Post by Admin on Apr 26, 2009 13:22:20 GMT -5
CALCIUM CHỐNG LẠI UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG
Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh
Lượng calcium được khuyến nghị mỗi ngày cho mỗi người là khoảng 1000 mg từ 19 đến 50 tuổi và 1200 mg sau 50 tuổi. Những người Pháp trung bình ở dưới tỷ xuất này. Theo một công trình nghiên cứu rộng rãi của Hoa Kỳ, được thực hiện nơi 200.000 phụ nữ và 300.000 đàn ông, calcium với liều lượng cao (1500-1800 mg mỗi ngày) làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng 16% nơi đàn ông và 23% nơi phụ nữ. (PARIS MATCH 19/3-25/3/2009)
SỰ TIÊU THỤ VITAMINES TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN CÓ NHỮNG ẢNH HƯỞNG LÊN THAI NHI : EM BÉ TINH MA HƠN...VÀ LỚN HƠN ?
Theo định nghĩa, vitamines là chất có tầm quan trọng sinh tồn. Mặc dầu đồ ăn thức uống là nguồn cung ứng đầu tiên của các chất dinh dưỡng này, nhưng việc ăn uống không nhất thiết cung cấp những lượng tối ưu vitamines. Nhất là trong một vài tình huống đặc biệt, trong đó các nhu cầu gia tăng, như trong thai nghén chẳng hạn. Sự kiện những thói quen ăn uống của người mẹ tương lai có những ảnh hưởng lên sự phát triển về sau của đứa bé thì ai củng đã biết rõ, nhưng tính chất chính xác của những ảnh hưởng này vẫn còn là đối tượng của nhiều nghiên cứu và... khám phá. Như là, sự tiêu thụ axit béo oméga 3 trong thời kỳ thai nghén, đặc biệt là phát xuất từ cá, có ảnh hưởng thuận lợi lên sự phát triển não bộ của thai nhi. Mới đây, một nhóm nghiên cứu người Hoa đã quan tâm đến tình trạng các sinh tố chống oxy hóa (vitamines antioxydantes) (A, C và E) trong thời kỳ thai nghén, và ảnh hưởng của chúng lên sự phát triển nhận thức (développement cognitif) của các em bé.
NHỮNG TÁC DỤNG CÓ LỢI
Các nhà nghiên cứu đã phân tích nồng độ của 3 vitamine này trong máu của 150 phụ nữ có thai, cũng như trong cuống rốn ngay sau khi sinh. Sau đó, họ đã đánh giá sự phát triển trí tuệ của các em bé (trong đó có các năng lực vận động và ngôn từ). Như thế họ đã có thể chứng thực rằng các điểm số (score), nhận được nơi các em bé 2 tuổi, tùy thuộc vào tình trạng vitamine A và E của người mẹ, cũng như tùy thuộc vào nồng độ chuyển của hai vitamine này bởi dây cuống rốn. Điều này không có nghĩa rằng các nhũ nhi, đã được hưởng nhiều vitamine A và E, sẽ trở thành những người lớn thông minh hơn, nhưng dầu sao cũng gợi ý vài tác dụng có lợi khi các vitamine này được sử dụng với liều lượng đầy đủ trong lúc thai nghén.
Tất cả điều này có vẻ phù hợp với chính khái niệm của vitamine. Nhưng các vitamine này cũng có thể để lộ một bộ mặt khác : những chất sinh tố này có thể làm dễ một cách hơi quá mức sự phát triển, đến độ làm dễ sự tăng quá mức thể trọng và chứng béo phì. Dẫu sao, đó là một hướng mới phát xuất từ những công trình được thực hiện nơi động vật bởi một nhóm nghiên cứu người Canada. Các nhà nghiên cứu của Đại học Toronto đã nuôi hai nhóm chuột mang thai với hai chế độ ăn uống chỉ khác nhau duy nhất bởi nồng độ (bình thường hay cao) của các vitamine. Sau đó, con cháu được cho một chế độ ăn được gọi là “sinh béo phì (obésogène)”, có nghĩa là làm dễ sự tiêu thụ quá mức năng lượng. Các kết quả cho thấy một cách rõ ràng rằng các động vật phát xuất từ các chuột mẹ “được nuôi dưỡng quá nhiều vitamine” (hypervitaminé), trở nên béo phì dễ dàng hơn những chuột khác. Dĩ nhiên những kết quả này không thể được suy diễn trên người. Nhưng vào giờ phút mà người ta thường tìm cách để xác nhận những kết quả có lợi có thể liên kết với một sự gia tăng cung cấp của vài loại vitamine, thì đây là điều có thể khiến chúng ta phải chùng bước lại. (LE SOIR 4/4-5/4/2009) (TSYH 52, bài số 10)
7/ VITAMIN B CÓ THỂ LÀM HẠ THẤP NGUY CƠ BỊ BỆNH MẮT
Cho vitamin B bổ sung có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh thoái hóa điểm vàng do tuổi tác (age-related macular degeneration), ít nhất nơi các phụ nữ bị bệnh tim mạch hay có nguy cơ bị bệnh này. Thoái hóa điểm vàng, một bệnh phá hủy vùng trung tâm của võng mạc, là nguyên nhân dẫn đầu của sự mất thị giác nghiêm trọng nơi những người trên 50 tuổi.
Trong một công trình nghiên cứu, được công bố ngày 23/2 trong The Archive of Internal Medicine American, các nhà nghiên cứu đã theo dõi 5.205 người phụ nữ hoạt động trong ngành y tế, có bệnh tim mạch hay 3 hoặc nhiều hơn các yếu tố nguy cơ tim mạch. Các phụ nữ này được chia thành hai nhóm : nhóm nhận một placebo và một nhóm nhận một phối hợp acide folique và các vitamine B6 và B12. Sau một thời gian theo dõi trung bình 7,3 năm, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng những phụ nữ uống vitamin B có nguy cơ bị thoái hóa điểm vàng mức độ quan trọng được thu giảm. Điều này có thể là do các vitamins B làm giảm nồng độ homocysteine (một acide aminé) trong máu ; chất này có can dự trong sự mất thị giác.
Những tác giả lãnh đạo công trình, B.S William G.Christen, một phó giáo sư y khoa của Havard, đã từ chối khuyến nghị sử dụng vitamin B. Ông nói cần phải có những công trình nghiên cứu khác nữa. (INTERNATIONAL HERALD TRIBUNE 5/3/2009) (TSYH 82, bài số 6)
8 /NHỮNG NGƯỜI ĂN CHAY ÍT BỊ UNG THƯ
ALIMENTAION. Tỷ lệ ung thư giảm 11% nơi những người không ăn thịt. Tất cả các bệnh lý đều có liên quan, ngoại trừ các bệnh lý đại tràng và tuyến tiền liệt.
Chế độ ăn chay sẽ là một thành lũy chống lại ung thư. Đó là kết luận của một công trình nghiên cứu, được công bố bởi một nhóm các nhà dịch tễ học của đại học Oxford (Vương quốc Anh) trong American Journal of Clinical Nutrttion. Tác giả chính, giáo sư Timothy Key, đã sàng lọc các hành vi ăn uống (comportement alimentaire) của 63.500 đàn ông và phụ nữ người Anh, từ những năm 1990. Từ đó họ rút ra kết luận là tỷ lệ ung thư nói chung ít cao hơn (khoảng dưới 11%) nơi những người không ăn thịt. Tất cả các ung thư, dầu chúng định vị ở đâu, vú, phổi, não bộ, gan, họng..., đều có liên hệ bởi sự thu giảm này, ngoại trừ, thật nghịch lý, các ung thư của đại tràng (đối với cả hai giới) và của tuyến tiền liệt nơi đàn ông.
“Điều đó là bình thường, Bernard Guy-Grand, phó giám đốc của Viện dinh dưỡng của Pháp đã nói như vậy. Nói chung, những người ăn chay không hút thuốc, không uống rượu và tập thể dục, chừng đó yếu tố được biết có tác dụng bảo vệ chống ung thư.” Một phân tích được xác nhận bởi Marina Touilaud, bác sĩ y tế công cộng ở Inserm, chuyên khoa dinh dưỡng, hormone và ung thư. Nếu tỷ lệ mắc phải ung thư phổi được chia 3 đối với những người ăn chay, đơn giản đó là bởi vì họ không hút thuốc!”, nhà nữ nghiên cứu đã nhận xét như vậy.
Cái mới của công trình nghiên cứu này, đó là cho thấy rằng, dầu sao các người ăn chay có nhiều nguy cơ bị ung thư đại trực tràng hơn những người khác, trong khi từ lâu người ta đã nghĩ rằng loại ung thư này đặc biệt là do một sự tiêu thụ quá mức thịt đỏ (viande rouge).
THIÊN LỆCH THÔNG KỂ
“Những kết quả này ít nhất cũng đáng ngạc nhiên, BS Nadia Slimani, của Trung tâm quốc tế nghiên cứu về ung thư (Lyon) đã tuyên bố như vậy. Theo bà, số trường hợp ung thư đại tràng của dân chúng được khảo sát là quá thấp (62 trường hợp) nên không thể suy đoán rằng những người ăn chay ít bị hơn những người khác loại ung thư này. Như thế những kết quả này có thể được quy cho một thống kê thiên lệch. “Đó là chưa kể rằng công trình nghiên cứu không xét đến những yếu tố như rượu hay tập thể dục, trong khi người ta biết đích xác rằng chúng có thể đóng một vai trò đối với ung thư đại trực tràng”.
Một lập trường được chia sẻ bởi Marina Touillaud, thuộc Inserm, nhấn mạnh: “Chúng ta biết rằng sự tiêu thụ thịt đỏ làm gia tăng nguy cơ mắc phải ung thư đại trực tràng, rằng ăn cá làm hạ nguy cơ này và rằng ăn thịt trắng (viande blanche) không làm biến đổi nguy cơ.”
Cần theo đúng điều mà chúng ta đã biết về thịt đỏ (viande rouge). Năm 2007,Viện quốc gia ung thư (Inca) và Cơ quan an toàn y tế các thực phẩm (Afssa) nêu lên rằng sự tiêu thụ thịt đỏ và đồ lợn (charcuterie) được liên kết với sự gia tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng.
Inca đánh giá rằng nguy cơ ung thư đại trực tràng được gia tăng 29% với mỗi suất 100g thịt đỏ được tiêu thụ mỗi ngày và 21% với mỗi suất 50g đồ thịt lợn được tiêu thụ mỗi ngày. Nhiều cơ chế có thể giải thích hiện tượng này: vài đồ thịt lợn mang lại muối nitrite; sự sản sinh các hợp chất N-nitrosés sinh ung thư trong dạ dày và bởi các vi khuẩn của khuẩn chí ruột; sự sản sinh các gốc tự do (radicaux libres) và các cytokines pro-inflammatoires...
Có phải vì thế mà phải trở thành những người ăn chay cả sao? Có lẽ là không phải vậy. Vài cách ăn uống có thể được liên kết với những tình trạng thiếu dinh dưỡng (carences). Có thể bảo vệ chống ung thư trong một chừng mực nào đó bằng cách theo vài hành vi ăn uống từ nay được quy tắc hóa. (LE FIGARO 17/3/2009) .
9/ CÓ NÊN CHỦNG NGỪA ĐÀN ÔNG CHỐNG LẠI PAPILLOMAVIRUS ?
Nhiều lý do có thể biện minh cho việc chủng ngừa hai giới chống lại ung thư của cổ tử cung : thứ nhất, papillomavirus cũng gây nên các ung thư nơi đàn ông (đường miệng, hậu môn, dương vật) ; thứ hai, việc điều tra phát hiện ít được thực hiện đối với nam giới, và thứ ba, chủng ngửa hai giới sẽ tạo sức ép lên virus. “Cũng hơi giống như đối với bệnh đậu mùa, đã biến mất một khi 80% dân chúng được chủng ngừa”, Yann Leocmach, thuộc phòng bào chế Sanofi-Pasteur MSD đã giải thích như vậy. Nhưng vì không có một bằng cớ về tính hiệu quả lâm sàng nơi đàn ông (làm giảm các thương tổn ung thư), nên ưu tiên vẫn là một chiến lược tiêm chủng tốt cho các phụ nữ liên hệ : chủng 80% trong số những phụ nữ này cũng đủ để bảo vệ các ông. (SCIENCE ET VIE 4/2009).
10/ CHỨNG TRẦM CẢM VÀ BỆNH ĐỘNG MẠCH VÀNH
Những yếu tố nguy cơ thông thường đối với bệnh động mạch vành (maladie coronarienne) đã được biết rõ : những yếu tố di truyền, bệnh đái đường, cao huyết áp, loạn chức năng các tiểu cầu (thrombocytes), tăng lipid-máu, thuốc lá, béo phì.
Ngoài những yếu tố nguy cơ thông thường này, theo tài liệu khoa học mới đây, thì chính chứng trầm cảm là một yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của bệnh động mạch vành. Vài tác giả quan sát thấy một nguy cơ phát triển bệnh động mạch vành gia tăng 1,64 đối với những người có những tiền sử trầm cảm. Điều này đặt nguy cơ của chứng trầm cảm ở một mức trung gian giữa nhiễm độc thuốc lá thụ động và chủ động.
Một khi đã là nạn nhân của của một nhồi máu cơ tim, thì sự kiện bị trầm cảm làm gia tăng 3-4 lần tỷ lệ tử vong vào lúc 6 tháng sau, nhưng cũng vào lúc 5 năm sau, và nguy cơ càng cao khi cường độ của trầm cảm càng nặng, cũng như vào lúc 10 năm sau. Như thế, theo tác giả này, trầm cảm tạo thành yếu tố nguy cơ gây tử vong độc lập sau khi bị nhồi máu cơ tim, cũng như bệnh đái đường, loạn nhịp tim và suy tim.
Làm sao hiểu được mối liên hệ giữa chứng trầm cảm và bệnh tim mạch? Trước hết, phải hiểu rằng nếu bệnh nhân tim bị trầm cảm, bệnh nhân này có nguy cơ ít tuân thủ điều trị hơn trên bình diện tim mà thầy thuốc đã kê đơn, và đặc biệt là bệnh nhân sẽ có ít ham muốn hay nghị lực để tập thể dục và biến đổi các thói quen ăn uống của mình hay kể cả ngừng hút thuốc. Nhưng không phải là tất cả. Cũng có những lý do căn bản hơn trên bình diện sinh lý bệnh lý. Trong bệnh trầm cảm, vùng dưới đồi (hypothalamus) có thể kích thích não thùy (hypophyse) tiết những nồng độ ACTH cao hơn. Do đó các tuyến thượng thận có thể bắt đầu tiết những nồng độ cortisol và catécholamine cao hơn. Sự gia tăng catécholamines này có thể dẫn đến thiếu máu cục bộ cơ tim (ischémie myocardique), giảm khả năng thay đổi của nhịp tim, và có thể gây nên loạn nhịp tâm thất. Chứng trầm cảm có thể làm hoạt hóa các tiểu cầu (plaquettes) trong máu. Sự gia tăng cytokines và interleukines theo giả thuyết viêm của trầm cảm, cũng có thể góp phần tạo nên chứng xơ mỡ động mạch (athérosclérose) và nhiên hậu, cao huyết áp.
Sau cũng cortisol tác dụng đối kháng với insuline và góp phần vào loạn lipide-huyết (dyslipidémie), bệnh đái đường loại 2 và chứng béo phì ; sự gia tăng của cortisol cũng có thể làm suy yếu hệ miễn dịch.
Về vấn đề ảnh hưởng lên tỷ lệ tử vong tim của một điều trị chống trầm cảm trong chứng trầm cảm sau nhồi máu cơ tim (dépression post-infarctus du myocarde), câu trả lời không phải là đơn giản ! Trước hết các chất chống trầm cảm ba vòng (antidépresseurs tricycliques) bị chống chỉ định trong trường hợp này vì độc tính của chúng lên tim, nhưng đó không phải là trường hợp đối với SSRI (inhibiteurs sélectifs de la recapture de sérotonine). Đừng quên rằng sérotonine không những chỉ hiện diện nơi hệ thần kinh trung ương mà còn cả nơi các tiểu cầu trong máu (phaquettes sanguines), ở đây sérotonine đóng một vai trò trong sự ngưng kết tiểu cầu (agrégation plaquettaire) và sự co thắt các động mạch vành, do tác dụng của nó lên các thụ thể 5-HT2. Các SSRI và các SNRI (inhibiteurs de la recapture de la sérotonine et de la noradrénaline), do làm giảm lượng sérotonine tiểu cầu, tác dụng với tư cách “ tác nhân chống ngưng kết tiểu cầu ” (anti-agrégant plaquettaires). (TEMPO MEDICAL 7-8/2008)
BS NGUYỄN VĂN THỊNH (12/4/2009)