chống cúm gia cầm. Nhiệm vụ hàng đầu mà nhà cầm quyền Hà Nội đưa ra là phải kiên quyết không để dịch tái bùng phát nhất là vào thời điểm mùa mưa lũ, cũng như mùa đông sắp tới. Trong thực tế những người dân cần làm gì để phòng chống cúm nói chung và cúm gia cầm H5N1 nói riêng? Gia Minh hỏi chuyện tiến sĩ y khoa Nguyễn Đình Nguyên tại Úc khi ông về công tác ở Việt Nam hồi tuần qua. Trước hết ông nói về việc sử dụng thuốc Tamiflu mà nhiều người vẫn cho là cách phòng chống cúm duy nhất hiện thời. Tiến sĩ Nguyễn Đình Nguyên: Cần xác định Tamiflu không phải là thuốc để điều trị cúm gia cầm, mà là để trị cúm không đặc hiệu, cúm A không đặc hiệu. Tamiflu cho đến nay chỉ chứng minh là làm giảm triệu chứng chứ không giảm tỷ lệ tử vong. Mà mục tiêu trong cúm gia cầm là giảm tỷ lệ tử vong. Tamiflu cũng giống các lọai thuốc khác là một vũ khí; nhưng virus H5N1 chúng ta chưa biết hết kết cấu của nó nên kháng thuốc là chuyện đương nhiên. Virus cúm để tồn tại thì biến hình; nếu can thiệp tự nhiên thì biến đổi chậm nhưng nếu mạnh thì nó phải biến hình. Gia Minh: Mọi người vẫn cho rằng Tamiflu là thuốc chống hiệu quả nhất, vậy phải áp dụng biện pháp gì để phòng ngừa? Tiến sĩ Nguyễn Đình Nguyên: Tamiflu là điều trị gốc tức khi triệu chứng phát ra rồi thì phải uống đúng liều, đúng thời điểm. Nếu dùng trước khi phát hiện bệnh mới hiệu quả. Nên phải theo nguyên lý phòng ngừa. Thường có triệu chứng mới vào viện, mà khi vào viện rồi thì dùng Tamiflu không có hiệu quả. Phải hiểu vật chủ trung gian là gia cầm, thủy cầm… Nhưng cắt nguồn gia cầm không giải quyết đuợc vấn đề. Chỉ còn cách phòng chống thụ động và phòng chống chủ động là vắc xin. Nhưng cúm nhóm A có đặc điểm là biến hình theo thời gian. Phương pháp thụ động nhất là giữ vệ sinh cá nhân. Gia Minh: Tiến sĩ đang có mặt tại Việt Nam, thì nhận xét của tiến sĩ về những biện pháp đang thực hiện? Tiến sĩ Nguyễn Đình Nguyên: Theo tôi bệnh dịch theo chu kỳ là trở lại. Nhưng tôi thấy có biện pháp tích cực là thủ tướng vận động kêu gọi để quản lý chặt nguồn gây bệnh: như việc cách lý, khu trú giảm thiểu lây lan. Tôi thấy Việt Nam đang tích cực làm việc đó. Dù sao trong thời gian qua Việt Nam là một trong những nước có khả năng ngăn ngừa dịch tái phát và tác hại của dịch. Gia Minh: Đối với bản thân người dân thì phải làm gì trong lúc này khi chu kỳ trở lại? Tiến sĩ Nguyễn Đình Nguyên: Đối với người dân sở tại thì dù chưa có khả năng lây lan từ người qua người, nhưng khi thấy đàn gà bệnh thì đừng phát tán bệnh ra bằng cách bán đi để lấy lại tiền, mà phảu hủy đi. Người du lịch thì về chuyên môn không có khuyến cáo cách ly; nếu không đến trang trại nuôi gia cầm thì thôi. Khi có khuyến cáo không ăn thì mới không ăn. Cho đến bây giờ thì Y tế Thế giới chưa có khuyến cáo nào là không đến những vùng không có cúm gia cầm. Đặc điểm của cúm gia cầm là ở 56 độ C đã chết rồi. Chúng ta biết nó là nguy hiểm nhưng không phải đến mức phải sợ hãi. Gia Minh: Xin cám ơn Tiến sĩ Nguyễn Đình Nguyên. Vaccine phòng chống cúm gia cầm A(H5N1) ở người, hứa hẹn? Nguyễn Đình Nguyên Trong vài tuần qua, dư luận thông tin báo chí nhóm lên một hy vọng về sự thành công chế tạo vaccine chống A(H5N1) ở người. Thế nhưng mãi cho đến một tuần sau, vừa mới hôm 30 tháng 3 này, Tập san chuyên ngành Y khoa nổi tiếng thế giới New England J Med, của Mỹ mới đăng tải nghiên cứu (mà thông tin báo chí đề cập) của các chuyên gia Mỹ (xin đính chính là công trình của các khoa học gia Mỹ, vì có một số thông tin báo chí đưa là công trình của các khoa học gia Pháp), về việc đã thử nghiệm được một loại vaccine chống lại cúm AH5N1 (1) mà chúng ta hay gọi là cúm gia cầm. Vaccine này do một công ty dược của Pháp làm chủ (Sanofi-Aventis) nhưng cấp giấy phép sản xuất cho Mỹ (vì vậy mà dễ nhầm là do các khoa học gia Pháp chế tạo). Neuraminidase Đây là một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, với mục đính xác định khả năng tạo kháng thể miễn dịch trên cơ thể người cho một loại vaccine được chế xuất từ mầm bệnh là: chủng virus A(H5N1) được tái sinh trong phòng thí nghiệm, bằng cách lấy đoạn mã cho kháng nguyên bề mặt Hemagglutinin và Neuraminidase từ virus cúm chủng AH5N1 được phân lập từ 2004 ở Việt Nam: A/Vietnam/1203/2004. Sau đó, mã di truyền này được cấy trên lại một chủng virus phòng thí nghiệm thông thường hay dùng để chế vaccine cúm, để tạo ra một dòng virus mã số là rgA/Vietnam/1203/2004xA/PR/8/34. Sau đó virus này được qua một quá trình xử lý trong phòng thí nghiệm để làm mất độc tính gây bệnh nhưng vẫn giữ nguyên đặc tính sinh học là có đặc tính kháng nguyên bề mặt giống hệt như virus A(H5N1) đã lấy mẫu. Tóm lại: Vaccine được chế xuất này là một loại virus tái tạo theo công thức di truyền của AH5N1 chủng Việt nam 2004, và được khử độc tính, chuyên môn gọi là vaccine làm từ mầm bệnh bất hoạt tính. Mục đích của nghiên cứu: Thử nghiệm khả năng tạo kháng thể kháng lại kháng nguyên bề mặt loại virus tái sinh bất hoạt tính này và thử nghiệm độ an toàn sinh học khi dùng. Để trả lời cho câu hỏi này, các nhà khoa học tiến hành làm một thử nghiệm lâm sàng trên 451 người, chia làm hai nhóm dùng vaccine (401, chia làm 4 nhóm nhỏ dùng 4 liều khác nhau: 90mcg, 45mcg, 15mcg và 7.5mcg) và 48 người không dùng vaccine. Những người này là những người khoẻ mạnh (không có bệnh gì từ trước đến nay, không mắc bệnh gì hiện tại) từ 18-64 tuổi được mời tình nguyện tham gia. Những người dùng vaccine được dùng làm hai lần cách nhau 28 ngày. Đặc điểm trong quá trình nghiên cứu: Ngay thời điểm trước khi cho dùng vaccine, tất cả mọi đối tượng đều được đo nồng độ kháng thể chống A(H5N1) ở đây là kháng thể kháng H và N. Theo lý thuyết thì tất cả phải đều âm tính. Thế nhưng, một sự kiện mà chính các tác giả cũng không giải thích được (nêu trong phần bàn luận của nghiên cứu) đó là có 15 đối tượng thì dương tính với thử nghiệm ức chế kháng thể H và có 12 người có dương tính với thử nghiệm vitrung hoà là hai xét nghiệm đánh giá mức độ đáp ứng kháng thể có dương tính trong trường hợp dùng vaccine, nếu vaccine đó được coi là hiệu nghiệm. Có nghĩa là, chưa dùng vaccine mà cũng đã có đến 27 người có hiệu ứng như đã dùng vaccine rồi. Điều này chúng tôi sẽ nhận xét sau khi nêu kết quả. Kết quả nghiên cứu là gì? Trong lô khoảng 400 người được dùng vaccine đó, thì chỉ có nhóm gần 100 người dùng vaccine liều cao (90mcg) thì chỉ có một nửa trong số họ (cho là 50 người) mới cho thấy có đáp ứng tạo kháng thể miễn dịch ở một mức độ được tin là có thể chống lại được AH5N1 chủng này. Số còn lại thì không đạt được chuẩn độ kháng thể theo ý muốn nhưng cho thấy có xu hướng nồng độ kháng thể tạo được phụ thuộc vào liều lượng vaccine sử dụng. Chúng tôi không thấy các tác giả nghiên cứu bình luận gì về 27 trường hợp đã có (+) với xét nghiệm ngay từ trước khi dùng vaccine cả! Kết quả còn cho thấy những người dùng vaccine có những phản ứng phụ như đau tại chỗ tiêm, đau cơ, đau đầu, sốt nhẹ, buồn nôn nhưng nói chung không nghiêm trọng. Có ghi nhận được một trường hợp tử vong ngay sau khi dùng liều vaccine đầu (45mcg) 24 ngày trong giai đoạn nghiên cứu, và được xác định là tử vong do gan bị tổn thương theo kiểu nhiễm độc rượu mãn tính (tiền sử bệnh nhân có nghiện rượu). Do vậy các tác giả cho rằng trường hợp tử vong này là ngẫu nhiên mà không phải do dùng vaccine. Nhận xét: 1. Hiệu quả ứng dụng của nghiên cứu? Như mục tiêu nghiên cứu các tác giả đặt ra là mới thử nghiệm khả năng kích thích tạo ra kháng thể chống lại một chúng AH5N1. Kết quả chỉ mới dừng lại khiêm tốn là chỉ có 1 nửa trong số nhóm được dùng liều cao nhất (gấp 8-15 lần so với một liều vaccine chống cúm thông thường), hay nói rõ hơn là chỉ có 12.5% số người được dùng vaccine là có thể tạo ra được một lượng kháng thể mà với sự tin tưởng của các nhà khoa học là có thể chống lại được virus chủng này. Thế nhưng, cần phải biết một thực tế là ngay từ đầu, dù chẳng được dùng vaccine gì thì cũng đã có 27 người có xét nghiệm cũng dương tính tức là cũng được coi như là có khả năng chống lại virus trên lý thuyết nhưng trên thực tế những người này không thể. Như vậy xét nghiệm này ngay từ đầu đã cho một kết quả dương tính giả. Một điều khá ngạc nhiên là các tác giả không báo cáo lại những người này sau đó làm lại xét nghiệm thì nồng độ kháng thể như thế nào? Từ hai điều đó cho chúng ta một suy luận hệ quả, ngay cả trong số 12.5% số người có xét nghiệm dương tính đó cũng sẽ có một số dương tính giả, tức là xét nghiệm cho là có thể hiệu quả nhưng trên thực tế thì có lẽ không, bao nhiêu? Chúng ta chưa có câu trả lời. Dĩ nhiên có dương tính giả thì cũng sẽ có âm tính giả, con số này chúng ta cũng không biết. 2- Chúng ta cũng nên nhớ lại như đề cập ở trên, xét nghiệm dương tính hay âm tính không phụ thuộc vào đặc tính đáp ứng sinh học tức là không phải cho những người này nhiễm virus rồi đánh giá hiệu quả. Mà kết quả đó là chỉ là một sự ước đoán. Tuy nhiên vấn đề thử nghiệm cho tiếp xúc với mầm bệnh A(H5N1) là một việc không thể tiến hành được vì lý do đạo đức. Thế thì nên hiểu giá trị ứng dụng của vaccine này như thế nào? Lấy một thí dụ đơn giản: Một nhóm học trò đến học lớp luyện thi đại học, thầy giáo này có kinh nghiệm và tin rằng bài kiểm tra cuối cùng của mình có một khả năng dự đoán được kết quả thi đại học của học sinh mình. Ông cho rằng hễ cậu nào được 7 điểm bài kiểm tra của tôi, thì cậu đó có thể đậu đại học. Nhưng việc các cậu học trò đó có đậu đại học hay không thì phải đợi kết quả thi đại học báo về trước đã. Cần phải nhớ rằng trước khi luyện thi ông thầy giáo này đã tuyển lựa một số em học sinh đã phải đạt mức khá rồi. Trong số đó ông dạy các em theo một trình độ khác nhau tuỳ thuộc vào túi tiền của các em. Câu chuyện vaccine ở đây hoàn toàn như vậy, có thể xem một bảng so sánh sau: Vaccine A(H5N1) Bài giảng thầy giáo dạy thêm 451 người khoẻ mạnh thử nghiệm 451 học sinh có trình độ khá 102 người dùng liều cao (90mcg) 102 học sinh trả tiền cao nhất, làm bài nhiều nhất (a) 98 người dùng liều 45mcg 98 học sinh được cho một nửa bài tập của nhóm (a) 101 người dùng liều 15mcg 101 học sinh có 1/6 lượng bài tập so với nhóm (a) 100 người dùng liều 7.5mcg (liều cao chuẩn cho vaccine cúm thông thường là có hiệu quả tạo kháng thể) 100 học sinh có 1/12 lượng bài tập của nhóm (a) Trình độ chuẩn trung bình để có thể làm bài kiểm tra cuối đợt của thầy được 7 điểm (giả định là điểm chuẩn) 48 người không dùng vaccine 48 học sinh đến học nhưng chỉ tự làm bài của mình, thầy không dạy Kết quả: 50/102 người dùng liều cao nhất tạo được một lượng kháng thể mà nhóm nghiên cứu tin rằng có thể chống lại được virus A(H5N1) 50/102 số học sinh trả tiền nhiều, được học nhiều nhất đạt được điểm 7 bài kiểm tra sau cùng của thầy giáo trước khi đi thi ĐH, mà thầy giáo tin rằng nếu được 7 điểm của thầy thì sẽ đậu đại học. Khả năng chống A(H5N1) thực thụ? Học sinh đậu đại học? ?? ?? Chờ đợi Chờ kết quả thi ĐH Nhìn vào bảng so sánh trên đây, dù không nên nhưng nó hoàn toàn chung ngữ cảnh thì cho chúng ta thấy rằng con đường từ vaccine thực nghiệm này đến sử dụng trong cộng đồng còn khá nhiều khâu phải giải quyết. Vì “những cậu được thầy giáo tuyển lựa vào lớp của mình là những cậu học sinh khá giỏi, và chỉ có một số nhỏ thôi, không phải đại trà trên cộng đồng, còn lại chỉ cho 1/5 là lấy ngẫu nhiên. Thì cũng chỉ có 12.5 phần trăm trong số khá giỏi đó đạt được điểm 7 mà thôi, 12.5 % đó là những cậu nhà thật giàu” Nó tương đương với câu chuyện vaccine là phải dùng thuốc liều rất cao, mà chỉ là trên nhóm người thử nghiệm khoẻ mạnh. Trở lại câu chuyện vaccine, Vậy liệu vaccine này được đưa ra ngay dùng cho cộng đồng chưa, câu trả lời rõ ràng là chưa được. Vì nó chỉ còn trong vòng nghiên cứu, trên số ít những người khoẻ mạnh, còn công đồng chung, những người dễ nhiễm bệnh thì yếu hơn và mức độ đáp ứng miễn dịch sản xuất kháng thể có thể yếu hoặc khác hơn nhiều so với nhóm nghiên cứu Với một liều cao như vậy thì liệu có thực tế cho cộng đồng thế giới hay không? Câu trả lời là không? Điều mấu chốt hơn cả mà chúng ta cần phải biết là đây mới chỉ là một sự thử nghiệm ban đầu cho một loại vaccine đối với một chủng virus có thể đã cũ (2004), mà ta biết rằng virus nhóm A là virus có khả năng thay đổi cấu trúc nhanh chóng và không lường trước được, chính vì vậy mà năm nào chúng ta cũng phải dùng vaccine ngừa cúm, và mỗi năm chủng loại đều thay đổi. Cho nên tóm lại, chúng ta chỉ nên nhìn nhận thông tin về loại vaccine mới chống AH5N1 này hết sức thận trọng, có lẽ nó chỉ nên lưu hành nội bộ trong giới chuyên môn là hơn vì nó còn đang trong giai đoạn nghiên cứu, chứ chưa có hứa hẹn gì áp dụng cho cộng đồng trong nay mai cả. 1. Treanor JJ, Campbell JD, Zangwill KM, Rowe T, Wolff M. Safety and immunogenicity of an inactivated subvirion influenza A (H5N1) vaccine. N Engl J Med. 2006 Mar 30;354(13):1343-51. Viết ngày 31/03/2006. Đã đăng trên báo Sức khoẻ và đời sống
|
|