|
Sài Gòn
May 8, 2010 19:22:12 GMT -5
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:22:12 GMT -5
Thay Đổi Tên Đường Của Thành Phố Sài Gòn Xưa Nay - Nguyễn Công Tánh -------------------------------------------------------------------------------- Thay Đổi Tên Đường Của Thành Phố Sài Gòn Xưa Nay Nguyễn Công Tánh Phần Một Sơ Lược Về Thành Phố Sài Gòn Từ Năm 1795 Đến 2004 Tên đường của thành phố Sài Gòn đã bị đổi thay nhiều lần qua bao nhiêu trào lưu lịch sử của nước Việt Nam kể từ khi có sự xuất hiện của đoàn quân viễn chinh xâm lược Pháp đánh phá vụng cảng Đà Nẵng rồi quay xuống phía Nam đánh chiếm thành Gia Định vào năm 1861. Có thể nói rằng thành phố Sài Gòn là một thành phố lớn nhất của nước Việt Nam ở bất kỳ thời đại nào từ tháng 8 âm lịch năm Đinh Dậu (7-9-1788) là thời điểm Nguyễn Vương Phúc Ánh phá tan quân Tây Sơn để chiếm lại đất Gia Định một cách vĩnh viễn và kể từ năm đó đến năm 1801, Nguyễn Vương lập Kinh đô Gia Định dùng làm bàn đạp để Bắc tiến: Đầu năm Canh Tuất (1790), xây đắp lại một thành đồn cũ ở làng Tân Khai cho rộng thêm. Đồn nầy còn có tên là đồn Nghi Giang (Rạch Thị Nghè ngày nay) hay Đồn Đất. Thời Pháp thuộc, trên địa danh nầy là một bệnh viện quân đội của Pháp có tên là Hopital Grall, rồi trước 30 tháng 04 năm 1975 đổi gọi là Nhà Thương Đồn Đất, sau 1975 đổi gọi là Bệnh Viện Nhi Đồng số 2. Sau khi xây đắp lại, đồn đất Tân Khai trở nên một thành lũy kiên cố tráng lệ tức là thành Gia Định còn gọi là thành Bát quái hay thành Qui (hình con rùa). Về thành mới nầy, Trịnh Hoài Đức mô tả khá rõ ràng trong sách Gia Định Thành Thông Chí (GĐTTC) : "Ngày 4 tháng 2 mùa xuân năm Canh Tuất thứ 13 (1790) mới đắp thành Bát quái ở gò cao thôn Tân Khai đất huyện Bình Dương, thành như hình hoa sen, mở tám cửa, tám đường đi ngang dọc, bề đông tây 131 trượng 2 thước, bề nam bắc cũng thế, cao 10 thước, chân dày 7 trượng 5 thước, đắp làm 3 cấp. Ngồi ngôi kiểu trông hướng Tốn. Trong thành đằng trước bên tả dựng Thái miếu, giữa làm sở hành tại, bên tả là kho trữ tích, bên hữu là Cục chế tạo, xung quanh là các dãy nhà cho quân túc vệ ở..., thành đặt xong, ngoài thành đường ngõ, phố chợ bày hàng ngang dọc, đều có thứ tự. Đường quan lộ bên tả từ cửa Chấn hanh qua cầu Hòa Mỹ, qua sông Bình Đồng mà đến trấn Biên Hòa"(1) Tuy nhiên, theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc sử quán triều Nguyễn thì còn có một con đường quan lộ khác cũng xuất phát từ cửa Cấn Chỉ của đồn thành cũ Tân Khai hướng về phía bắc, nguyên xưa khai thác từ Tất Kiều (nay là Cầu Sơn) phía bắc đến Bình Trị(?) ruộng bùn lầy lội chưa mở, hành khách muốn đến Biên Hòa hoặc lên Băng Bột đều phải đáp thuyền đò. Năm Mậu Thìn (1748), nhân có loạn Cao Man, quan Điều khiển là Nguyễn Doãn mới đăng dây đắp thẳng, gặp chỗ mương rãnh thì bắc cầu, gặp chỗ bùn lầy thì bỏ cây đắp đất để đi qua lại, từ cửa Cấn Chỉ của thành đồn cũ đến bến đò Bình Đồng dài 17 dặm, phía bắc tỉnh giới Biên Hòa có đặt trạm Bình Đồng theo hướng bắc qua núi Chiêu Thái (núi Châu Thới ngày nay) đến bến đò Bình Xan (hay Bình Thiển), qua bến Sa Giang (sông Cát) do đường Phủ sứ xuống Đông Môn (nay là Long Thành) đến Hưng Phước (nay là Bà Rịa), phàm gặp mấy sông lớn có đặt độ thuyền độ phu được miễn trừ sưu dịch.(2) Như vậy, sau khi Nguyễn vương Phúc Ánh xây cất lại đồn Nghi Giang hay Đồn Đất để làm kinh thành Gia Định vào năm 1790 thì thành nầy đã có sẵn một con đường cái quan để đi ra bắc từ năm 1748 và một con đường cái quan khác cũng để đi ra bắc cũng được xây cùng một lúc với công trình sửa mới thành Đồn Đất như Trịnh Hoài Đức mô tả. Bản đồ Sài Gòn xưa Thành Qui
|
|
|
Sài Gòn
May 8, 2010 19:22:56 GMT -5
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:22:56 GMT -5
Theo sự mô tả của GĐTTC thì từ 1790 đến 1801, các cơ cấu kiến trúc của thành Quy gồm có: các vòng thành bao bọc hình hoa sen; trong thành có Thái Miếu (P), sở hành tại (A) (chỗ để Nguyễn vương cư trú và làm việc), kho trữ tích (E), Cục Chế Tạo (F), các dãy nhà cho quân túc vệ (H), cột cờ 3 tầng (I), các hào lũy. Ngoài thành thì đường ngõ, phố chợ được chỉnh trang thứ tự. Sửa sang và xây đắp 2 con đường quan lộ: một đường đi hướng Bắc từ cửa Chấn Hanh về phía Biên Hòa, một đường đi hướng Nam từ cửa Tốn Thuận. (Cần lưu ý rằng Thái Miếu được xây dựng vào năm 1796: xin đọc lại ở trang 1267 và 2 quan lộ chính yếu). Các tên cửa thành Quy trong khoảng thời gian nầy được gọi theo các quẻ bát quái đồ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Hướng Đông - Nam có cửa Tốn Thuận. Hướng Tây - Bắc có cửa Càn Khảm. Hướng Đông - Bắc có cửa Cấn Chỉ. Hướng Tây - Nam có cửa Khôn Hậu. Hướng chánh Đông có cửa Chấn Hanh. Hướng chánh Tây có cửa Đoài Duyệt. Hướng chánh Nam có cửa Ly Minh. Hướng chánh Bắc có cửa Khảm Hiểm. Năm 1801, Thái miếu trong thành Quy bị tháo gở lấy vật liệu đưa ra thành Phú Xuân - Huế để dựng Thái Miếu ở đó. Năm 1809, bên trong thành Quy lại có thêm Vọng cung, lầu bát giác hai bên tả hữu để canh phòng. Từ đó về sau lại có thêm những kiến trúc như: hành cung để dự bị khi vua đi tuần hành, các công thự của quan tổng trấn, của phó tổng trấn và của hiệp đốc trấn. Sửa sang trại quân ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận (H) lợp ngói sơn son, hoa lệ, nghiêm chỉnh. Thành phố Sài Gòn năm 1993 với tên đường cũ trước 30.04.1975 Cũng theo Trịnh Hoài Đức, đường quan lộ bên hữu gặp chỗ quanh co đều chăng dây làm cho thẳng, tự cửa Tốn Thuận qua chùa Kim Chương qua phố Sài Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay) đến cầu Bình Yên, qua gò Tuyên Tự mà đến sông Thuận An (Vàm Cỏ Đông), bến đò Thủ Đoàn, sang sông Hưng Hòa (Vàm Cỏ Tây), qua giồng Trấn Định rồi đến giồng Triệu. Đường rộng 6 tầm (14m61), hai bên đều trồng các cây thổ nghi như mù u, mít, cầu cống thuyền đò sở tại thường sửa chữa, đường phẳng như đá mài, gọi là đường thiên lý phía nam (3). Ngoài ba con đường thiên lý cù vừa kể trên, sách ĐNNTC cũng có viết thêm một con đường thiên lý khác về phía cửa Đoài Duyệt của thành Qui như sau: "Một đường phía tây, niên hiệu Gia Long thứ 14, mệnh (tức là truyền lệnh) tỉnh thần đo từ cửa Đoài Duyệt ở tỉnh thành nơi nơi cầu Tham Cấn (Tham Lương) qua đò Thi Du, chằm Lão Phong, giáp ngã ba sứ lộ qua Xỉ Khê (Tây Ninh) đến địa phận A Ba Cao Man, giáp Đại Giang (Sông Mê Kông) dài 439 dặm. Gặp chỗ có rừng thì chặt cây đắp đường bề ngang 3 trượng (14m61), làm ra con đường bình an tiện lợi, chỉ hiềm đường xa vắng vẻ không có nhà cửa dân cư, Lại theo dọc sông A-Ba xuống phía nam 194 dặm đến đồn Lô Yêm (Lovea-em). Từ Kha Pha lên phía bắc 49 dặm đến sách Chế Lăng (Chelong hay Chlong) cũng là một yếu lộ dụng binh." (4) Con đường nầy có thể đã có từ lâu và dùng để đi Cao Miên (ngày nay là Đường Lê Văn Duyệt nối dài trước ngày 30 tháng 04 năm 1975) nhưng mãi đến năm Gia Long thứ 14 (1815) mới được chỉnh đốn lại giống như ĐNNTC mô tả. Như lịch sử đã ghi lại, có rất nhiều người Pháp đánh thuê được Nguyễn Vương Phúc Ánh xử dụng để phục vụ trong chương trình xây dựng và củng cố vùng đất Gia Định Nguyễn Ánh đã tận dụng kiến thức quân sự của các sĩ quan Pháp bằng cách yêu cầu họ vẽ các họa đồ, và trông nom việc xây dựng, một tòa thành lũy tân tiến theo thiết kế của Âu Châu. Họa đồ được vẽ bởi Theodore Lebrun và đại tá Victor Olivier de Puymanel coi sóc công trình xây cất kinh thành Gia Định. Trên họa đồ vẽ bởi Theodore Le Brun theo lệnh của Nguyễn vương vào năm 1795 người ta thấy phía ngoài 4 mặt thành đã có nhiều phố xá; mặt phía trước thành, đường phố lấn ra tới bờ sông Bến Nghé; mặt phía trái tới bờ Thị Nghè nơi đó có dinh riêng dành cho giáo sĩ Bá Đa Lộc. (ngày nay là vị trí gần với Viện Bảo Tàng nằm bên trong Sở Thú Sài Gòn) và nhà phố lan tới phía bên kia cầu Thị Nghè; mặt phía sau thành nhà cửa phố xa đông đúc chạy dọc suốt đến Cầu Bông và cầu Kiệu ngày nay; về phía bên mặt của thành thì phố xá lan rộng ra tới đường thiên lý đi Cao Miên tức là đường Lê Văn Duyệt nối dài sau nầy. Nhìn sang hướng tây nam là các hiệu buôn bán của người Hoa mà trên bản đồ ghi là Bazar Chinois tức là thành phố Chợ Lớn Sau nầy. Trong sách Gia Định Thành Thông Chí được hoàn thành dưới thời hoàng đế Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, Trịnh Hoài Đức đã dùng nhóm chữ Phố Sài Gòn để gọi khu phố người Hoa nầy (5). Phố xá vào lúc nầy nhất định là phải có số hoặc có tên bằng tiếng Việt Nam và khó có thể có -- hoặc nếu có thì cũng chỉ là một vài trường hợp đặc biệt -- những tên đường bằng tiếng ngoại quốc. Một điểm đáng chú ý là trên bản đồ của Le Brun nơi phần chú giải góc phải phía trên được ghi là Plan de la Ville de SAIGON -- Đồ bản Thành Phố SÀI GÒN có nghĩa là kinh đô Gia Định vào năm 1795 bao gồm khu phố người Hoa Bazar Chinois của Le Brun mà Trịnh Hoài Đức gọi là Phố Sài Gòn và khu phố rộng lớn bao quanh thành Qui. Nơi quyển III, mục Cương vực chí, Trịnh Hoài Đức viết: "...Kể thì Gia Định, xưa là đất của nước Thủy Chân Lập (tức là nước Cao Mên ngày nay, nòi giống chia làm Thủy Chân Lập và Lục Chân Lập), đất ruộng béo tốt, sông nhiều, có nhiều địa lợi như thóc, đậu, cá, muối. Các đấng tiên hoàng triều ta chưa nhàn rỗi mưu tính xa, tạm cho đất ấy là đất của nước Cao Mên, đời đời xưng là nước phiên ở phương Nam, cống hiến không ngớt. Đến năm Mậu Tuất đời Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế năm thứ 11 (1658), (Lê Thần Tông Vĩnh Thọ năm thứ 1; ngang với niên hiệu Minh Vĩnh Lịch năm thứ 12, Thanh Thuận Trị năm thứ 14), mùa thu, tháng 9, vua nước Cao Mên là Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới...Vua sai Phó tướng dinh Trấn Biên (khi bắt đầu mở mang bờ cõi, phàm chỗ đầu địa giới gọi là Trấn Biên, xét dinh Trấn Biên nầy, tức là trấn Phú Yên ngày nay) là Yến Vũ hầu, Tham mưu là Minh Lộc hầu, Cai đội suất tiên phong là Xuân Thắng hầu, đem 2,000 quân, đi hai tuần đến thành Mỗi Xoài (tức Bà Rịa ngày nay) nước Cao Mên, đánh phá tan được, bắt vua ấy là Nặc Ông Chân, đóng gông đem đến hành tại ở dinh Quảng Bình. Vua dụ tha tội, vẫn phong Nặc Ông Chân làm vua nước Cao Mên, cho làm phiên thần nộp cống, không được để cho dân phiên xâm nhiễu. Bèn sai quan quân hộ tống về nước. Khi ấy địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Hòa ngày nay) đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Mên sợ phục uy đức của triều đình, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở." "Giáp Dần năm thứ 27 (Lê Gia Tông Đức Nguyên năm thứ 1, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 13) (1674), mùa xuân, tháng 2, người nước Cao Mên là Nặc Đài (xét Nam Việt Chí của Nguyễn Bảng Trung gọi là Nặc Ô Đài, Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn gọi là Nặc Đài) đuổi vua nước ấy là Nặc Ông Non chạy sang nước ta. Sai tướng dinh Thái Khang (trấn Bình Hòa ngày nay) là Dương Lâm Hầu làm thống suất và Tham mưu là Diên Phái hầu cùng phụ trách việc biên giới, đem quân đến đánh. Mùa hạ tháng 4, phá luôn 3 lũy Sài Gòn (tức đất trấn Phiên An ngày nay), Gò Bích, Nam Vang...Mùa hạ, tháng 6, tin thắng trận tâu lên, triều đình bèn lấy Nặc Thu là phái trưởng phong làm chính quốc vương của nước Cao Mên, đóng ở thành Vũng Long (chữ Hán gọi là Long Úc, tức là thành U Đong), Nặc Non làm phó quốc vương, đóng ở thành Sài Gòn, triều cống như trước, bèn thăng Dương Lâm hầu làm trấn thủ dinh Thái Khang, phòng giữ việc biên giới." (6) Nhóm chữ lũy Sài Gòn do Trịnh Hoài Đức viết ra bằng chữ Hán nho và có thể đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn mới xuất hiện trên sách sử của Việt Nam để ghi thêm 1 biến cố lịch sử quan trọng thứ nhì xảy ra vào năm 1674, (biến cố quan trọng lần thứ nhứt là vua Cao Mên Nặc Ông Chân xâm phạm biên giới vào năm 1658 như vừa kể ra ở phần trên) hay nói khác đi địa danh Sài Gòn đã là một đồn lũy phòng thủ (nhỏ hơn một thành trì bình thường), hoặc là một thị trấn của nước Cao Miên từ xưa rồi. Câu hỏi nêu lên là lũy Sài Gòn nầy bởi từ đâu mà có? Và đã có từ bao giờ? Bản đồ Sài Gòn hiện nay của Wikimapia.org Như Trịnh Hoài Đức đã viết ở phần trên, kể từ năm 1658 "địa đầu trấn Gia Định là hai xứ Mỗi Xoài, Đồng Nai (đất trấn Biên Hòa ngày nay) đã có dân lưu tán của nước ta cùng ở lẫn với người Cao Mên, để khai khẩn ruộng đất, mà người Cao Mên sợ phục uy đức của triều đình, lại nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở" có nghĩa là hai xứ nầy trên thực tế đã thành đất đai của các người dân lưu tán Việt Nam kể từ 1658 và những người dân Cao Mên bản địa của hai xứ đó đã phải bỏ xứ mà đi nơi khác (Trịnh Hoài Đức viết là họ nhường mà tránh, không dám tranh giành ngăn trở). Mặc dù trên danh nghĩa thì các phần đất nầy vẫn là của nước Cao Miên và vẫn dưới quyền cai trị của phó quốc vương bù nhìn thân Việt Nặc Ông Chân rồi kế tiếp theo là vua bù nhìn Nặc Ông Nôn do triều đình Việt Nam tấn phong đóng ở thành Sài Gòn mà Trịnh Hoài Đức (hay là dịch giả quyển Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức) chú thích trong dấu ngoặc đơn như sau: (tức đất trấn Phiên An ngày nay): trước khi có thành Gia Định thì đã có thành Sài Gòn của các phó vương nước Cao Mên ở trên một vùng đất mà sau nầy dưới thời đại của Trịnh Hoài Đức, vào năm Mậu Thìn niên hiệu Gia Long thứ 7 (1808), ngày 12 tháng Giêng đổi gọi gọi là trấn Phiên An. Trấn Phiên An trước đó gọi là gì? Trịnh Hoài Đức khi mô tả Trấn Phiên An có viết "Trấn ấy lúc mới dùng gọi là dinh Phiên Trấn, có 1 huyện, 4 Tổng, lỵ sở ở thôn Tân Lân(?), tổng Bình Trị, huyện Bình Dương ngày nay".(7) Như vậy có thể nói rằng thành Sài Gòn là tên gọi một vùng đất dưới quyền kiểm soát của quan chức Việt Nam ở dinh Trấn Phiên nằm ở thôn Tân Lân, Tổng Bình Trị, huyện Bình Dương thời Trịnh Hoài Đức. Không thể truy cứu đích xác lỵ sở Tân Lân của "thành Sài Gòn" (tức dinh Trấn Phiên) vì trong danh mục xã thôn thuộc Tổng Bình Trị do chính Trịnh Hoài Đức liệt kê(8) không thấy tên vùng đất thôn Tân Lân. Tuy nhiên cũng theo THĐ thì dinh Trấn Phiên đã được thành hình từ năm 1698: "Mậu Dần Hiến Tông Hiếu Minh hoàng đế (tức Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu) năm thứ 8 (1698) (Lê Hy Tông Chính Hòa năm thứ 19, Đại Thanh Khang Hy năm thứ 37) mùa xuân, sai Thống suất chưởng cơ là Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Nguyễn Hữu Cảnh) kinh lược nước Cao Mên lấy đât Nông Nại (nguyên cả một vùng miền Đông sau nầy) đặt làm phủ Gia Định, đặt xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long dựng dinh Trấn Biên (lỵ sở ở thôn Phúc Lư ngày nay, xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn (lỵ sở bên cạnh đồn mới ngày nay, mỗi dinh đặt ra các chức Lưu thủ, Cai bạ, Ký lục để giữ và chăm..." (9) Phải chăng là "đồn mới ngày nay" phải được hiểu chính là đồn của huyện Tân Bình mới đuợc thiết lập chứ không thể hiều là một đồn lũy nào đó mới được xây cất vào thời THĐ viết GĐTTC. Còn xứ Sài Gòn đã có từ thời xưa thì trở thành huyện Tân Bình vào năm 1698. Vậy dinh Phiên Trấn được dựng lên để cai trị huyện Tân Bình. Dinh Trấn Biên vừa là lỵ sở vừa là đơn vị hành chánh. Còn địa phận của Tổng Bình Trị thì theo như sự mô tả của Trịnh Hoài Đức như sau: "Tổng Bình Trị (mới đặt ra) 76 xã thôn, phường, lân, ấp, phiá đông giáp sông Bình Giang (tức sông Sài Gòn bây giờ), từ trước thành sông dọc theo kho Gian Thảo (nay là vùng Cầu Kho), phía tây giáp đầu suối Bến Nãi đến đầu cầu Tham Lương (tức địa giới quận Tân Bình, Hốc Môn bây giờ), giáp địa giới phía đông tổng Dương Hòa; phía nam giáp kho Gian Thảo, qua miếu Hội Đồng đến cầu Tham Lương, phía bắc giáp trấn Biên Hòa, từ trên sông Đúc Giang (tức là sông Sài Gòn ở khúc trên khoảng gần với Thủ Đức hiện nay), dưới đến bờ phía nam sông Bình Giang (tức bến cảng Bạch Đằng của sông Sài Gòn ngày nay)" (10) hay nói khác đi thì Tổng Bình Trị nằm lọt ở khoảng giữa Rạch Thị Nghè với Cầu Kho hiện nay tức là nằm trong phạm vi của Quận I bây giờ. "Trấn Phiên An, đất rộng việc nhiều, đường thủy đường bộ giao thông, phía bác giáp trấn Biên Hoà, trên từ sông Đức Giang (tục gọi là sông Thủ Đức) đến sông Bình Giang (về huyện Bình Dương, tục gọi là sông Bến Nghé), chuyển quanh xuống cửa ngã ba Phù Gia (tục gọi là ngã ba sông Nhà Bè) ra thẳng cửa Cần Giờ. Phàm ở bờ phía nam sông ấy là địa giới trấn Phiên An, phía Nam giáp trấn Định Tường, trên từ Quang Hóa, Quang Phong sang phía tây đến Vàm Dừa, Rạch Cỏ, đến sông Bát Chiên, phía đông xuống Vũng Cù, qua sông Trà Giang ra cửa bể Soi Rạp. Theo bờ phía bắc sông là địa giới trấn Phiên An, phía đông đến biển, phía tây giáp nước Cao Mên, ngăn chặn người Man núi, gối vào đầm phá . Từ đông sang tây cách 352 dậm, từ nam sang bắc cách 107 dặm...Năm Mậu Thìn Gia Long thứ 7 (1808, ngày 12 tháng giêng đổi làm Trấn Phiên An, lấy huyện làm phủ, lấy tổng làm huyện, cứ theo đất rộng hay hẹp, dân nhiều hay ít, hãy thấy liền nhau là bổ vào, lại thêm tên tổng, đều lập giuới hạn. Năm Tân Mùi Gia Long thứ 10 (1811), dời làm lỵ sở ở chợ Điều Khiển, lân Tân Mỹ"(11) Trở lại biến cố lịch sử năm 1674, vua nước Cao Mên thân Việt lúc bấy giờ là Nặc Ông Non bị người trong nước là Nặc Đài nổi dậy làm phản phải tháo chạy xuống vùng đất Sài Gòn để cầu cứu với các chức quyền Việt Nam. Quân nổi loạn Cao Mên do Nặc Đài cầm đầu không những truy đuổi Nặc Ông Non mà còn nhân dịp đắc thắng đã tiến thẳng xuống chiếm đóng trấn Phiên An mà THĐ viết tránh đi và gọi là lũy Sài Gòn. Sau đó thì chúa Nguyễn đã sai quan binh đi thảo trừ giặc loạn người Cao Mên, đánh bật họ ra khỏi Trấn Phiên An (lũy Sài Gòn), rồi tiến quân đánh chiếm luôn thành Gò Bích và thành Nam Vang. Nặc Đài thua chạy rồi bị chết trận. Chúa Nguyễn lại đặt Nặc Ông Thu làm Cao Mên Quốc vương ngự trị ở thành U Đong còn Nặc Ông Non thì cho làm phó Vương ngự trị ở thành Sài Gòn và thành Sài Gòn nầy của phó vương Ông Non có thể ở vào một vị trí gần với lỵ sở dinh trấn Phiên An của chúa Nguyễn để dễ bề giám hộ và kiểm soát. Chuyện xảy ra như vậy, nhưng sử thần nhà Nguyễn nào lại dám viết thật sự là quan binh chúa Nguyễn đã bị quân phiên Cao Mên nổi loạn đánh đuổi và phải bỏ chạy ra khỏi vùng lãnh thổ trấn Phiên An? Năm 1772, sau khi đánh thắng quân Xiêm, Nguyễn Cửu Đàm xây lũy đất hình bán nguyệt để bảo vệ vùng Sài Gòn: "...Đàm ân hầu về đến dinh đồn, đắp thành đất, phía nam từ cát ngang, phía tây đến cầu Lão Huệ, phía bắc giáp cửa trên sông Nghi Giang, kéo dài 15 dậm, bao quanh dinh đồn, chặn ngang đường bộ để làm kế phòng ngừa."(12) Lũy nầy trên bản đồ Le Brun (hình bản đồ trích dẫn ở phần trên) ghi là Mur d'enceinte (vòng tường ngoại vi). Như vậy, từ khởi đầu đến đây, ai cũng có thể thấy đuợc rằng cái tên Sài Gòn đã hiện hữu từ lâu rồi, ít ra thì cũng đã được viết lên trên giấy trắng mực đen kể từ thời của Trịnh Hoài Đức biên soạn sách GĐTTC. Vùng Sài Gòn trở nên một vùng đất phồn thịnh và thu hút kể từ khi Nguyễn Cửu Đàm xây lũy đất bán nguyệt kể trên và đào kinh Ruột Ngựa vào năm (1772), THĐ ghi rõ: "Sông Mã Trường (tục danh sông Ruột Ngựa). Trước kia từ cửa Rạch Cát về bắc đến lò ngói, một lối vũng trâu, thuyền bè không đi lại được. Mùa thu năm Nhâm Thìn (1713) (chỗ nầy trong sách ghi sai, phải là 1772 mới đúng) Đốc chiến Đàm Ân hầu (con thứ năm của Chánh thống Vân Trường hầu) nhân sau khi dẹp Cao Mên rồi, đào làm kênh cừ, thẳng như ruột ngựa, bèn lấy đó mà đặt tên. Nhưng còn nông nhỏ, nên thuyền đi đến đó tạm phải ngừng lại, để chờ nước triều lên mới qua được, nay khơi đào cho sâu rộng thêm, dân khen là tiện lợi."(13) Vùng Sài Gòn cũng bắt đầu biến đổi thành một thành phố đúng với ý nghĩa của 2 chữ thành phố: thành ở đây tức là tường thành bằng đât của Nguyễn Cửu Đàm và phố ở đây chính là vùng phố buôn bán của những ngưòi Hoa tàn dư của nhà Minh tha phương cầu thực mà Le Brun gọi là phố Bazar Chinois càng lúc càng trở nên sầm uất, cuốn hút dân tình tứ phương thuộc nhiều sắc tộc kéo nhau về tụ tập sinh sống trong vùng Sài Gòn, chợ búa bắt đầu nhóm họp ở nhiều nơi như Chợ Cầu Muối, Chợ Đũi, Chợ Gạo, dân cư lan tỏa ra các vùng chung quanh lũy đất Nguyễn Cửu Đàm như Phú Nhận, Gò Vấp, Bà Chiểu, Cầu Sơn, Thị Nghè, Thủ Thiêm, Xóm Chiếu, Lò Gốm và bắt đầu có sự phân biệt dân thành thị với dân ngoại ô, dân nội thành với dân ngoại thành, dân con buôn ở chợ và dân nhà quê làm ruộng rẫy. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1776 vùng Sài Gòn bị xáo trộn và đổi chủ nhiều lần qua sự tranh giành giữa chúa Nguyễn và anh em nhà Tây Sơn kéo dài mãi cho đến năm 1788 bởi vì Vùng Sài Gòn đã trở thành một vùng trọng yếu mà kẻ nào làm chủ thì kẻ đó cũng sẽ là chủ nhân cả miền Nam trù phú: lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều đó. Trong khoảng thời gian nầy, vùng Sài Gòn đã phải gánh chịu hàng chục trận đánh lớn, tài sản tiêu hao, chết chóc nhân mạng dẫy đầy, dân tình xôn xao nhưng lạ lùng thay vùng Sài Gòn chưa bao giờ bị san phẳng thành bình địa và dân Sài Gòn vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, cách ăn ở, mức sống không hề bị suy sụp, nét văn hoá miền Sài Gòn không bị xóa nhòa hay biến dạng, người Sài Gòn luôn luôn nghiến răng chịu đựng, mãi cho đến tháng 8 năm Đinh Dậu tức là ngày 07-09-1788 nguyên soái Nguyễn Ánh lấy lại toàn vùng Sài Gòn và từ đây trở đi không còn bị quân của anh em nhà Tây Sơn đánh đuổi giành giựt được nữa. Và như đã trình bày ở phần trên, năm 1790, nguyên soái Nguyễn Ánh đã ra lệnh cho Le Brun và Olivier thiết kế và xây dựng kinh thành Gia Định. Theo sự kê chú trong bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun 1790 thì các cơ sở bên trong thành Gia Định được xây cất từ 1790 cho đến khi họa đồ được vẽ ra vào năm 1795 là những vị trí được Le Brun đánh số từ số 1 đến số 17. Trước khi đi vào chi tiết về kiến trúc thành Gia Định, chúng ta thử truy cứu xem vào năm 1795 ai là người đã thực hiện bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun? Dư luận từ trước tới nay đã căn cứ vào đoạn ghi chú trên bản đồ 1795 để cho rằng bản vẽ lại đồ án kiến trúc của Le Brun vào năm 1795 là chính tay Le Brun vẽ từ đồ án kiến trúc Grand plan do chính của người Pháp nầy thực hiện năm 1790. Hiểu như vậy rồi thắc mắc rằng Le Brun không phục vụ Nguyễn vương Phúc Ánh đến năm 1795 thì làm sao lại có thể cho rằng bản vẽ 1795 là do Le Brun vẽ ra? Alfred Schreiner trong sách Abrégé de L' Histoire d' Annam đã viết về Théodore Le Brun như sau: Le Brun (Théodore), volontaire de 1re classe provenant de la frégate la Méduse, se fit débarqué à Macao le 13 Janvier 1790 et passa la mêm année au service du Chúạ Il fut engagé comme ingénieur et leva le plan de Saigon; mais il ne resta que quinze mois environ au service de Nguyễn Ánh, ne se trouvant pas suffisamment payé, de plus, peu disposé "à servir sous les ordres d' Olivier, volontaire de 2è class seulement, pourtant chef d' état major de l' armée de Cochinchine, fonctions qui lui donnaient autorité sur son collègue". Dịch: Le Brun Théodore, binh nhất hiện dịch của tàu chiến Méduse, đào ngũ khi tàu ghé cảng Ma Cao ngày 13 tháng 1 năm 1790 và đến phục vụ cho chúa. Được giao nhiệm vụ kỹ sư và phác họa bản đồ thành Sài Gòn. Tuy nhiên đương sự chỉ làm công cho Nguyễn Ánh khoảng 15 tháng rồi tự ý bỏ đi vì không được trả công trọng hậu mà còn bị đặt dưới quyền sai khiến của Olivier "binh nhì tham mưu trưởng trong quân đội của Nam Kỳ" Cũng theo Alfred Schreiner thì binh nhì Olivier de Puynamel đến phục vụ cho Nguyễn Ánh vào năm 1788 và được giao cho chức vụ tham mưu để lo việc tuyển mộ và huấn luyện binh sĩ. Sử cũ thường gọi người Pháp đánh thuê nầy là Cai Tín. Năm 1790 được Nguyễn Ánh giao cho việc xây cất thành Quy Sài Gòn. Năm 1799 sang Malacca chữa bệnh và chết ở đó vào lúc 31 tuổi. Sử sách cũ của triều Nguyễn cũng cho biết là từ năm 1790, tức là từ lúc khởi sự xây cất thành Quy, Nguyễn vương Phúc Ánh rất bận rộn trong việc chinh chiến đối phó với quân Tây Sơn: Năm Nhâm Tý (1792) Nguyễn vương khởi động chiến dịch tấn công "gió mùa", đem quân đi đánh Tây Sơn, gió thuận ra đi, gió trái trở về. Năm Quý Sửu (1793), Nguyễn vương ra đánh Qui Nhơn, lấy lại phủ Diên Khánh, thâu phục phủ Phú Yên. Tháng 9 âl, Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc chết. Tháng 10 âl (1793), sai Nguyễn Văn Thành giữ thành Diên Khánh, Nguyễn Ánh rút quân về Gia Định. Sai Chánh đội Quang Nôi Ve (tức Cai Tín Olivier de Puynamel) và đội trưởng Ba Đờ Chê (có thể là người Pháp Laurent Barisy) qua thành Cổ Á (thành Goa) và Ma Lac Ca (Malacca) để mua binh khí.(14) Năm Giáp Dần (1794), sửa lại Văn Miếu dinh Trấn Biên. Năm Bính Thìn (1796), xây dựng Thái Miếu. Rõ ràng là trách nhiệm trông coi công tác xây cất thành Quy từ năm 1793 đến năm 1796 không còn do Cai Tín Oliver đảm nhiệm nữa vì đương sự đã xuất ngoại để lo việc mua súng ống, binh khí cho Nguyễn vương Phúc Ánh. Trong khi Nguyễn vương bận rộn với chiến dịch Gió mùa, Le Brun bất mãn bỏ đi, vậy thì công tác xây thành Gia Định giao cho ai trông coi? Không thấy sử sách cũ của triều Nguyễn nói rõ về việc nầy. Gần đây, một số ít học giả Việt Nam nghiên cứu về lịch sử Việt Nam đã dựa vào Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 15 để viết rằng chính Trần Văn Học đã phụ trách việc đo đạc, phân chia khu vực và dự trù khai mở những con đường trong thành Gia Định. Trần Văn Học cũng là tác giả Bản đồ Gia Định 1815. Cũng dựa vào ĐNCBLT, người ta được biết rằng Trần Văn Học sinh quán ở Bình Dương (là Sài Gòn thời đó), từng đi theo giáo sĩ Giám mục Bá Đa Lộc trong đoàn cầu viện sang Pháp nhưng khi phái đoàn sang đến Pondichéry (Ấn Độ) thì Học trở về. Học thông thạo quốc ngữ La tinh và tiếng Pháp, được Bá Đa Lộc đề đạt làm thông ngôn cho Nguyễn vương Phúc Ánh. Sau khi từ Pondichéry trở về, đương sự được giao phó việc dịch sách đặc biệt là các loại sách kỹ thuật của Pháp; cùng một lúc, đương sự cũng được giao phó nhiệm vụ chế tạo chất nổ, tàu hỏa, và chế tạo binh khí. Năm 1790, khi bắt đầu xây dựng thành bát quái Gia Định (tức thành Quy), Trần Văn Học phụ trách việc phác họa đường sá và phân chia khu vực phố phường. Người Pháp đánh thuê cho Nguyễn vương là Jean Marie Dayot (Nguyễn Văn Trí) đã tự kể lại rằng chính đương sự và Olivier đã cùng nhau thực hiện đồ án thiết kế vùng sông Sài Gòn cùng nhiều địa điểm khác nối liền với Cao Miên: "Nous avons relevé ensemble le plan de la Rivière de Saigon, ainsi que celui de plusieurs endroits qui communiquent avec le Cambodge". (15) Việc nầy nếu có thật thì chỉ có thể xảy ra vào năm 1790 vì năm nầy chính là năm Dayot mới đến xin phục vụ dưới quyền của Nguyễn vương Phúc Ánh và có thể được giao phó làm việc dưới quyền của Olivier trong việc quy hoạch xây cất thành Gia Định, sau đó thì Dayot được giao phó chức vụ chỉ huy hai thuyền chiến hiệu Đồng Nai và Vương tử Nam Kỳ và phải theo Nguyễn Ánh trong những chiến dịch Gió Mùa bắt đầu từ năm 1792. Chiến dịch Gió mùa chỉ tạo được thắng lợi khi lực lượng của Nguyễn Ánh chiếm được Qui Nhơn vào năm 1799. Võ Tánh được giao trọng trách trấn thủ Qui Nhơn và Nguyễn vương Phúc Ánh rút quân về Gia Định. Rất có thể vào lúc nầy Nguyễn vương lại giao nhiệm vụ cho Dayot theo dõi đôn đốc việc tiếp tục xây dựng thành Sài Gòn và vì thế lại có thêm một bản đồ khác gọi là bản đồ 1799 của Dayot. Le Brun bỏ đi, Olivier và Barisy bận công tác thu mua binh khí ở nước ngoài và Dayot thì phải theo Nguyễn Ánh trong các trận đánh Gió Mùa, như vậy thì công tác xây thành Gia Định từ năm 1792 đến 1799 nhất định là phải do Trần Văn Học đảm trách giám quản và năm 1795 Trần Văn Học đã vẽ bản đồ thành phố Sài Gòn dựa trên đồ án kiến trúc -- Le Grand plan -- do Le Brun thiết kế vào năm 1790. Có thể đồ án kiến trúc của Le Brun chỉ là kiểu mẫu prototype của một thành phố Sài Gòn thu nhỏ đặt trên bàn chứ không phải là một họa đồ được vẽ trên giấy trắng mực đen. Thành phố thu nhỏ hay đồ án kiến trúc năm 1790 có thể đã bị Le Brun phá hủy khi đương sự bất mãn tự ý bỏ đi mà cũng có thể đã bị dân phu thầy thợ đắp thành vì bị lao dịch khổ cực, bất mãn đã nổi loạn đập phá đồ án nguyên thủy của Le Brun: một tác giả người Pháp là Jean Bouchot viết một bài có tựa đề là Saigon sous la domination cambodgienne et annamite, đăng trên tập chí Bulletin de la Société des Études Indochinoises, 1926 có cho biết rằng: "Đông đảo dân chúng và quan binh đã nổi dậy phản đối việc xây thành Gia Định". Từ những sự truy cứu kể trên, người ta có thể suy diễn một cách dè dặt rằng bản đồ thành phố Sài Gòn đã do một người Việt Nam ở miền Nam là Trần Văn Học lần đầu tiên vẽ ra vào năm 1795, được J.M Dayot bổ túc vào năm 1799 và lại được Trần Văn Học trao chuốt, bổ túc và vẽ lại vào năm 1815 với nhiều chi tiết được ghi chú rõ ràng hơn, chính xác hơn.
|
|
|
Sài Gòn
May 8, 2010 19:23:26 GMT -5
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:23:26 GMT -5
Theo sự mô tả của GĐTTC thì từ 1790 đến 1801, các cơ cấu kiến trúc của thành Quy gồm có: các vòng thành bao bọc hình hoa sen; trong thành có Thái Miếu (P), sở hành tại (A) (chỗ để Nguyễn vương cư trú và làm việc), kho trữ tích (E), Cục Chế Tạo (F), các dãy nhà cho quân túc vệ (H), cột cờ 3 tầng (I), các hào lũy. Ngoài thành thì đường ngõ, phố chợ được chỉnh trang thứ tự. Sửa sang và xây đắp 2 con đường quan lộ: một đường đi hướng Bắc từ cửa Chấn Hanh về phía Biên Hòa, một đường đi hướng Nam từ cửa Tốn Thuận. (Cần lưu ý rằng Thái Miếu được xây dựng vào năm 1796: xin đọc lại ở trang 1267 và 2 quan lộ chính yếu). Các tên cửa thành Quy trong khoảng thời gian nầy được gọi theo các quẻ bát quái đồ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Hướng Đông - Nam có cửa Tốn Thuận. Hướng Tây - Bắc có cửa Càn Khảm. Hướng Đông - Bắc có cửa Cấn Chỉ. Hướng Tây - Nam có cửa Khôn Hậu. Hướng chánh Đông có cửa Chấn Hanh. Hướng chánh Tây có cửa Đoài Duyệt. Hướng chánh Nam có cửa Ly Minh. Hướng chánh Bắc có cửa Khảm Hiểm. Năm 1801, Thái miếu trong thành Quy bị tháo gỡ lấy vật liệu đưa ra thành Phú Xuân - Huế để dựng Thái Miếu ở đó.
Năm 1809, bên trong thành Quy lại có thêm Vọng cung, lầu bát giác hai bên tả hữu để canh phòng. Từ đó về sau lại có thêm những kiến trúc như: hành cung để dự bị khi vua đi tuần hành, các công thự của quan tổng trấn, của phó tổng trấn và của hiệp đốc trấn. Sửa sang trại quân ở 3 cửa Càn Nguyên, Ly Minh, Tốn Thuận (H) lợp ngói sơn son, hoa lệ, nghiêm chỉnh.
Xin lưu ý: xin tham chiếu các bản đồ về thành Qui ở phần trên.
Cũng nên lưu ý rằng, cách sắp xếp các quẻ Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đài (tương ứng với các phương, hướng Đông Tây, Nam, Bắc, Đông-Bắc, Đông-Nam, Tây-Bắc, Tây-Nam) trong các sách bói toán của Việt Nam có thể không đồng nhất giống nhau mà cũng không giống với sự sắp xếp trên bát quái đồ của người Hoa. Hơn nữa, nạn tam sao thất bản, thêm vào, bớt ra đối với các thư tịch cũ khiến cho việc truy cứu rất khó khăn và chỉ đưa tới một cách vẽ suy diễn thành Quy không chính xác như trên.
Để định hướng vị trí của nhiều kiến trúc bên trong thành Quy, Trịnh Hoài Hoài Đức đã dùng tên của những con đường để làm điểm hướng dẫn: phía trước đường Cấn Chỉ - Đoài Duyệt, bên hữu đường Càn Nguyên - Khảm Hiểm...v.v. Cách mô tả nầy của Trịnh Hoài Đức rất mơ hồ, rất khó cho người đọc suy định để vẽ ra một cách chính xác. Trên đây chỉ là một bản vẽ sơ phát theo sự suy diễn riêng của người viết bài nầy, cần có sự bổ túc, sửa đổi của những nhà biên soạn Sử Việt Nam trong tương lai.
Ghi chú: dùng cho hình vẽ bát quái đồ đã nêu lên ở phần trên
A: Vương cung B: Hậu điện C: Thái tử điện E: Kho Trữ Tích F: Cục Chế Tạo G: Trại xe trận H: Trại lính túc vệ P: Thái Miếu G: Chòi canh
Trong bản họa đồ 1795 do Trần Văn Học vẽ lại từ đồ án xây cất "Grand Plan" 1790 của Le Brun có ghi chú hai kiến trúc số 2 gọi là Palais de la Reine -- Vương hậu cung và kiến trúc số 4 gọi là Palais du Prince -- Vương thái tử cung tương ứng với kiến trúc (B) và (C) trong sơ đồ thành Quy Các vị trí (B), (C) và (G) không thấy được kê ra trong Gia Định Thành Thông Chí nhưng sau năm 1801, Trịnh Hoài Đức có mô tả địa điểm các kiến trúc dùng làm các công thự cho quan tổng trấn, quan phó tổng trấn và quan hiệp trấn rất trùng hợp với 3 vị trí (B), (C) và (E) được vẽ ra trong sơ đồ thành Quy kể trên. Chúng tôi suy định rằng: trước năm 1801, vị trí (B) là vương hậu cung nhưng sau đó thì được dùng làm dinh quan tổng trấn, và cũng tương tự như thế, cung vương thái tử (C) đựợc dùng làm dinh của quan phó tổng trấn, và (E) trước là kho trữ tích sau dùng làm dinh của quan hiệp trấn.
Riêng vị trí kiến trúc (G) thì Trịnh Hoài Đức mô tả rằng sở sửa chữa súng và sở tạo tác thợ rèn đối diện với Cục Chế tạo (F). Có thể cơ sở (G) nầy trước năm 1801 đã được dự trù làm trại chứa xa giá của Nguyễn vương Phúc Ánh chăng?
Bên ngoài thành Quy theo GĐTTC thì có những cơ sở như:
Xưởng Chu sư hay xưởng thủy dài 3 dặm (nay là xưởng Ba Son), ở phía đông thành khoảng 1 dặm góc bờ sông Tân Bình (nay là sông Sài Gòn) và sông Bình Trị (nay là đầu rạch Thị Nghè). Xưởng nuôi dưỡng voi ở ngoài trại đất cửa Khảm Hiểm. Trường thuốc súng ở ngoài cửa Khôn Trinh (Khôn Hậu?) của thành, cách 2 dặm. Trường rộng 1 dặm, chung quanh rào bằng loại cây có gai. Khám đường nhà ngục ở ngoài trại đất cửa Khôn Trinh. Sứ quán ở bên hữu, phía trước cửa Ly Minh, cách thành 1 dặm. Năm 1813 đặt học đường ở nền cũ dinh đồn Điều Khiển. Kho bốn trấn. Ở nền cũ kho giản thảo, cách phía Nam thành 4 dặm rưỡi. Trường Diễn Võ rộng 50 dặm. Ở phía tây nam cách thành 10 dặm. Đồn Giốc Ngư (Giác Ngư). Ở bờ Bắc sông Tân Bình (sông Sài Gòn), cách thành 7 dặm thuộc địa giới trấn Biên Hòa (ở về phía Thủ Thiêm khoảng đối diện với cầu Tân Thuận ngày nay). Đồn Thảo Câu. Ở bờ Nam sông Tân Bình (sông Sài Gòn), cách thành 6 dặm, thuộc địa giới trấn Phiên An (ở vào khoảng vị trí của cầu Tân Thuận ngày nay). Về vị trí của thành Quy so chiếu với các đường phố của Sài Gòn ngày nay thì đa số các thư tịch cận đại và ngày nay của Việt Nam cũng như của ngoại quốc đều căn cứ vào sự mô tả của học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký để suy đoán vị trí của Thành Quy.
Trong sách Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, học giả Trương Vĩnh Ký viết như sau:
Saigon sous Gia Long Ce fut en 1789 que Gia Long, après avoir repris Saigon, occupé jusqu'alors par les Tây Sơn, fit costruire la première citadelle, dont nous allons indiquer l'emplacement et les traces, sur le territoire de notre Saigon d'aujourd' hui. L'année suivante, Gia Long fit construire sous la direction de M.Olivier, officier du génie, l'ancienne citadelle de Saigon.
Elle avait presque la forme octogone (plan imposé par Gia Long) avec huit portes suivant les Bát quái (huit casiers de divinations chinoises) représentant les quatre points cardinaux avec leurs subdivisions.
La citadelle, ainsi que ses fosses et ses ponts, était en grosses pierres de Biên Hòa. La hauteur du mur était de quinze coudées annamites (5 mètres.20 centimètres).
Le centre, où se dressait le mât de pavillon, se trouve à peu près à la cathédrale actuelle. On y apercevait de très loin de très loin la cime d'un filao. Ell s' étendait: du sud au nord, de la rue Ma-Mahon jusqu'au mur de la citadelle détruite et répareé après en terre par les Français; et de l' est à l' ouest de la rue d' Espagne à la rue des Moïs.
A l'est, s'ouvraient les deux portes antérieures (của tiền). L'une qui s' appelait Gia Định môn, regardait le square et le canal du marché de Saigon; l' autre Phan Yên môn, se trouvait du côté de l'artillerie, sur une rue descendant le long du canal de Kinh Cây Cám.
La partie postérieure, à l' ouest, avait également deux portes Vọng Khuyết môn et Cộng Thìn môn, dans la direction du deuxième et du troisième pont de l' Avalanche (cầu Bông et cầu Xóm Kiệu).
La partie gauche au nord donnait, avec deux portes, Hoài lai môn, Phục viên môn, sur l' arroyo de l' Avalanche (premier pont).
Le côté droit de la citadelle, avec les prtes Định biên môn et Tuyên hóa môn, se trouve dans la rue Mac Mahon; ell donnaient: l' une sur la route stratégique, l' autre sur la route haute de Chợ lớn.
Elle fut occupée par Gia Long pendant vingt deux ans, pendant lesquels il allait tous les ans en expéditions contre les Tây Sơn, dans les saisons où la mousson étaiit favorable.
Enfin en 1801, Gia Long fixa sa résidence à Huế et fut maître de tout l' Annam, depuis le Tonkin jusqu' en Cochinchine. Ce fut Lê Văn Duyệt, le fameux vainqueur du port de Thị Nại (Bình Định) qui fut nommé gouverneur général de la Basse-Cochinchine. Il résidait à Saigon. Sa résidence officielle se trouvait derrière le Hoàng Cung (Palais royal), aujourd' hui boulevard Norodom, à peu près au point où est situé l' évêché. Celle de sa femme @ était au palais du Gouvernement en dehors du rempart et du mur de la citadelle
@ chữ sa femme: vợ của ông ta, ở đây có lẽ Trương Vĩnh Ký muốn nói là vợ của ông Tổng trấn kể từ sau thời Lê Văn Duyệt chứ không phải là vợ của hoạn quan tả quân Lê Văn Duyệt.
Tạm dịch:
Sài Gòn dưới thời Gia Long Vào năm 1789, sau khi lấy lại Sài Gòn do Tây Sơn chiếm đóng trước đó, Gia Long đã cho xây cất trấn thành đầu tiên mà chúng tôi (Trương Vĩnh Ký) sẽ chỉ cho thấy địa điểm và dấu tích trên lãnh vực thành phố Sài Gòn của chúng ta hiện nay.
Năm kế tiếp (1790), Gia Long cho xây thành trấn cổ dưới sự cai quản của một sĩ quan công binh là ông Oliver.
Thành có dạng gần giống như một hình tám cạnh (kiểu đồ án xây cất nầy theo ý muốn của Gia Long) với 8 cửa thành theo mẫu của bát quái đồ (tám quẻ trong khoa tướng số của người Tàu tượng trưng cho 4 phương chính cùng với các hướng phụ )
Thành lũy cùng với bờ hào và cầu cống được xây bằng phiến đá lớn Biên Hòa . Tường thành cao 15 thước An nam (khoảng 5m20).
Trung tâm của thành ở vào khoảng gần nhà thờ lớn hiện nay, nơi đó có một kỳ đài thẳng cao. Từ xa, người ta nhìn thấy một ngọn cây phi lao ở nơi đó. Thành trải rộng từ hướng Nam đến hướng Bắc, từ đường Mac Mahon (4) tới bức tường thành đã bị phá hủy mà người Pháp sau đó sửa lại bằng đất; và từ đông sang tây tức là từ đường d' Espagne đến đường Moï . (Xin lưu ý: đoạn nầy không hiểu ý của Trương Vĩnh Ký đề cập đến bức tường thành nào: tường thành Quy của Gia Long hay tường thành Phụng do Minh Mạng xây cất sau nầy? Chúng tôi suy định rằng ý của tác giả muốn chỉ bức tường của thành Phụng: sau biến cố Lê Văn Khôi, Minh Mạng phá hủy thành Quy và cho xây thành Phụng ở một vị trí mới không xa lắm đối với vị trí của thành Quy. Thành Phụng sau đó cũng bị quân Pháp thiêu hủy và dựng lại một bờ tường bằng đất trên vị trí một bức tường cũ của thành Phụng).
Ở phía Đông có hai cửa trước (cửa tiền), một gọi là Gia Định môn trông ra hướng công viên và con kinh của chợ Sài gòn ; cửa kia là Phan Yên môn ở về phía trại Pháo binh, nằm trên một con đường chạy dọc theo con Kinh Cây Cám.
Mặt sau (của thành) ở hướng Tây cũng có 2 cửa Vọng khuyết môn và Cộng Thìn môn , ở vào khoảng cầu thứ hai và cầu thứ ba của con kinh Avalanche. Hướng Bắc bên trái, có hai cửa Hoài Lai môn , Phục Viên môn nằm ở cạnh con kinh Avalanche (cầu thứ nhứt).
Phía tay mặt của thành thì hai cửa Định Biên môn ) và Tuyên Hóa môn nằm trên đường Mac Mahon; một cửa ăn thông ra đường Chiến lược và cửa kia ăn thông ra đường Trên của vùng Chợ Lớn. Thành nầy thuộc quyền kiểm soát của Gia Long trong 22 năm trong khoảng thời gian mà Gia Long hằng năm đem quân đi đánh Tây Sơn vào mùa gió thổi thuận lợi.
Sau cùng, vào năm 1801, Gia Long quyết định cư trú ở Huế và làm chủ toàn cõi nước An Nam từ Bắc Kỳ đến Nam Kỳ. Lê Văn Duyệt, người tướng lừng danh trong trận chiến thắng ở cửa Thị Nại được cử làm tổng trấn Nam Kỳ. Ông trú đóng ở Sài Gòn. Dinh thự hành chánh (tức là nơi làm việc) của ông ở phía sau hoàng cung, ngày nay là đại lộ Norodom, gần nơi tọa lạc của tòa giám mục. Tư thất của vợ quan tổng trấn (không phải vợ của Lê Văn Duyệt, phải chăng đây là tư dinh của tổng trấn Lê Văn Duyệt?) thì nằm trong khuôn viên phủ thống đốc , ở bên ngoài hào lũy và tường thành.
Sài Gòn là Gia Định kinh đô từ 1790 đến 1801. Sau khi đánh đuổi vua Tây Sơn ra khỏi kinh thành Phú Xuân, chú Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long và lấy Huế làm kinh sư, khởi đầu một triều đại cai trị đất nước Đại Nam thống nhất dài rộng chưa từng có trong lịch sử nước ta kể từ khi lập quốc. Thăng Long bị xuống cấp trở thành Bắc Thành và Gia Định Kinh từ nay xuống cấp trở thành Gia Định Thành nhưng vẫn tiếp tục phát triển mọi mặt. Thành bát quái hay thành Qui xuống cấp và trở thành lỵ sở cho các quan chức cai trị của triều đình như lưu trấn rồi tổng trấn; cấu trúc bên trong thành Gia Định cũng thay đổi tương ứng với các chức vụ của quan cai trị: năm 1801, sau khi thu phục kinh thành Phú Xuân, hoàng đế Gia Long tháo gở Thái Miếu trong thành Gia Định để chuyển ra Huế. Trong thành Gia Định, thời các tổng trấn Nguyễn Văn Nhơn, Trịnh Hoài Đức xây cất thêm tòa Vọng cung, Hành cung phòng khi vua đến kinh lý đến ở, các công thự cho Tổng trấn, hiệp trấn hay phó tổng trấn.
Trong vòng 30 năm từ 1802 đến 1832, Sài Gòn bao gồm cả Chợ Lớn là thủ phủ của Gia Định thành và hầu như trong suốt 30 năm, Sài Gòn được an bình và tiếp tục phát triễn cho đến lúc tổng trấn Lê Văn Duyệt qua đời vào tháng 7 năm Nhâm Thìn (1832). Trong khoảng thời gian nầy, có một số nguời ngoại quốc đã đặt chân đến Gia Định thành: năm 1819, một sĩ quan hải quân của nước Hoa Kỳ là John White tới thăm Sài Gòn và mô tả lại cảnh trí bên trong thành Gia Định như sau:
At the end of the first street, however, the scene changed to one of a more pleasing nature. Our route lay through a serpentine covered way, walled with brick, and cut nearly a quarter of a milethrough a gentle acclivity, covered with verdure, on our arrival at which, the native canaille, bipedand quadruped, left us, and we soon arrived, by ahandsome bridge of stone and earth, thrown over a deep and broad moat, to the south-east gate of the citadel, or more properly, perhaps, the military city; for its walls, which are of brick and earth, about twenty feet high, and of immense thickness, enclose a level quadrilateral area, of nearly three quarters of a mile in extent, on each side. Here the viceroy and all military officers reside, and there are spacious and commodious barracks, sufficient to quarter fifty thousand troops. The regal palace stands in the centre of the city, on a beautiful green, and is, with its grounds of about eight acres, enclosed by a high paling. It is an oblong building, of about one hundred by sixty feet square, constructed principally of brick, with verandas enclosed with screens of matting : it stands about six feet from the ground, on a foundation of brick, and is accessible by a flight of massy wooden steps.
...
The drivers, or rather attendants, of these huge animals, are provided with a small tube of wood, closed at each end, equidistant from which is a round lateral aperture, into which they blow, and produce a noise similar to blowing into the bunghole of an empty cask, for the purpose of warning passengers, or others, of their approach, for they seldom give themselves the trouble to turn aside for any small impediment in their path ; and it was amusing to see the old women and others in the bazars, on hearing the approach of an elephanthorn, gather up their wares, and retreat, muttering, to a respectful distance, while the animal was passing to and from the river-side, where they resorted to drink. On passing us they would slacken their pace, and view, with great apparent interest, objects so unusual as our white faces and European garb presented ; nor were we totally divested of some degree of apprehension at first, from the intense gaze, and marked attention of these enormous beasts. Indeed, the Onamese appeared to fear some accident might accrue to us from our novel appearance, and advised us to assume the costume of the country, to prevent any accident; which advice we generally hereafter complied with, at which they were always highly gratified, viewing it as a compliment. Nor was this unattended with other advantages, for our dresses were those of civil mandarins of the second order, which gained us greater respect from the populace. The dress worn by me is now in the museum of the East India Marine Society of Salem.(16)
Tạm dịch:
Tuy nhiên khi đến cuối con đường thứ nhứt, cảnh trí thay đổi một cách vui mắt. Chúng tôi tới một con đường dài khoảng 1/4 dặm lượng quanh như mình rắn, dọc hai bên có tường đá, lòng đường đá nện thoai thoải cỏ mọc xanh um. Các loại gia cầm 2 chân và 4 chân phó mặc chúng tôi và chẳng bao lâu chúng tôi tới một chiếc cầu bằng đá và đất khá đẹp bắt ngang qua một cái hào rộng và sâu, chúng tôi đã tới cổng đông nam của thành, hay nói đúng hơn , một khu quân sự, bởi vì tường thành bằng gạch và đất cao khoảng 20 bộ (1 bộ dài 33cm), rất dầy, bao quanh một diện tích bằng phẳng bốn chiều, mỗi chiều rộng đến 3/4 dặm (1dặm dài 1,609m13).Chính nơi đây là trú sở của vị phó vương và tất cả quân binh, có thêm những doanh trại rộng rãi và khang trang, đủ chỗ chứa cho cho 50,000 quan binh. Vọng cung nằm ở giữa thành, trên một diện tích trãi cỏ đẹp, chung quanh với những vường hoa, rộng khoảng 8 mẫu (trên 3 hécta) với một hàng rào cao bọc kính chung quanh. Đó là một cấu trúc hình chữ nhật với chiều dài khoảng 100 bộ và chiều rộng khoảng 60 bộ, phần chính được xây cất bằng gạch, với những hàng mái hiên được bao bọc mành che. Vọng cung nầy được xây cất trên nền gạch xây cao 6 bộ và có những bậc thềm bằng gỗ nặng để bước lên.
|
|
|
Sài Gòn
May 8, 2010 19:24:04 GMT -5
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:24:04 GMT -5
Hai bên vọng cung, cách xa khoảng 100 bộ, mỗi bên có 1 chòi canh hình vuông cao khoảng 30 bộ, bên trong có treo một cái chuông lớn. Phía sau, cách khoảng 50 bộ lại thêm một tòa nhà nữa cũng lớn rộng gần bằng như thế, gồm các phòng ốc dành cho phụ nữ và các hạng phục dịch khác nhau. Các nóc nhà đều lợp ngói trán men được trang trí hình rồng và các quái thú khác không khác gì bên Trung Quốc. Những gian phòng trong hành cung nầy để cho vua và gia đình ở nhưng họ chưa trở lại Sài Gòn kể từ những cuộc nội chiến. Hậu quả là kể từ thời kỳ đó, hành cung nầy chưa bao giờ được ai vào ở. Tuy nhiên, nó lại được dùng như một chỗ nhà lưu trử văn khố của tỉnh thành và ấn triện của triều đình; và tất cả các công văn cần phải đóng dấu triện đều phải được thực hiện tại nơi đây. Khi đi ngang qua các kiến trúc nầy chúng tôi được các quan triều hướng dẫn cách chào kính cung điện trống vắng không có người ở nầy của vị Con Trời bằng cách hạ thấp các cán lộng che cho chúng tôi. Rồi chúng tôi tới trước dinh quan tổng đốc và được đưa vào một chòi canh gát để đợi viên quan hướng dẫn và người thông ngôn đi thông báo là chúng tôi đến thăm viếng. Chúng tôi không phải chờ đợi lâu vào lúc chúng tôi được thông báo là vị đại quan lớn nhất của địa phương đã sẵn sàng tiếp kiến chúng tôi . Chúng tôi đi vào khuông viên dành cho cho quan tổng đốc ngang qua một cổng rộng của một tường rào cao vây quanh; trước cổng khoảng chừng 10 bộ là một kiến trúc nhỏ áng ngữ, và có lẽ như là một bình phong che cổng. Qua khỏi tấm che nầy, chúng tôi đứng trên một bãi sân rộng thoáng, và thẳng ngay trước mặt chúng tôi cách khoảng chừng 150 bộ kể từ cổng vào là dinh thự của quan tổng đốc, một kiến trúc hình bốn cạnh, mỗi cạnh rộng 80 bộ vuông, lợp ngói. Từ những mái hiên ở mặt tiền, một mái ngói cong nối tiếp một khoảng dài 60 bộ được chống đỡ trên những cột nhà bằng gỗ hồng cẩm bóng loáng đẹp đẽ. Bốn phía của kiến trúc nầy đều có treo màng che bằng tre. Thẳng gốc và ở hai bên dinh thự chính là những bệ bằng đất nện bóng (3 bệ cho mỗi bên) cao khoảng 1 bộ từ mặt sàn nhà. Bề mặt của mỗi bệ khoảng 45 bộ chiều dài, 4 bộ chiều rộng và trên mặt đặt hai tấm phản gỗ dầy khoảng 12 phân ráp nối liền nhau và được đánh bóng thật kỹ lưỡng. Giữa hai hàng bệ cao nầy, lùi về phí trong xa hơn là một bệ khác cao 3 bộ, trên có đặt một tấm phản duy nhất với chiều rộng 6 bộ và chiều dài 10 bộ, dầy 25 phân mà màu sắc và chất liệu giống như là bằng gỗ hoàng dương và vì được xử dụng chà xát quá nhiều đến mức tấm phản nầy giống một tấm gương có thể soi chiếu một cách trung thật các đồ vật đặt chung quanh. Trên bệ cao, quan tổng dốc ngồi khoanh chân theo thể thức của ngưới Á Đông và đang vuốt chòm râu bạc trắng thưa thớt; đó là một ông già gầy gò, da nhăn, phong cách cẫn trọng, nét mặt với nụ cười khó hiểu nhưng vẫn tỏ lộ ra được lòng ngay thẳng của đương sự trong một cuộc bàn bạc trung thực. Hai bên bệ là chỗ ngồi dành cho quan chức các cấp của triều đình, đẵng trật cao ngồi gần quan Tổng đốc . Các hàng binh lính, hai tay cầm gươm và thuẫn che bằng da trâu đánh bóng gắng gù sắt, đứng hầu khắp sảnh đường. Chúng tôi tiến thẳng lên phía trước, đi giữa hai dãy bệ hai bên ngai bệ ngồi của Tổng đốc, đến ngang ngưỡng thềm của bệ giữa thì chúng ngả mũ lưỡi trai và kính cẩn cúi chào 3 lần theo lối Âu châu và được vị Tổng đốc cúi thấp đầu một cách khoan thai để hồi đáp lại. Sau đó quan Tổng đốc lệnh cho viên thông ngôn dẫn chúng tôi sang phía chiếc ghế dài bằng tre đặt ở phía tay mặt của đương sự cùng hàng với một số ghế ngồi trông như là được bọc nệm bằng vải Trung Quốc mà viên thông ngôn bảo rằng những chiếc ghế nầy được sắp xếp như thế cho chúng tôi ngồi thoải mái. Quan Tổng đốc khoan thai dùng tay ra hiệu mời chúng tôi ngồi xuống và chúng tôi tuân lời. Sau đó thì các viên thông ngôn nâng ngang đầu các tặng phẩm, quỳ bái trước bệ cao, trong khi lính hầu cận chờ tiếp nhận để dâng lên cho quan Tổng đốc. Sau khi ngắm nghía từng món tặng phẩm và trông có vẽ hài lòng, đương sự biểu lộ sự đẹp ý của mình bằng cử chỉ dịu dàng tiếp đón, hỏi thăm sức khoẻ cùng với hành trình của chúng tôi, khoảng cách xa từ quốc gia chúng tôi đến nước An Nam, mục đích của cuộc thăm viếng nầy là gì vân vân ...Sau khi đã được chúng tôi trả lời thỏa đáng những câu hỏi, đương sự hứa sẽ dành mọi sự dễ dàng để giúp chúng tôi thực hiện mục tiêu của chuyến viếng thăm nầy. Trầu cau, trà mức được mang ra để mời chúng tôi và chúng tôi đã thừa cơ hội nầy đề cập ngay đến vấn đề quà cáp, những luật lệ và thuế bến cảng. Tất cả các toan tín của chúng tôi vào lúc nầy đều bị né tránh một cách khôn khéo. Tuy nhiên quan Tổng đốc hứa là sẽ thoả mãn yêu cầu của chúng tôi trong lần tiếp kiến sắp tới . Chúng tôi kiếu từ và bởi vì ngày còn quá sớm, chúng tôi tiếp nối cuộc dạo quanh thành phố để thoả chí tò mò. Vào lúc trở lại cổng lớn ở hướng nam, chúng tôi vào cổng và đi ngang qua một doanh trại bên trong có chứa tới 250 khẩu trọng pháo đủ cỡ, đủ kiểu, đa số đúc bằng đồng và phần chính là do Âu Châu sản xuất đặt trên dàn kệ bằng cây cũ mục khác nhau. Trong số súng trọng pháo nầy còn thấy có khoảng 12 khẩu trọng pháo dã chiến tốt trên có chạm 3 hình hoa huệ và khắc ghi cho biết là được sản xuất từ triều đại vua Louis thứ XIV của nước Pháp, được bảo quản khá tốt. Kế bên là một dàn trọng pháo giả bằng cây dùng để tập huấn cho binh sĩ. Tới đồn canh chính, gần cổng vào, chúng tôi thấy nhiều binh lính bị phạt mang gông vào cổ; nhân dịp chúng tôi cũng được biết là gông phạt binh lính thì làm bằng tre còn gông phạt dùng cho những người khác thì làm bằng gỗ mun nặng màu đen. Về hướng bắc của cổng vào phía đông, chúng tôi nhìn thấy một ụ cột cờ lớn dùng để kéo cờ xí của nước An Nam vào mỗi ngày đầu tháng âm lịch và vào những dịp quan trọng khác.
Các cổng thành, đếm được 4 cổng, tất cả đều cúng chắc kiên cố đóng ghép bằng những loại đinh gù lớn giống như cửa thành của Âu Châu, và những chiếc cầu bắt ngang qua hào sâu đều được trang trí nổi bằng những hình tượng quân sự và tôn giáo. Phía trên các cổng vào là nhửng kiền trúc hình vuông lợp ngói, có 2 bật than để đi lên bờ thành ở hai bên cổng, bên trong tường thành.
Ở khu phí tây bên trong vòng các tường thành là một nghĩa địa gồm có rất nhiều lăng mộ cổ tráng lệ xây đấp theo kiểu Trung Quốc. Một vài ngôi mộ có đặt bản đá chạm khắc khá tinh xảo bài văn tế và di ảnh.
Ở khu đông bắc có 6 dãy trại rất lớn được bao bọc bằng những hàng rào dậu cách biệt nhau. Mỗi căn trại có chiều dài 120 bộ và chiều ngang 80 bộ. Nóc trại gồm có nhiều xà gỗ kiên cố và lợp ngói men, cột trụ bằng gạch xen kẻ lại có các công trình thổ mộc chạm trỗ hoành tráng. Vách trại cao khoảng 18 bộ. Các căn trại nầy dùng làm kho xưởng chế tạo, kho dự trữ binh lương, kho vũ khí của hải quân và bộ binh vân... vân . Có nhiều trại lính đó đây rải rác bên trong vòng tường thành dưới những tàn cây khá rậm mát của miền nhiệt đới, trong số đó chúng tôi thấy có những bụi cây thầu dầu. Rất nhiều lối đi thoải mái từ nhiều hướng khác nhau, hai bên trồng cây xanh đẹp giống như loại cây lê nở rộ bông trắng xoá tỏa hương thơm khắp xa gần vào những tháng 10 và 11. Từ những bông hoa nầy, người bản xứ ép lấy dầu làm một loại dầu thoa trị lành thương tích.
Trên sườn dốc ở phía ngoài cổng thành nơi cuối một lối đi có mái che, chúng tôi nhìn thấy nhều con voi đang gậm cỏ với những lính quảng tượng điều khiển ngồi trên đầu. Có một vài con rất to lớn hơn là loại voi Ấn Độ. Các lính nài quảng tượng, hay đúng hơn là những người bạn đồng hành của những con thú tuyệt vời nầy, được trang bị một óng cây nhỏ, hai đầu óng bịt kín và được xoi một lỗ tròn ở giữa dùng để thổi hơi phát ra một âm thanh giống như tiếng hú giống như khi thổi hơi ngang qua một lỗ rót của một cái thùng tôn nô rỗng để báo cho mọi người phải đứng cách xa ra vì các con voi không biết né tránh những trở ngại trên bước đường đi của chúng; và thật là buồn cười khi nhìn thấy các bà già bán hàng rong miệng càu nhàu, hối hả thâu gôm đồ đoàn hàng hóa của mình để né tránh chạy ra chỗ khác an toàn hơn khi nghe tiếng hú báo hiệu giờ đoàn voi đi ra bờ sông uống nước hoặc quay trở về. Khi đi ngang qua chỗ chúng tôi đang đứng, đoàn voi bước chậm lại như là để ngắm nhìn, có vẻ như là rất lý thú, khi nhìn thấy những giống vật lạ thường với khuôn mặt trắng và bộ y phục âu châu. Thoạt tiên, chúng tôi không phải là không e sợ khi nhận thấy cái nhìn hung tợn và chự sự châm chú của những con thú rừng khổng lồ nầy. Ngay cả những người An Nam cũng to dấu lo sợ tai nạn xảy ra vì diện mạo dị kỳ của chúng tôi, họ khuyên chúng tôi nên thay đổi cách ăn mặc theo bản xứ để tránh mọi tai nạn và sau đó thì chúng tôi nghe theo lời khuyên và họ tỏ ra rất cảm kích vì cho đó là một thái độ thân thiện. Ngoài ra chúng tôi còn có lợi ích khác nữa bởi vì chúng tôi được mặc nhung phục của hàng văn quan cấp nhị phẩm càng làm cho dân chúng thêm kính nể. Bộ lễ phục mà tôi đã mặc nay được lưu giữ tại viện bảo tàng Salem của Hiệp Hội Hải quân Đông Ấn.
J.White cũng mô tả thành phố Sài Gòn (tức Chợ Lớn ngày nay) như sau:
The city of Saigon was formerly confined to the western extremity of its present site, now called old Saigon, and which part bears much greater marks of antiquity, and a superior style of architecture. Some of the streets are paved with flags; and the quays of stone and brick work extend nearly a mile along the river. The citadel and naval arsenal, with the exception of a few huts for the artificers, were the only occupants of the grounds in the eastern quarter; but since the civil wars have ended, the tide of population has flowed rapidly to the eastward, till it has produced one continued city, which has spread itself to the opposite bank (P.237 of the streams on which it is situated, and surrounds the citadel and naval arsenal. From the western part of the city, a river or canal has been recently cut, (indeed it was scarcely finished when we arrived there,) twenty-three English miles, connecting with a branch of the Cambodia river, by which a free water-communication is opened with Cambodia, which is called by the Onamese Cou-maigne. This canal is twelve feet deep throughout; about eighty feet wide, and was cut through immense forests and morasses, in the short space of six weeks. Twenty-six thousand men were employed, night and day, by turns, in this stupendous undertaking, and seven thousand lives sacrificed by fatigue, and consequent disease. The banks of this canal are already planted with the palmaria tree, which is a great favourite with the Onamese. The site of the citadel of Saigon is the first elevated land which occurs in the river, after leaving Cape St. James, and this is but about sixty feet above the level of the river : it was formerly a natural conical mound, covered with wood. The grandfather of the present monarch caused the top to be taken off and levelled, and a deep moat to be sunk, surrounding the whole, which was supplied with water from the river by means of a canal. It is most admirably situated for defence, and would be capable, when placed in a proper posture, of standing a long siege, against even an European army. The walls were destroyed in the civil wars, but were subsequently rebuilt in better style than formerly.(17)
Tạm dịch:
Thành phố Sài Gòn thuở trước nằm về phía cực tây so với địa điểm hiện tại, và nay được gọi là Sài Gòn cũ, là phần đất mang rất nhiều dấu ấn xưa cũ hơn hết với kiểu kiến trúc cao cấp hơn. Một số con đường đã được lót gạch đá; và các bến cảng (Chợ Lớn) lát gạch và đá chạy dài cả dậm dọc theo mé sông. Thành lũy và xưởng đóng tàu với một số thưa thớt lều trại dành cho thợ thuyền là những cấu trúc nằm trên khu đất hướng đông; tuy nhiên kể từ khi chấm dứt những trận nội chiến thì làn sóng dân chúng đã nhanh chóng tràn ngập về khu đất phía đông cho đến khi làn sóng đó biến đổi Sài Gòn thành một thành phố nối kết tỏa rộng ra đến bờ đối diện của các nguồn sông rạch của thành phố, bao gồm thành lũy (tức thành Gia Định) và xưởng đóng tàu. Từ khu đất phía tây của thành phố, một con sông hay con kinh vừa mới được đào xong (vào lúc chúng tôi vừa tới nơi đó), dài 23 dặm Anh, nối liền với một nhánh sông Cambodge (tức sông Cửu Long) nhờ đó mở ra một thủy lộ đi thông lên nước Cambodge mà người An Nam gọi là nước Cao Mên. Con kinh đào nầy sâu 12 bộ; rộng khoảng 80 bộ, cắt ngang qua những khu rừng và đầm lầy và được đào trong một thời gian ngắn 6 tuần lễ. Hai mươi sáu ngàn dân phu được thay phiên xử dụng ngày đêm để thực hiện công trình to tát nầy, 7 ngàn người chết vì làm việc kiệt lực và bệnh hoạn. Hai bên bờ kinh đã được trồng cây thốt nốt, một loại cây (một loại cây dừa) rất được người An Nam ưa thích. "Nơi đặt lũy thành Sài Gòn (tức thành Gia Định) là khu đất cao đầu tiên gần mé sông kể từ Ô Cấp (tức Vũng Tàu) đi ngược lên, cao khỏi mặt sông khoảng 60 bộ (1 bộ = 33cm): trước đây khu đất nầy là một gò đất cao hình nón với rừng cây che kín. Ông nội của đương kiem hoàng đế đã ra lệnh bạt thấp xuống cho bằng phẳng và cho đào một đường hào sâu vòng quanh ngập đầy nước sông nhờ một con kinh dẫn nước vào (kinh Thị Nghè). Thành lũy nầy chiếm một vị thế tuyệt hảo cho việc phòng vệ và chắc là có khả năng chống lại một trận vây hãm lâu dài ngay cả đối với một đạo quân đến từ Âu Châu. Các bức tường thành đã bị phá hủy trong thời nội chiến nhưng về sau đã được xây dựng lại theo một kiểu tốt hơn trước.
Sau khi Lê Văn Duyệt chết, chức tổng trấn Gia Định Thành bị bãi bỏ, Gia Định Thành cũng không còn tên và bị phân chia thành 6 tỉnh; trấn Phiên An, gọi là tỉnh Phiên An; thành Bát quái đổi gọi là thành Phiên An: kể từ nay triều đình kiểm soát trực tiếp tất cả các tỉnh mới lập.
Tháng 5 âl năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Phiên An.
Tháng 7 âl năm Ất Mùi (1835) quân triều đình công phá và thu phục lại thành Phiên An. Theo sách Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu thì : "Quân thứ Gia Định thâu phục được thành Phiên An, quân giặc bị bắt sống và bị chém cả thảy 1831 đứa, không còn sót đứa nào; quan binh bị thương 400 người, chết trận hơn 60 người, tù phạm thú đinh bị thương hơn 70, chết trận hơn 20"(18). Tất cả những người bị chém hoặc bị xử tử sau đều bị mang đi chôn tập thể nơi một vị trí gọi là Mả Ngụy ở gần mô súng (gần Ngã Sáu các đường Hiền Vương đầu đường Trần Quốc Toản và đường Lê Văn Duyệt tức khu Quân Vụ Thị Trấn Sài Gòn và cư xá Chí Hòa trước ngày 30-04-1975).
Tháng 10 âl năm Bính Thân, niên hiệu Minh Mạng thứ 17 (1836), SQTCBTY viết: "Đắp lại thành Gia Định tại thôn Hòa Mỹ thuộc huyện Bình Dương. Khi ấy giặc Khôi đã bình, bộ nghĩ rằng thành cũ cao rộng quá, nên giảm bớt cho hiệp thể chế. Ngài sắc cho bộ ban thể thức ra và tư đòi binh dân 4 tỉnh Định, Biên, Long, Tường, cả thảy 10 ngàn người tới đắp. Trong hai tháng thành đắp xong". (19) Tức là Minh Mạng phá bỏ thành Quy của Gia Long và xây một thành mới nằm trên lãnh vực thôn Hòa Mỹ tức là nằm ở góc đông bắc thành Quy cũ vì cho rằng trước đây Lê Văn Duyệt đã củng cố thêm thành Quy nhằm mục đích phòng chống triều đình bằng cách xây cao thêm bờ thành 1 thước 5 tấc bằng gạch.(20) Thành tỉnh Gia Định do Minh Mạng xây cất có chu vi 429 trượng (1960m), cao 10 thước 3 tấc (4m70), hào rộng 11 trượng 4 thước (52m07), sâu 7 thước (3m19), có 4 cửa ở địa phận thôn Nghĩa Hòa huyện Bình Dương.(21)
Trên bản đồ thành phố Sài Gòn ngày nay thành Gia Định của Minh Mạng thường được gọi là thành Phụng xây cất nằm ở góc đông bắc của thành cũ (thành Quy của Gia Long) tức là nằm trong chu vi của 4 con đường: Nguyễn Du là mặt trước, Nguyễn Đình Chiểu là mặt sau, Nguyễn Bỉnh Khiêm là mặt bên trái, Mạc Đỉnh Chi là ở bên phía tay mặt. Thành Phụng (1836) mặt trước nhìn ra đường Cường Để-Bến Bạch Đằng; mặt sau nhìn ra đường Đinh Tiên Hoàng; mặt trái và phải đều hướng ra đường Hồng Thập Tự (Chasseloup Laubat).
Cuối tháng 1 d.l năm 1859, De Genouilly chỉ để khoảng 120 binh sĩ dưới sự chỉ huy của hạm trưởng Toyon ở lại giữ Đà Nẵng và kéo toàn bộ quân binh khoảng 2200 người và 13 tàu chiến trực chỉ về hướng Gia Định. Đoàn tàu chiến đến Vũng Tàu vào buổi sáng ngày 10 tháng 2 d.l năm 1859 và bắn phá ngay 2 đồn canh trên bờ. Ngày 11 tháng 2 d.l, đoàn tàu đi vào cửa biển Cần Giờ, phóng pháo hạm Plégéton bắn hạ đồn canh cửa biển rồi tất cả thận trọng tiến vào sông Tân Bình (tức sông Sài Gòn ngày nay). Từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 2.dl, tất cả các đồn canh hai bên bờ sông đều lần lượt bị bắn hạ. Trong khoảng thời gian nầy tu sĩ người Pháp là Lefèbvre trốn thoát và được tàu chiến Pháp cứu vớt. Những tin tức về hệ thống phòng thủ của quân binh triều đình Đại Nam do Lefèbvre cung cấp đã giúp cho đoàn tàu xâm lược có thể tự tin và tiến tới một cách táo bạo hơn. Buổi chiều ngày 16 tháng 2 d.l năm 1859, tàu chiến liên quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho đổ bộ lên bờ đánh chiếm đồn Hữu Bình Pháo (còn gọi là đồn Vàm Cỏ hay đồn Giao Khẩu ngày nay ở vào khoảng cửa con kinh Tân Thuận, quận Nhà Bè, đối diện với đồn nầy là Tả Bình pháo hay đồn Cá Trê ở phía Thủ Thiêm ngày nay) rồi tiến thẳng vào sông Tân Bình (nay là sông Sài Gòn) dàn trận bao vây thành Gia Định từ rạch Thị Nghè tới đầu con kinh Hoa Kiều (nơi có cột cờ Thủ Ngự và Nhà Rồng ngày nay).
Thành Gia Định được Minh Mạng xây cất lại từ năm 1837, được bao bọc, ở phía Đông bằng một hình cong bán nguyệt tạo bởi con sông Tân Bình (sông Sài Gòn); ở phía Bắc và Tây Bắc bởi con kinh Thị Nghè, ở phía Nam là Kinh Hoa Kiều mà thời đó gọi là Rạch Bình Dương và vàm Bến Nghé đổ ra sông Tân Bình.Tất cả sông rạch vừa kể không những tạo thành một hệ thống giao thông liên lạc thuận lợi và là một cấu kết hào lũy phòng thủ của thành Gia Định. Cách đầu kinh Hoa Kiều về phía Nam khoảng 2 cây số là đồn pháo thủ Giao Khẩu và đồn Cá Trê (tức là 2 tiền đồn nầy cách xa thành Gia Định khoảng gần 4 cây số).
Vua Minh Mạng
Chỉ dựa vào sông rạch thiên nhiên để bảo vệ thành Gia Định là là một chiến lược phòng thủ yếu kém và thiếu sót. Tiền đồn chỉ có hai đồn pháo thủ kém trang bị để giữ mặt tấn công từ cửa biển Cần Giờ. Cửa vào 2 con kinh Hoa Kiều và Thị Nghè không được bố phòng kiểm soát; trong thành không có súng đại pháo tầm bắn xa hơn 1,500 mét để nhắm vào các mục tiêu đậu trải dài trong vòng cung bán nguyệt của con sông Tân Bình (sông Sài Gòn).
Những khẩu súng lớn của triều đình Đại Nam đều là những khẩu súng bằng đồng lỗi thời do người Pháp đưa sang trước đây vào thời Gia Long hoặc những kiểu súng bằng đồng, hay bằng gan do thợ đúc nội địa làm ra rất thô sơ, kém kỹ thuật. Các loại súng đại pháo phòng thủ vịnh biển Đà Nẵng trước đây rất nhiều, vượt trội rất xa số lượng súng đại pháo trong thành Gia Định.
Với vị trí của thành như thế, người ta không thể nào chỉ huy hoặc điều động tiếp cứu các pháo đồn ở mặt phía Đông Sài Gòn và các pháo đồn gần biển.
Sử cũ không viết rõ pháo đồn nào trên sông Sài Gòn bị bắn hạ đầu tiên, tuy nhiên nếu nhìn trên bản đồ của Trần Văn Học thì có thể suy định rằng tiền đồn Cá Trê ở phía Thủ Thiêm (Tả Bình pháo) bị bắn hạ ngay từ khi đồn nầy mở loạt súng đầu tiên nhắm vào đoàn tàu xâm lược trên sông Sài Gòn. Pháo đồn Giao Khẩu (Hữu Binh pháo) ở Tân Thuận có thể được trang bị đầy đủ hơn cho nên đã tạm thời chận đứng đước sức tiến của đoàn tàu xâm lược.
Ngày hôm sau (17 tháng tháng 2 d.l năm 1859) liên quân xâm lược đổ bộ lên bờ và tiến chiếm đồn Hữu Bình và triệt hạ phá bỏ đồn Tả Bình. Đồn Hữu Bình được liên quân Pháp-Y Pha Nho dùng làm cứ điểm cho các tàu chiến và là điểm xuất quân trên bộ để tiến vào Sài Gòn. Đại pháo của quân triều đình pháo kích đồn Hữu Bình nhưng không được kết quả gì lại bị đại pháo tầm xa của quân xâm lược phản pháo cho nên không bao lâu mà tiếng súng từ phía thành Gia Định bắn ra chậm lần rồi ngừng hẳn. Cả vùng phía Đông Nam của con kinh Hoa Kiều (ngày nay là Xóm Chiếu) dưới quyền kiểm soát của liên quân Pháp-Y Pha Nho. Cánh quân của liên quân ở mặt Đông Nam gồm có đội công binh, 2 đại đội lính thủy, một đại đội lính yểm trợ Y Pha Nho và một tiểu đoàn quân trừ bị. Một cánh quân Y Pha Nho cùng với 2 đại đội quân lính và khẩu đội phóng pháo nòng ngắn (howitzer) dưới quyền chỉ huy của đại tá Y Pha Nho Lazarote tiến sát đến bờ thành Gia Định. Ngay loạt súng tấn công chiếm thành đầu tiên của quân xâm lược, quân triều đình trong thành Gia Định đã bỏ chạy, quân xâm lược vượt tường thành mà không gặp một sức kháng cự nào khiến cho họ phải ngạc nhiên.
Cánh quân xâm lược ở phía Bắc gặp sức kháng cự dũng mãnh của hằng ngàn quân triều đình. Đại tá Lazarote phải đưa quân tăng viện. Vào khoảng giữa trưa ngày 17 tháng 2 năm 1859, thành Gia Định hoàn toàn bị quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho chiếm cứ, hạm trưởng người Pháp Jauréguiberry được cử làm chỉ huy trưởng trấn thủ thành Gia Định. Đề đốc Trần Trí, bố chánh Vũ Thực, lãnh binh Tôn Thất Năng lui quân về đồn Tây Thái, đốc thần Vũ Duy Ninh, án sát Lê Từ tự sát. Quân xâm lược tịch thâu được hơn 2200 khẩu đại pháo, một thuyền buồm, 8 thuyền chiến nhỏ đậu trong ụ, 20,000 vũ khí đủ loại gồm có, gươm, giáo, súng trường, súng cầm tay, 85,000 ki lô thuốc nổ, rất nhiều quân nhu quân dụng, hàng khối kho chứa đầy gạo và nhiều cây vàng, bạc trị giá 130,000 quan tiền Pháp.
(còn tiếp)
Cước chú:
(1): Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí, bản dịch 1998; NXB Giáo Dục; trang 176.
(2): Đại Nam Nhất Thống Chí; Lục tỉnh Nam Việt; Tập thượng: Biên Hoà-Gia Định; phụ chép Thiên lý cù; trang 87; Sài Gòn; tái bản 1973.
(3): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 176.
(4): Đại Nam Nhất Thống Chí; sđd; trang 87.
(5): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 176
(6): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 74,75
(7): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 86: Trấn Phiên An
(8): Trịnh Hoài Đức; sđd; trang 87 và 88
(9): THĐ; sđd; trang 77
(10): THĐ; sđd; trang 87
(11): THĐ; sđd; trang 86
(12): THĐ; sđd; trang 127
(13): THĐ, sđd; trang 35
(14): QTCBTY; trang 29
(15): La geste française en Indochine, G.Taboulet, tập I, trang 243 đến trang 251
(16): A Voyage To Cochin China ; by John White, Lieutenant in The United State Navy; Chap. XIV; pp.220 to 227; London printed for Longman; Hurts, Rees, Orm, Brown, ang Green, Paternoster-Row. 1824
(17): John White; Chapter XV, pp 233-238
(18): SQTCBTY; bản dịch 1928, trang 203
(19): SQTCBTY; sđd; trang 212
(20): ĐNNTC; bản dịch: Lục tỉnh Nam Việt; tập thượng Biên Hòa-Gia Định; trang 67; Văn Hóa Tùng Thư, Sài Gòn 1959
(21): ĐNNTC; sđd; trang 55-56
|
|
|
Sài Gòn
May 8, 2010 19:24:33 GMT -5
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:24:33 GMT -5
Sơ Lược Về Thành Phố Sài Gòn Từ Năm 1795 Đến 2004 (tiếp theo) Khi tàu chiến Pháp-Y Pha Nho vào đến Vũng Tàu thì triều đình chỉ ra lệnh cho quyền đề đốc Gia Định Trần Trí đem 150 binh sĩ đến đóng ở cửa biển Cần Giờ. Cách phối trí các lực lượng tăng viện và phòng thủ như vừa kể trên cho thấy trình độ yếu kém về mặt quân sự quốc phòng của chính quyền Đại Nam cả hai mặt chiến lược và chiến thuật. Về mặt chiến lược, bờ biển Vũng Tàu và nhất là cửa biển Cần Giờ cùng với con sông Lòng Tàu là những vị trí tối quan trọng từ lâu đời cho tới nay: tất cả những cuộc xâm nhập của quân Tây Sơn từ hướng Bắc trên biển Đông vào đánh phá Gia Định đều đi qua các địa điểm chiến lược nầy. Tổ tiên của Tự Đức đã từng trải qua nhiều kinh nghiệm xương máu về các vị thế chiến lược đó vậy mà cho đến nay Tự Đức cũng chưa nhìn thấy được tầm mức quan trọng của cửa biển Cần Giờ và con sông Lòng Tàu đối với sự sống còn của thành phố Sài Gòn vào thời đó hay sao? Cửa biển Cần Giờ chỉ được án ngữ với 150 lính thủy. Sử quán triều Nguyễn không cho biết là có thuyền chiến nào của Đại Nam được đưa đến phối trí ở cửa biển Cần Giờ hay không. Như vậy có thể suy định rằng số lượng 150 người nầy là số lính tăng cường cho các đồn pháo thủ Cần Giờ và những đồn rải rác đóng dọc theo hai bờ sông Lòng Tàu vào tới đầu sông Nhà Bè. Các đồn nầy theo sử cũ là bảo Lương Thiện, (Biên Hòa), Phúc Vĩnh, Danh Nghĩa (Gia Định) và bảo Cần Giờ. Bắn phá xong các đồn nầy, quân xâm lược liền cho lính lên bộ chiếm giữ Phù Giang thuộc Biên Hòa. Tuần phủ Biên Hòa là Nguyễn Đức Hoan tăng cường quân đến giữ pháo đài Tả Định (tức đồn Cá Trê ở phía Thủ Thiêm hiện nay. Tàu chiến của quân xâm lược thong dong lướt tiến trên sông Lòng Tàu như đang đi dạo chơi săn bắn, rồi vào sông Nhà Bè, hạ các pháo đồn Tả Định, Tam Kỳ, Bình Khánh, Phú Mỹ, Hữu Bình tức là nguyên một vòng cung của con sông Sài Gòn ngày nay từ ngả ba con kinh Tẻ ở Tân Thuận Đông, qua khỏi đầu rạch Thị Nghè đến bến đò Phú Mỹ ở Bình Khánh đều ở dưới quyền kiểm soát của đoàn tàu chiến xâm lược tức là thành Phụng Gia Định bị bao vây ở 3 hướng Đông (mặt sông Sài Gòn hiện nay), Đông-Nam (dọc theo con kinh Hoa Kiều/ Arroyo Chinois hiện nay) và hướng Bắc (dọc theo rạch Thị Nghè/ Arroyo de l' Avalanche hiện nay) và quan quân trong thành chỉ còn một hướng Tây duy nhất để chạy thoát thân. Quan binh của triều đình nhát sợ bỏ đồn lũy, thành quách trốn chạy đến mức Tự Đức phải ra dụ chỉ trấn an và kêu gọi dân chúng tổ chức dân quân để cùng hiệp lực với triều đình chống quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho: "Vua dụ cho quan binh sĩ phu Nam Kỳ rằng: quân của Tây Dương đã vào Đà Nẵng, lại đến Gia Định, Biên Hòa. Phàm sĩ phu nước ta, không ai là không nổi giận. Nhưng vì thái bình đã lâu ngày không khỏi có kẻ nghe gió thổi chim kêu cũng sợ hão. Bọn đốc, phủ, bố, án các ngươi nên trấn tĩnh, chớ để cho dân kinh động. Nếu người nào có lòng nghĩa dũng muốn tòng quân, thì cho lập đoàn luyện tập hương dõng để tự giữ lấy làng, cho việc phòng bị được nghiêm nhặt." Vua Tự Đức Từ lời dụ nầy người ta thấy được thái độ khinh thường nông cạn của Tự Đức về sức mạnh quân sự của đoàn quân xâm lược Âu Châu khi cho rằng lực lượng quân sự của họ chỉ là gió thổi, chim kêu. Là tổng tư lệnh tối cao của quân lực, nhưng Tự Đức lại chối bỏ trách nhiệm của mình và đổ trút hết tội lỗi cho đám quần thần lơ láo, thủ cựu, chậm tiến: "Vua cho là lần nầy người Tây Dương sinh sự. Những nơi bờ biển nên phòng bị, đã nhiều lần dụ các địa phương phải phòng bị cho nghiêm. Mà nay Biên Hòa, Gia Định còn sơ phòng đến nỗi thành Gia Định không giữ được." [22] Quân Pháp Tấn Công Thành Gia Định Về mặt chiến thuật, các chỉ huy quân sự của triều đình Đại Nam luôn luôn ngồi chờ đối phương tới đánh cho tan nát rồi mới tìm cách phòng thủ hoặc bao vây đối phương trở lại chứ không chủ động tấn công toàn diện. Tình trạng nầy chính là vì tổ chức quân đội ấu trĩ lỗi thời kèm theo nhóm võ tướng nhát gan không dám tự quyết hành động, luôn luôn ngồi chờ chỉ thị của trung ương: tàu chiến của đối phương di chuyển trên sông nhưng quan binh của triều đình cứ ngồi đợi ở trên bờ để rồi phải chịu hứng đạn pháo kích dũng mãnh từ các tàu của đối phương bắn vào mà không thấy có một ghe chiến hay thuyền chiến nào của triều đình lướt sông ra đón đánh. Ngày trước, các dũng tướng kể cả em gái của vua Gia Long thường đích thân đứng trước mũi thuyền chiến đế đón đánh đoàn thuyền chiến của quân Tây Sơn từ cửa biển Cần Giờ và trên sông Lòng Tàu-Nhà Bè chứ không ngồi chờ quân Tây Sơn vào tới sông Sài Gòn rồi mới rút lui bỏ chạy. Không thấy có tướng tá nào của Tự Đức giống như các tướng tá của thời Gia Long trong những thời điểm chống giữ thành Gia Định. Người Pháp đã chiếm được thành Gia Định nhưng lại thấy thành nầy quá rộng lớn và với số lượng quân binh xâm lược ít ỏi hiện tại thì họ khó có thể đồn trú và cố thủ về lâu về dài: Với chu vi của thành khoảng 1,900 mét thì phải có ít nhất từ 2 đến 4 binh sĩ cách khoảng nhau 1 mét để phòng thủ tức là phải có tối thiểu gần 4,000 người để chống trả những đợt tấn kích của quân triều đình từ bên ngoài vòng thành. Vì thế, vào ngày 8/3/1859, De Genouilly quyết định phá hủy thành Phụng, đốt phá hết công thự kho tàng: Những nhà kho chứa thóc đủ nuôi sống cho gần 10,000 quân lính đã bị quân xâm lược thiêu đốt thành than tro vì sợ lọt vào tay quân triều đình rồi rút hết quân về phòng thủ đồn Hữu Bình (Dưới gầm cầu Tân Thuận hiện nay). Để giảm áp lực bao vây của quân triều đình, quân Pháp tiến chiếm đồn Cây Mai (chùa Cây Mai) và một số chùa khác trong vùng Chợ Lớn để làm bộ chỉ huy và cứ điểm rồi tung quân tiến chiếm thành Phụng đã bị đổ nát. Đại tá Jauréguyberry được lệnh xây đắp một đồn trại mới trên nền cũ của thành Phụng. Bên trong đồn gồm có nhà thương quân đội (tức nhà thương Đồn Đất), kho quân nhu và sau đó xây cất thêm một nhà nguyện đạo Gia tô (hoàn tất vào ngày 15/8 d.l/1860). Tôn Thất Hiệp liền rút quân về hướng Thuận Kiều xây đắp một đồn lũy ở làng Chí Hòa cách thành Gia Định 5 cây số và cách đồn Cây Mai khoảng 4 cây số. Cách đồn chí Hòa khoảng 400 mét lại xây thêm đồn Tả và đồn Hữu và chỉ áp dụng chiến lược bao vây và gây rối cho quân Pháp, không quyết liệt tấn công tiêu diệt trong khi quân Pháp ở Sài Gòn chưa tới được con số 1,000. Triều đình Huế cử Nguyễn Tri Phương và Tôn Thất Cáp thay thế Tôn Thất Hiệp để thống lãnh mặt trận chống Pháp trong Nam Kỳ. Nguyễn Tri Phương tập trung mọi nổ lực xây dựng chiến lũy phòng thủ Kỳ Hoà để bao vây và không cho quân xâm lược Pháp lấn áp thêm nữa. Lực lượng quân triều đình dưới quyền của Nguyễn Tri Phương ở đồn kỳ Hòa và dân quân lên đến 30 ngàn lại thêm khoảng 15 ngàn quân trừ bị ở Biên Hòa sẵn sàng tiếp ứng. Quân Pháp sau khi được tăng viện thì gồm có khoảng 5 ngàn binh sĩ và rất nhiều tàu chiến dưới quyền thống lãnh chỉ huy của đô đốc Charner. Ngày 02 d.l năm 1861, soái hạm Impératrice-Eugénie của Charner thả neo trên sông Sài Gòn (sông Tân Bình). Cánh đồng mồ mả (Đồng Mả Ngụy/ Plaine des tombeaux) được Charner chọn để dùng làm nơi đóng quân, đi thanh sát hai vị trí đang đóng quân của liên quân Pháp-Y Pha Nho ở chùa Phúc Kiến và trại Ô Ma rồi tăng cường thêm trọng pháo cho hai vị trí nầy. Ở chùa Cây Mai và miếu Barbet cũng được tăng cường trọng pháo. Đặt 2 khẩu đại pháo nòng 125 ly có tằm bắn xa 6 cây số tại vị trí miếu Barbet để công phá vách lũy đồn Chí Hòa. Ngày 16 tháng 2 d.l/ 1861, Charner rời soái hạm để đến đặt hành dinh tại trại binh Đồn Đất (xây đắp trên vị trí của thành Phụng cũ). Đặt một chiến lũy trọng pháo ở hướng Tây Bắc đồn Cây Mai xa tằm trọng pháo từ đồn Chí Hòa bắn ra. Ngày 19 tháng 2 d.l /1861, đại pháo 125 ly từ các tàu chiến và các trọng pháo nòng 90 ly trên đất liền từ miếu Barbet đồng loạt pháo kích và đồn Chí Hòa để gây xáo động quân binh trong đồn Chí Hòa đồng thời đội tàu chiến của đô đốc Page cũng được lệnh tuần tiểu từ sông Sài Gòn lên đến Thủ Dầu Một; các tàu chiến Renommée, Forbin, Monge, Avalanche, Sham Rock, Lily và tàu sắt phóng pháo số 31 xâm nhập rạch Đá Hàng (tức Rạch Gò Vấp ngày nay); tàu phóng pháo số 18 và tàu tuần sát Espérance tiến theo lòng rạch Thị Nghè để đánh sập cầu số 2 (tức cầu Bông Đa Kao ngày nay); tàu phóng pháo số 16 và tàu tuần sát Jajaréo án ngữ trên kinh Hoa Kiều; tàu phóng pháo số 27 và tàu tuần sát Saint-Joseph và một toán bộ binh từ cửa sông Xoài Rạp, vào Rạch Cần Giuộc để tới đóng chốt trên rạch Bà Hôm: tàu phóng pháo số 16 được dùng làm trạm liên lạc giữa 2 tàu nầy với hành dinh trung ương và đồn Cây Mai. Buổi sáng ngày 24 tháng 2 d.l năm 1861, Charner ra lệnh tấn công: phòng tuyến phía Tây của đồn Chí Hòa sát với đồn Cây Mai bị vỡ; rạng sáng ngày 25, quân xâm lược đã tiến quân trên đường Trên (la Route Haute: ngày nay là đường Frère Louis/ Võ Tánh: đoạn đường từ ngã Sáu Sài Gòn, Công trường Phù Đổng đến đường Nancy). Đội pháo binh dàn trận ngoài đồng trống ở chùa Cây Mai. Đoàn quân thuộc nhiều binh chủng và quân Y Pha Nho đồng loạt tiến công với sự yểm trợ của đội công binh chiến đấu do phó thuyền trưởng Pallu de la Barrière chỉ huy cùng với 600 dân công người Hoa và 100 trâu bò. Tất cả trọng pháo từ 3 vị trí chùa Cây Mai, chùa Phước Kiển và miếu Barbet đồng loạt pháo kích vào đồn Chí Hòa.. Trọng pháo từ đồn Chí Hòa bắn trả mãnh liệt nhưng không gây được thiệt hại nào đáng kể cho đoàn quân xâm lược. Dưới sự yểm trợ của pháo binh, khi còn cách bờ vách đất của đồn Chí Hoà khoảng 500 mét, đoàn quân xâm lược lập thành 2 đội hình xung kích theo thế gọng kiềm. Quân triều đình trong đồn bắn trả mãnh liệt; tướng Vassoigne, đại tá Balanca, chuẩn úy Lesèble, đại úy Joly tất cả đều bị trọng thương khiến Charner phải đích thân đảm nhận trách nhiệm chỉ huy trực tiếp ngoài mặt trận, ra lệnh dùng bao đựng đất để che đạn và bít các lỗ châu mai, tiến quân sát bờ vách đồn Chí Hoà rồi truyền lệnh xung phong nhảy vào đồn đánh cận chiến với quân của triều đình. Lần lần quân đồn trú phải vừa chống trả, vừa rút lui dưới lằn đạn dũng mãnh của đoàn quân xâm lược. Sau hai giờ chiến đấu đồn Chí Hòa lọt vào tay quân Pháp-Y Pha Nho. Nguyễn Tri Phương trúng đạn bị thương; Nguyễn Duy, Tôn Thất Trĩ tử trận, binh sĩ chết và bị thương rất nhiều, quan quân triều đình phải rút về đồn Thuận Kiều. Về phía quân xâm lược thì có 6 tử trận và 30 bị thương được đưa về đồn Cây Mai rồi chuyển sang bệnh viện Chợ Quán. Quân xâm lược tịch thu được 150 khẩu đại pháo, 2,000 súng trường, đạn dược, 20 tấn chất nổ, giáo mát, bản đồ...Trong khi đó thì tất cả các đồn bót dọc theo thượng nguồn sông Sài Gòn đều bị hạm đội của đô đốc Page triệt hạ. Ngày 28 tháng 2 d.l/ 1861, sau khi củng cố đồn Chí Hòa, quân Pháp-Y Pha Nho lại liên tục tiến đánh 3 đồn phòng thủ ở Thuận Kiều, quân triều đình chống trả mãnh liệt nhưng cuối cùng phải bỏ đồn rút quân về đóng ở tỉnh Biên Hòa. Khoảng 300 quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho trọng thương bị loại ra khỏi vòng chiến và 12 tử trận, trong số tử trận có đại tá bộ binh Testard. Quân triều đình có 300 người bị tử trận. Trong trận nầy, quân xâm lược tịch thâu được nhiều vũ khí, và 1,400 tấn gạo. Vào buổi trưa cùng ngày (25/2 d.l/1861), quân của triều đình bị truy đuổi về hướng Hốc Môn, Rạch Tra và Tây Thủy. Vào buổi chiều, đồn Tây Thủy và các vùng phụ cận bị mất. Ngày 15-04-1861 quân Pháp chiếm Định Tường, rồi đến Biên Hoà bị mất ngày 07-01-1862, Vĩnh Long thất thủ ngày 23-03-1862. Sau khi quân xâm lược Pháp-Y Pha Nho đánh hạ đại đồn Kỳ Hòa làm chủ cả vùng Sài Gòn và Bến Nghé và mở rộng vùng chiếm đóng của ra 3 tỉnh miền Đông Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long thì vùng Bến Nghé và Sài Gòn cũ (tức Chợ Lớn) trở thành trung tâm cai trị, kinh tế đầu tiên của người Âu Châu trên bán đảo Ấn-Hoa (Indo-Chine) mà người Pháp là chủ nhân ông. Tháng 10 năm 1861, Charner về Pháp. Bonard sang thay thế, đến Bến Nghé ngày 24 tháng 11 1961. Đô đốc Charner Thời đô đốc Bonard (1861-1863), thành phố Bến Nghé mà người Pháp gọi là Saigon Ville đã mang hẳn một bộ mặt Âu Châu. Họ bắt đầu xây dựng một khu hành chánh ở gần gò cao Đồn Đất (tức là gần vị trí cũ thành Phụng Gia Định đã bị họ tàn phá tan nát và sau nầy họ xây dựng nhà thương quân đội Pháp Hôpital Grall mà trước 30-04-1975 người Sài Gòn gọi là Nhà Thương Đồn Đất) làm lỵ sở cai trị cho thành phố Sài Gòn lúc nầy bao gồm cả 2 vùng Bến Nghé và Sài Gòn cũ xung quanh có rào, bên trong đặt các kiến trúc sơ khởi bằng gỗ như dinh thống đốc, các sở hành chánh quản trị, nhà bưu điện, nhà thương. Phía sau khu hành chánh quản trị nầy là trại lính và phía trước gần mé bờ sông Bến Nghé (tức Bến Bạch Đằng sông Sài Gòn trước 30-04-1975) là những kho quân nhu và quân dụng của đoàn tàu chiến Pháp (trước 30-04-1975 là Bộ chỉ huy Hải Quân và cư xá Hải quân của Việt Nam Cộng Hòa). Ở cạnh đầu rạch Thị-Nghè giáp với sông Sài Gòn, nơi gọi là "Chu Sư" hay xưởng đóng tàu, thuyền của nhà Nguyễn ở thành Gia Định ngày trước, vào năm 1864 người Pháp cũng cho xây dựng một xưởng sửa chữa tàu thuyền mà người Sài Gòn sau nầy gọi là xưởng Ba Son-Arsenal với một ụ tàu có cửa đập ngăn nước và tháo nước cùng với những trại bằng gỗ có mái lợp để làm xưởng đúc, xưởng tiện, xưởng hàn, xưởng rèn, xưởng mộc v.v…Kích thước của ụ tàu Ba Son vào năm 1855 là: dài 91.44m, rộng 28.65m, sâu 12.80m; khánh thành ngày 15-08-1865 (theo tập chí Xưa & Nay số tháng 9 năm 1997). Bến cảng Saigon năm 1870 Bến nhà rồng Saigon năm 1872 Tuy nhiên theo một trung úy hải pháo người Pháp có tên là P.C Richard thì vào khởi đầu năm 1866 của thành phố Sài Gòn và các vùng phụ cận thì ụ tàu Ba Son dài 62m, rộng 24m dùng để sửa chữa và bảo trì các loại phóng pháo hạm nhỏ và các loại tàu nhỏ mà thôi.(Tập san Revue Maritime et Coloniale; Tập 18, số phát hành tháng 09-12 năm 1866 trang 535).
|
|
|
Sài Gòn
May 8, 2010 19:25:14 GMT -5
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:25:14 GMT -5
Thành phố Sài Gòn và các vùng phụ cận vào khởi đầu năm 1866 đã được P.C. Richard mô tả như sau: “Kể từ lúc quân đội vinh quang của chúng ta (quân đội Pháp) đã chinh phục được một phần đất ở Nam Kỳ Hạ thì ở bên Pháp người ta đã bận tâm nhiều về phần đất Á Châu nầy vốn đã bị bỏ quên từ trước đến nay. Tuy nhiên, mặc dù đã có rất nhiều tài liệu đã được phổ biến nói về đất nước nầy, vậy mà thành phố Sài Gòn, thủ đô của vùng đất đó lại ít có người biết tới và không được mô tả một cách đầy đủ. Chúng tôi không có tham vọng lấp đầy một lổ hỏng, nhưng ít ra chúng tôi sẽ cũng nói lên đôi lời trưóc tiên về thành phố nầy và tiếp theo là những vùng phụ cận của nó. Thủ đô của Nam Kỳ Hạ thuộc Pháp tọa lạc trên một nhánh của con sông Đồng Nai, gọi là nhánh sông Sài Gòn, ở vào đầu hướng Bắc-Đông Bắc của một vùng lãnh thổ rộng lớn nhiều sông rạch, đồng bằng mênh mông, khá cao hơn mặt biển và bị xén cắt bởi nhiều nhánh của các con song Đồng Nai, sông Soài Rạp và sông Cao Miên (tức nhánh sông Cửu Long đi vào Nam Kỳ) cùng với nhiều kinh rạch (lạch nước) xuyên suốt khắp các phương hướng để cho các nguồn thủy triều lên xuống mỗi ngày hai lần mang nước vào tận các vùng đất xa xôi trong nội địa. Thành phố nầy hoàn toàn nằm trên bờ hữu ngạn của con sông và bờ phía trái của con kinh Hoa Kiều, cách xa biển Đông 100 cây số ngàn. Thành phố được bảo vệ trên mặt thủy lộ bởi một đồn lũy có tên gọi là đồn Nam và phòng chống mặt phía Bắc bởi một thành lũy, sát cạnh với một cánh đồng, được xây dựng vào năm 1821 bởi các kỷ sư người Pháp. Vị trí quân sự nầy rất thuận lợi cho việc phòng giữ; nó được xây cất trên theo một hình bốn cạnh, mặt phía đông hướng ra phía sông, mặt phía nam hướng ra kinh Hoa Kiều, mặt phía bắc hướng ra kinh Thị Nghè và mặt phía tây huớng về phía một con con kinh khác nối đầu hợp lưu hai con kinh vừa kể. Thành phố giống như được bao che trong một nắm tay co cong lại. Nó có thể bị tấn công từ mặt sông nước nhưng lại giao thông ra biển được với con song dài 25 dậm, khúc khuỷu, rất dễ phòng ngự bằng tàu, thuyền chiến và nếu chúng được phối trí đúng chỗ và được trang bị vũ khí công phá tuyệt vời của chúng ta thì có thể bất chấp đối với bất cứ hạm đội tàu chiến nào. Ở vào vị trí nằm giữa nước Ấn Độ về một phía còn phía kia là các nước Trung Hoa và Nhật Bản cho nên tầm quan trọng về mặt quân sự và chiến lược thì thành phố nầy không thể nào có thành phố nào khác có thể suy bì được. Những người ngoại quốc biết rõ như thế; cho nên ngày nay họ còn gọi một cách không đố kỵ thành phố nầy là thành phố Singapour của người Pháp. Phía trước mặt thành phố là các hạm đội tàu chiến thả neo chung quanh tàu chiến Duperré hai tầng mang cờ soái hạm chỉ huy của phó đề đốc thống đốc và tư lệnh quân sự. Về phía dưới hơn một chút, khoảng nằm giữa kinh Hoa Kiều và đồn Nam là khu vực thương cảng với những chiếc tàu buôn Âu châu thanh lịch cặp bến chung lộn với những loại ghe chài của người An Nam, người Miên và người Hoa được tô vẽ các hình rồng tuyệt vời, tạo cho thương cảng một cảnh trí hết sức ngoạn mục. Không có gì kỳ thú hơn khi nhìn thấy các ghe thuyền của đại quan triều đình An Nam thỉnh thoảng đến đây để bái kiến quan Tổng đốc và trong các dịp như thế họ phô trương tất cả mọi thanh thế cao trọng giàu sang của mình. Thật là vui thích được ngắm nhìn gươm giáo sáng choang, khiêng mộc, cờ lông công, dấu hiệu của một thượng quan triều đình. Rất vui thú khi được nhìn thấy ghe thuyền của các sắc dân mà mới ngày nào đây họ đã đánh trả chúng ta nhưng nay thì lại đến đây một cách hòa bình và khiêm tốn để chịu nhượng bộ nghiêng mình dưới bóng cờ của chúng ta. Thỉnh thoảng có tiếng trống nghiêm trọng nổi lên tạo cho mỗi cuộc diễn hành trên sông một nét uy vệ mà tôi không biết cách nào để mô tả cho bằng được. Đây chính là một thành phố nổi thực sự; các bến cảng được viền bờ và vụng nước bến cảng thì bị cắt ngang dọc bởi ghe thuyền và xuồng nhỏ; những loại xuồng nhỏ nầy làm bằng những thân cây đã được người An Nam khoét đục rỗng ruột giống như ngày xưa người dân Gaulois khoét đục những thân cây sồi to lớn từ những khu rừng đẹp để làm ghe thuyền của họ. Những chiếc ghe độc mộc nổi bồng bềnh trên mặt nước có một hình dạng độc đáo; khoảng giữa lòng ghe là một cái chòi lợp lá dừa nước, bên trong chứa đủ thứ vật dụng nhà bếp của người An Nam: bởi vì người lái ghe An Nam, sinh ra, sống, đau khổ và chết chung với chiếc ghe của họ. Mũi ghe và đuôi ghe uốn cong cao lên, đó là các vị trí để 2 người lái ghe đứng chèo mặt hướng về phía trước, thường là phụ nữ. Nhũng chiếc ghe khá hơn, loại ghe buồm chẳng hạn, với những cánh buồm bằng chiếu đệm thô sơ làm bang lá dừa hay than cây cói. Trong những chiếc ghe loại nầy, họ sống chen chúc bò lết như đoàn kiến đông đảo vì không có nơi nào khác để cư ngụ. Trong những khu vực sinh sống của người dân An Nam, đa số ở xa trung tâm thành phố, thì dân cư đông đảo chật ních. Trai gái trong khoảng từ 12- 14 tuổi sống chung lộn ở nơi bùn lầy hay chạy rong vất vưởng bụi đời ngoài đường. Những kẻ trước đây đã xâm lăng chinh phục Sài Gòn nhất định sẽ không còn nhận biết được phố thị nghèo nàn của người dân An Nam thuở xưa. Tại nơi chốn mà họ bỏ lại những căn chòi lụp sụp giàn dựng trên cácvùng bùn lầy nước đọng hôi hám thì nay là những căn nhà xinh đẹp, với những con lộ khang trang bao quanh đầy bóng mát cho khách nhàn du suốt ngày khi mà các hàng cây xinh đẹp được trồng đã mọc đủ cao để che ánh nắng. Những căn chòi lá ghê tởm vây quanh bờ hửu ngạn của con sông và phía tả ngạn của con kinh Hoa Kiều mà mỗi khi đi ngang qua người ta sẽ cảm thấy khó chịu nôn ói vì mùi hôi nặc nồng của nước mắm, thì nay tất cả đã biến mất nhường chỗ để xây đắp một con lộ xinh đẹp bến cảng có tên là Napoléon, rộng 50 thước, chia thành những lối đi trải cát với những bồn hoa và cây trồng. Những kho hàng ngay ngắn của thương nhân người Pháp chúng ta tạo thêm khung cảnh thú vị cho cuộc du ngoạn bên cạnh một cột cao được giới thương mại Sài gòn dựng lên như là một kỷ niệm trong số những cơ sở hành chánh cai trị khởi đầu của người Pháp. Phía bên kia rạch Hoa Kiều những chiếc tàu buôn to lớn của công ty hàng hải Messageries Impériales tạo thành một khu vực xinh đẹp nhưng khốn thay chỉ có thể giao lưu qua lại với thành phố bằng ghe thuyền mà thôi Ghi chú thêm: Tức là vào thời buổi nầy chưa có cầu bắt ngang qua con kinh Hoa Kiều. Kinh rạch ngang dọc khắp nơi trong thành phố và tạo thuận lợi cho sự chuyển vận thương mại. Những chiếc ghe chài di chuyển lên xuống trên các con kinh rạch nầy mang hàng hóa đến tận các kho chứa hàng ở bến cảng. Ghi chú thêm: Ghe chài là một loại ghe rất lớn dùng để chở hàng hóa đặc biệt là gạo lúa, không có chèo, chỉ được kéo đi bằng các tàu ca nô nhỏ có gắn động cơ chân vịt. Khi ghe không có chở hàng hóa, muốn di chuyển ghe một khoảng ngắn trên sông, người ta phải cho ghe di chuyển sát bờ sông rồi dùng sào tre dài cắm xuống đáy bùn, dùng sức người đẫy cây sào cho ghe di chuyển. Người đẩy cây sào từ đầu ghe bước chậm dọc theo hai bên bờ ghe, lui đến sau bánh lái thì rút sào lên, đi nhanh trở lại phía đầu ghe rồi lại phóng sào tre cắm xuống đáy bùn để tiếp tục đẫy tiếp; cũng có thêm một người tài công ngồi trên mui ghe để lèo lái cho chiếc ghe lướt thẳng trên mặt sông. Những con đường lớn, nhỏ, những cầu cống cho tới lúc nầy không thấy có trên đất Nam kỳ hạ để dùng cho các loại xe cơ động quân sự, xe ngựa thồ và các loại xe khác có thể chuyển hành một cách dễ dàng, và ngay cả vào lúc gần đây, người ta chỉ có thể đi bộ mà thôi, băng ngang qua các vũng ao tù lầy lội ngập tới đầu gối." [23] Cũng theo P.C Richard thì trong vùng Sài Gòn vào lúc nầy các tượng đài Phật giáo có giá trị lịch sử ở trung tâm thành phố đã bị người Pháp tàn phá cùng chung số phận với các di tích cổ xưa giá trị khác của người dân An Nam ở khắp nơi để nhường chỗ cho các dinh thự và cơ ngơi đặc biệt của người Pháp. Nhà thờ Gia Tô Giáo nhỏ bé chật hẹp đầu tiên được xây dựng cho người Pháp và người Âu Châu: tín hữu người bản xứ An Nam chỉ được đứng vòng ngoài để xem lễ ăn ké ngày Chúa Nhật. Dinh thống đốc vẫn còn khiêm tốn, đang chờ đợi một cơ dinh khác xứng đáng hơn. Một nhà in ấn hoàng gia Pháp gần dinh thống đốc chưa xuất bản được một tài liệu nào đáng kể. Dinh hành chánh nội vụ đã xây cất xong và đang được xử dụng. Một dinh thự đặc biệt khác dùng để giam nhốt tù nhân người An Nam cũng đã xây xong, nhất định là không bao giờ bị bỏ trống không người ở. Công xưởng pháo binh của bộ hải quân và thuộc địa đang xây cất trên một vùng đất đằm lầy nhiều ao rạch đã được lắp đầy bằng đất nện cứng. Một con kinh dài hai đầu ăn thông với con sông (Sài Gòn) thuận lợi cho việc chuyển vận vật liệu và súng đạn cần yếu cho hạm đội thuyền chiến của Pháp trên các mặt biển Trung Hoa, Nhật Bản và Nam Kỳ Hạ. Doanh trại pháo binh bây giờ khang trang hơn doanh trại pháo binh hải quân Pháp đặt trên vị trí trường thi ngày trước của thành cũ Gia Định. Cư xá sĩ quan cao cấp ở vào một trong các vị trí thoáng đãng nhất ở Sài Gòn. Các cơ sở hải quân Pháp chiếm một khu quan trọng có chu vi 1,250 mét nằm gần bờ sông Sài Gòn và kinh Avalanche (kinh Thị Nghè). Một ụ tàu 72m x 24m dùng để sửa chữa bảo trì tàu, thuyền loại nhỏ cũng đã được xây dựng. Đã có vườn bách thảo cùng chung với sở thú chỉ cách với các cơ sở hải quân bằng một con đường và nằm sát bờ kinh Thị Nghè trong đó bắt đầu có cây lạ, thú hiếm tứ phương gửi đến. Trường trung học của dòng Thừa Sai truyền đạo Gia tô được xây cất theo kiến trúc Hy Lạp nhưng lại trang trí theo kiểu Á đông, hiện có khá nhiều con em của người An Nam theo học. Kế cạnh chung lẫn với trường học của dòng Thừa Sai là Pháp quốc học hiệu Giám mục Bá Đa Lộc đã được xây cất ngay từ khi quân Pháp mới đặt chân lên đất Sài Gòn vào ngày 21 tháng 09 năm 1861 nhằm mục tiều đồng hóa người dân An Nam với người Pháp, khai hóa và tách rời người dân ra khỏi ảnh hưởng của nhóm nho quan cựu học của triều đình, và đào tạo một đoàn ngũ công chức người bản xứ phục vụ cho nước Pháp và chính sách thuộc địa, hạng người công chức hiểu biết phong tục tập quán và luật pháp của nước An Nam. Ngoài ra còn có nhà tu và nhà nguyện của dòng kính Sainte Enfance (sau thường gọi là dòng kính Thérésa hay Nhà Trắng vì các dì phước đội lúp màu trắng) được xây dựng từ năm 1861 bởi các dì phước thuộc dòng tu thánh Phao Lồ (Saint Paul) được nữ hoàng nước Pháp bảo trợ để xây dựng cơ sở nầy với mục đích cứu vớt các trẻ mồ côi vô gia đình vì chiến tranh ở Sài Gòn, Biên Hoà, Bà Rịa, Gò Công..., các trẻ mồ côi được học chữ, dạy nghề chuyên môn, làm ruộng, may vá, thêu thùa; trẻ gái khi lớn lên có thể xin ở lại đời sống tu trì để trở thành dì phước người bản xứ của dòng tu thánh Phao Lồ ở Sài Gòn. Tu viện nầy cũng mở trường tư dạy học tư thục, thâu học phí (trường Saint Paul) và một khu nội trú cho các học sinh con cái (chỉ thâu nhận con gái) của người Pháp với một học phí thấp. Về các vùng ngoại vi thành phố Sài Gòn vào khởi đầu năm 1866 thì trước hết trên bờ phía trái con kinh Hoa Kiều (theo hướng nước chảy từ trong kinh ra sông Sài Gòn), từ miệng kinh đi vào hướng Sài Gòn cũ (tức Chợ Lớn) thì nhà cửa dân cư đông đúc trên các ao đầm lầy lội bao quanh tứ phía; các ô nhà ở dựng cất từ trên bờ lấn ra đến giữa lòng con kinh và thường bị ngập nước khi thủy triều lên cao. Các ô nhà nầy tạo thành 12 làng: Cầu ông Lãnh, Cầu Múi, Cầu Khóm, Cầu Kho, Cầu bà Tim, Cầu Sao, Cầu bà Đô, Cầu Mới, Chợ Quán, Bình Yên, Khánh Hội và Vĩnh Hội; hai làng Khánh Hội và Vĩnh Hội nằm trên vùng đất bờ phía phải của kinh Hoa Kiều. Tất cả làng nầy là làng cũ của người dân An Nam, khi quân xâm lược Pháp đánh phá Sài Gòn, người dân các vùng nầy phải lìa bỏ những làng dó đê chạy trốn rồi sau nầy, khi chiến trận tạm yên, họ quay trở về chốn cũ với chính quyền mới của vùng đất Sài Gòn. Đặc biệt, dân cư vùng Chợ Quán là những người theo đạo Gia Tô, nhà cửa khang trang, đưòng xá tốt hơn so với các làng khác. Làng nầy có một nhà thương dành cho quân đội Pháp và một nhà thờ. Từ phía bờ kinh ở làng Chợ Quán đi thẳng về phía bên trong để hướng đến một vùng ao đầm gọi là khu Ô Ma hay Xóm Miếu vì nơi đây trước kia có 2 ngôi miếu xưa, một gọi là Miếu Công Thần và ngôi kia gọi là Miếu Hội Đồng; cả hai hợp chung gọi là Chùa Hiển Trung và trong chùa nầy có thờ bài vị của một người Pháp đánh thuê cho hoàng đế Gia Long ngày trước có tên là Mạn Hoè cùng chung với nhiều bài vị công thần cũ của nhà Nguyễn. Hai miếu nầy đã bị chiến tranh thiêu hủy hoàn toàn, thật đáng tiếc. Xung quanh khu chùa Ô Ma bây giờ mọc đầy những cây phi lao (thân giống như cây trúc) reo hú xào xạc theo từng cơn gió thổi mạnh, nghe như tiếng la rầy trách móc của các linh hồn hiển linh nay không còn nơi ẩn náu. Phía bắc vùng Xóm Chùa Ô Ma là Cánh Đồng Mồ Mả trong đó có đủ hạng mộ táng xây đắp theo nhiều kiểu mẫu bằng gạch đá hoặc chỉ là những ngôi mộ đất sơ sài. Xuyên ngang cánh đồng mồ mả nầy là 2 con lộ lưu thông khá tiện lợi nhất là dùng cho việc chuyển dịch quân sự từ trại binh lính Pháp ở Sài Gòn Ghi chú thêm: Binh đội Pháp cũng dùng cánh đồng nầy để luyện tập cho nên còn được gọi là Đồng tập trận. Vùng đất cao nằm trong vùng tam giác Sài Gòn-Kinh Thị Nghè-Cánh Đồng Mồ Mả có nhiều làng mạc trong đó có làng Phú Nhuận là lớn hơn hết; làng Cây Da chỉ cách thành Phụng chừng vài trăm mét; làng Đà Nẵng là một làng của giáo dân đạo Gia Tô di cư theo đoàn quân Pháp từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Gần sát làng Đà Nẵng là nghĩa địa riêng của người Pháp. Vùng đất bằng của Sài Gòn có quan cảnh đẹp mắt với những hàng cây cổ thụ chưa bị quân binh chặt đốn, thật dễ chịu khi đi dạo dưới những hàng cây đó nhất là trong những tháng đầu năm. Vào mùa nầy, các vùng xung quanh chùa Barbet, sát liền với thành phố Sài Gòn, là những nơi cảnh trí rất đẹp. Ghi chú thêm của NCT: chùa Barbet là một ngôi chùa cổ trong vùng Sài Gòn, ngày trước gọi là chùa Khải Tường nhưng sau khi liên quân xâm lược Pháp-Tây Ban Nha đánh chiếm và phá hủy thành Phụng thì chùa nầy bị quân Pháp dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan Pháp là đại úy Barbet chiếm đóng, biến chùa nầy thành một trong những cứ điểm quân sự chống cự với quân binh triều đình phát xuất từ đại đồn Kỳ Hòa. Vào cuối tháng 12 năm 1960, trong một cuộc hành quân tuần tỉểu quanh vùng chiếm cứ của mình, Barbet bị lọt vào ổ phục kích của quân triều đình, bị bắn hạ rơi khỏi mình ngựa và bị quân triều đình cắt lấy đầu mang vào đồn Kỳ Hòa. Sau khi đồn Kỳ Hòa bị hạ và vùng Sài Gòn hoàn toàn dưới quyền kiểm soát của người Pháp, Chùa Khải Tường bị đổi tên gọi là chùa Barbet. Chú thích thêm: Chùa nầy có một giá trị lịch sử đặc biệt: trong những ngày chúa Nguyễn Phúc Ánh (tức hoàng đế Gia Long) long đong trôi nổi ở Nam Kỳ Hạ vì sự truy đuổi ráo riết của quân Tây Sơn: một người con trai của Ánh là hoàng tử Nguyễn Phúc Đảng (tức hoàng đế Minh Mạng) đã được sinh hạ tại cư phòng phía sau của ngôi chùa Khải Tường vào năm Tân Hợi (1791). Như thế nghĩa là chùa nầy đã có từ trước năm 1791 và nằm ở địa phận thôn Hoạt Lột, huyện Bình Dương ngày trước tức nằm trong lãnh vực quận 3 Sài Gòn trước ngày 30-04-1975. Trên bản đồ thành phố Sài Gòn của người Pháp vào năm 1897 thấy xuất hiện tên đường Barbet (trước 30-4-1975 gọi là đường Lê Quý Đôn) bắt đầu từ đường Chasseloup Laubat (đường Hồng Thập Tự), chạy dọc bên cạnh trường trung học Chasseloup Laubat (trường trung học Lê Quý Đôn trước 30-4-1975) lên đến đường Richaud (trước 30-4-1975 là đường Phan Đình Phùng) thuộc quận 3 Sài Gòn. Như vậy, có thể suy định rằng chùa Khải Tường/ Barbet ngày xưa nằm nơi một khu đất có con đường ngắn Barbet (Lê Quý Đôn) chạy ngang qua. Phải chăng khu nầy chính là khoảnh đất hình vuông nằm ngay phía sau trường trung học Lê Quý Đôn và bao quanh bởi 4 con đường Trần Quý Cáp-Lê Quý Đôn-Phan Đình Phùng-Công Lý (trước 30-4-1975)? Gần đây có sách cho rằng chùa nầy nằm ở số nhà 28 đường Trần Quý Cáp-Sài Gòn và sách vở trong nước cũng theo sự suy đoán như thế kể từ sau năm 1975 nhưng chưa trưng dẫn ra được một chứng cớ cụ thể chính xác nào. Tiến bước ngang qua chiếc cầu số 1 trên con kinh Thị Nghè thì tới làng Phú Mĩ và sẽ là điểm khởi đầu đi trên con đường dẫn đến tỉnh Biên Hòa; tiếp tục đi trên bờ phía trái của con kinh nầy thì sẽ đến vùng ruộng vườn phì nhiêu Gò Vấp trồng rau cải hoa quả cung cấp cho khắp vùng Sài Gòn, các vườn trồng dâu nuôi tầm, bông vải và các điền trại trồng cây thuốc lá được người dân bản xứ chăm sóc, tưới bón rất cần cù. Chú thích thêm: Thuốc Rê Gò Vấp là một đặc sản của miền Nam Việt Nam. Đây là một loại thuốc lá nguyên chất được xấy khô rồi những lá thuốc được xếp chồng lên nhau, cuộn tròn lại để cắt thành từng bánh dầy khoảng 3cm hoặc 4cm giống như khoanh miếng bánh bông lan và gói lại trong lá chuối phơi khô để đem đi bán. Có thể là khi mua về, trước khi muốn sử dụng, người ta phải dùng tay xé nhỏ bánh thuốc cho rời ra giống như một ổ bông gòn rồi dùng tay để vấn thuốc hút cho nên người miền nam gọi là rê thuốc. Có thể rê thuốc hút với một loại giấy đặc biệt gọi là giấy quyến (tissue paper), loại giấy nầy được bán từng tờ khổ lớn, người mua mang về phải tự tay cắt thành từng dây giấy nhỏ có chiều ngang tương đương với chiều cao của điếu thuốc tân thời ngày nay. Các dây giấy nhỏ được cuộn tròn lại để tiêu dùng từ từ; mỗi lần rê thuốc, người hút thuốc xé một miếng giấy từ cuộn giấy nhỏ, rứt một nhúm thuốc Gò Vấp đặt lên miếng giấy huyến, dùng tay để rê (cuộn tròn) thành điếu thuốc, dùng lưỡi thấm nước miếng để dán dính bìa giấy điếu thuốc rồi châm lửa để hút: một cục than cháy đỏ, một cây củi chụm lò hoặc một đóm nhang đèn đều có thể được dùng để mồi lửa cho điếu thuốc rê. Đa số người dân ăn trầu của miền Nam Việt Nam đều kèm thêm thói quen xỉa thuốc và loại thuốc xỉa ưu chọn chính là thuốc rê Gò Vấp: người ăn trầu rứt một nhúm thuốc Gò Vấp, rê thành một viên tròn nhỏ, dùng 2 hoặc 3 ngón tay kẹp cứng viên thuốc rê để chà xát hai hàm răng qua lại đôi ba lần đang lúc nhai trầu, rồi ngậm giữ viên thuốc rê lại trong miệng trong khi vẫn tiếp tục nhai trầu. Cục thuốc xỉa sẽ được phế thải cùng một lúc với bã trầu cau vào ống nhổ (crachoir/ Spittoon). Quanh khắp điền trại cây thuốc lá, nhiều bầy trâu cày, sừng nhọn cong vút, đang nhơi cỏ, bộ dạng hung tợn và kêu rống giận dữ và sẵn sàng dùng cặp sừng nhọn để “chém” (người miền Nam thường gọi hành động tấn công của con vật nầy là trâu chém) khi nhìn thấy bóng dáng của của người lạ hoặc ngoại quốc xuất hiện mặc dù lúc bình thường chúng rất hiền hòa và ngoan ngoản vâng phục đối với các đứa trẻ chăn trâu người bản xứ. Cách xa Sài Gòn khoảng vài cây số là ngôi lăng mộ đẹp mắt của giáo sĩ giám mục người Pháp Bá Đa Lộc, viên thái sư đặc biệt của hoàng đế Gia Long từ lúc còn lận đận lao đao cho đến lúc Gia Long trở thành người chủ hoàn toàn vùng đất Nam Kỳ Hạ và kinh thành Huế. Giáo sĩ nầy qua đời vào năm 1799, không kịp nhìn thấy được kỳ công của hoàng đế Gia Long tiêu diệt hoàn toàn quân Tây Sơn vào năm 1802 và thống nhất đất nước từ Gia Định ra đến Hà Nội Chú thích thêm: Lăng mộ nầy là một di tích lịch sử đặc biệt tọa lạc ở cuối đường Trương Minh Giảng, gần cổng trại Phi Long của binh chủng không quân trong phi trường Tân Sơn Nhứt trước 30-4-1975 thường được gọi là Lăng Cha Cả. Ngày nay di tích nầy đã biến mất để chính quyền hiện tại sử dụng mặt bằng. Chợ Lớn là tên gọi thông thường cho thành phố người Hoa mà vào thời điểm nầy chu vi rộng lớn của nó được xem như là vòng biên của thành phố Sài Gòn. Với dân cư khoảng 50,000 người. Ngày trước, thành phố nầy không được chính quyền quan tâm đến nhưng nay thì đã có Hội đồng thành phố và cơ quan Hành chánh riêng Chú thích thêm: người miền Nam thường gọi hai cơ quan nầy là Tòa Thị xã và Tòa Hành chánh hay Tòa Bố. Chợ Lớn giao thông với Sài Gòn bằng 3 lộ trình chính: kinh Hoa Kiều, đường bến Kinh Hoa Kiều (tức bến Hàm Tử trước 30-4-1975) và đại lộ Chasseloup Laubat (đường Hồng Thập Tự trước 30-4-1975). Trước đây một vài năm, thành phố nầy vẫn còn là một vùng bùn lầy nước đọng, đường xá chật hẹp, hôi hám, nhưng vào lúc nầy thì ở đây là một thành phố mới mẻ về thương mại nhưng vẫn giữ một sắc thái hoàn toàn của người Hoa chính gốc với thói ăn nết ở và sinh hoạt cộng đồng theo dấu ấn của người Á đông : đường phố hầu hết được mở rộng thêm và viền bờ, tường nhà quét vôi trắng hay sơn phết, nóc lợp ngói đỏ, đả có một số nhà lầu nhiều tầng, tất cả đều được trang hoàng vẽ vời với các hình ảnh khác nhau, màu mè sặc sỡ ăn khớp với những chiếc lồng đèn Trung Quốc, băng vải khẩu hiệu, chuỗi hoa, và các bản thương hiệu viết bằng chữ Hoa (chữ Hán) sơn son thếp vàng với trúc cành hoa lá. Nét Á Đông nổi bật qua những chùa chiềng trong thành phố với những tượng thần linh hiển, các hình vẽ ma quỷ ghê rợn, những lời di huấn của thánh hiền, với những tượng phật to lớn mắt nhắm nghiềng với đôi gò má phín đầy nét từ bi, hiện thân mẫu mực của phương Đông. Hầu hết các chùa chiềng nầy như bị bỏ hoang phế và trở thành những nơi hang ổ của các loài dơi quạ lớn xác nhưng không hung tợn ác hại như loài dơi ma trơi hút máu. Trong số các di tích kiến trúc đền miếu, chùa chiềng ở Chợ Lớn, phải kể đến Chùa Lớn “Kwang-chiu Way quan”(1), tôn thờ một vị thần linh chuyên phù hộ cho những người giang hồ vượt biển tránh mọi hiểm nguy sóng gió và bảo táp trên mặt biển. Khi nói về chùa nầy thì không chỉ nói về những tiệc tùng lễ hội được tổ chức tại nơi đây hoặc những trụ cột chạm trổ, nhưng điều nên chú tâm là cách trang trí lạ lùng bên trong chùa với vô số hình, tượng kỳ bí, những bài di huấn thếp vàng, trần chùa mang những hình vẽ khung cảnh vẽ theo lối tranh tường, các rìm cột, các hình chạm nổi, tất cả đều đáng được nghiên cứu tìm hiểu, nhất là ý nghĩa những cảnh trí bên ngoài và bên trên nóc chùa được kết tạo bằng ngói và loại sành sứ tráng men đầy màu sắc để tạo thành những hình tượng sông, núi, cỏ cây, hoa lá, bướm sâu, chim chóc, lâu đài, chùa miếu, dị nhân, những cảnh trí ngồi, đứng hội họp ăn uống, những trận chiến trên bộ hay chiến đấu trên mình ngựa; những hình ảnh ma quỷ, rắn rồng, hung thú quái dị, tất cả những điều mà người Âu Châu thông minh nhất cũng không thể nào tưởng tưọng được; những hình tượng quỷ ma với đầu minh xấu xí, tứ chi dị dạng được kết diễn một cách kỳ quái, lồng vào những tư thế riêng biệt. Tất cả những mẫu mực kiến trúc Trung Quốc lạ lùng nầy xứng đáng là những đề mục nghiên cứu về nhiều mặt cho những nhà khảo cổ học có khả năng. Chú thích thêm: tức đền thờ Bà Thiên Hậu, hiện nay vẫn còn tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, Quận 5, Chợ Lớn, là một trong những ngôi chùa cổ nhất của người Hoa tại thành phố nầy. Gọi là "chùa" nhưng đúng ra đây là ngôi đền. Tuy nhiên tên chùa Bà hay là miếu Thiên Hậu đã trở thành tên phổ thông. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí bản dịch 1973-Sài Gòn, nơi trang 89 có ghi lại: "Sài Côn thị (chợ Sài Gòn) tức là Chợ Lớn ngày nay. Cách huyện Bình Dương 12 dặm, ở phía tả và phía hữu đường quan lộ. Nơi chợ có đường thông ra tứ phía đi liên lạc như hình chữ "điền", nhà cửa phố xá liên tiếp thềm mái cùng nhau, người Hán, người Thổ ở chung lộ dài độ 3 dặm, đủ cả hàng hóa trăm thức, ở bên sông Nam và Bắc không thiếu món gì, đầu phía Bắc đường lớn có đền Quan Công, quán Tam Hội, xây cất đối nhau phía tả và phía hữu. Phía Tây đường lớn có chùa Thiên Hậu, ghé Tây có Ôn Lăng Hội Quán... Theo sách Đại Thanh nhất thống chí của Trung Quốc, bà là một thần biển, con gái thứ sáu của Lâm Nguyện, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, nguyên là cô gái dệt lụa sinh vào ngày 23 tháng 3 âm lịch. Tương truyền Lâm Tức Mặc khi sinh ra có hương thơm ngào ngạt, hào quang rực rỡ, lớn lên có phép màu cưỡi chiếu bay trên biển. Từ tuổi hoa niên bà đã phát hiện ra một thứ rong biển dùng nấu thạch làm thức ăn cứu đói cho dân, và còn tìm ra một thứ dầu ăn gọi là ma mộc rút từ cây thuộc họ vừng giúp dân nghèo qua những trận đói kéo dài... Ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch bà không bệnh tật, tự nhiên qua đời. Theo thánh phả bà hoá vào một ngày có quần tiên tấu nhạc. Bốn chữ "Bạch nhật phi thăng" khắc ở cỗ kiệu trong đền của bà nói lên điều đó. Sau khi hóa, ngài thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển. Thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh thường hiển linh cứu hộ thuyền bè. Thời Khang Hy phong làm Thiên Phi, sau gia phong Thiên Hậu. Người Phúc Kiến tôn bà là Thần Biển nên di cư đến đâu mang thần tích lập đền thờ đến đó. Cho nên ta không lấy làm lạ, dọc bờ biển Việt Nam có nhiều nơi lập đền thờ Thiên Hậu. Nhiều kẻ ăn mày bệnh tật xin ăn trước cổng chùa Bà Thiên Hậu cho thấy là phố thị Chợ Lớn vẫn chưa có được một bệnh viện. Còn một điều kỳ lạ khác không thể không nói tới trong phố thị nầy: đó là một giếng nước danh tiếng gọi là Giếng nước Giám mục Bá Đa Lộc mà theo tác giả Richard trong bài Saigon et ses Environs au Commencement de 1866 là do người ta đào ngay giữa lòng một con rạch và nước giếng nầy được ghe thuyền khắp nơi đến múc nước ngọt để chở đi bán khắp vùng dân cư phía tây nam Sài Gòn và có khi mang xuống đến tỉnh Mỹ Tho. Giếng nước nầy giống như một cù lao nhỏ viền cỏ xanh nổi lềnh bềnh trên mặt nước của con rạch. Giếng nước lúc nào cũng có ghe thuyền bao quanh để lấy nước ngọt cung cấp cho cư dân các vùng đầm lầy không có nước trong ngọt để uống. Ghi chú thêm: Học giả Pétrus Trương Vĩnh Ký trong bài Souvenirs Historiques sur Saigon et ses Environs, ấn bản Sài Gòn 1885 có viết về giếng nước Bá Đa Lộc như sau: “L’Arroyo sur lequel on trouve un beau pont avant d’arriver à l’usine, avait reçu le nom de Rạch-bà-tịnh qu’ il conserve encore à présent. Il pénètre dans l’intérieur jusqu’au grand tamarinier de la route haute. Un peu plus loin, on trouve le puits dit puits d’ Adran qui se trouvait d’autrefois sur la rive, mais l’action de l’eau du Vịnh-bà-thuông l’a détaché du rivage, de sorte qu’il est bien avant dans l’arroyo. Sur cette rive étaient établis les décortiqueurs de riz.” Tạm dịch: “Trước khi tời nhà máy xay lúa là một con rạch trên có chiếc cầu còn tốt có tên gọi là Rạch Bà Tiệm mà đến nay tên đó vẫn còn giữ. Con rạch nầy lấn sâu vào phía bên trong đất liền đến gốc cây me cổ thụ ở đường Trên (tức đường Nguyễn Trãi trước 30-04-1975). Xa hơn một chút là một giếng nước Adran ngày xưa nằm trên bờ rạch nhưng về sau bị tác động bồi lở của vịnh bà Thuông cho nên giếng nầy bị tách rời ra khỏi bờ đến mức độ cách xa về phía truớc trên mặt nước con rạch. Trên bờ con rạch nầy có những chòi xay lúa giã gạo của cư dân ở đây”. Giếng d’ Adran nầy không được đề cập tới trong sách ĐNNTC của sử quán nhà Nguyễn. Tuy nhiên có một giếng khác mà sử cũ gọi là Giếng An Điềm ở địa phận thôn An điềm huyện Bình Dương. Tại nơi đây cò một gò đất cao chỉ vừa chỗ một cái bọng giếng nước mà thôi. Bốn phía nước sông vừa đục vừa mặn bao quanh giếng nhưng nước bên trong lòng giếng lại là nước ngọt, dân cư xa gần và ghe thuyền qua lại đều tụ tập đến giếng nầy để múc nuớc ngọt tiêu dùng hay chở đem đi bán các nơi; giếng chưa bao giờ khô cạn và còn có một tên khác nữa gọi là An Tỉnh.[24] Câu hỏi đặt ra: Giếng d’ Adran cúa tác giả Richard mô tả vào năm 1866 và của Pétrus Trương Vĩnh Ký mô tả 1885 phải chăng là giếng An Điềm được sử quán triều Nguyễn từ thời Tự Đức ghi chép trong ĐNNTC (biên soạn tứ năm 1865 đến năm 1882 mới xong)? Có giếng Adran hay không? Nếu có thì ai đã đặt tên Adran cho giếng nầy? Rất có thể chữ Adran là do người Pháp nghe lầm từ hai chữ An Điền do người dân bản xứ phát âm một cách nghễnh ngãng cho nên mới viết ra là Adran. Sử sách cũ Việt Nam không bao giờ dùng chữ Adran để gọi giám mục Bá Đa Lộc. Danh xưng đầy đủ bằng tiếng Pháp của giám mục nầy là Mon Seigneur Pigneau de Béhain, l’Évêque d’Adran (Đức ngài Bá Đa Lộc, Giám mục miền Adran /Pháp quốc). Như vậy khi dùng đơn độc chữ Adran thì chỉ có người Pháp mới hiểu chữ Adran là để gọi Giám mục Pigneau de Béhaine chứ người dân An Nam thuở xưa không biết ông Adran là ông nào. Hơn nữa, phải hỏi rằng giám mục Bá Đa Lộc có liên hệ dính liếu gì đến cái giếng đó đến độ phải lấy tên của giám mục nầy để đặt tên cho cái giếng khác thường đó? Hơn nữa, nếu giếng nầy đã có tên là giếng d’Adran từ thời Gia Long thì con cháu Gia Long khi ghi chép vào sử sách không thể nào dám to gan lớn mật mà xóa đi cái tên Adran để thay thế vào bằng hai chữ An Điền. Ngay cả ông Vương Hồng Sểnh khi viết về cái giếng Adran tưởng tượng nầy cũng phải viết lên một câu rằng ”giếng lọt vào giữa Vịnh kế biệt tích luôn.” Tác giả Richard của bài viết Saigon et ses Environs au Commencement de 1866 có thể đã nhìn thấy giếng An Điền nhưng lại tam sao thất bản ghi là giếng Adran; đến thời Pétrus Trương Vĩnh Ký (1885) không biết ông có tận mắt nhìn thấy cái giếng Adran đó hay không nhưng người ta chỉ thấy rằng trong bài viết của mình dưới tựa đề tương tự Souvenirs Historiques sur Saigon et ses Environs, ông cũng tiếp tục ghi chép lại các thông tin của Richard. Tới Sài Gòn Năm Xưa thì Vương Hồng Sểnh vẫn tin rằng giếng Adran có thật nhưng bị trôi dạt hay bị đắm chìm mất tích xuống đáy vịnh nước cho nên ngày nay không còn thấy được nữa. Chúng tôi dứt khoát cho rằng không có giếng d’Adran mà chỉ có giếng An Điền theo sử sách Việt Nam mà thôi. Cước chú: [22]: ĐNTLCB đã dẫn, trang 14 [23]: P.C Richard; Saigon et ses Environs au Commencement de 1866; tập san Revue Maritime et Coloniale; tập 18; Paris 1866; trang 530-533 [24]: ĐNNTC; bản dịch Sài Gòn; Văn Hóa Tùng Thư số 2; 1959; trang 65-66
|
|