|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:49:18 GMT -5
Bài 5- Thủ dâm ở Nam Thủ dâm ở nam giới Cánh đàn ông đều thừa nhận mình đã thủ dâm rất nhiều khi còn thiếu niên, nhưng ít người công nhận vẫn làm việc này khi đã trưởng thành. Thủ dâm như một thú vui khám phá bản thân theo cánh mày râu gần suốt cuộc đời, do đó học cách làm cho nó chỉ có giá trị như trò giải khuây, không ảnh hưởng đến đời sống tình dục là việc đức ông nào cũng nên học. Các chuyên gia tâm sinh lý và các nhà nhân chủng học cho rằng thủ dâm là hình thức tình dục tự nhiên nhất và dễ thực hiện nhất, cho phép khám phá cơ thể của bản thân và đóng vai trò thiết yếu trong việc thay thế hoặc bổ sung cho những quan hệ tình dục ngay cả khi đã trưởng thành. Với đàn ông, hành động thủ dâm giúp khám phá khả năng tình dục của mình trước khi anh ta khám phá những người khác. Không những thế, nó còn đóng vai trò thay thế những cuộc ân ái khi không có bạn tình. Ở lứa tuổi thiếu niên, thủ dâm là hành động chứng tỏ và khẳng định giới tính. Thủ dâm là dùng tay kích thích tuy nhiên cách kích thích cũng rất khác nhau giữa người này và người khác. Thường, họ vuốt ve dương vật . Thủ dâm để làm gì? Đối với con người, hành động thủ dâm có tác dụng làm giảm sự lo lắng và stress vì niềm hứng thú đóng vai trò cơ bản trong việc giữ cân bằng sinh lý. Đây cũng là một trò chơi đưa người chơi thoát khỏi thực tại mà không gây nguy hiểm gì cho anh ta và người khác. Khi lạc vào một thế giới không có thực, con người sẽ tìm được sự cân bằng bản thân, tự giải thoát và tạo cho mình một khu vườn cấm. Đôi khi thủ dâm đóng vai trò thay thế: Khi quan hệ tình dục giữa cặp vợ chồng đã tốt đẹp nhưng một trong hai người vẫn chưa cảm thấy thoả mãn, nhưng không muốn lâm vào cảnh rắc rối khi quan hệ với một người thứ ba. Giải pháp cho tình trạng này là tạo cho mình một thế giới tưởng tượng. Ở đó, người ta tự làm thoả mãn những gì mình thiếu. Cũng có cặp vợ chồng thủ dâm cho nhau để tìm cảm giác mới. Thủ dâm - một cách học làm chủ sự kích động Cách thức thủ dâm của người đàn ông sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống tình dục của anh ta. Chẳng hạn, người nào xiết quá chặt dương vật lúc thủ dâm sẽ khó xuất tinh khi quan hệ. Lúc này, âm hộ người phụ nữ được bôi trơn nhiều, người đàn ông không cảm thấy sự cọ xát mạnh mẽ như khi anh ta tự dùng tay. Vì vậy thủ dâm đòi hỏi phải có nghệ thuật. Để không bị kích thích quá mạnh, cần bắt đầu bằng những động tác chậm. Nếu biết kìm mình và giảm tốc độ khi cần thiết, có thể kéo dài việc này 10-15 phút, thậm chí nửa giờ. Trong khoảng thời gian này, người đàn ông thủ dâm được rèn luyện cơ thể, trí não và các phản xạ, làm quen với trạng thái ngất ngây kéo dài. Sự rèn luyện này sẽ hình thành cho anh ta khả năng làm chủ bản thân. Nếu cứ đợi cho đến khi có bạn tình rồi mới học cách làm chủ, người đàn ông có thể làm bạn tình phật ý (phụ nữ khó mà biết được tiền sử thủ dâm của anh ta). Còn nếu học cách làm chủ một mình, người ta có thể thực hiện bất cứ khi nào muốn và bao nhiêu lần cũng được để đạt mục đích. Nên hay không nên thủ dâm? Một số người cảm thấy tội lỗi khi thủ dâm, như cảm giác ăn trộm. Tuy nhiên, các chuyên gia tình dục học lại cho rằng thủ dâm chỉ nguy hiểm khi người đàn ông từ chối quan hệ tình dục với bạn đời vì đã quá thoả mãn với thủ dâm. Nếu thủ dâm chỉ là những khoảnh khắc đi tìm cuộc sống riêng tư hay tìm sự cân bằng thì không có gì lo ngại. Các chuyên gia này nhất trí rằng, người đàn ông có nhiều cách sống với tình dục của mình. Thủ dâm là một trong những cách đó. Dù hành vi này có thường xuyên xảy ra hay không, được thực hiện do một hay cả hai người, nó cũng làm cho cuộc sống của đàn ông thêm màu sắc. Thủ dâm hay không thủ dâm, sự lựa chọn tuỳ thuộc mỗi người. Một số quan điểm chưa đúng về thủ dâm Thủ dâm gây ra vô sinh Thủ dâm không liên quan gì đến các nguyên nhân gây vô sinh vì thủ dâm cũng là một hoạt động tình dục bình thường như các trường hợp có quan hệ tình dục khác. Khi đó thực hành thủ dâm rất phổ biến trong nam giới mặc dù không có nhiều người chia sẻ với nhau về điều này nên khi rơi vào tình huống vô sinh, những người trong cuộc thường nhớ về các hành vi tình dục của mình khi trẻ và lo lắng rằng thủ dâm trước đó đã gây ra tình trạng vô sinh ở họ. Nhưng thực tế chưa có nghiên cứu nào cho thấy có sự liên quan giữa hai vấn đề này. Thủ dâm có ảnh hưởng đến khả năng sinh tinh trùng Thủ dâm không có ảnh hưởng đến khả năng sinh tinh trùng, vì hàng ngày một lượng tinh trùng nhất định được sinh ra, khi đó tinh trùng không được xuất ra ngoài sẽ được tái hấp thu lại để sinh tinh trùng mới. Việc xuất ra ngoài không ảnh hưởng hay làm mất đi tinh trùng của cơ thể. Thủ dâm làm nẩy sinh tình trạng xuất tinh sớm Thủ dâm không làm nẩy sinh tình trạng xuất tinh sớm. Với những người xuất tinh sớm, liệu pháp tự kích thích và ngừng lại để tăng khả năng kiểm soát thời điểm xuất tinh là một liệu pháp có hiệu quả tốt. Liên quan giữa thủ dâm và xuất tinh ở chỗ người thủ dâm thường mong muốn xuất tinh nhanh vì không ở trong điều kiện phù hợp (sợ người khác biết, mong muốn sớm đạt khoái cảm để chấm dứt hành động đó vì cho rằng thủ dâm là điều không tốt hoặc không nên làm)... nên đã có thể tạo cho bản thân họ thói quen kích thích nhanh để đạt cực khoái mà không chú ý đến việc giữ lâu và đạt được khoái cảm của cả hai người. Tình trạng này sẽ được khắc phục khi người nam suy xét lại hành động của mình và tập kiểm soát khả năng xuất tinh cảm mình
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:49:56 GMT -5
Bài 6- Thủ dâm ở Nữ giới Thủ dâm ở nữ giới Phụ nữ cũng có xu hướng thủ dâm như nam giới. Nhiều bạn gái phát hiện rằng họ có cảm giác dễ chịu khi được kích thích vào bộ phận sinh dục, và nhiều bạn phát hiện cách thủ dâm để đạt cực khoái vào khoảng nửa cuối tuổi vị thành niên. Thủ dâm thường xảy ra ở tuổi dậy thì, ở lứa tuổi này có những thay đổi lớn về tâm-sinh lý, đặc biệt là tâm sinh lý tình dục. Không nên đồng hóa thủ dâm với các thay đổi tính tình hay các hoạt động khác của trẻ vị thành niên. Một con số thống kê đáng tin cậy cho kết quả là hầu hết đàn ông đều đã từng thủ dâm trong đời, còn ở phụ nữ thì vào khoảng từ 10 đến 30% tùy theo tình trạng xã hội, giáo dục và gia đình. Phụ nữ thường thủ dâm bằng cách kích thích âm vật, môi lớn, môi bé và những điểm nhạy cảm khác như núm vú, mặt trong bẹn. Nhìn chung phụ nữ bắt đầu bằng cách chạm vào ngay trên hay dưới âm vật, nhưng khi sự kích thích tăng lên họ có thể chịu đựng các kích thích mạnh hơn ở xung quanh âm vật. Một số phụ nữ có ham muốn tình dục rất cao đến nỗi họ có thể đạt cực khoái đơn giản bằng cách cọ xát núm vú nhưng đây chỉ là số ít trong. Những phụ nữ khác phát hiện rằng họ có thể đạt cực khoái bằng cách ép chặt đùi với nhau. Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu tình dục học đồng ý rằng nếu một phụ nữ có thể đạt cực khoái bằng thủ dâm thì cô ta có thể dễ dàng hơn khi đạt được cực khoái với bạn tình cho dù là đang âu yếm hay giao hợp. Đạt tới cực khoái bằng thủ dâm giúp cho phụ nữ tự tin hơn và thõa mãn trong quan hệ tình dục, tự khám phá những điểm nhạy cảm trên cơ thể. Điều này sẽ giúp bạn gái dễ dàng hơn khi trao đổi với bạn tình về điều mà bạn muốn để đạt được cảm giác dễ chịu nhất. Một số điều cần chú ý khi thực hiện thủ dâm ở nữ là có thể dẫn đến việc rách màng trinh, nhiễm trùng âm đạo và tiền đề cho việc buông thả quan hệ tình dục. Thực sự thủ dâm không làm hao mòn thân xác và suy nhược thần kinh mà chính những người yếu kém về mặt tinh thần, bệnh hoạn, thiếu tự chủ, thiếu sự kiềm chế, thiếu mục đích của cuộc sống và thiếu giải trí để làm dụng thủ dâm như một phương tiện thường xuyên nhằm để trấn an những bức xúc hoặc thỏa mãn những đòi hỏi thân xác chưa đến độ chín muồi. Đạt cực khoái khi thủ dâm ở nữ Thủ dâm không chỉ giúp bạn đạt được khoái cảm, giải toả được tâm lý tình dục mà còn giúp bạn có thêm kinh nghiệm trong quan hệ tình dục. Dưới đây có đề cập đến một số biện pháp thường được áp dụng để đạt được cực khoái trong thủ dâm ở phụ nữ. 1. Ấn định thời gian ít nhất một giờ, hai lần một tuần khi bạn biết bạn sẽ có không gian riêng cho mình và bảo đảm không bị quấy rầy (việc sắp xếp này có thể là phần khó nhất). 2.Tắm sạch sẽ sử dụng sữa tắm bạn yêu thích nhất. Thư giãn thưởng thức khi thoa xà phòng lên khắp cơ thể. Chú ý nhiều đến ngực và bộ phận sinh dục 3.Lau khô nhẹ nhàng cẩn thận và tiếp tục lau khắp cơ thể. 4. Đi vào phòng ngủ, bảo đảm căn phòng ấm cúng là nơi dễ thương. Bật một chút âm nhạc bạn thích. Nằm trên giường và tiếp tục chạm vào khắp cơ thể bất kỳ lúc nào bạn thích. Tất cả các bộ phận cơ thể nên đem lại cảm giác dễ chịu. Hãy tìm chúng, chú ý đến chúng nhận thức sự dễ chịu. 5.Xoa dầu trẻ em vào ngực và cổ tận hưởng cảm giác khoan khoái. 6.Dần đưa tay xuống phần dưới cơ thể thoa phần bụng và sử dụng dầu trẻ em và chạm vào giữa hai chân. Chẳng có gì là đúng hay sai cả. Hãy để bản năng bạn lấn lướt. 7.Trượt ngón tay vào âm đạo. Cố gắng có thể cơ quanh các ngón tay. Rồi thư giãn. Thử nhẹ nhàng banh lỗ âm đạo. Điều này đôi khi tạo nên khoái cảm cho nhiều phụ nữ. 8.Bắt đầu thoa tròn quanh vùng có âm vật. Đừng vội vàng. Khi bạn trở nên chú ý vào bộ phận sinh dục bạn có thể thấy rằng bạn bắt đầu ấn mạnh hơn vào âm vật và hơi thở của bạn nhanh hơn và hay nhất là bạn thực sự bắt đầu thích thú. 9. Đừng lo lắng nếu bạn không đạt được gì hơn trong lần đầu. Miễn là bạn cảm thấy bạn yêu thích thân thể mình và bạn hiểu rõ nó và có những cảm giác dễ chịu. Vậy là tốt. 10. Đừng quên rằng phần kích thích mạnh mẽ nhất của phụ nữ là ở não bộ. Vì thế cũng có thêm kích thích về tinh thần. Cố gắng nghĩ điều gì cuốn hút bạn. Hay trong khi bạn kích thích mình hãy đọc một trong những tiểu thuyết tình ái dành cho phụ nữ. Bạn có thể thậm chí thích xem phim video khiêu gợi. Hay nếu bạn có một máy quay phim trong phòng hay ở nơi nào trong nhà mà bạn cảm thấy thoải mái và không bị ức chế. Bạn có thể thích một máy rung bởi vì nhiều phụ nữ thấy điều này làm tăng cảm giác đáng kể. Nếu bạn không biết kiếm sách băng video hay dụng cụ trợ giúp tình dục xin hãy xem thêm thông tin chi tiết. 11.Mỗi lần bạn bắt đầu xoa cơ thể cố gắng duy trì lâu hơn và làm tăng sự khoái cảm khi đang tìm hiểu về chính cơ thể bạn. Đừng lo sợ nếu đôi khi bạn có cảm giác đang làm điều gì sai trái. Chỉ thở sâu và nói với bạn rằng đây là quyền được yêu và được thưởng thức chính cơ thể phụ nữ, rằng thủ dâm là lành mạnh, tốt và bình thường. 12.Một ngày nọ bạn sẽ thấy sự mơn trớn trở nên thường xuyên hơn và bạn thở mạnh hơn và rằng bạn cảm giác sự thúc giục tuyệt vọng để làm cái bạn đang làm. Thường bạn cảm giác lo lắng một chút về tính dữ dội của việc đang xảy ra nếu bạn chưa bao giờ cảm nhận nó nhưng lại đi cùng với cảm giác sờ mó. Đa số phụ nữ thích đạt cực khoái vài lần trước khi có bạn tình nhưng một khi bạn chọn để thử với người mà mình yêu bảo đảm bạn áp dụng cái mà bạn đã thực tập khi ái ân. Thể hiện cho bạn tình biết bạn thích gì và để người đó giúp bạn để có cảm giác tuyệt vời này. Nếu bạn tuân theo kế hoạch này mà không cần đặt nặng vấn đề thành công bạn sẽ trở nên có kinh nghiệm về tình dục và không nên quá lâu trước khi bạn đạt cực khoái. Sexual Xem hồ sơ Gửi nhắn tin tới Sexual Tìm bài gửi bởi Sexual #28 01-27-2008, 05:35 PM Sexual Member Tham gia ngày: Jan 2008 Bài gửi: 58 Thanks: 0 Thanked 0 Times in 0 Posts -------------------------------------------------------------------------------- Phần IV- Các biện tránh thai Nếu các bạn chưa muốn mang thai, hãy cân nhắc việc sử dụng biện pháp tránh thai để được thoải mái tâm lý, không ảnh hưởng đến tình yêu, không hại đến sức khỏe và tương lai mỗi người. Bạn hãy chọn một biện pháp phù hợp nhất cho mình! Các biện pháp tránh thai có phương tiện hỗ trợ - Bao cao su nam giới - Bao cao su nữ giới - Màng ngăn âm đạo - Mũ cổ tử cung - Vòng tránh thai - Thuốc uống tránh thai - Thuốc tiêm tránh thai - Thuốc cấy tránh thai - Thuốc diệt tinh trùng - Triệt sản Các biện pháp tránh thai tự nhiên - Kiêng giao hợp - Xuất tinh ngoài âm đạo - Tính vòng kinh - Cho con bú vô kinh Nếu bạn chưa rõ về cơ quan sinh dục hai giới, về cơ chế thụ thai, bạn hãy đọc lại phần hệ sinh dục nam và nữ, cơ chế thụ thai, điều đó sẽ giúp bạn hiểu về các biện pháp tránh thai một cách dễ dàng.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:50:32 GMT -5
Bài 1- Bao cao su cho Nam giới Bao cao su nam giới (BCS) là một biện pháp tránh thai hiệu quả và đồng thời cũng là một cách để phái nam thể hiện trách nhiệm của mình! BCS là gì? BCS là một loại bao mỏng, mềm và nhạy cảm làm bằng cao su nhân tạo, được lồng vào dương vật đã cương cứng khi giao hợp để tránh thai. Tác dụng của BCS? BCS hoạt động như là một hàng rào cơ học, không cho tinh trùng vào trong âm đạo và gặp trứng. Tương tự, bao cao su ngăn các vi sinh vật gây bệnh tiếp xúc với vùng da lành của bạn tình. Do đó, ngoài nhiệm vụ tránh thai, BCS còn tránh được một số bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD) bao gồm HIV/AIDS khi quan hệ tình dục bừa bãi hoặc với bạn tình đang có bệnh LTQĐTD. Ngoài ra, BCS được dùng để khám phụ khoa hoặc chất dịch tiết khác khi không có găng tay. Có thể dùng BCS để thổi bong bóng nhằm mục đích tuyên truyền. Hiệu quả của BCS như thế nào? Nếu luôn được sử dụng và sử dụng đúng cách, hiệu quả của BCS vào khoảng 97%. Càng ngày, BCS càng được quảng cáo rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng nên hiện nay, không chỉ có nam giới mà cả phụ nữ cũng đi mua BCS... để khuyến khích hoặc bắt buộc các ông dùng. Người này dùng BCS để tránh thai, người khác lại coi đó là phương tiện để phòng các bệnh LTQĐTD và HIV/AIDS. BCS giúp cánh mày râu được chủ động trong việc tránh thai, không phải phụ thuộc hoàn toàn vào phụ nữ. Điều này cũng khiến cho hai bên nam nữ thêm “đoàn kết” vì phái nữ thích phái nam nhận lấy chút trách nhiệm này. Ưu điểm của BCS? - Rất an toàn, hiệu quả và dễ sử dụng. - Dễ tìm kiếm, giá thành rẻ, không cần đến cơ sở y tế để kê đơn hoặc khám trước khi sử dụng. So với các biện pháp “tránh thai có phương tiện hỗ trợ", BCS là “tự nhiên” nhất. Nó không can thiệp vào hoạt động của cơ thể và không có tác dụng phụ, thậm chí lại còn có thể giúp nhiều bạn nam “dai sức” hơn, thoả mãn bạn tình nhiều hơn. Bạn gái thì được khô ráo, không bị tinh dịch chảy vào âm đạo và làm ướt âm đạo sau khi giao hợp. - Là công cụ đắc lực phòng tránh các bệnh LTQĐTD và HIV/AIDS. - Khắc phục xuất tinh sớm (giúp cho người nam giới kéo dài hơn quá trình giao hợp). Nhược điểm của BCS? - Màng cao su và chất bôi trơn có thể gây ngứa cho một số người. - Phải dùng đúng cách mới có hiệu quả. - Có thể làm gián đoạn việc quan hệ tình dục. - Mỗi BCS chỉ sử dụng một lần, do vậy phải chuẩn bị BCS mới trước mỗi lần quan hệ tình dục. - BCS không phòng tránh được tất cả các bệnh LTQĐTD. Sử dụng bao cao su a. Xé bao cẩn thận, không được dùng răng hoặc vật sắc bén để bao không bị rách. Sau khi lấy bao ra, không được xổ tung ra. b. Nếu bị hẹp bao quy đầu, cần kéo da quy đầu lên. Nếu để lộn chiều của bao, không nên lộn lại, nên sử dụng một bao mới. c. Bóp nhẹ túi khí ở đầu để đuổi khí, xổ nhẹ nhàng bao cho tới sát gốc DV d. Kiểm tra bao còn nguyên vẹn không? Có khoảng không khí trống ở phần đầu (chứa tinh dịch) không? OK, mọi việc đã sẵn sàng e. Sau cuộc chiến, giữ bao sát ở gốc, cần rút lui đúng thời điểm khi DV còn trong trạng thái chiến đấu cứng chắc. f. Trượt nhẹ bao ra. Nhớ: đừng làm đổ và bỏ vào nơi quy định. Một số trục trặc với BCS Trong khi quan hệ tình dục, người nam có thể gặp một số trục trặc ngoài ý muốn với BCS như tuột bao, rách bao… Nguyên nhân của sự cố trên thường là do: quan hệ quá mạnh, BCS đã quá hạn sử dụng, BCS kém chất lượng, trước khi đeo BCS chưa bóp hết khí ra ngoài… Trong trường hợp này, nguy cơ bị lây các bệnh LTQĐTD như lậu, giang mai, sùi mào gà, HIV/AIDS... và nguy cơ có thai ngoài ý muốn có thể xảy ra. Tuột BCS: Cách xử lý là người nữ thót mình lại để rút ngắn âm đạo, cho ngón tay vào xung quanh thành âm hộ để lấy bao ra. Nếu không thành công, bạn đừng ngần ngại mà hãy nhờ bác sĩ giúp đỡ. Khi chọn BCS, cần chọn cỡ vừa với mình, tránh sử dụng loại BCS cỡ lớn dễ gây tuột bao. Rách BCS: Cần ngừng quan hệ tình dục ngay khi nghi ngờ rách BCS, đặc biệt là trước khi xuất tinh thì nguy cơ lây bệnh hoặc có thai ngoài ý muốn cho bạn gái sẽ giảm đi đáng kể Các loại BCS: Ở thị trường Việt Nam có rất nhiều loại BCS, bao gồm những loại sản xuất trong nước, ngoài nước có xuất xứ rõ ràng hoặc không rõ ràng. BCS thông thường, phổ biến có bề mặt trơn láng được sản xuất trong nước như: OK, Trust, Super Trust hoặc ở nước ngoài như: Pleasure, Index v.v... BCS có bề mặt ngoài nhám hơn như: Ausny, Asinny. Mục đích làm tăng thêm sự cọ xát chút ít ở âm đạo BCS có gắn thêm các hòn bi nhựa nhỏ ở chung quanh. Mục đích là làm tăng thêm sự cọ sát ở âm đạo, tuy nhiên trong lúc giao hợp mạnh những hòn bi nhựa này có thể rớt ra và nằm trong âm đạo của người phụ nữ. BCS đắt tiền nhất, mới nhất là loại BCS giống như là "đúc sẵn", đồng nhất là màu trắng trong suốt, dẻo dai. Có hai loại: loại có gai và loại "đúc" như những viên bi tròn. Trên thị trường hiện nay là Magic band, giá khoảng 60.000 đồng, được sản xuất tại Nhật Bản. Vì giá đắt nên nhiều người tiết kiệm, sau khi sử dụng xong, rửa sạch, cất và sử dụng lại. Điều này có thể dẫn đến không đảm bảo sạch sẽ cơ quan sinh dục và dễ lây nhiễm bệnh. BCS có tẩm thêm thuốc Nonoxynol 9, tên thương mại là Durex, chất thuốc này có tác dụng diệt tinh trùng bắn ra ngoài, làm bất hoạt HIV, loại virus gây ra AIDS. Loại BCS này ít gặp trên thị trường. Để việc sử dụng BCS thêm thú vị bạn hãy lựa chọn cho mình một loại BCS thích hợp. Bạn có thể hỏi người bán hàng để chọn BCS có độ dày, màu sắc, mùi vị, kích thước và kiểu dáng như ý. Bạn có thể mua BCS ở đâu? Hiện nay, BCS đã được phép kinh doanh rộng rãi, có thể tìm mua ở: • Các hiệu thuốc tây, các cửa hàng dụng cụ y khoa • Trung tâm dân số/kế hoạch hóa gia đình • Hệ thống các siêu thị • Các máy bán BCS tự động Ngoài ra, BCS còn thường xuyên được cấp phát miễn phí trong các chương trình giáo dục, tuyên truyền về Sức khoẻ sinh sản, Kế hoạch hoá gia đình và phòng chống HIV/AIDS. Có thể tìm kiếm BCS miễn phí ở: • Các phòng tư vấn sức khoẻ cộng đồng • Các góc thân thiện tư vấn sức khoẻ sinh sản vị thành niên Lưu ý: Không nên mua BCS bày bán trên lề đường vì nắng, sức nóng có thể làm hỏng bao cao su mà nhìn ngoài không phát hiện được. Bảo quản BCS như thế nào? - Khi dùng BCS, không dùng thêm dầu ăn để bôi trơn vì dầu này có thể phá huỷ BCS. - Để BCS ở những nơi khô, mát, tránh những nơi ánh nắng trực tiếp chiếu vào hay ở nhiệt độ cao. - Mỗi BCS chỉ sử dụng một lần. - Không dùng BCS nếu vỏ bao đã rách hoặc nếu BCS bị khô, dính hay đổi màu. - Bao cao su có mùi thơm không để bừa bộn, tránh trường hợp bị gián, chuột cắn.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:51:03 GMT -5
Bài 2- Bao cao su cho Nữ Giới Bao cao su nữ giới xuất hiện ở Châu Âu từ năm 1992 và đến nay đã được giới thiệu rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên tại Việt Nam, dụng cụ này mới chỉ được coi là một biện pháp tham khảo và chưa có bán trên thị trường. 1. BCS nữ giới là gì? Là một loại bao được chế tạo bằng nhựa tổng hợp mềm mỏng, trong suốt. Trước khi có quan hệ tình dục, người phụ nữ đặt bao đó vào âm đạo của mình. Bên trong bao có một vòng nhỏ di động, giúp bạn gái dễ cho bao vào âm đạo. Vòng lớn hơn ở bên ngoài giữ không cho bao tuột cả vào trong âm đạo, đồng thời che phủ âm hộ và trùm kín dương vật đến tận gốc khi giao hợp. Bao chỉ dùng một lần. Bao có chất trơn rất ướt, thuận tiện cho sự di chuyển dương vật khi giao hợp, và cũng để có thể đặt vào âm đạo một cách dễ dàng. Tuy vậy, nếu chưa từng sử dụng, bạn nên thử tập trước. Bạn gái có thể đặt bao vào âm đạo ngay trước khi sinh hoạt tình dục hoặc từ vài tiếng trước đó. Cũng như với bao nam giới, người bạn tình có thể đặt bao vào âm đạo bạn nữ trong khúc dạo đầu ái ân. Trong khi giao hợp, bao có thể xê dịch một chút, và một số người cho biết có tiếng kêu sột soạt nho nhỏ. Nếu thấy vậy, bạn đừng ngạc nhiên. Miễn vòng miệng bao ở bên ngoài phủ âm hộ là được. 2. BCS giúp tránh thai như thế nào? BCS nữ được đặt nằm trong âm đạo với một cái vòng trong ôm lấy cổ tử cung và vòng ngoài ôm lấy âm đạo. Điều này giúp BCS không trượt vào trong âm đạo và tạo một lớp bảo vệ bao phủ bên ngoài âm đạo, ngăn không cho tinh trùng tiếp xúc. 3. Hiệu quả của BCS nữ? Cũng giống như BCS dành cho nam giới, nếu được sử dụng thường xuyên và đúng cách, bao cao su nữ có hiệu quả tránh thai khoảng 95 %. 4. Ưu điểm của BCS nữ: - BCS nữ giúp phòng tránh thai và tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm HIV/AIDS. - BCS nữ là một cách giúp người nữ chủ động và chia sẻ trách nhiệm với bạn tình trong việc phòng tránh thai và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. - Hầu hết BCS nữ không gây tác dụng phụ, không gây phản ứng dị ứng. 5. Nhược điểm của BCS nữ - Giá thành còn đắt và chưa phổ biến tại một số nước, trong đó có Việt Nam. - Chỉ sử dụng một lần. - Vòng ở ngoài âm đạo có thể khiến một số phụ nữ cảm thấy không thoải mái. - Trong quá trình giao hợp, bao cao su nữ có thể gây tiếng kêu sột soạt nho nhỏ. Việc sử dụng chất bôi trơn sẽ khắc phục được vấn đề này. - Việc sử dụng BCS nữ phức tạp hơn BCS nam, người phụ nữ có thể gặp khó khăn khi đưa BCS nữ vào hoặc khi tháo ra. 6. Các loại BCS nữ? - Loại bao cao su âm đạo Reality (Reality vaginal condom): Bao cao su này là một ống dài 17cm, được chế tạo bằng chất dẻo polyurethan, có hai vòng mềm ở hai đầu. Dụng cụ được đặt vào âm đạo giống như cách đặt một màng ngăn, vòng ở đầu trong khớp với cổ tử cung, vòng ở đầu ngoài phủ lên các môi của âm hộ, do đó có thể hứng toàn bộ tinh dịch của nam giới phóng ra khi giao hợp, không cho lọt vào đường sinh dục nữ. - Loại bao cao su âm đạo thứ hai (Women's choice female condom) có cấu tạo giống như bao cao su nam kèm theo một que nhựa để đẩy vào, đầu trong dày hơn khớp với đầu trên âm đạo, đầu ngoài là một vòng che phủ lên các môi của âm hộ. - Còn một loại bao cao su dùng cho nữ nữa, có cấu tạo gần giống như cái quần lót bằng latex với một túi nhỏ ở đúng vị trí lỗ âm đạo. Trước khi giao hợp, người phụ nữ đẩy cái túi nhỏ này vào trong âm đạo. Dụng cụ này che phủ được toàn bộ tầng sinh môn và bộ phận sinh dục ngoài của người phụ nữ, do đó có khả năng bảo vệ tránh các bệnh lây theo đường tình dục cao.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:51:32 GMT -5
Bài 3- Màng ngăn âm đạo và mũ cổ tử cung dành cho Nữ Màng ngăn âm đạo là một loại màng chụp hình tròn bằng cao su, có vành ngoài mềm để đưa qua âm đạo và che kín cổ tử cung. Màng ngăn âm đạo có nhiều kích thước nên người phụ nữ cần được đo để chọn đúng cỡ số trước khi mua dùng. Cơ chế tránh thai: Ngăn cản tinh trùng xâm nhập vào tử cung và ống dẫn trứng, nơi tinh trùng có thể gặp trứng, do đó tránh được sự thụ thai. Hiệu quả Màng ngăn âm đạo sẽ đạt hiệu quả tránh thai cao hơn khi sử dụng kết hợp với chất diệt tinh trùng. Tỷ lệ hiệu quả thực tế thay đổi từ 6-18%, những người có kinh nghiệm thành công hơn những người trẻ tuổi. Những thất bại xảy ra là do không sử dụng phương pháp này trong tất cả những lần giao hợp, đặt không đúng cách, dụng cụ không vừa, lệch vị trí trong khi giao hợp (phổ biến khi nữ ở vị trí nằm trên), có lỗ thủng ở màng ngăn và không dùng thuốc diệt tinh trùng bổ sung trong mỗi lần giao hợp tiếp theo. Ưu điểm: Ưu điểm của màng ngăn âm đạo là không ảnh hưởng đến chu kỳ kinh nguyệt, giảm nguy cơ lây nhiễm các bệnh qua đường tình dục. Nó hầu như không gây tác dụng phụ, trừ trường hợp bị dị ứng với bao cao su hay thuốc diệt tinh trùng. Mỗi chiếc có thể dùng trong 2 năm. Nhược điểm: - Lần đầu tiên, màng ngăn cần phải do bác sĩ đặt để đảm bảo che kín cổ tử cung và chèn kín phía sau xương chậu. Tiếp theo phải hướng dẫn người dùng tự đặt và tháo màng ngăn. - Người sử dụng có thể gặp khó khăn khi đưa màng ngăn vào và tháo màng ngăn ra. Một số ít trường hợp màng ngăn có thể bị rách trong khi tháo. - Người phụ nữ có thể cần một cỡ màng ngăn âm đạo khác sau khi sinh. - Màng ngăn âm đạo cần được bảo quản cẩn thận để tránh các lỗ rách. - Nhược điểm chủ yếu của màng ngăn là nó làm tăng tỷ lệ viêm niệu đạo cấp ở một số phụ nữ. Cách dùng: - Trước khi đặt màng ngăn, nên bôi thuốc diệt tinh trùng vào mặt tiếp xúc với cổ tử cung. Có thể đưa màng vào ngay trước khi giao hợp hoặc trước đó ít lâu. - Bóp vành của màng ngăn rồi đưa vào dọc theo thành âm đạo, càng sâu càng đảm bảo che kín cổ tử cung. Tư thế tốt nhất là ngồi xổm, có thể gác một chân lên ghế hay nằm ngửa, giơ 2 chân lên cao. Khi màng đã ở trong âm đạo thì dùng ngón tay điều chỉnh sao cho mép trước của màng nằm sau xương mu. - Để đảm bảo tác dụng tránh thai, chỉ lấy màng ra ít nhất 6 giờ sau khi giao hợp cho tinh trùng chết hết. Nhưng nếu để lâu hơn, khí hư dễ bị hôi và nguy cơ viêm đường tiết niệu sinh dục sẽ cao. Lấy màng ra bằng cách dùng ngón tay móc vào vành cho nó lệch, trượt ra khỏi tử cung, sau đó kéo ra ngoài. - Rửa sạch màng bằng nước ấm và xà phòng, vò nhẹ, lau khô và kiểm tra xem có lỗ thủng nào không. Nên xoa một ít bột tan trước khi cất giữ, để nơi khô ráo. Cũng giống như màng ngăn âm đạo, mũ cổ tử cung cũng được xem là một biện pháp âm đạo giúp tránh thai hiệu quả nếu dùng kết hợp với thuốc diệt tinh trùng. 1. Mũ cổ tử cung là gì? Là một dụng cụ bằng cao su, có hình giống như hình cái mũ, có kích thước nhỏ hơn màng ngăn âm đạo, được đặt sâu vào trong âm đạo người phụ nữ và chụp lấy cổ tử cung. Mũ cổ tử cung có nhiều kích thước khác nhau. 2. Cơ chế tránh thai: Ngăn cản tinh trùng xâm nhập vào tử cung và ống dẫn trứng, nơi tinh trùng có thể gặp trứng, do đó tránh được sự thụ thai. 3. Hiệu quả tránh thai: Hiệu quả tránh thai của mũ cổ tử cung thấp hơn một chút so với màng ngăn âm đạo. Nếu đặt đúng vị trí trên cổ tử cung và dùng kết hợp với chất diệt tinh trùng, tỉ lệ thành công sẽ cao hơn. Theo thống kê, mũ cổ tử cung đạt hiệu quả tránh thai với tỉ lệ 84-91% đối với phụ nữ chưa từng sinh con, và khoảng 68-74% với phụ nữ đã sinh con. 4. Ưu điểm: - Mũ cổ tử cung có thể giữ đến 48h sau khi đưa vào âm đạo, do vậy không làm gián đoạn hoạt động tình dục. - Nếu mũ cổ tử cung vẫn được giữ đúng vị trí trong âm đạo, lần quan hệ tình dục tiếp theo trong vòng 48h không cần dùng thêm chất diệt tinh trùng. - Ít gây viêm niệu đạo hơn so với màng ngăn. - Không ảnh hưởng đến chu kì kinh nguyệt. 5. Nhược điểm: - Lần đầu tiên sử dụng cần có sự hướng dẫn của bác sĩ. - Việc đưa vào, tháo ra phức tạp hơn màng ngăn âm đạo. - Không phòng tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm HIV/AIDS. - Mũ cổ tử cung kém hiệu quả hơn đối với phụ nữ đã sinh. 6. Cách sử dụng: Đặt mũ cổ tử cung: Phụ nữ đặt mũ cổ tử cung cùng với chất diệt tinh trùng vào đúng vị trí trong âm đạo trước khi có quan hệ tình dục. Đổ đầy 1/3 mũ bằng kem hay dung dịch diệt tinh trùng. Bóp vàng mũ giữa ngón cái và ngón trỏ, và để đầu mũ hướng vào lòng bàn tay, trượt nhẹ mũ vào trong cổ tử cung càng xa càng tốt. Sử dụng một ngón tay định vị tử cung, cho có cảm giác như đầu mũi. Ấn vành mũ quanh cổ tử cung cho đến khi nó hoàn toàn phủ kín. Quét ngón tay quanh vành mũ để để chắc chăn là cổ tử cung được che kín. Tháo mũ tử cung: Phụ nữ để mũ đúng vị trí ít nhất là 6 tiếng đồng hồ sau khi đàn ông phóng tinh lần cuối. Không được để mũ quá 48h đồng hồ. Làm như vậy có thể gây ra dấu vết xấu hoặc hoặc có thể làm tăng nguy cơ bị sốc nhiễm độc. Đặt ngón tay vào âm đạo cho đến khi cảm thấy vành mũ. Ấn lên trên vành mũ cho đến khi vết dính vào thành cổ tử cung vỡ ra, sau đó bóc mũ ra khỏi cổ tử cung. Móc ngón tay quanh vành mũ và kéo từ một phía ra khỏi âm đạo. Rửa mũ bằng xà phòng ít xút sau mỗi lần sử dụng. Kiểm tra xem có lỗ hay không bằng cách đổ đầy nước hay giơ lên ánh sáng. Làm khô mũ và bảo quản ở nơi lạnh, tối và sạch sẽ, nếu có thể.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:52:08 GMT -5
Bài 4- Chú ý trước khi sử dụng thuốc tránh thai Thuốc uống tránh thai là biện pháp tránh thai có hiệu quả tránh thai cao và hầu hết các bạn nữ đều có thể sử dụng được. Tuy nhiên, thuốc tránh thai không phòng tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS. Được nghiên cứu từ năm 1920 nhưng mãi đến năm 1960, thuốc tránh thai mới được phép lưu hành trên thế giới. Thuốc được chế tạo trên cơ sở sử dụng nội tiết tố nữ là Estrogen và Progestin. Ngoài tác dụng tránh thai, thuốc còn có một số ưu điểm là: giảm chứng đau bụng kinh, kinh nguyệt đều đặn và nhẹ nhàng hơn do vậy cải thiện tình hình thiếu máu ở phụ nữ, giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và nội mạc tử cung...Tuy nhiên, thuốc tránh thai không phòng tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Các chống chỉ định chủ yếu đối với thuốc uống tránh thai: Những người không được sử dụng thuốc tránh thai: - Rối loạn tắc mạch huyết khối (hoặc có tiền sử) - Tai biến mạch máu não (hoặc có tiền sử ) - Bệnh động mạch vành (hoặc có tiền sử) - Đã xác định hoặc nghi ngờ có u ở vú (hoặc có tiền sử) - Đã xác định hoặc nghi ngờ có u phụ thuộc estrogen (hoặc có tiền sử) - Đang có thai - U gan lành tính hoặc ác tính (hoặc có tiền sử) - Tiền sử bị ứ mật khi có thai Những người không nên dùng thuốc tránh thai: - Đau đầu nặng, nhất là mạch máu hoặc migren - Huyết áp cao với huyết áp tâm trương lúc nghỉ 90 hoặc cao hơn, hoặc huyết áp tâm thu lúc nghỉ 140 hoặc cao hơn trong ba lần khám riêng lẻ trở lên, hoặc có huyết áp tâm trương 140 hoặc cao hơn trong một lần đo thật chính xác. - Bị bệnh tiểu đường. - Bệnh ở túi mật hoạt động - Chức năng gan suy giảm - Bệnh tăng bạch cầu đơn nhân ở thời kỳ cấp tính - Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm (SS) hoặc thiếu máu SS với HbC (SC) - Dự định có phẫu thuật lớn trong 4 tuần tới hoặc có phẫu thuật lớn đòi hỏi bất động. - Bó bột chân hoặc có thương tổn nặng ở cẳng chân - 40 tuổi trở lên có nguy cơ phát triển bệnh tim mạch. - 35 tuổi trở lên đang nghiện thuốc lá nặng (mỗi ngày hút 15 điếu thuốc lá hoặc nhiều hơn) Hiện nay, thuốc uống tránh thai có 3 loại chính: thuốc uống tránh thai phối hợp (loại có 2 hoóc môn), thuốc uống tránh thai đơn thuần (chỉ có một hoóc môn) và thuốc tránh thai khẩn cấp.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:52:48 GMT -5
Bài 5- Thuốc uống tránh thai phối hợp Thuốc uống tránh thai phối hợp là loại thuốc chứa hai thứ hóc môn sinh dục nữ là estrogen và progesteron. Trên thị trường hiện có nhiều nhãn hiệu như Ideal, Choice, New Choice, Rigevidon, Marvelon, Mercilon, Microgynon… được đóng thành vỉ 28 hoặc 21 viên. 1. Cơ chế tránh thai của thuốc: * Ức chế phóng noãn: Hàng tháng, người phụ nữ thường có hiện tượng rụng trứng, khi trứng rụng xuống, gặp tinh trùng, thì sẽ xảy ra sự thụ thai. Ức chế phóng noãn là làm cho trứng không rụng được, khi tinh trùng vào sẽ không gặp được trứng. Do đó sẽ không thụ thai. * Ngăn cản sự làm tổ của trứng: Trứng gặp tinh trùng sẽ di chuyển dần vào buồng tử cung, ở đây niêm mạc tử cung phải ở giai đoạn thích hợp thì trứng mới đậu và làm tổ được. Thuốc sẽ làm cho niêm mạc tử cung không thể đến giai đoạn thích hợp được, do đó trứng sẽ không đậu và không thể làm tổ. * Thuốc làm tăng hoặc giảm nhu động của vòi trứng, nên trứng thụ tinh di chuyển đến buồng tử cung ở thời điểm không phù hợp cho sự làm tổ - quá trễ hoặc quá sớm - sẽ làm ngăn cản sự làm tổ. * Ngăn cản sự di chuyển của tinh trùng vào tử cung: Do làm cho cổ tử cung không mở, niêm dịch cổ tử cung ít đi, độ dính giảm nên không tạo điều kiện thuận lợi cho tinh trùng xâm nhập vào cổ tử cung. 2. Hiệu quả của thuốc tránh thai phối hợp? Thuốc có hiệu quả rất cao, khoảng 99%, đảm bảo an toàn, lại giúp hai bạn yên tâm khi sinh hoạt tình dục. 3. Ưu điểm Thuốc có tác dụng tích cực là hình thành cho bạn chu kỳ kinh nguyệt đều đặn, giảm lượng máu kinh, bớt nguy cơ thiếu máu, giảm mụn trứng cá, giảm đau bụng, đau lưng trước và trong khi hành kinh. Một số nghiên cứu còn cho thấy thuốc làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng trong trường hợp chưa có u xuất hiện. Người sử dụng thuốc tránh thai phối hợp có thể chủ động khi muốn tránh thai hoặc ngừng thuốc khi muốn có con. Khả năng có thai sẽ quay lại ngay sau khi ngừng thuốc. Thuốc thích hợp với các cặp vợ chồng trẻ, mới sử dụng biện pháp tránh thai lần đầu hoặc chưa muốn có con ngay. Thuốc cũng phù hợp với các cặp vợ chồng muốn giãn khoảng cách sinh. 4. Nhược điểm: - Phải nhớ uống thuốc hàng ngày - Thuốc không có tác dụng phòng tránh các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm HIV/AIDS. Tác dụng phụ: Khi bắt đầu sử dụng, cơ thể phải làm quen với thuốc, do đó một số người có thể gặp tác dụng phụ như rong huyết, buồn nôn, căng vú, đau đầu, tăng cân nhẹ, vô kinh, thay đổi tâm trạng, trứng cá. Song, số này ít, và thường trong vòng ba tháng sau khi cơ thể quen thuốc, các tác dụng phụ biến mất. Không phải tất cả phụ nữ đều sử dụng được thuốc tránh thai phối hợp. Đối với những trường hợp sau, thuốc tránh thai bị chống chỉ định: - Các trường hợp ung thư, đặc biệt là ung thư vú, ung thư cổ tử cung. - Các khối u lành tính ở vú và tử cung. - Có tiền sử tắc nghẽn mạch, phồng tĩnh mạch, viêm tắc tĩnh mạch. - Các bệnh về máu, rối loạn đông máu. - Các bệnh về tim mạch, cao huyết áp. - Các bệnh nội tiết như Basedow, u tuyến thượng thận. - Các bệnh rối loạn chuyển hóa như tiểu đường, cholesterol hay lipid tăng. - Các bệnh về gan, thận, khớp, mắt. - Phụ nữ trên 35 tuổi nghiện thuốc lá. - Và đương nhiên khi đang có thai thì không dùng thuốc ngừa thai được, vì vậy nếu đang rối loạn kinh nguyệt mà muốn sử dụng thuốc ngừa thai thì phải đi khám bệnh để xác định xem có thai hay không, rồi mới được uống thuốc theo sự chỉ dẫn của nhân viên y tế Nếu bạn không rơi vào những trường hợp này, bạn có thể sử dụng thuốc tránh thai mà không ảnh hưởng đến sức khỏe. Riêng với phụ nữ cho con bú, thuốc có thể làm giảm lượng sữa một chút, nên y học chế tạo một loại thuốc khác không ảnh hưởng đến sữa, bạn hãy xem ở phần Thuốc tránh thai dành cho phụ nữ đang cho con bú. 5. Cách sử dụng: Bạn có thể bắt đầu uống vào bắt cứ ngày nào trong chu kỳ. Thông thường người ta chờ đến khi hành kinh để biết chắc chắn mình không có thai thì bắt đầu uống thuốc. Khi mới uống, thuốc chưa có tác dụng ngay mà bạn phải chờ một tuần thuốc mới bắt đầu có tác dụng. Do vậy, trong vòng 7 ngày đầu khi bắt đầu uống thuốc, các bạn không nên có quan hệ tình dục hoặc nếu có quan hệ thì nên sử dụng kết hợp với các biện pháp tránh thai khác kèm theo như bao cao su, thuốc diệt tinh trùng để hiệu quả tránh thai cao. Loại 28 viên: bạn uống mỗi viên một ngày hết vỉ này thì uống ngay vỉ khác. Loại 21 viên: bạn uống mỗi viên một ngày, hết vỉ bạn phải nghỉ 7 ngày sau đó mới uống tiếp vỉ thuốc khác. Để dễ nhớ và để hiệu quả tránh thai cao hơn, bạn nên uống vào một giờ nhất định. Khi muốn có con, bạn chỉ cần ngừng uống thuốc, trứng sẽ rụng trở lại ngay và bạn lại có khả năng thụ thai. Thời điểm bắt đầu uống thuốc Có thể uống vào bất cứ thời điểm nào nếu bạn biết chắc là mình không có thai. Không nên sử dụng với phụ nữ đang cho con bú vì thuốc ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng sữa. Đang có kinh Tốt nhất là uống vào ngày đầu tiên có kinh. Hoặc trong 7 ngày đầu từ khi có kinh. Nếu bạn uống sau 7 ngày kể từ khi ra máu kinh, bạn có thể bắt đầu uống thuốc khi biết chắc là mình không có thai. Nhưng 7 ngày tiếp theo đó cần kiêng giao hợp, hoặc sử dụng bao cao su hoặc thuốc diệt tinh trùng nếu có quan hệ tình dục. Sau khi sinh và đang cho con bú Có thể uống sau khi đã ngừng cho con bú hoặc con đã ngoài 6 tháng tuổi Sau khi sinh và không cho con bú Có thể uống thuốc 3 đến 6 tuần sau khi sinh. Không cần đợi đến khi kinh nguyệt quay trở lại. Sau 6 tuần, vào bất cứ thời điểm nào nếu đảm bảo là bạn không có thai. Nếu như không biết chắc là mình không có thai thì bạn cần kiêng quan hệ tình dục, hoặc nếu có quan hệ tình dục thì cần sử dụng bao cao su hoặc thuốc diệt tinh trùng. Sau khi sảy thai và nạo thai 7 ngày đầu tiên sau khi sảy nạo phá thai. Nếu sau 7 ngày, bạn có thể uống thuốc vào bất cứ lúc nào nếu biết chắc là mình không có thai. Khi ngừng các biện pháp tránh thai khác đang sử dụng Uống thuốc ngay lập tức và không cần đợi cho đến khi có kinh trở lại, nhất là sau khi tiêm thuốc tránh thai. Nếu bạn quên thuốc Trên thực tế, lúc này hay lúc khác bạn có thể quên một viên thuốc, khả năng có thai không lớn, nhưng bạn hãy làm đúng như sau: Quên 1 viên: Khi nhớ ra bạn uống ngay viên đó, viên sau uống vào đúng giờ uống thông thường. Trong vòng 48 tiếng tiếp sau đó, bạn nên tránh giao hợp hoặc nếu giao hợp thì dùng bao cao su hoặc thuốc diệt tinh trùng… Sau đó bạn dùng tiếp vỉ thuốc như bình thường. Quên 2 viên: uống bù ngay hai viên khi nhớ ra, viên tiếp theo uống vào giờ thông thường. Nếu có giao hợp, bạn nên sử dụng một biện pháp tránh thai hỗ trợ trong một tuần kể từ ngày quên. Sau đó, bạn tiếp tục uống hết vỉ thuốc như bình thường. Quên 3 viên trở lên: bỏ vỉ thuốc đó đi và bắt đầu uống một vỉ mới. Đồng thời, sử dụng một biện pháp tránh thai hỗ trợ trong một tuần kể từ khi dùng vỉ mới. Nếu bị chậm kinh từ hai tuần trở lên (6 tuần tính từ kỳ kinh cuối), bạn cần đến phòng khám hoặc dùng que thử để xét nghiệm thai. 6. Lưu ý: Trong thời gian dùng thuốc, hãy quay lại phòng khám, nếu bạn: - Đau ngực hoặc khó thở - Đau bụng dữ dội - Rối loạn lời nói - Sưng hoặc đau nặng ở chân - Đau đầu dữ dội (kèm theo nhìn mờ) - Ra huyết nhiều và kéo dài (không phải là máu kinh)
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:53:15 GMT -5
Bài 6- Thuốc uống tránh thai đơn thuần Thuốc uống tránh thai đơn thuần là loại thuốc chỉ chứa hoóc môn progesteron, là loại phù hợp cho người mẹ đang cho con bú vì nó không ảnh hưởng đến lượng sữa cũng như chất lượng sữa. Trên thị trường, thuốc mang nhãn Exluton. 1. Cơ chế tránh thai: Làm dày lớp dịch nhày cổ tử cung, gây khó khăn cho tinh trùng khi xâm nhập vào sâu trong tử cung. Ngừng giải phóng trứng (ngăn chặn sự rụng trứng khỏi buồng trứng vào khoảng giữa của chu kì kinh nguyệt) 2. Hiệu quả tránh thai: Thuốc này hiệu quả không bằng thuốc tránh thai phối hợp, khoảng 88%. Tuy nhiên, đây là biện pháp tránh thai tin cậy của phụ nữ cho con bú, bởi bản chất hóc môn của phụ nữ cho con bú đã có tác dụng ức chế phần nào sự rụng trứng, nên dùng thuốc hiệu quả cao. 3. Ưu điểm: Có thể sử dụng cho những bà mẹ cho con bú sau đẻ 6 tuần. Số lượng và chất lượng của sữa mẹ không hề thay đổi (thuốc uống tránh thai tổng hợp có thể làm giảm lượng sữa mẹ). Giảm đau và giảm lượng máu kinh khi hành kinh. Không có tác dụng phụ của estrogen. Không làm tăng các biến chứng có liên quan đến estrogen như nhồi máu cơ tim hay đột quỵ. Phụ nữ uống thuốc tránh thai hàng ngày không có khoảng cách nghỉ. Tất cả các viên thuốc đều có hooc mon (một vỉ có 28 hoặc 35 viên cùng màu). Điều này làm cho mọi người sử dụng dễ nhớ hơn là những vỉ thuốc có 21 viên. Ít có các tác dụng phụ có liên quan đến progestin như mụn trứng cá, tăng cân khi so sánh với thuốc tránh thai tổng hợp. Ngoài ra, thuốc có thể phòng tránh được: - Bệnh u lành của vú - Ung thư nội mạc tử cung và ung thư buồng trứng - Bệnh viêm tiểu khung. 4. Nhược điểm: Cần phải uống đều đặn đúng giờ để có hiệu quả tốt nhất. Đối với phụ nữ cho con bú, nguy cơ có thai sẽ tăng thậm chí chỉ cần uống chậm hơn thời gian dự kiến khoảng vài tiếng đồng hồ, nếu từ hai viên trở lên sẽ càng làm tăng nguy cơ có thai. Trong trường hợp người phụ nữ không cho con bú thì chỉ cần chậm uống 2-3h là có thể rụng trứng ngay. Không ngăn chặn được việc chửa ngoài tử cung. Tác dụng phụ: Với một số phụ nữ, thuốc có thể gây ra các tác dụng phụ: - Vô kinh hoặc hành kinh ít - Rong huyết hoặc ra máu nhẹ vào những ngày không đúng chu kì, khi mới sử dụng thuốc - Tăng cân hoặc giảm cân - Buồn nôn hoặc đau đầu, cương vú khi mới sử dụng thuốc Ai có thể sử dụng thuốc tránh thai chỉ có một hóc môn? Tất cả các phụ nữ đều có thể sử dụng thuốc tránh thai chỉ có một hooc mon này nếu không đang điều trị bệnh lao, động kinh, bệnh gan và u vú. Phụ nữ cho con bú dưới 6 tuần. Phụ nữ trên 35 tuổi hút thuốc lá. 5. Cách sử dụng Thuốc uống tránh thai chỉ có progestin thường có vỉ 28 viên hoặc 35 viên và chỉ có những viên thuốc chứa hóc mon nên không có khoảng nghỉ. Khi uống hết vỉ này thì uống luôn sang vỉ khác. Thời điểm bắt đầu uống thuốc: Với phụ nữ đang cho con bú Sau khi sinh 6 tuần: Nếu phụ nữ chỉ cho con bú một phần và đứa trẻ nhận nhiều thức ăn và đồ uống khác, 6 tuần sau đẻ là thời gian tốt nhất để bắt đầu uống thuốc. Nếu đợi lâu hơn mới uống thuốc thì khả năng có thai sẽ rất lớn. Đối với phụ nữ cho con bú hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn, việc này sẽ giúp phòng có thai với hiệu quả trong vòng 6 tháng hoặc cho đến khi bà mẹ có kinh trở lại, tuỳ theo thời điểm nào đến trước. Thuốc tránh thai chỉ có progestin có thể bảo vệ thêm nếu muốn. Nếu chu kì kinh quay trở lại, người phụ nữ có thể bắt đầu dùng thuốc vào bất cứ khi nào khi biết chắc chắn là mình không có thai. Sau khi sinh nhưng không cho con bú. Có thể uống bất cứ lúc nào trong vòng 4 tuần sau khi sinh. Không cần thiết phải đợi cho đến khi có kinh trở lại. Vào bất cứ lúc nào sau khi sinh 4 tuần khi biết chắc là mình không có thai. Nếu như không chắc là không có thai, khi quan hệ tình dục cần dùng bao cao su, thuốc diệt tinh trùng hay kiêng giao hợp cho đến khi có kinh trở lại và sau đó bắt đầu dùng thuốc ngay. Sau khi sảy hoặc nạo thai Trong 7 ngày đầu sau giai đoạn 2 hoặc 3 của sảy thai hay nạo thai. Sau đó vào bất cứ lúc nào nếu chắc chắn là bạn không có thai. Khi đang có kinh Vào bất cứ lúc nào khi biết chắc là bạn không có thai Trong vòng 5 ngày đầu tiên kể từ khi thấy có kinh (uống vào ngày đầu tiên là tốt nhất) thì không cần sử dụng các biện pháp dự phòng nào để bảo vệ thêm. Nếu uống sau 5 ngày đầu kể từ khi có kinh, cần sử dụng bao cao su hoặc thuốc diệt tinh trùng hay kiêng quan hệ tình dục trong vòng ít nhất 38h sau đó. Khi đã dừng các biện pháp khác Uống thuốc ngay lập tức, không cần phải đợi đến khi có kinh trở lại nhất là sau khi sử dụng thuốc tiêm tránh thai Nếu bạn quên thuốc hoặc uống thuốc muộn hơn so với giờ qui định: - Nếu bạn uống thuốc muộn 3 tiếng hoặc muộn hơn so với giờ qui định, phải dùng một biện pháp tránh thai hỗ trợ trong 48 giờ tiếp theo. - Nếu bạn quên 1 viên, uống viên đó ngay khi nhớ ra. Rồi uống viên tiếp theo vào giờ qui định. Dùng một biện pháp tránh thai hỗ trợ trong 48 giờ. - Nếu bạn quên 2 viên hoặc hơn, uống ngay 2 viên khi nhớ ra. Uống 2 viên vào ngày hôm sau, và sử dụng một biện pháp tránh thai hỗ trợ cho đến khi uống hết vỉ thuốc đó. - Nếu bị chậm kinh từ 2 tuần trở lên (6 tuần tính từ kỳ kinh cuối), bạn cần đến phòng khám để thử thai. 6. Lưu ý Hãy quay lại phòng khám nếu: - Bị đau bụng dữ dội - Ra máu nhiều hơn chu kì kinh bình thường
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:53:51 GMT -5
Bài 7- Thuốc uống tránh thai khẩn cấp và Postinor Thuốc tránh thai khẩn cấp là biện pháp tránh thai có hiệu quả khả cao sau khi giao hợp không sử dụng một biện pháp phòng tránh nào. Tuy nhiên, không được dùng thuốc tránh thai khẩn cấp như một biện pháp tránh thai thường xuyên. Thuốc không phòng tránh được bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS. Thuốc được chỉ định dùng cho những phụ nữ có quan hệ tình dục đột xuất (chồng công tác xa, thỉnh thoảng mới gặp), các bà các chị không sử dụng biện pháp tránh thai nào hoặc các biện pháp tránh thai đều ""bó tay"". Như quên uống thuốc tránh thai hàng ngày, tính sai ngày an toàn, dụng cụ tử cung (vòng tránh thai) bị tuột, bao cao su bị rách, thủng. Viên tránh thai khẩn cấp còn đặc biệt cần cho những phụ nữ trẻ có quan hệ lần đầu không dùng biện pháp tránh thai, chưa muốn có thai, hoặc bị cưỡng hiếp... Nếu đã giao hợp mà không dùng biện pháp tránh thai nào thì bạn gái có thể dùng thuốc tránh thai khẩn cấp. Đối với những ai “quên” không dùng bao, định xuất tinh ra ngoài mà không kịp, hoặc đối với người bị hiếp dâm thì đây là một biện pháp thích hợp. Cách sử dụng: Hiện nay trên thị trường có nhiều loại thuốc với các cách dùng khác nhau: Thuốc mang nhãn hiệu Postinor: Thuốc này đóng vỉ hai viên. bạn có thể uống 1 viên trong vòng 72 giờ sau giao hợp (càng sớm càng tốt) và 1 viên nữa sau viên đầu đúng 12 giờ. Cách sử dụng Postinor 1. Để tránh thai, cần dùng 2 viên Postinor: - Liều thứ nhất: Uống 1 viên trong vòng 72 giờ sau cuộc giao hợp. Tốt nhất là uống trong giờ đầu. Nói chung, uống càng sớm càng tốt, nhưng nếu lỡ để chậm đến 3 ngày (72 giờ) thì thuốc vẫn có hiệu quả tránh thai. - Liều thứ hai: Uống thêm 1 viên, sau viên thứ nhất 12 giờ. 2. Trường hợp không có Postinor, có thể dùng viên tránh thai phối hợp (VTTPH) liều thấp, vẫn được dùng uống hằng ngày để tránh thai. Loại này có bán tại hầu hết các hiệu thuốc. - Liều thứ nhất: Uống 4 viên VTTPH liều thấp trong vòng 72 giờ sau cuộc giao hợp. - Liều thứ 2: Uống liều như trên, nhắc lại sau liều thứ nhất 12 giờ. Cần lưu ý là nếu bị nôn thì trong vòng 2 giờ phải uống bù liều thuốc đã bị nôn (1 viên Postinor hay 4 viên VTTPH). Chỉ định dùng thuốc Postinor thích hợp với các trường hợp sau: - Sau một cuộc giao hợp bất ngờ, không chuẩn bị trước việc tránh thai. - Có sự nhầm lẫn khi đang áp dụng một biện pháp tránh thai: + Quên uống thuốc tránh thai loại uống hằng ngày từ 2 viên trở lên. + Tính nhầm thời điểm an toàn khi áp dụng biện pháp tự nhiên (tính vòng kinh). + Tiêm thuốc tránh thai chậm. - Gặp sự cố trục trặc khi đang áp dụng một biện pháp tránh thai: + Tuột hoặc rách bao cao su. + Tuột vòng tránh thai. + Thất bại trong việc xuất tinh ngoài âm đạo. - Khi người phụ nữ phải giao hợp không có sự đồng tình (như bị cưỡng dâm). Postinor cho hiệu quả tránh thai không cao (tỷ lệ thành công là 75%) .Vì vậy, chỉ nên dùng thuốc này trong trường hợp khẩn cấp, không nên dùng quá thường xuyên hoặc dùng như loại uống hằng ngày. Lạm dụng thuốc sẽ dẫn đến dễ thất bại và kéo theo các tác dụng phụ như buồn nôn, nôn, rong kinh… do thuốc chứa progestin liều cao. Chỉ nên dùng Postinor 4 viên/tháng, tức là cho 2 lần giao hợp. Những lần khác phải sử dụng các biện pháp tránh thai như dùng bao cao su... Nếu không có loại đó, bạn có thể dùng tăng loại thuốc tránh thai thông thường loại phối hợp như: Choice, Rigevidon, Microgynon, Marvelon (Loại thuốc tránh thai chỉ có một hoóc môn dành cho phụ nữ cho con bú không dùng làm thuốc tránh thai khẩn cấp được). Liều sử dụng: Uống 4 viên trắng (viên có chứa hoóc môn) trong vòng 72 giờ kể từ khi giao hợp (càng sớm càng tốt), sau đó 12 giờ uống 4 viên trắng nữa. Thuốc tránh thai khẩn cấp chỉ có levonorgestrel (LNG) gồm các vỉ thuốc có tên: Thuốc levonelle-2, norievo, plan B, postinor-2 trong thành phần có chứa 0,75mg LNG: Uống 1 viên trong vòng 8 giờ sau khi giao hợp không được bảo vệ; 8 giờ sau uống thêm 1 viên nữa. Thuốc microlut, norgeston, microval chứa 0,03mg LNG: Uống 25 viên/lần trong vòng 8 giờ sau khi giao hợp không được bảo vệ; 8 giờ sau uống thêm 25 viên nữa. Thuốc ovrrette chứa 0,375mg LNG: Uống 20 viên/lần trong vòng 8 giờ sau khi giao hợp không được bảo vệ; 8 giờ sau uống thêm 20 viên nữa. Thuốc tránh thai phối hợp có chứa ethynil estradiol (EE) và levonorgestrel (LNG) hoặc norgestrel (NG), gồm các vỉ thuốc có tên: Neogynon, noral, nordiol, ovidon, ovral... trong thành phần có chứa 50mcg EE + 0,25mg LNG hoặc 50mcg EE + 0,5mg. Uống 2 viên trong vòng 72 giờ đầu sau giao hợp không được bảo vệ; 12 giờ sau khi uống liều đầu, uống tiếp 2 viên. Nordette, regevidon (gọi viên choice), ovral L... trong thành phần có chứa 30mcg EE + 0,15mg LNG hoặc 30mcg EE + 0,3mg NG. Uống 4 viên trong vòng 72 giờ đầu sau giao hợp không được bảo vệ, 12 giờ sau khi uống liều đầu, uống tiếp 4 viên. Một số điểm lưu ý Tất cả các thuốc trên uống liều đầu càng sớm càng tốt sau quan hệ tình dục không được bảo vệ. Thuốc tránh thai khẩn cấp được coi là an toàn (hiệu quả đạt 75%) nhưng không được sử dụng như một biện pháp tránh thai thường xuyên. Trong một tháng không nên dùng quá 2 lần vì càng dùng nhiều thì hiệu quả càng giảm. Có tới 50% số phụ nữ dùng thuốc tránh thai khẩn cấp bị buồn nôn và nôn. Như vậy, hiệu quả của thuốc sẽ bị giảm, chưa kể các tác dụng phụ khác như kinh nguyệt không đều, rong huyết, đau đầu, chóng mặt... Nếu sau khi uống bị nôn thì phải uống ngay liều khác để thay thế. Nếu sau khi uống 2 giờ mới nôn thì không cần uống bù. Nhất thiết phải uống đủ 2 liều mới có tác dụng. Không dùng viên tránh thai khẩn cấp khi có thai hoặc bị dị ứng với thuốc tránh thai. Bài 8-Thuốc tiêm tránh thai (DMPA) Thuốc tránh thai tiêm hiện thông dụng ở nước ta là loại nội tiết chỉ có progestin (không có thành phần oestrogen như viên thuốc uống tránh thai kết hợp), có tên gọi depoprovera, chứa hoạt chất là depo-medroxy progesteron-axetat (viết tắt DMPA), đóng lọ với hàm lượng 150mg/lọ, dùng để tiêm một lần. Mỗi mũi tiêm bắp có tác dụng tránh thai trong vòng 3 tháng. Thuốc không phòng tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS. Thuốc tiêm tránh thai đã được chấp nhận bởi FDA là 1 biện pháp tránh thai từ năm 1993. Phương pháp này được giới thiệu cho những phụ nữ rất dễ có thai, những người không sử dụng được các phương pháp tránh thai khác, những người có ít thành công với những phương pháp ngăn cản, những người không thích hợp với dụng cụ tử cung hoặc những người muốn tránh thai trong 1 thời gian ngắn, người có các yếu tố nguy cơ (tăng huyết áp hoặc nhức đầu Migraine), không sử dụng được viên thuốc tránh thai. Một mũi tiêm 150mg giá khoảng 25USD. Ưu điểm Thuốc có tác dụng tránh thai rất cao, thuận tiện cho người không có điều kiện uống thuốc tránh thai hằng ngày, phù hợp với người mong muốn áp dụng một biện pháp tránh thai dài ngày và có hiệu quả cao. Cũng như mọi thuốc tránh thai khác (dạng uống hằng ngày, dạng thuốc cấy dưới da), thuốc tiêm tránh thai không còn ảnh hưởng xấu tới thai nhi do thụ thai sau khi đã ngừng sử dụng biện pháp. Tác dụng phụ Thuốc ngăn cản phát triển, làm teo niêm mạc tử cung nên có thể dẫn đến vô kinh hoặc có khi lại rong kinh, rong huyết. Các tác dụng khác của các loại thuốc tránh thai cũng có thể có như cương, đau nhẹ ở vú, lợm giọng, buồn nôn. Các tác dụng phụ kể trên thường xảy ra sau mũi tiêm đầu tiên. Khi ngừng dùng thuốc một thời gian kinh nguyệt sẽ trở lại bình thường. Phù nề, ứ dịch, tính khí thất thường, đau đầu, hoa mắt chóng mặt và tǎng cân. Hội chứng đường hầm cổ tay và rụng tóc cũng cần chú ý. Hầu hết các nghiên cứu không phát hiện thấy sự thay đổi áp lực máu (huyết áp) hay chức nǎng gan. Sau khi ngừng thuốc, thời gian để có thai trở lại chậm hơn so với các loại thuốc viên tránh thai uống trung bình từ 2 đến 4 tháng, có khi tới 6 tháng. Vì thế, nếu bạn dự định chỉ tránh thai ngắn hạn trong thời gian trên dưới một năm thì không nên dùng biện pháp này. Thuốc tiêm tránh thai hiện đã được cung cấp ở một số tỉnh thành, nhưng chưa rộng rãi trong cả nước. Đây là loại chỉ có một hoóc môn Progesteron, chỉ tiêm một lần vào bắp, sau đó Progesteron tiết dần vào cơ thể, bạn gái tránh thai được trong một thời gian dài (có hai loại một tháng và ba tháng). Biện pháp này hiệu quả rất cao, gần 100%. Nhược điểm của nó là làm thay đổi chu kỳ kinh nguyệt hoặc không thấy kinh, tuy vậy không có hại.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:54:32 GMT -5
Bài 9-Thuốc cấy tránh thai Norplant Que cấy tránh thai Norplant gồm 6 thanh nang nhỏ, đàn hồi, rộng 2-4mm, dài 34mm. Các thanh này chỉ chứa progestin tương tự như hóc môn tự nhiên trong cơ thể người phụ nữ, được cấy vào dưới da mặt trong cánh tay và sẽ giải phóng thường xuyên một lượng nhỏ progestin vào cơ thể người phụ nữ vài giờ sau khi cấy cho đến lúc nó được lấy ra. Cơ chế tránh thai: - Ngăn cản sự rụng trứng, (ngăn giải phóng trứng ra khỏi buồng trứng) tại giữa chu kỳ kinh (trong vòng 1 năm đầu tiên sử dụng) - Làm dầy dịch cổ tử cung do đó tinh trùng không di chuyển để gặp trứng được. Hiệu quả tránh thai? Hiệu quả tránh thai khoảng 99,6%.Thuốc cấy tránh thai được chấp nhận sử dụng ở Mỹ vào năm 1991, là phương pháp cực kỳ hiệu quả, với tỷ lệ thất bại là 0,04/100 trong một năm. Tỷ lệ thất bại tăng trong 4 năm tiếp theo với mức thất bại trung bình là 1,1 trong năm thứ 5 kể từ khi sử dụng. Ưu điểm - Chỉ một lần quyết định sử dụng thuốc cấy Norplant có thể có tác dụng tránh thai đến 5 năm. - Có thể lấy que cấy ra bất kì lúc nào người phụ nữ không muốn sử dụng, và khả năng có thai quay lại ngay. - Không phải lo lắng về việc có thai hoặc lo sử dụng các biện pháp hỗ trợ khác. - Có tác dụng ngay trong vòng khoảng 24 giờ sau khi cấy. - Người phụ nữ cho con bú có thể sử dụng ngay sau khi sinh 6 tuần, thuốc không ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng sữa. - Giúp ngăn chặn thiếu máu, thiếu sắt. - Giúp ngăn chặn ung thư nội mạc tử cung. Nhược điểm: Thuốc có thể gây ra một số tác dụng phụ như sau: - Thay đổi chu kì kinh nguyệt bình thường (ra máu ít hoặc ra máu giữa kì kinh, chu kì kinh kéo dài, vô kinh…) - Đau đầu, chóng mặt - Cương cứng ở vú hoặc chảy sữa - Buồn nôn - Xuất hiện trứng cá hoặc sẩn ở da - Tăng hoặc giảm cân ……. - Ngoài ra, việc cấy thuốc hoặc bỏ thuốc phải được thực hiện bởi các nhân viên y tế được đào tạo đặc biệt, tại các trung tâm, cơ sở y tế. - Sau khi cấy trong vòng 1 vài giờ đến 1 ngày, có thể không cảm thấy thoải mái. - Không tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm HIV/AIDS. Khi nào bắt đầu dùng được thuốc cấy tránh thai Norplant? • Khi đang có kinh: - Có thể dùng vào bất kì lúc nào nếu biết chắc là không có thai. - Nếu bắt đầu dùng thuốc trong vòng 7 ngày đầu tiên sau khi bắt đầu có kinh mà có quan hệ tình dục, không cần phải sử dụng thêm một biện pháp hỗ trợ nào khác. - Nếu bắt đầu sau ngày thứ 8 của chu kì kinh, trong vòng 48h sau khi cấy nếu muốn quan hệ tình dục, cần sử dụng thêm bao cao su hoặc thuốc diệt tinh trùng. • Đang cho con bú: - Có thể dùng ngày từ tuần thứ 6 sau khi sinh. - Sau khi kinh nguyệt đã trở lại một thời gian, có thể bắt dùng thuốc vào bất kì thời điểm nào nếu chắc chắn không có thai. • Sau khi sinh con không cho bú: - Bắt đầu dùng thuốc ngay lập tức hoặc bất kỳ lúc nào trong vòng 6 tuần đầu kể từ sau khi sinh. - Nếu bắt đầu dùng sau 6 tuần thì vào bất kỳ lúc nào nếu chắc chắn không có thai. • Khi ngừng sử dụng một biện pháp khác: Sử dụng ngay lập tức Những ai có thể sử dụng Norplant? Có thể sử dụng cho phụ nữ mọi lứa tuổi, có thể có hoặc chưa có con. Chống chỉ định với những người bị một số bệnh như: bệnh gan cấp tính, vàng da, chảy máu âm đạo không rõ nguyên nhân, có thai và có tiền sử viêm tĩnh mạch huyết khối, tắc động mạch phổi, đột quị hoặc nhồi máu cơ tim. Khi nào cần đến gặp nhân viên y tế? - Khi không thấy kinh nguyệt trong một vài chu kì: Có thể nghĩ đến khả năng có thai - Khi đau vùng bụng dưới hoặc bị kích thích vùng bụng dưới, mệt lả: có thể nghĩ đến khả năng chửa ngoài tử cung - Khi bị nhiễm trùng vùng cấy thuốc tránh thai ở cánh tay Bài 10- Thuốc diệt tinh trùng Thuốc diệt tinh trùng là biện pháp khá mới trên thị trường Việt Nam. Đây là một dạng hoá chất có tác dụng diệt tinh trùng. Nó có nhiều dạng như: bọt, kem, viên đặt. Thuốc được sử dụng kết hợp với bao cao su hay màng ngăn âm đạo, mũ cổ tử cung sẽ có hiệu quả tránh thai cao hơn. Cách sử dụng Thuốc được đặt vào trong âm đạo khoảng 15 phút trước khi giao hợp, người nữ đưa thuốc vào trong âm đạo, chú ý phải đưa sâu vào tận cổ tử cung, thuốc lan ra khắp cổ tử cung. Khi giao hợp, tinh trùng gặp thuốc sẽ ngừng hoạt động. Thuốc diệt tinh trùng, nếu sử dụng thường xuyên, đúng theo hướng dẫn trên thì đạt hiệu quả khoảng 94%. Tuy nhiên, hiệu quả thực tế sử dụng thấp hơn vì nếu không đưa thuốc vào sâu, hoặc đưa vào chưa được 15 phút đã giao hợp thì thuốc không lan khắp vùng cổ tử cung. Ở phương tây, nhiều người dùng thuốc diệt tinh trùng kết hợp với bao cao su, hiệu quả rất cao. Tác dụng phụ Một số phụ nữ có tác dụng phụ là âm đạo cảm thấy khó chịu hoặc bị nấm. Tuy vậy, nếu muốn sử dụng bạn đừng ngại, cứ dùng thử xem có phù hợp với mình không đã, nếu khó chịu sẽ thôi dùng. Cảm giác khó chịu này cũng không kéo dài. Điểm bất lợi của biện pháp này là giá thành hơi cao.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:55:04 GMT -5
Bài 11 - Triệt sản Triệt sản là biện pháp chỉ làm một lần mà có tác dụng tránh thai mãi mãi, khả năng sinh sản hầu như không thể phục hồi, hiệu quả rất cao (ở nam giới là 99,9%, ở nữ giới là 99,6%). Nếu bạn đã có đủ số con mình mong muốn, lại không có ý định kết hôn lần nữa thì đây là biện pháp phù hợp nhất. Tuy nhiên, biện pháp này không phòng tránh được bệnh lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS. Triệt sản nữ Triệt sản nữ là một biện pháp tránh thai vĩnh viễn, không hồi phục. Hàng năm tại thành phố chúng ta thực hiện khoảng 4.000 trường hợp. Triệt sản nữ là thắt và cắt bỏ một đoạn ống dẫn trứng (2 bên) và như vậy làm cho trứng không gặp và kết hợp với tinh trùng được. Đây có thể nói là biện pháp tránh thai có hiệu quả ngừa thai cao nhất khoảng 99,7%. Hiện nay tại thành phố chúng ta đang thực hiện kỹ thuật “Mở thành bụng nhỏ” (Minilaparotomy). Nữ giới thì được cắt và thắt hai ống dẫn trứng nên trứng bị chặn lại, không thể gặp tinh trùng và đi đến tử cung được. Viêc phẫu thuật triệt sản cho nữ giới phức tạp hơn nam giới. Bạn phải ở lại bệnh viện để theo dõi một ngày. Đây là biện pháp tránh thai thích hợp với các cặp vợ chồng đã có đủ số con mong muốn, thật sự không còn muốn có thai cũng như những cặp vợ chồng vì vấn đề sức khỏe không thể mang thai thêm như tim mạch, tâm thần... Do đây là biện pháp tránh thai không hồi phục cho nên khách hàng cần phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định. Triệt sản nam Triệt sản nam là một biện pháp tránh thai vĩnh viễn, không hồi phục. Hiện nay hàng năm tại thành phố chúng ta thực hiện khỏang 1.000 trường hợp. Triệt sản nam là thắt và cắt một đoạn ống dẫn tinh (hai bên) làm cho không có tinh trùng phóng vào âm đạo để thụ thai. Đây cũng là biện pháp tránh thai có hiệu quả ngừa thai rất cao khoảng 99,5%. Hiện nay tại thành phố chúng ta đang áp dụng kỹ thuật triệt sản nam mới gọi là “Triệt sản nam không dùng dao”. Kỹ thuật mới này cho phép tiến hành rất nhanh khoảng 5 phút; gây tê không đau và người triệt sản có thể lao động bình thường sau triệt sản. Đối với nam giới, bác sĩ làm tiểu phẫu đơn giản thắt và cắt hai ống dẫn tinh để ngăn không cho tinh trùng từ tinh hoàn đi lên túi tinh. Do đó khi bạn xuất tinh, trong tinh dịch không còn tinh trùng, nên không thể thụ thai được. Khi thực hiện việc này, bác sĩ dùng thuốc tê nên bạn không đau, làm xong bạn chỉ cần ở lại bệnh viện một tiếng là có thể về. Đây là biện pháp tránh thai thích hợp với các cặp vợ chồng đã có đủ số con mong muốn, thật sự không còn muốn có thai cũng như những cặp vợ chồng vì vấn đề sức khỏe không thể mang thai thêm như tim mạch, tâm thần... Thực hiện triệt sản nam cũng là sự thể hiện rõ nét nhất sự chia sẻ trách nhiệm của nam giới trong việc sinh sản của hai vợ chồng. Do đây là biện pháp tránh thai không hồi phục cho nên khách hàng cần phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định. Sau khi thực hiện triệt sản (nam hay nữ), chỉ cần nghỉ ngơi khoảng một hai ngày, sau đó hoạt động bình thường nhưng cần tránh làm việc nặng, chạy nhảy trong khoảng một tuần để vết rạch dễ lành. Bạn có thể tắm rửa trở lại sau khi triệt sản khoảng 24 tiếng nhưng cần giữ vết thương khô ráo để chóng lành và tránh nhiễm trùng. Bạn kiêng giao hợp trong khoảng hai, ba ngày. Riêng với nam giới, khi giao hợp trở lại cần dùng bao cao su trong 20 lần giao hợp hoặc trong 12 tuần (vì túi tinh còn sót lại một ít tinh trùng), sau đó không phải lo tránh thai nữa. Bài 13- Các biện pháp tránh thai tự nhiên Các biện pháp tránh thai tự nhiên là các biện pháp không dùng một dụng cụ nào, chứ cách thực hiện cũng không phải là tự nhiên. Các phương pháp này ít hiệu quả. Cũng chính do kém bảo đảm mà ảnh hưởng đến tâm lý người sử dụng, gây lo lắng và không thoải mái khi sinh hoạt tình dục. Kiêng giao hợp âm đạo Giao hợp âm đạo là hành động tình dục có dương vật ở trong âm đạo. Kiêng giao hợp có nghĩa là không làm điều đó. Hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc vào cách thực hiện. Nếu hai bạn không sinh hoạt tình dục thì hoàn toàn không có khả năng thụ thai. Nhưng cũng có thể hai bạn có sự vuốt ve, âu yếm, tạo cho nhau khoái cảm tình dục, chỉ tránh không cho dương vật vào trong âm đạo. Như thế gọi là sinh hoạt tình dục không giao hợp âm đạo. Nếu khoái cảm của bạn nam dẫn đến xuất tinh, hai bạn phải cẩn thận không để tinh dịch xuất ra ở gần cửa mình bạn nữ vì chỉ cần một chút tinh dịch rớt vào bên trong âm đạo cũng có khả năng gây thụ thai. Ngoài ra, tinh trùng cũng có thể tồn tại một lượng nhỏ trong chất dịch tiết ra ở dương vật trước khi xuất tinh, do đó cũng không nên để chất dịch đó rơi ở cửa mình của bạn nữ. Nếu có ý định sinh hoạt tình dục không giao hợp, hai bạn phải cảnh giác với mình, đừng để quá đà thành giao hợp. Xuất tinh ngoài âm đạo Đó là khi đang giao hợp, sắp đến lúc xuất tinh, người nam rút dương vật ra khỏi âm đạo, xuất tinh ra ngoài. Phương pháp này hiệu quả thấp, chỉ khoảng 60-70%, vì ngay trong dịch tiết ra từ dương vật do hưng phấn tình dục (trước khi xuất tinh) cũng có thể có tinh trùng, đó là chưa kể trước khi phóng tinh, một hai giọt tinh dịch có thể rơi ra rồi mà người nam không biết, có thể gây thụ thai. Hơn nữa, việc xuất tinh ra ngoài khó thực hiện được đều đặn, vì nhiều khi người nam không dừng lại kịp, xuất tinh từ lúc chưa kịp rút dương vật ra. Ngoài vấn đề hiệu quả thấp, biện pháp này còn có nhược điểm rất lớn là hai người luôn ở trong tâm trạng căng thẳng dè chừng thời điểm xuất tinh để rút ra kịp thời, không thật sự thoải mái trong giao hợp. Bên cạnh đó rút dương vật ra làm giảm khoái cảm của người nam khi gần đến đỉnh điểm, đồng thời dễ gây hẫng hụt ở người nữ. Tính vòng kinh Tính vòng kinh là theo dõi chu kỳ kinh nguyệt của người phụ nữ, tính ra thời kỳ mà nếu giao hợp thì có khả năng thụ thai cao (thời kỳ không an toàn), để kiêng giao hợp hoặc dùng một biện pháp bổ trợ (như bao cao su) trong thời ký đó. Phương pháp này hiệu quả thấp vì kinh nguyệt phụ nữ có những dao động thông thường (vài ba ngày) và dao động bất thường (một tuần, nửa tháng do căng thẳng về tinh thần hoặc ốm đau), nên tính có thể không chính xác. Vả lại, có những chu kỳ không có trứng rụng, sau đó trứng có thể rụng bất cứ lúc nào, không nhất thiết trong khoảng thời gian tính được. Đó là chưa kể thời gian không an toàn tính ra khá dài nên khó kiềm chế. Cách tính: Có nhiều phương pháp tính: đếm ngày, cảm nhận sự rụng trứng, theo dõi nhiệt độ cơ thể, theo dõi chất dịch cổ tử cung... nhưng đều phức tạp. Chúng tôi xin trình bày một cách đơn giản nhất: bạn theo dõi từ 6-8 chu kỳ kinh nguyệt (Lưu ý: Chu kỳ được tính từ ngày bắt đầu hành kinh đến ngày cuối cùng trước đợt hành kinh tiếp theo). Chỉ khi các chu kỳ không chênh nhau quá hai ngày, bạn mới có thể áp dụng được biện pháp này: Ngắn trừ 20, dài trừ 10 Lấy số ngày của chu kỳ ngắn nhất trừ đi 20, được ngày không an toàn đầu tiên. Lấy số ngày của chu kỳ dài nhất trừ đi 10, được ngày không an toàn cuối cùng Ví dụ, bạn theo dõi kinh nguyệt của mình và thấy: • Chu kỳ thứ nhất dài 29 ngày • Chu kỳ thứ hai dài 30 ngày • Đến chu kỳ thứ tám, bạn thấy các chu kỳ dao động rất ít, chỉ từ 29 đến 31 ngày. • Bạn sẽ tính như sau: lấy 29 trừ đi 20 được 9; 31 trừ đi 10 được 21. Vậy thời kỳ không an toàn là từ ngày thứ 9 đến ngày thứ 21 trong mỗi chu kỳ. Có nghĩa là từ ngày 9 đến ngày 21 của chu kỳ, Lan không nên có quan hệ tình dục, hoặc nếu có thì nên sử dụng bao cao su. Cho con bú vô kinh Nếu bạn mới sinh con chưa được 6 tháng, chưa có kinh trở lại và đang cho con bú hoàn toàn thì có thể nhờ đó mà tránh thai. Đủ các điều kiện này, hiệu quả tránh thai khá cao, khoảng 98%. Lý do là việc cho con bú trong thời gian này tác động đến việc sản xuất các hoóc môn của người mẹ, ức chế sự rụng trứng. Tuy nhiên, biện pháp này thuộc loại “kém hiệu quả” vì chỉ cần một trong ba điều kiện thay đổi, có nghĩa là con bạn đã được hơn 6 tháng, hoặc đã hành kinh trở lại, hoặc cho con bú không hoàn toàn thì tác dụng tránh thai không còn nữa. Bạn phải sử dụng một biện pháp tránh thai khác. Bạn cần biết cho con bú hoàn toàn là chỉ cho bé bú mẹ, cho bú mẹ, cho bú liên tục, bất cứ lúc nào bé muốn bú, không cho bé ăn uống gì thêm.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:55:48 GMT -5
Phần V- PHÁ THAI Phá thai an toàn Hiện nay có không ít người cho rằng phá thai là tội lỗi, là ác độc. Tuy nhiên, bạn thử tưởng tượng xem, nếu như bạn chưa chuẩn bị đủ điều kiện chăm lo cho một đứa trẻ như là một vật báu được mong đợi của gia đình thì liệu có đem lại cuộc sống hạnh phúc cho đứa con yêu dấu của bạn không? Hay nếu như việc mang thai sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của người phụ nữ thì liệu có nên "liều lĩnh" giữ thai lại không? Trong những trường hợp đó, phá thai có thể là cần thiết. Tuy nhiên, việc phá thai luôn tiềm ẩn những nguy cơ tai biến, vì vậy bạn cũng cần cân nhắc điều kiện hoàn cảnh của mình thật kỹ trước khi đi đến quyết định này. Phá thai là gì? Phá thai được hiểu một cách đơn giản là một biện pháp nhằm chấm dứt quá trình thai nghén. Nó có thể xảy ra theo 2 cách: ngẫu nhiên hoặc có mục đích. Hầu hết các vụ phá thai đều có mục đích. Những trường hợp ngoại lệ, tức là những vụ phá thai vì "tai nạn", được thực hiện do các khuyết tật của người mẹ hoặc đứa con, đôi khi của cả hai. Chúng được gọi là trường hợp "phá thai bộc phát" để phân biệt với những trường hợp không phải vì tai nạn, mà bị gọi bằng cái tên "hơi quá mạnh" là "tội phá thai". Điều này gây lúng túng vì một số trường hợp "tội phá thai" lại được thực hiện một cách bộc phát. Tốt hơn, nên gọi hình thức thứ hai này bằng cái tên "phá thai có chủ đích" hay "cố ý phá thai". Thế nào là phá thai không an toàn? Loại phá thai nguy hiểm nhất có lẽ là kiểu "lén lút" và “dân dã” mà những người có thai tự đưa vào tử cung mình những chất hoá học. Một số bạn gái khi lần đầu có thai đã rất lo sợ, không dám đến bệnh viện. Trong điều kiện ở nhà có bạn đã tự hành hạ mình bằng cách đặt vào âm đạo những hoá chất hoặc tiêm qua ven những chất độc để gây sảy thai. Sau những cuộc “phẫu thuật” lén lút như vậy nguy cơ vô sinh thường gặp cao gấp 4 lần. Nguy hiểm còn có thể xảy ra đối với những trường hợp phá thai đã quá lớn – trên 12 tuần tuổi. Trong những trường hợp này khi nạo dễ xảy ra những tổn thương khác nhau đối với cổ tử cung. Một trong những nguy hiểm là do xương của bào thai đã quá to có thể làm xây xước hoặc làm thủng tử cung. Đối với những bạn gái có u khi phá thai cũng rất nguy hiểm. Thế nào là phá thai an toàn? Phá thai an toàn nhất và ít tai biến nhất là ở các bệnh viện chuyên khoa sản, do các bác sỹ có trình độ chuyên môn và có tay nghề cao thực hiện, theo dõi, cơ sở y tế đảm bảo điều kiện vô trùng tuyệt đối và có thể cấp cứu kịp thời với những trường hợp "tai biến", điều kiện sức khoẻ của sản phụ cho phép thực hiện việc phá thai và tuổi thai chưa quá lớn, trong vòng từ 7 đến 8 tuần. Các biện pháp phá thai Một vài năm trước đây, biện pháp phá thai bằng hút chân không được sử dụng khá phổ biến, song hiện nay phương pháp này lại ít được sử dụng, bởi sử dụng hút chân không, các phần của phôi thai có thể không hút được ra hết và vẫn phải nạo lại. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thụât, thủ thuật phá thai cũng dần trở nên bảo đảm và an toàn hơn. Tuỳ thuộc vào tuổi thai và điều kiện của từng cơ sở y tế mà các bác sĩ sẽ đi đến quyết định có thể sử dụng biện pháp phá thai nào thì an toàn nhất cho người phải phá thai. Hiện nay, ở nước ta có những biện pháp phá thai chủ yếu sau: - Phá thai bằng thuốc (được thực hiện đối với trường hợp tuổi thai dưới 7 tuần tuổi) - Hút thai (được thực hiện khi tuổi thai chưa quá 8 tuần tuổi) - Nạo thai (Được thực hiện khi tuổi thai chưa quá 12 tuần tuổi) - Phá thai bằng kovax (được thực hiện khi tuổi thai đã lớn) Việc sử dụng biện pháp phá thai nào là do bác sỹ quyết định, tuỳ thuộc vào kỹ thuật và chuyên môn của bác sĩ tại của các cơ sở y tế đó cũng như tuỳ thuộc vào điều kiện sức khoẻ, tuổi thai. Khi nào cần đi "giải quyết"? Khi có quan hệ tình dục không an toàn (tức là không sử dụng biện pháp tránh thai hoặc sử dụng biện pháp tránh thai không thành công) thì bạn gái có nguy cơ mang thai. Tuy nhiên, trước khi quyết định phá thai, bạn gái cần xác định chắc chắn mình có thai hay không. Tốt nhất là bạn cần thử thai bằng que thử thai nhanh, sau khi có quan hệ tình dục không an toàn từ bảy đến mười ngày hoặc đi siêu âm tại các cơ sở y tế, nếu chậm kinh từ một đến hai tuần. Bạn lưu ý nhé, chậm kinh chưa chắc đã là có thai vì kinh nguyệt có nhiều khi dao động do nhiều nguyên nhân khác nữa như sự lo lắng, căng thẳng, thay đổi môi trường sống... Trước khi nạo, hút thai, nhất thiết phải siêu âm thấy thai nhi đã di chuyển về làm tổ trong tử cung. Địa chỉ cần đến Nơi phá thai an toàn nhất là bệnh viện sản khoa, khoa sản của bệnh viện đa khoa tỉnh, nhà hộ sinh, trung tâm Bảo vệ bà mẹ trẻ em và Kế hoạch hoá gia đình. Tại những nơi này, cán bộ y tế có kỹ thuật, tay nghề, và điều kiện vô trùng đảm bảo. Vẫn biết rằng nhiều bạn nữ muốn giữ bí mật về việc phá thai, nhưng bạn hãy nghĩ đến sức khoẻ của mình, đừng "đùa giỡn" với tính mạng cũng như sức khoẻ sinh sản của bạn sau này mà đến các phòng khám tư không đảm bảo độ tin cậy. Trên thực tế đã có không ít bạn gái phá thai tại các cơ sở không được cấp phép đã bị những tai biến nặng nề như mất máu nặng, nhiễm trùng, thủng tử cung, thậm chí một số bạn mất đi tính mạng. Bạn cũng đừng bao giờ dùng thuốc bỏ thai của các ông lang vườn vì đã có người ngộ độc vì những thuốc này. Bài 1- Các nguy cơ khi phá thai Việc sử dụng các thủ thuật can thiệp nhằm chấm dứt quá trình thai nghén luôn chứa đựng những nguy cơ, tai biến ngay trong quá trình can thiệp và sau khi đã thực hiện thủ thuật. Bài viết sau đây sẽ giới thiệu với các bạn một số những biến chứng của việc phá thai bằng thủ thuật. Biến chứng nguyên phát (Biến chứng trong quá trình thực hiện thủ thuật) Tai biến do gây tê - gây mê Trong gây mê có tai biến khoảng 1/ 2.000 và tử vong là 1/ 8.000. Nguyên nhân gây tử vong có thể do không tôn trọng các chống chỉ định của gây mê, do phản xạ ngưng tim hoặc do sốc dị ứng thuốc. Trong khi gây tê bằng Xylocaine, nếu thuốc tê vào mạch máu có thể gây ra các cơn co giật theo sau đó là ngạt thở, sốc phản vệ hoặc truỵ mạch đơn thuần với nhịp tim chậm. Đề phòng tai biến này cần phải luôn luôn hút ống chích trước khi tiêm và không bao giờ sử dụng ở liều cao. Các tai biến này hiếm gặp trừ khi sử dụng liều dưới 10 ml Xylocaine 1% và các triệu chứng nhẹ thường gặp như: chóng mặt, ù tai, ngủ gật... Xuất huyết Xảy ra chủ yếu trong lúc can thiệp và sau khi làm thủ thuật khoảng một giờ. Khoảng 0,05 % trường hợp có xuất huyết quá 500ml. Chúng có thể là hậu quả của tử cung xơ hoá, rối loạn đông máu và của hút thai không hết. Tần số của chúng tăng theo tuổi thai và gây tê làm giảm nguy cơ này. Các thống kê ở Mỹ cho thấy có 0.32 % xuất huyết do gây tê so với 0.54 % do gây mê. Thuốc Méthergin tiêm một cách thường quy không có tác dụng cùng với thuốc tê làm giảm mất máu nhưng kèm theo buồn nôn và nôn. Thủng tử cung Chẩn đoán thủng tử cung không phải lúc nào cũng dễ, nhưng người ta có thể nghi ngờ khi nong cổ tử cung, khi đo buồng tử cung, khi hút thai thấy xuyên qua rất xa và không gặp tắc nghẽn một cách dễ dàng. Siêu âm có thể giúp chẩn đoán trong trường hợp này. Trong tất cả các trường hợp thủng tử cung, cần thiết phải làm cho tử cung trống (lòng tử cung sạch) để cho phép cầm máu và dự phòng bội nhiễm. Cần phân biệt hai trường hợp: Thủng trong quá trình nong cổ tử cung: thực hiện phá thai phải được làm dưới kiểm tra siêu âm. Nước đá dằn trên bụng và kháng sinh kết hợp với theo dõi thân nhiệt để tìm sự nhiễm trùng vùng chậu, tuỳ tình hình sẽ cho siêu âm kiểm tra để loại đi xuất huyết màng bụng và lập hướng xử trí tiếp theo. Thủng trong quá trình nạo hút thai : nguy cơ thủng ruột là không được coi thường. Loại thủng này cần phải được nội soi để kiểm tra kỹ ống tiêu hoá và thấy vết thương đường tiêu hoá hoặc cơ tử cung. Thủng tử cung không được nhận biết hoặc các can thiệp sau đó sẽ làm viêm phúc mạc cho một tiên lượng vô cùng xấu. Máu tụ Thường xảy ra trong giờ đầu sau phá thai và có thể điều trị dễ dàng bằng nong cổ tử cung và hút lại. Rách cổ tử cung Hiếm gặp và thường lành tính, thường rách một phần cổ tử cung, chảy máu ít và để lại một sẹo không quan trọng cho tương lai sản phụ khoa. Một số rất ít cần phải may cầm máu và thường gặp khi gây mê. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, trường hợp này chỉ chiếm khoảng 0.1-1.18%. Sốc do đau Xuất hiện thường nhất trong quá trình nong cổ tử cung. Nó được dự phòng dễ dàng bằng một thuốc tiền mê, thuốc tê hoặc đơn giản nhất là thông tin chính xác và quan tâm thăm hỏi người bệnh. Biến chứng thứ phát (biến chứng phát hiện sau khi thực hiện thủ thuật phá thai) Phá thai thất bại Thất bại trong phá thai rất hiếm gặp, chỉ chiếm dưới 0.5 % trong hút thai và 4 % trong phá thai bằng thuốc. Trường hợp này có thể do phá thai quá sớm (điều hòa kinh nguyệt hay phá thai bằng thuốc mà không có kiểm tra lại sau đó), do thiếu sót về kỹ thuật hoặc do dị dạng tử cung. Khi đó cần đặt ra việc hút lại nếu siêu âm thấy chính xác là vẫn còn thai. Sót nhau Gây rong huyết, tử cung không co hồi về mặt lâm sàng và siêu âm thấy các hình ảnh tăng âm. Các nghiên cứu ở Mỹ báo cáo tỷ lệ sót nhau là 0.75 %. Trường hợp này cũng cần được hút hoặc nạo thai lại theo chỉ dẫn của kết quả siêu âm. Nhiễm trùng Tần số các biến chứng nhiễm trùng vào khoảng từ 0.5 % đến 12% tuỳ vào kỹ thuật vô trùng. Các biến chứng nhiễm trùng này có thể được biểu hiện ở một phản ứng đơn giản là sốt, nhưng nó có thể là viêm nội mạc tử cung (tử cung nhạy cảm đau, tăng thân nhiệt) mà nó có thể lan tỏa ra các khu vực lân cận (viêm tấy dây chằng rộng, viêm phần phụ, viêm phúc mạc chậu) hoặc qua đường máu (nhiễm trùng huyết). Ảnh hưởng đến vô sinh sau này Tần số vô sinh thứ phát do phá thai là rất khó đánh giá và nguy cơ cao ở phụ nữ có thai lần đầu. Vô sinh thường do nhiễm trùng sau phá thai có khả năng dẫn đến tắc nghẽn vòi trứng hai bên hoặc gây ra thai ngoài tử cung. Dính buồng tử cung thường gặp nhất sau nạo thai hơn là sau hút thai và chủ yếu là khi nạo lại trong trường hợp sót. Chẩn đoán bằng chụp X- quang buồng tử cung hoặc nội soi buồng tử cung. Tỷ lệ hở eo cổ tử cung liên quan đến việc sảy thai muộn về sau hoặc sinh non hãy còn chưa chính xác. Nguy cơ sảy thai tự nhiên muộn hoặc sinh non tăng trong nhóm đã có lần phá thai, chủ yếu ở phụ nữ có thai lần đầu và nếu đã nong cổ tử cung quá số 12. Đồng miễn dịch Đồng miễn dịch hóa thứ phát sau phá thai không còn được quan sát thấy kể từ khi người ta tiêm gammaglobuline một cách có hệ thống cho các phụ nữ Rhésus âm. Tỷ lệ đồng miễn dịch hóa Rhésus thứ phát sau phá thai khoảng 7% trong trường hợp không có huyết thanh dự phòng. Biến chứng tâm thần và tâm lý Hình thái và mức độ của các biến chứng này rất thay đổi. Thông thường là cảm giác tội lỗi hoặc hối tiếc sau phá thai. Các biểu hiện tâm thần nặng có thể được quan sát trong trường hợp đặc biệt các bệnh nhân lọan tâm thần (psychotique) và cần thiết có cách xử trí tâm thần dự phòng.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:56:15 GMT -5
Bài 2-Một số chú ý liên quan đến phá thai Mặc dù bác sỹ có trình độ chuyên môn và tay nghề cao, cơ sở y tế tin cậy đảm bảo điều kiện vô trùng và sức khoẻ của bạn đáp ứng được với việc phá thai, song phá thai luôn tiềm ẩn những nguy cơ tai biến, để lại những di chứng có thể rất nặng nề. Chính vì vậy, trong bất cứ trường hợp nào, phá thai chỉ được coi là biện pháp cuối cùng, ''chữa cháy'' mà thôi. Bạn cần quan tâm đến một số vấn đề liên quan đến phá thai sau đây. Photo Sharing and Video Hosting at Photobucket Làm thế nào để không phải phá thai? Phá thai chỉ là một biện pháp chữa cháy, các bạn đừng lặp lại, vì càng lặp lại, khả năng tai biến càng lớn. Do đó, nếu có quan hệ tình dục mà chưa sẵn sàng có thai, các bạn cần sử dụng biện pháp tránh thai. Vậy phải tránh thai như thế nào? Một số đôi bạn tình quyết tâm "nằm riêng", nhiều đôi còn thề không bao giờ "gần" nhau nữa. Thực tế cho thấy phương án này ít khả thi. Vì vậy, các bạn hãy chọn một biện pháp tránh thai đáng tin cậy và sử dụng nó thường xuyên, liên tục. Hút, nạo thai không gây ung thư như một số người lầm tưởng. Ung thư xuất hiện là do sự đột biến tế bào; hút nạo thai không gây ra sự đột biến đó. Những lưu ý trước khi phá thai Để đi đến quyết định phá thai không bao giờ là dễ dàng, phải không bạn? Các bạn cần trao đổi với nhau thật kỹ lưỡng và lường trước những "biến chứng" có thể xảy ra và khả năng đương đầu với chúng sau này. Và một điều rất quan trọng là trước khi đi hút, nạo thai, bạn cần xác định chắc chắn mình có thai hay không. Bạn hãy đi thử thai ở cơ sở y tế, hoặc tự thử bằng dụng cụ thử thai nhanh mua ở hiệu thuốc (phổ biến là que thử Quick Stick). Chậm kinh chưa chắc đã là có thai vì kinh nguyệt nhiều khi cũng dao động. Nếu chậm kinh, bạn nên thử cho chắc chắn, đừng vội vã hút ngay. Trên thực tế đã có một số bạn dù chậm kinh nhưng vẫn không muốn nghĩ là đã có thai, cứ ở nhà cầu trời là không phải, để đến khi rõ rồi thì thai đã lớn, không xử lý được nữa. Đối với những bạn có quan hệ tình dục nhưng không sử dụng một biện pháp tránh thai có hiệu quả cao, nếu thấy đã chậm kinh nguyệt một tuần thì nhất thiết nên thử thai. Nếu biết chắc mình có thai mà không thể sinh con, bạn hãy đến cơ sở y tế trong khoảng thời gian có thể để hút hoặc nạo. Để chắc chắn được hút (an toàn hơn nạo), bạn hãy đến cơ sở y tế khi chậm kinh chưa quá 4 tuần. Tuy nhiên, cũng không nên hút quá sớm, vì có thể trứng đã thụ tinh nhưng chưa vào làm tổ trong tử cung và sẽ phải hút lại. Tốt nhất là hút thai khi chậm kinh 2-3 tuần và nên đi siêu âm trước khi hút để đảm bảo là phôi đã vào đến tử cung. Nhiều bạn lo lắng không biết liệu việc hút, nạo thai có ảnh hưởng nhiều đến sức khoẻ và có hại về sau hay không. Cần phải nói rằng hút, nạo thai là tác động trực tiếp vào buồng tử cung, dĩ nhiên có nguy cơ gây chảy máu, nhiễm trùng, viêm phần phụ, một số ít trường hợp thủng tử cung hay dính thành tử cung, có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ và khả năng sinh sản về sau. Vậy nhưng hút nạo thai nếu đúng kỹ thuật và đảm bảo vô trùng thì an toàn hơn mang thai và sinh đẻ. Nếu cần phải hút nạo thai, các bạn hãy đến một trong các địa chỉ an toàn và đừng quá lo lắng. Khi đến cơ sở y tế, các bạn cần chuẩn bị trước một khoản tiền viện phí và mang sẵn băng vệ sinh. Trước khi thực hiện phá thai, bạn nữ sẽ được bác sĩ khám để kiểm tra sức khoẻ và tình hình thai nghén. Bác sĩ có thể cho bạn uống thuốc hoặc tiêm thuốc giảm đau. Không như người ta nói chỉ đau như kiến cắn, phá thai thực sự gây đau, và nạo thai hay kovax thì gây đau hơn hút thai hay bỏ thai bằng thuốc. Song, đau nhiều hay ít một phần cũng là do tâm lý. Đã có nghiên cứu cho thấy rằng những phụ nữ lo lắng nhiều, sợ đau nhiều thường cảm thấy đau hơn người khác. Do đó điều quan trọng là bạn gái cần cố gắng thư giãn, loại bỏ nỗi sợ hãi. Việc này cũng qua nhanh thôi, bạn hãy tự tin, điều đó sẽ giúp bạn bớt đau. Những lưu ý sau khi phá thai Sau khi phá thai, bạn nữ nằm nghỉ tại cơ sở y tế một, hai tiếng để hồi sức và để theo dõi trước khi về. Bạn còn chảy máu, nhưng không nhiều hơn hành kinh. Cơ thể có thể mệt, bạn cần nghỉ ngơi và ăn uống bổ dưỡng. Bạn không phải kiêng thức này thức khác hay kiêng tắm gội, mà hãy coi đó chỉ là một lần hành kinh hơi nặng nề. Nếu muốn thử lại cho chắc chắn là không còn thai, bạn hãy đợi 2 tuần, bởi đến 2 tuần sau khi phá thai, cơ thể mới hết hóc môn HCG. Nếu gặp các hiện tượng chảy máu nặng, chảy máu kéo dài, âm đạo tiết nhiều dịch hôi, đau bụng, sốt, vô kinh ... thì hãy trở lại cơ sở y tế ngay để được kiểm tra. Ngay cả khi nếu không có hiện tượng gì bất thường, bạn cũng nên đi khám lại sau khi hút, nạo 2 tuần. Làm sao để tránh được tai biến sau khi nạo? Hãy đến khám lại ở bác sĩ phụ khoa theo đúng hướng dẫn để kiểm tra độ an toàn của tử cung cũng như để bác sĩ chỉ định cách phòng tránh viêm nhiễm và rối loạn nội tiết. Bạn cũng có thể xin ý kiến của bác sỹ về các biện pháp tránh thai khi đến khám lại. Trong vòng một tuần sau khi nạo, nên chú ý bồi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ để tránh những biến chứng có thể xảy ra. Không nên hút thuốc, uống rượu. Hãy cố gắng tạo cho mình những nguồn động viên tốt. Quan hệ tình dục sau khi nạo hút thai Về tình dục, sau khi nạo, hút thai, bạn gái cần tránh quan hệ trong 2 đến 3 tuần, vì khi ấy cổ tử cung còn hơi mở, nếu có quan hệ tình dục sớm rất có thể gây viêm nhiễm khá trầm trọng và thậm chí gây xuất huyết. Hãy nhớ rằng, quá trình thụ thai có thể xảy ra ngay sau chu kỳ hành kinh đầu tiên sau khi nạo, do đó, sau khi nạo, hút thai, bạn cần sử dụng ngay các biện pháp tránh thai khi có quan hệ tình dục trở lại.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:56:55 GMT -5
Bài 3-Phá thai bằng thuốc Phá thai bằng thuốc đã được nghiên cứu và thử nghiệm ở nhiều nước. Hiện nay, một số nước đã chính thức cho phép sử dụng phương pháp phá thai này, trong đó có Việt Nam. Đã có trên 15 quốc gia chính thức chấp nhận việc chấm dứt thai kỳ bằng thuốc, nhất là sau khi hiệu quả của Mifepriston được chứng minh vào năm 1982. Trong 3 tháng đầu thai kỳ, các thủ thuật nạo hút sản khoa thường được dùng nhiều hơn, nhưng những thủ thuật này ít thành công trong những trường hợp thai dưới 7 tuần tuổi. Khi ấy việc dùng thuốc để chấm dứt thai kỳ tỏ ra an toàn hơn. Bài viết này đề cập đến một số hiểu biết hiện nay về việc chấm dứt thai kỳ bằng thuốc trong giai đoạn sớm của thai kỳ. 1. Cơ chế tác động của thuốc phá thai Trứng sẽ kết hợp với tinh trùng tại vị trí 1/3 vòi trứng ngoài, sau 6 đến 10 ngày, trứng đã được thụ tinh sẽ di chuyển từ vòi trứng vào làm tổ trong buồng tử cung. Hiện tượng này cần đến tác động của progesteron để phiên giải các gen tham gia quá trình làm tổ. Progesteron cũng ức chế sự co thắt cơ trơn tử cung, làm giảm sự co bóp của cơ tử cung, tạo điều kiện cho hợp tử làm tổ và phát triển trong buồng tử cung. Các thuốc được dùng để chấm dứt thai kỳ tác động bằng cách ức chế tổng hợp progesteron, gây tăng co cơ tử cung, do đó cản trở sự làm tổ và phát triển của hợp tử. Ức chế tổng hợp progesteron: Các phân tử steroid được thay đổi cấu trúc, như epostan, và các chất ức chế cạnh tranh với enzym 3D-hydroxysteroid dehydrogenase ở buồng trứng và nhau thai, như trilostan, có tác dụng ức chế tổng hợp progesteron từ tiền chất của nó là pregnenolon. Gây co cơ tử cung: Prostaglandin và Oxytocin kích thích co thắt tử cung bằng cách gắn với thụ thể đặc hiệu trên bề mặt tế bào cơ trơn tử cung. Tác dụng này làm lưới nội bào tương tăng sản xuất Calci, do đó làm tử cung co thắt. Ðối kháng tác dụng của Progesteron: Chất đối kháng Progesteron (kháng-progestin) được phát triển đầu tiên là Mifepriston, còn được gọi là RU 486 hoặc RU 38486, có ái tính kết gắn với thụ thể Progesteron mạnh gấp 5 lần so với progesteron. Hợp chất này ức chế sự phiên giải, làm giảm số lượng gen lệ thuộc Progesteron, gây hoại tử màng rụng và bong phôi. Kháng-progestin còn tác động trên mạch máu nội mạc làm hỏng phôi. Những chất này làm tăng co tử cung bằng cách tăng tính kích thích của tế bào cơ trơn tử cung, và còn làm mở cổ tử cung. Ức chế sự phát triển dưỡng bào (tế bào sinh trưởng): Methotrexat, chất đối kháng Acid Folic, ngăn chặn sự tổng hợp DNA. Các tế bào đang tăng sinh đều nhạy cảm với Methotrexat, vốn thường dùng để trị ung thư nhau và thai ngoài tử cung. 2. Những điều cần lưu ý khi sử dụng thuốc phá thai Chấm dứt thai kỳ bằng thuốc chỉ được xem là thành công khi tống xuất được phôi thai ra ngoài buồng tử cung mà không cần can thiệp ngoại khoa. Phương pháp này không được dùng sau tuần 9 của thai kỳ vì dễ thất bại và gây xuất huyết tử cung. Do đó việc xác định tuổi thai qua siêu âm rất cần thiết. Ngoài ra, với phương pháp này, sản phụ phải được các thầy thuốc chuyên khoa theo dõi chặt chẽ hơn so với phương pháp nạo phá thai bằng thủ thuật sản khoa. 3. Một số loại thuốc phá thai Trên thế giới hiện nay có 4 nhóm thuốc phá thai, riêng tại Việt Nam nhóm mifepristone và misoprostol thường được sử dụng. EPOSTAN Có thể dùng đơn thuần hoặc phối hợp với Prostaglandin E2 (đặt âm đạo) đối với các trường hợp thai dưới 8 tuần. Liều dùng là 200 mg mỗi 6-8 giờ trong 7 ngày. Tỉ lệ thành công chỉ 84% nhưng gây buồn nôn ở 86% số sản phụ. Vì thế, Epostan không được FDA (Food and Drug Administration – Cơ quan quản lý thực, dược phẩm Mỹ) công nhận sử dụng trong chỉ định này. PROSTAGLANDIN Hiện nay chỉ sử dụng các hợp chất prostaglandin E2 tổng hợp như Misoprostol và Gemeprost. Misoprostol tương đối rẻ, có thể bảo quản ở nhiệt độ phòng, và hiện được dùng tại nhiều nước để đề phòng và điều trị loét dạ dày do thuốc kháng viêm không-steroid. Trái lại, Gemeprost chỉ có dạng thuốc đặt âm đạo, đắt tiền, cần bảo quản trong tủ lạnh. Thuốc này không được chấp nhận sử dụng tại Hoa Kỳ. Hiệu quả: Thuốc dùng đường uống kém hiệu quả hơn thuốc đặt âm đạo. Những nghiên cứu với Misoprostol khi uống liều 800-2400 mg cho thấy kết quả gây sẩy thai hoàn toàn đạt từ 22% đến 94%, tỉ lệ thành công không lệ thuộc liều dùng và tuổi thai. Làm ướt viên nén Misoprostol trước khi đặt vào âm đạo cũng không cải thiện được kết quả. Gemeprost đặt âm đạo với liều 1 mg (nếu cần cứ 3 giờ có thể đặt thêm một liều, tối đa là 5 liều) cho kết quả thành công ở 97% số sản phụ có thai dưới 56 ngày. Nếu dùng liều 1 mg đặt âm đạo 6 giờ/ một liều (tối đa 3 liều) thì tỉ lệ thành công chỉ 87%. Tác dụng phụ: Prostaglandin có nhiều tác dụng phụ (đau bụng, chóng mặt, buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy, rét run và nổi mẩn). Thường phải giảm đau bằng thuốc giảm đau họ á phiện (53% số khách hàng dùng Gemeprost tổng liều 5 mg phải dùng thuốc giảm đau, so với 16% khi dùng tổng liều 3 mg), nên sản phụ cần ở lại bệnh viện để theo dõi. Khi dùng Misoprostol, thời gian ra huyết trung bình là 11 ngày, so với 14 ngày khi dùng Gemeprost. Những trường hợp dùng Misoprostol thất bại có thể gây các dị tật bẩm sinh cho thai (thiếu da đầu hoặc xương sọ, liệt các dây thần kinh sọ, hoặc dị tật chi dưới) mà nguyên nhân có thể do tăng áp suất buồng tử cung (vì co cơ tử cung) hoặc co mạch. Vì có nhiều tác dụng phụ nên Prostaglandin thường được dùng liều thấp và phối hợp với Mifepriston hoặc Methotrexat. METHOTREXAT + PROSTAGLANDIN Phối hợp hai thuốc này rất có hiệu quả trong việc chấm dứt thai kỳ. Methotrexat thường được tiêm bắp với liều 50 mg/m2 diện tích da. Dùng đường uống (liều duy nhất 25 mg hoặc 50 mg) cũng có hiệu quả. Sau đó 3-7 ngày, đặt âm đạo 800 mg Misoprostol. Hiệu quả: Nếu tuổi thai dưới 8 tuần, dùng phối hợp Methotrexat và Misoprostol có tỉ lệ thành công từ 84-97%, tính từ khi dùng Methotrexat cho đến 24 giờ sau khi đặt Misoprostol hoặc muộn hơn. Khoảng 12-35% số sản phụ bị sẩy thai muộn 20-30 ngày sau khi dùng Misoprostol. Tác dụng phụ: Xuất độ các tác dụng phụ khi dùng phác đồ này thay đổi tùy nghiên cứu. Thường gặp là các triệu chứng sốt và rét run (8-60%), tiêu chảy (3-52%), buồn nôn (2-25%). Khoảng 40-90% số sản phụ báo cáo phải cần đến thuốc giảm đau. Ngoài ra, có 5% số trường hợp bị viêm loét miệng do Methotrexat. Thời gian trung bình ra huyết âm đạo từ 10-17 ngày. Trong một nghiên cứu (Wiebe, 1997), có 4% số sản phụ phải can thiệp ngoại khoa vì xuất huyết nhiều. Metho-trexat có thể gây dị dạng trên thai (chi ngắn, thiếu ngón) và cần theo dõi kỹ bằng siêu âm sau khi dùng thuốc vì có 1-10% số thai vẫn phát triển. KHÁNG PROGESTIN + PROSTAGLANDIN Kháng Progestin được nghiên cứu nhiều nhất là Mifepriston (200-600mg). Prostaglandin thường được dùng sau liều Mifepriston 48 giờ, với Gemeprost (1 mg đặt âm đạo) hoặc với Misoprostol (uống liều duy nhất 400-600 mg hoặc dùng liều đầu 400 mg rồi dùng thêm 200 mg sau 2-3 giờ nếu chứa sẩy thai; hoặc đặt âm đạo 800 mg). Một nghiên cứu (Baird và cs., 1995) cho thấy tỉ lệ thai tiếp tục phát triển cao hơn khi uống Misoprostol so với Gemeprost đặt âm đạo. Hiệu quả Đối với thai dưới 7 tuần, tỉ lệ thành công khi dùng phối hợp Mifepriston và Prostaglandin là 92-98%. Ðối với thai từ 7-9 tuần, tỉ lệ thành công khi phối hợp với Misoprostol dạng uống (77-95%) thấp hơn so với khi phối hợp với Gemeprost hoặc Misoprostol đặt âm đạo (94- 97%). Sảy thai xảy ra trong vòng 4 giờ sau khi dùng Misoprostol được ghi nhận ở 44-77% số sản phụ. Có hai nghiên cứu dùng Mifepriston + Misoprostol dạng uống cho thấy tỷ lệ thai tiếp tục phát triển tăng dần theo tuổi thai (Spitz và cs., 1998; và Aubeny và cs., 1995), nhưng không thấy sự kết hợp đó khi dùng Mifepriston + Gemeprost. Tác dụng phụ Nghiêm trọng nhất là ra huyết âm đạo nhiều, nhưng chỉ có 0,1% số trường hợp cần truyền máu. Lượng máu mất từ 84-101 ml, so với 53 ml khi dùng thủ thuật sản khoa. Thời gian ra huyết khoảng 8-17 ngày. Dùng methotrexat hoặc thuốc ngừa thai không có hiệu quả rút ngắn thời gian ra huyết. Tác dụng phụ hay gặp nhất là đau bụng và gò tử cung, nhiều trường hợp phải dùng một hoặc nhiều thuốc giảm đau. Các tác dụng phụ khác ở đường tiêu hóa do Prostaglandin là buồn nôn (34-72%), ói mửa (12-41%), tiêu chảy (3-26%). Hiếm gặp hơn là nhức đầu, chóng mặt, đau lưng, mệt mỏi. Tỷ lệ viêm nội mạc tử cung thấp hơn khi phá thai bằng thủ thuật sản khoa. Misoprostol có thể đi kèm với các dị tật bẩm sinh ở người như đã nêu ở trên. Chống chỉ định Mifepriston và Prostaglandin bị chống chỉ định cho những sản phụ phải dùng liệu pháp corticoid dài ngày (hen suyễn, suy thượng thận). Phải thận trọng khi dùng những thuốc này cho bệnh nhân tiểu đường có biến chứng, thiếu máu nặng, hoặc rối loạn đông máu và bệnh nhân dùng thuốc chống đông máu. Sulfoproston (một loại prostaglandin) bị chống chỉ định cho phụ nữ trên 35 tuổi bị béo phì, nghiện thuốc lá, hoặc có các yếu tố nguy cơ tim mạch khác vì thuốc dễ gây suy tim trên những đối tượng này. Tuy vậy, đối với mifepriston và gemeprost thì không chống chỉ định cho những đối tượng đó. Khi dùng Methotrexat cần tránh dùng thuốc có chứa Folat. Phương pháp phá thai bằng thuốc đã được thử nghiệm 6 lần tại Việt Nam trên 800 phụ nữ mang thai dưới 7 tuần; tỷ lệ thành công là 93%. Các thuốc được sử dụng là Mifepristone (còn gọi là RU-486) và Misoprostol do Pháp sản xuất. Các thuốc này thường gây các tác dụng phụ như buồn nôn, đau bụng, nhưng thời gian xuất hiện không kéo dài. Hiện nay, phá thai bằng thuốc đã được sử dụng ở nước ta tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh và trung ương. Người được phép thực hiện là các bác sĩ sản phụ khoa được huấn luyện về phá thai bằng thuốc. Khách hàng không được tự áp dụng các phương pháp này mà phải có sự chỉ định và theo dõi chặt chẽ của bác sĩ. Bài 4- Các biện pháp phá thai (Hút ,Nạo thai, Kovax ) Các biện pháp phá thai là các thủ thuật kết thúc quá trình thai nghén trong thời gian đầu của thai kỳ khi thai chưa quá 12 tuần tuổi (nạo, hút thai) hoặc khi thai đã lớn (kovax) . Hút thai Hiện nay, so với nạo thai hoặc kovax, hút thai vẫn được coi là biện pháp phá thai an toàn hơn. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, do có nhiều kỹ thuật phát hiện thai sớm và người ta cũng hiểu được sự nguy hiểm của việc nạo, phá thai lớn nên số người phát hiện thai sớm và đi hút nhiều hơn nạo. Thủ thuật hút: Bác sĩ đưa một ống nhỏ bằng nhựa qua cổ tử cung vào trong tử cung (ống này nối với bơm điện hoặc bơm tay rồi hút phôi thai ra). Thủ thuật được thực hiện nhẹ nhàng, ít đau đớn và ít biến chứng. Việc hút thai cần được thực hiện ở các trung tâm chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, phòng khám sản phụ khoa, trạm y tế. Hiện nay có hai loại bơm hút thai: Bơm tay và bơm điện: - Hút thai bằng bơm tay cũng có hai loại: Bơm tay một van và bơm tay hai van. Với hút thai bằng bơm tay một van có thể được thực hiện trong trường hợp tuổi thai dưới 8 tuần tuổi (hoặc bạn gái chậm kinh chưa quá 4 tuần), còn hút thai bằng bơm tay hai van được thực hiện trong các trường hợp tuổi thai dưới 12 tuần (hoặc bạn gái chậm kinh chưa quá 8 tuần). - Hút thai bằng bơm điện được thực hiện trong các trường hợp giống như hút thai bằng bơm tay hai van (khi tuổi thai dưới 12 tuần hoặc bạn gái chậm kinh chưa quá 8 tuần). Nạo thai Nạo thai là thủ thuật phá thai được thực hiện với những trường hợp tuổi thai dưới 12 tuần hoặc bạn gái chậm kinh chưa quá 8 tuần. Bác sĩ nong rộng cổ tử cung rồi đưa vào trong tử cung một dụng cụ giống như cái thìa để lấy ra phôi thai cùng rau thai. Nạo thai thường gây đau hơn, tỷ lệ biến chứng cao hơn so với hút. Nạo thai đòi hỏi cán bộ y tế có kỹ thuật. Việc nạo thai cần được thực hiện ở các bệnh viện. Hiện nay và trong tương lai biện pháp này sẽ được hạn chế sử dụng để tăng độ an toàn cho bạn gái. Phá thai bằng kovax Bên cạnh những phương pháp dành cho việc nạo phá thai sớm này, bạn còn có thể nghe đến việc nạo phá thai muộn (đối với thai từ 4-5 tháng) gọi là phương pháp phá thai kovax. Trường hợp này bác sỹ sẽ tiêm truyền chất oxytocin (thường được gọi là thuốc giúp đẻ nhanh) để kích thích co bóp tử cung và chuyển dạ để đưa thai và rau thai ra ngoài. Kỹ thuật này chỉ tiến hành với các trường hợp đặc biệt vì nó có thể đưa đến nhiều tai biến nguy hiểm.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:57:20 GMT -5
Bài 5- Các địa chỉ cần biết khi có thai ngoài ý muốn Bệnh viện phụ sản Trung Ương (Bệnh viện C) Địa chỉ: 43 Tràng Thi, Hoàn Kiếm, Hà Nội Điện thoại: (04) 8254637 Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội Địa chỉ: 929 Đê La Thành, Ba Đình, Hà Nội Marie Stopes – Trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản phụ nữ Địa chỉ: Căn hộ số 2, tầng 2, tòa nhà A4, làng quốc tế Thăng Long, phường Dịch Vọng, Cầu Giấy, Hà Nội Điện thoại (84-4) 754 5169 Fax (84-4) 791 0285 Email:msihanoi@mariestopes.org.vn Giờ mở cửa Từ thứ 2 đến thứ 6: 8h00 – 12h00, 13h00 – 18h00 Thứ 7: 8h00 – 12h00, 13h00 – 17h00 Phòng khám SKSS tư nhân Địa chỉ: 6 Triệu Quốc Đạt Liên hệ: BS Phạm Huy Hiền Hào Mobile: 0913597951 Lịch làm việc: 17h-20h các ngày trong tuần Trung tâm phát triển sức khoẻ cộng đồng Ánh sáng (Light) Địa chỉ: Toà nhà số 4, nhà A2, đường Nguyễn Khánh Toàn, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Điện thoại liên hệ và tư vấn miễn phí: (04) 2696269/ (04) 2696262 Lịch làm việc: Từ thứ 2 đến thứ 7, sáng 8h - 12h; chiều 13h30 - 17h30. Nghỉ Chủ nhật Phòng khám đa khoa tư nhân Địa chỉ: gác 3, số 26 Lương Ngọc Quyến, Hà Nội Điện thoại: (04) 9262546/ 9262547 Lịch làm việc: Sáng thứ Bảy Phòng khám đa khoa tư nhân Địa chỉ: 55 Hàng Cót, Hoàn Kiếm, Hà Nội Điện thoại: (04) 8267124 Lịch làm việc: Sáng thứ 4, sáng thứ 5 Ngôi nhà Tuổi trẻ Địa chỉ: Số 5 Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội Điện thoại: (04) 5540155 Liên hệ: BS Trịnh Thị Lan Phòng khám nhà Hộ sinh A Địa chỉ: 36 Ngô Quyền, Hà Nội Điện thoại: (04) 8253828 Liên hệ: BS Phạm Thu Bình Phòng khám nhà Hộ sinh Ba Đình Địa chỉ: 12 Lê Trực, Ba Đình, Hà Nội Điện thoại: (04) 8452579 Liên hệ: BS Mộng Anh Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản BMB Địa chỉ: 14/ Lô 14A khu đô thị mới Trung Yên, phố Trung Hoà, Quận Cầu Giấy Điện thoại: (04) 7830017 Phần VI - Bệnh nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục (STIs) Bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs) là tình trạng nhiễm khuẩn hay nhiễm trùng do các tác nhân gây bệnh và truyền từ người này sang người khác qua đường tình dục. Việc phòng tránh STIs là trách nhiệm của mỗi người cũng như của cộng đồng để bảo vệ chính bản thân mỗi người và bảo vệ sự phát triển của xã hội. Đường lây truyền của STIs Ngay từ tên gọi, chúng ta đã có thể biết chính xác đường lây chủ yếu của các bệnh này, đó là thông qua quan hệ tình dục, ở cả ba hình thức: Quan hệ tình dục đường âm đạo: đưa dương vật vào âm đạo Quan hệ tình dục đường miệng: đưa dương vật vào miệng hoặc dùng miệng để mút bộ phận sinh dục Quan hệ tình dục đường hậu môn: đưa dương vật vào hậu môn Ngoài ra, một số bệnh lây qua đường tình dục còn có thể truyền từ người này sang người khác thông qua một số đường khác như: từ mẹ truyền sang con, đường máu…. Tác nhân gây ra các bệnh lây truyền qua đường tình dục bao gồm cả ba nhóm: vi rút, vi khuẩn và ký sinh trùng. Hiện nay, người ta đã tìm thấy khoảng hơn 20 loại bệnh lây qua đường tình dục, như: HIV/AIDS, lậu, giang mai, sùi mào gà, mụn rộp sinh dục, hạ cam, trùng roi âm đạo, nhiễm nấm sinh dục, chlamydia… Phòng tránh STIs như thế nào là hiệu quả? Việc hạn chế các hành vi nguy cơ có thể giúp bạn phòng tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Cụ thể: - Hiểu được tầm quan trọng của việc phòng tránh và điều trị các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục. - Luôn luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, tránh các hoạt động tình dục gây chấn thương như giao hợp đường hậu môn… - Quan hệ chung thuỷ, một bạn tình, không quan hệ tình dục với gái mại dâm, với nhiều bạn tình hoặc với bạn tình đang mắc STIs. - Tránh quan hệ tình dục khi đang mắc STIs. - Phát hiện và điều trị bệnh sớm, triệt để. Khuyến khích bạn tình cùng điều trị. Làm gì khi nghi ngờ mình hoặc bạn tình mắc STIs? Khoảng một nửa số người nhiễm STIs không có triệu chứng gì hoặc có triệu chứng không rõ ràng, có thể tự "biến mất" (nhưng không có nghĩa là khỏi bệnh). Chính vì vậy, nếu bạn hoặc bạn tình có bệnh ở cơ quan sinh dục, nếu đã có quan hệ tình dục với một người mà bạn không biết chắc là có bệnh hay không, hoặc nếu cơ quan sinh dục của bạn hoặc bạn tình có biểu hiện khác thường… thì bạn nên nghi ngờ là mắc bệnh. Đặc biệt là nếu bạn thấy có những dấu hiệu bất thường sau đây: - Dương vật hay âm đạo có tiết dịch bất thường - Cơ quan sinh dục ngứa, đau, rát, đỏ, có các nốt, các vết loét - Tiểu đau hoặc rát, hoặc tiểu nhiều hơn bình thường Trường hợp này bạn nên đi khám chuyên khoa da liễu tại các bệnh viện đa khoa Tỉnh/ Thành phố hoặc Viện da liễu. Đây là những cơ sở y tế có điều kiện xét nghiệm tốt, cán bộ y tế có trình độ, do đó việc chẩn đoán và điều trị bệnh chính xác. Bạn tuyệt đối không nên tự ý mua thuốc về điều trị lấy, vì có thể triệu chứng giống nhau nhưng không có nghĩa là mắc cùng một bệnh, do đó nếu không dùng thuốc đúng bệnh có thể nặng hơn hoặc dẫn đến hiện tượng "nhờn thuốc", khiến cho bệnh trở nên không chữa được. Khi được bác sỹ chẩn đoán và điều trị, bạn cũng cần tuyệt đối tuân thủ theo đúng chỉ dẫn của bác sỹ, dùng đúng liều, đúng thời gian và đi khám lại theo đúng hẹn. Đồng thời, một trong những yếu tố giúp cho việc điều trị các bệnh STIs hiệu quả là điều trị cả bạn tình. Do đó, việc trao đổi và khuyến khích bạn tình tham gia khám và điều trị là rất cần thiết, tránh để tình trạng bệnh lây đi lây lại, khó chữa.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:58:03 GMT -5
Bài 1- Bệnh Lậu
Bệnh lậu là một trong những bệnh lây truyền qua đuờng+ tình dục đuợc+ biết đến từ xưa. Đây là một bệnh nhiễm trùng, do lậu cầu khuẩn ''Neisseria gonorrhoeae' gây nên.
Bệnh lậu lây truyền như thế nào?
Bệnh lậu có nguyên nhân là do vi khuẩn gây ra. Vi khuẩn gây bệnh lậu không thể sống bên ngoài cơ thể quá vài phút, cũng như không thể sống trên bề mặt da của bàn tay, cánh tay, hay chân. Vì thế bệnh lậu không lây qua những hình thức giao tiếp thông thuờng+ như bắt tay, ôm hôn … Vi khuẩn lậu thuờng+ đuợc+ tìm thấy ở âm đạo và đặc biệt hơn nữa là ở cổ tử cung.
Bệnh lậu lây truyền trong khi giao hợp không đuợc+ bảo vệ, theo mọi hình thức (âm đạo, hậu môn, miệng). Ngoài ra, còn lây truyền từ mẹ sang con khi thai sổ qua ống đẻ.
Bệnh lậu biểu hiện như thế nào?
Nam giới: Thời gian ủ bệnh khoảng 2-7 ngày.
- Chảy mủ niệu đạo: Nhiều, đặc, sánh, màu vàng nhạt, hoặc trắng, tái diễn nhanh. - Đái buốt đầu bãi tiểu. - Phù nề bao quy đầu. - Sưng đau mào tinh hoàn.
Nữ giới: Thời gian ủ bệnh từ 3-10 ngày, phần lớn không có biểu hiện gì, một số ít truờng+ hợp cấp tính thì có biểu hiện như sau:
- Khí hư: Nhiều, đặc, sánh, màu xanh hoặc trắng. - Âm đạo: Đỏ, lổn nhổn nhiều hạt sùi. Không đau hoặc chỉ đau ít. - Chảy mủ trắng hoặc vàng nhạt từ hậu môn. - Đái buốt, đái dắt.
Bệnh lậu tiến triển như thế nào?
Bệnh lậu tiến triển chậm, âm ỉ, thỉnh thoảng có các đợt cấp thì mới có biểu hiện như trên đã mô tả. Các biểu hiện có thể tự mất đi mà không cần điều trị gì, sau một thời gian lại tái diễn. Trong thời gian bệnh không có biểu hiện vẫn có thể lây bệnh cho bạn tình.
Những biến chứng của bệnh lậu
Biến chứng của bệnh lậu chủ yếu là vô sinh, chửa ngoài tử cung, nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não, tăng nguy cơ nhiễm HIVAIDS…/.
Bệnh lậu điều trị như thế nào?
Với những truờng+ hợp bệnh lậu chưa có biến chứng, điều trị chủ yếu là dùng kháng sinh. Hiện nay thuờng+ dùng kháng sinh nhóm Cephalosporin thế hệ 3 (ceftriaxone, cefotaxime), hoặc Ciprofloxacine, Spectinomycine. Các thuốc trên đuợc+ dùng đúng với một liều duy nhất tiêm hoặc uống.
Với những bệnh lậu có biến chứng (viêm mào tinh hoàn, viêm vòi trứng,…) việc điều trị phức tạp hơn, các kháng sinh đuợc+ dùng với liều cao và kéo dài (2-4 tuần)
Nhiễm lậu cầu thuờng+ kèm theo nhiễm Chlamydia trachomatis do vậy cần kết hợp điều trị đồng thời cả lậu và Chlamydia trachomatis.
Điều quan trọng trong điều trị lậu nói riêng và các bệnh lây truyền qua đuờng+ tình dục nói chung là phải tiến hành điều trị cả bạn tình.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:58:38 GMT -5
Bài 2- Bệnh giang mai
Giang mai là bệnh xuất hiện từ thời thượng cổ, lây truyền chủ yếu qua đường tình dục. Đây là một bệnh nhiễm khuẩn do xoắn khuẩn Treponema pallidum gây nên.
Bệnh Giang mai cũng là một bệnh do vi khuẩn gây ra. Xoắn khuẩn giang mai (T. pallidum) có sức đề kháng rất yếu với môi trường ngoại cảnh, chúng chỉ sống được không quá vài giờ. Ở môi trường khô, chúng chết nhanh chóng, ngược lại trong môi trường ẩm ướt, chúng có thể sống được vài chục phút. Xà phòng có thể tiêu diệt được xoắn khuẩn giang mai trong vài phút.
Bệnh giang mai lây truyền như thế nào?
Xoắn khuẩn giang mai xâm nhập trực tiếp vào cơ thể khi giao hợp không được bảo vệ (đường âm đạo, hậu môn hay miệng), qua các vết xước trên da, niêm mạc khi tiếp xúc với dịch tiết từ tổn thương giang mai. Xoắn khuẩn giang mai còn có thể lây truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ bào thai từ tháng thứ 4 trở đi, do xoắn khuẩn xâm nhập máu thai nhi qua dây rốn.
Bệnh giang mai có biểu hiện như thế nào?
Các biểu hiện của bệnh phụ thuộc vào thời kỳ của bệnh. Thời gian ủ bệnh khoảng 3-4 tuần, sớm nhất là 10 ngày, muộn nhất là 90 ngày.
Săng giang mai: Là một vết trợt rất nông, hình tròn hoặc bầu dục, màu thịt tươi, không có mủ, không có vẩy, không đau rát (nếu không bị bội nhiễm). Săng có thể ở quy đầu, rãnh quy đầu, thân dương vật, môi lớn, môi bé, âm vật, âm đạo, nếp hậu môn, họng, lưỡi, đôi khi ở trán. Đó là những nơi mà xoắn khuẩn đã xâm nhập.
- Sưng hạch bẹn: Hạch bẹn sưng lên thành từng chùm, trong đó có một hạch to hơn các hạch khác, không đau. Xuất hiện sau săng khoảng vài ngày, cũng tự mất đi theo săng.
- Sẩn giang mai: Là những sẩn gồ cao trên mặt da, hình tròn hoặc bầu dục, rắn chắc, màu hồng đỏ, có khi tập trung thành đám, không gây đau. Sẩn giang mai thường xuất hiện ở rìa tóc, trán, gáy, lòng bàn tay, lòng bàn chân, kẽ mông, quanh hậu môn, âm hộ.
- Viêm hạch lan tỏa: các hạch vùng nách, bẹn, sau tai, dưới hàm trở nên chắc, cứng, không đau, di động ngay dưới da.
- Gôm giang mai: là những khối u sùi, có thể ở da, niêm mạc, cơ, xương. Ban đầu gôm rất chắc, cứng sau đó mềm dần và loét, khi loét chảy ra mủ sánh, đặc lẫn máu, không đau. Khi mủ chảy hết sẽ để lại một ổ loét tròn, đáy cứng, ổ loét này dần sẹo hóa.
- Củ giang mai: là những tổn thương gồ lên mặt da (cao hơn sẩn), màu hồng đỏ, đường kính khoảng 1 cm, không đau. Thường tập trung thành từng đám, xếp theo hình nhẫn, hình cung hoặc vòng vèo. Củ giang mai không bao giờ tái phát trên sẹo cũ.
Tất cả các biểu hiện trên đều có thể tự mất đi mà không cần điều trị gì cả, sau đó tái diễn với mức độ nặng hơn.
Ngoài những biểu hiện trên, giang mai còn có những biểu hiện khác như tổn thương van tim, cơ tim, tủy sống (liệt), não (rối loạn tâm thần).
Bệnh giang mai tiến triển như thế nào?
Nếu không điều trị, giang mai tiến triển qua 3 thời kỳ.
- Thời kỳ đầu: kéo dài khoảng 6-8 tuần, tổn thương mới chỉ khu trú tại những vị trí mà xoắn khuẩn xâm nhập. Các biểu hiện trong giai đoạn này là săng, viêm hạch bẹn, chúng có thể tự mất đi mà không cần điều trị gì cả.
- Thời kỳ thứ hai: kéo dài khoảng 2 năm, tổn thương ở da, niêm mạc lan tỏa khắp cơ thể do xoắn khuẩn đã vào máu và phát tán. Các tổn thương thời kỳ này chủ yếu là sẩn, viêm hạch lan tỏa, phát ban, chúng cũng có thể tự mất đi mà không cần điều trị gì, sau đó tái phát với mức độ nặng hơn.
- Thời kỳ thứ ba: thường bắt đầu vào năm thứ ba của bệnh, kéo dài hàng chục năm, tổn thương các cơ quan, phủ tạng (gan, tim, thần kinh, cơ, xương…). Giai đoạn này người bệnh ít có khả năng lây nhiễm cho bạn tình vì xoắn khuẩn đã xâm nhập và khu trú vào phủ tạng, không còn ở da, niêm mạc nữa. Tổn thương giai đoạn này là gôm, củ giang mai, tim mạch, thần kinh, gan. Hiện nay rất hiếm gặp giai đoạn này do được chẩn đoán và điều trị sớm.
Bệnh giang mai có những biến chứng gì?
Giang mai có rất nhiều biến chứng, chúng có thể gây nguy hiểm cho tính mạng người bệnh. Có thể nói rằng “giang mai là một diễn viên biệt tài”, có thể đóng vai mang đặc điểm của hơn chục bệnh nội, ngoại khoa khác nhau, đơn giản vì xoắn khuẩn giang mai có thể gây tổn thương tất cả các cơ quan trong cơ thể, từ da, niêm mạc, mắt đến các nội tạng như gan, tim mạch, thần kinh. Một số biến chứng nguy hiểm là viêm động mạch chủ, phình động mạch chủ, bại liệt toàn thân, rối loạn tâm thần, viêm gan. Giang mai bẩm sinh có thể gây tử vong cho thai nhi hoặc dị dạng thai sau khi sinh.
Bệnh giang mai điều trị như thế nào?
Điều trị bệnh giang mai đã có kết quả rất khả quan, tránh được nhiều biến chứng nguy hiểm của bệnh. Việc lựa chọn phác đồ điều trị tùy thuộc vào giai đoạn của bệnh, những thuốc điều trị hiện được Bộ y tế khuyến cáo sử dụng là Penicilline G, Tetracycline, Doxycicline. Bài 3-Nhiễm Chlamydia
Nhiễm Chlamydia
Nhiễm Chlamydia là tình trạng nhiễm khuẩn do Chlamydia tracomatis gây ra, có thể ở cơ quan sinh dục hoặc ở hệ thống cơ quan khác.
Giống Chlamydia có nhiều loại nhưng chúng ta thường gặp là Chlamydia trachomatis. Ch.trachomatis còn có thể gây bệnh ở trực tràng, kết mạc mắt, gan, mô mềm.
Chlamydia là vi khuẩn ký sinh bắt buộc trong tế bào do vậy chúng không thể sống trong môi trường tự nhiên được.
Theo CDC - Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ - trên thế giới có khoảng 15 triệu người nhiễm Chlamydia, và số người mới nhiễm hàng năm khoảng 300 000 người. Trong thực tế nhiều trường hợp không được chẩn đoán, do vậy tỷ lệ ước lượng khoảng 5-10% dân số trong độ tuổi hoạt động tình dục. Ở Việt Nam chưa có số liệu thống kê chính xác về vấn đề này.
Chlamydia trachomatis lây truyền như thế nào?
Cách thức lây truyền Ch.trachomatis tương tự như bệnh lậu, tức là chỉ lây truyền qua giao hợp không bảo vệ, theo mọi hình thức (âm đạo, hậu môn, miệng). Ngoài ra chúng còn có thể lây truyền từ mẹ sang thai khi thai sổ đẻ.
Nhiễm Chlamidia có biểu hiện như thế nào?
Có ít nhất 50% trường hợp không có biểu hiện gì đặc biệt, dễ bỏ qua. Thời gian ủ bệnh khoảng 5-15 ngày.
Ở nam giới, các biểu hiện có thể gặp là tiết dịch niệu đạo màu trắng, trong, không mùi, số lượng ít kèm theo có đái dắt, ngứa niệu đạo. Có thể gặp viêm tinh hoàn, viêm mào tinh hoàn.
Ở nữ giới, biểu hiện có thể gặp là rối loạn kinh nguyệt, khí hư bẩn trắng đục, không mùi. Ngoài ra có thể kèm đau bụng dưới rốn, đau lưng, sưng đau hạch bẹn rồi mủ hóa và vỡ.
Chlamydia còn là nguyên nhân gây bệnh u hạch bạch huyết hoa liễu, biểu hiện là phù nề các bộ phận sinh dục ngoài, sưng đau hạch bẹn.
Chlamydia tiến triển như thế nào?
Như đã nêu trên, nhiễm Chlamydia tiến triển từ từ, ít nhất 50% không có biểu hiện gì. Bệnh tiến triển mạn tính, nhưng luôn có khả năng lây nhiễm cho bạn tình. Nếu không được điều trị đúng thì sẽ không bao giờ khỏi được.
Chlamydia có biến chứng gì?
Ở nam giới, biến chứng chủ yếu là viêm tinh hoàn và viêm mào tinh hoàn, do đó có thể gây vô sinh. Ở nữ giới, biến chứng thường gặp là viêm tiểu khung (bao gồm viêm vòi trứng, buồng trứng, viêm phúc mạc chậu hông), viêm nội mạc tử cung, những biến chứng này chẳng những có thể gây vô sinh mà còn có thể gây nguy hiểm đến tính mạng (đặc biệt là viêm phúc mạc tiểu khung).
Điều trị Chlamydia như thế nào?
Nhiễm Chlamydia được điều trị nội khoa, sử dụng kháng sinh diệt vi khuẩn. Các kháng sinh thường dùng là Doxycyclin, Tetracyclin, Erythromycine. Với nhiễm Chlamydia chưa có biến chứng thì thời gian điều trị khoảng 10 ngày, với những trường hợp có biến chứng thì thời gian điều trị sẽ kéo dài hơn.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:59:15 GMT -5
Bài 4-Bệnh Hạ cam
Bệnh Hạ cam
Hạ cam là bệnh nhiễm khuẩn sùi loét bộ phận sinh dục do trực khuẩn Hemophilus ducreyi gây nên. Hạ cam gặp ở khắp mọi nơi trên thế giới, đặc biệt là các nước vùng nhiệt đới đang phát triển, tỷ lệ khoảng 50-60/100.000 dân. Hạ cam xuất hiện phổ biến nhất là các quần thể dân cư sống ở thành thị nhưng có điều kiện kinh tế xã hội thấp kém, hoặc gái mại dâm, nghiện chích ma túy, đây cũng là các yếu tố nguy cơ của nhiễm HIV.
Vi khuẩn H.ducreyi chỉ có thể phát triển được nhờ các yếu tố có trong hồng cầu (protoporphirin) do vậy H.ducreyi không sinh sống trong môi trường ngoài bình thường được.
Bệnh hạ cam lây truyền như thế nào?
Hạ cam chỉ lây truyền qua giao hợp khi giao hợp không được bảo vệ, theo mọi hình thức (âm đạo, hậu môn, miệng) mà không lây truyền theo những đường khác như tiêm chích, tiếp xúc thông thường...
Bệnh hạ cam có biểu hiện như thế nào?
Thời kỳ ủ bệnh của hạ cam từ 1-15 ngày.
Bệnh hạ cam thường biểu hiện ra bên ngoài bởi những vết loét ranh giới rõ rệt, thường giới hạn ở khu vực bộ phận sinh dục ngoài và đáy chậu. Các vết loét này tiết dịch màu vàng nhạt, đáy nổi hạt, rất đau. Ngoài ra còn có những biểu hiện khác như sẩn loét, sưng đau hạch bẹn khi vỡ có chảy mủ lẫn máu.
Bệnh hạ cam tiến triển như thế nào?
Bệnh hạ cam tiến triển cấp tính và bán cấp tính, đặc biệt do có biểu hiện đau, loét nên thường được phát hiện sớm, điều trị kịp thời.
Bệnh hạ cam có biến chứng gì?
Các ổ loét của hạ cam có thể bị nhiễm khuẩn, có thể gây viêm phần phụ do bội nhiễm, áp xe hạch bẹn.
Điều trị bệnh hạ cam như thế nào?
Hiện nay vi rút H.ducreyi đã kháng lại nhiều kháng sinh, đại dịch HIV/AIDS bùng phát làm cho điều trị hạ cam trở nên khó khăn hơn. Tuy nhiên hạ cam có thể điều trị khỏi hoàn toàn bằng thuốc, các thuốc có hiệu quả đối với bệnh hạ cam là Erythromycin, Ciproflocacine, Ceftriaxone, Trimethoprim/Sulfamethoxazole. Tuy nhiên, việc điều trị cần phải theo chỉ định của bác sỹ.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 18:59:48 GMT -5
Bài 5- Viêm gan siêu vi B
Viêm gan siêu vi B
Viêm gan siêu vi B còn hay gọi là viêm gan B, viêm gan huyết thanh. Là bệnh lý viêm gan cấp tính hoặc mạn tính do Hepatitis B Virus (HBV) gây nên. Viêm gan đã xuất hiện từ thời xa xưa, nhưng đến năm 1975 thì HBV mới được mô tả đầy đủ, đó là loại virus chứa nhân DNA, chúng chỉ có thể nhân lên và phát triển được trong tế bào động vật. HbsAg (một dấu tích của nhiễm HBV) đã được tìm thấy ở người, một số loài linh trưởng khác. Bệnh viêm gan B có phạm vi lây nhiễm trên toàn thế giới, ở Việt nam
Bệnh viêm gan B lây truyền như thế nào?
Đường lây truyền HBV chủ yếu qua đường truyền máu hoặc các sản phẩm từ máu. HBV còn lây truyền qua giao hợp khi giao hợp không được bảo vệ, đặc biệt giao hợp theo đường miệng, hậu môn (đây là đường lây truyền chính ở các nước phát triển). Quarrell (1974) đã mô tả những trường hợp lây truyền qua hôn nhau, dùng chung dao cạo, bàn chải đánh răng của những người có HbsAg (+) và thực tế thì người ta cũng thấy HbsAg trong nước bọt, tinh dịch, chất tiết âm đạo. Những trường hợp khác như xăm mình, nhổ răng, châm cứu mà dụng cụ không đảm bảo thì cũng có thể lây bệnh. Việc lây nhiễm từ mẹ sang con trong thời kỳ bào thai cũng đã được xác nhận, tuy nhiên tỷ lệ thấp.
Bệnh viêm gan B có biểu hiện như thế nào?
Thời kỳ ủ bệnh của HBV khoảng 60-160 ngày. Các biểu hiện của viêm gan cấp thể thông thường như sau: Khởi đầu là các biểu hiện giống như cúm (sốt nhẹ, đau cơ, đau đầu, đau khớp) sau đó là rối loạn tiêu hóa (chán ăn, buồn nôn, nôn, táo bón hoặc ỉa chảy. Mệt mỏi cả thể lực và tinh thần. Tiếp theo, người bệnh có biểu hiện vàng da, vàng mắt, nước tiểu vàng sẫm và các biểu hiện giống cúm hết đi nhưng rối loạn tiêu hóa thì vẫn còn. Biểu hiện của viêm gan cấp kéo dai khoảng 4-8 tuần.
Khi các dấu hiệu đó kéo dài trên 6 tháng thì gọi là viêm gan B mạn tính.
Bệnh viêm gan B tiến triển như thế nào?
Tiến triển của viêm gan B rất khác nhau, tùy thuộc cơ địa, điều kiện vệ sinh, lứa tuổi mỗi người, mỗi chủng tộc. Bệnh có thể tối cấp, các biểu hiện rất nặng và có thể nhanh chóng hôn mê gan rồi tử vong trong 6 đến 10 ngày. Nhưng phần lớn tiến triển từ từ, không có dâu hiệu rõ ràng và trở thành mạn tính.
Bệnh viêm gan B có biến chứng gì?
Những biến chứng cấp tính như teo gan cấp, xuất huyết, hôn mê gan. Những biến chứng mạn tính như xơ gan, ung thư gan.
Điều trị viêm gan B như thế nào?
Trong trường hợp cấp, người bệnh cần được nhập viện ngay để theo dõi, và điều trị, nghỉ ngơi tại giường trong vài tuần đầu, ăn ít mỡ nhiều đường, tăng protid. Một số thuốc được sử dụng trong bệnh viện như truyền dịch Glucose, Vitamin C, Artichaut, Sorbitol và có thể cả Corticoid.
Hiện nay thuốc điều trị diệt virus chưa được thông báo rõ ràng, chỉ có một số thuốc làm ngừng sự phát triển của virus và làm mất dấu tích virus (HbsAg âm tính trở lại) được áp dụng là g-interferone, Lamivudine.
Viêm gan siêu vi B
Việt Nam nằm trong khu vực có tỷ lệ người mang virus viêm gan B cao trên thế giới, cứ 8 người thì có 1 bị nhiễm. Tỷ lệ nhiễm virus gây viêm gan siêu vi B (HBV) trong các bệnh viêm gan cấp từ 37,8-43,5%, có khả năng chuyển sang bị viêm gan mạn tính, tiến triển tới xơ gan và ung thư gan, dẫn đến tử vong sớm do không phát hiện và điều trị đúng cách.
Hơn 80% người mang virus viêm gan B không có triệu chứng rõ ràng, họ vẫn cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh. Chỉ khoảng 20% có những dấu hiệu ban đầu như mệt mỏi, chán ăn, nôn... kéo dài trong vài ngày, rồi chuyển sang giai đoạn vàng da, vàng mắt... Viêm gan quá nặng có thể dẫn đến hôn mê và tử vong. Ước tính, số người tử vong do viêm gan siêu vi B nói chung là 42.000 người mỗi năm. Đó là số liệu được đưa ra tại Hội thảo Quốc gia về Bệnh gan mật tổ chức trong hai ngày 19 và 20/9/2004.
Theo tiến sĩ Cao Văn Viên - Phó Viện trưởng Viện Y học Lâm sàng Các bệnh nhiệt đới - thống kê tại Viện cho thấy, trong 685 trường hợp bệnh gan có dấu ấn virus thì 452 trường hợp là viêm gan cấp, 160 trường hợp là viêm gan mạn tính và 73 ca xơ gan.
Viêm gan siêu vi B là gì?
Viêm gan siêu vi B gây ra bởi siêu vi B, một virus DNA có vỏ, một khi tấn công tế bào gan, gây hủy hoại và viêm. Nhiễm trùng có thể cấp hay mạn đi từ nhiễm trùng không triệu chứng tự khỏi đến bệnh rất nặng: thể tối cấp rất hiếm, có kết cục tử vong.
Viêm gan siêu B lây qua những con đường nào?
Viên gan B là một bệnh truyền nhiễm, nó có thể lây truyền từ người bệnh sang người lành qua những con đường sau đây. - Truyền máu - Tiếp xúc với máu hay các chất dịch của bệnh nhân trong khi da hoặc niêm mạc bị trầy xước, bị đâm thủng như trong các trường hợp: tiêm chích ma tuý, châm cứu, xăm mình, xỏ lỗ tai, dùng chung bàn chải đánh răng, dao cạo râu... - Qua dụng cụ y tế không đảm bảo vô trùng khi chữa răng, nội soi hoặc nạo thai... ở những cơ sở y tế không đảm bảo. - Quan hệ tình dục không an toàn với người bệnh - Truyền từ mẹ sang con.
Phòng tránh viêm gan siêu vi B như thế nào?
Ý thức được các con đường lây nhiễm của viêm gan siêu vi B để có cách phòng tránh trong từng tình huống cụ thể. Ngoài ra, tiêm phòng viêm gan siêu vi B là một cách để bạn tự giúp mình và giúp con bạn tránh được nguy cơ lây nhiễm.
Vì sao phải tiêm phòng?
Đối với trẻ em: Nếu không được bảo vệ tốt ngay khi chào đời, nguy cơ trẻ bị nhiễm viêm gan siêu vi B từ mẹ sẽ lên tới 90%. Khi trưởng thành, các em dễ bị xơ gan hoặc viêm gan mạn tính. Khi đã mắc bệnh thì việc điều trị khá phức tạp, tốn kém, nên việc tiêm ngừa đã được nhiều nước trên thế giới đưa vào chương trình tiêm chủng quốc gia.
Đối với người lớn: Nếu chưa bị nhiễm việc tiêm phòng có thể giảm được nguy cơ mắc viêm gan B và những hậu quả có thể.
Ai cần tiêm ngừa viêm gan siêu vi B?
Tất cả mọi người chưa nhiễm viêm gan B đều cần được tiêm phòng. Ưu tiên cho đối tượng trẻ sơ sinh, trẻ em và thanh thiếu niên.
Với điều kiện của Việt Nam hiện nay chỉ mới phổ cập tiêm ngừa viêm gan siêu vi B cho trẻ sơ sinh vì nó mang lại rất nhiều lợi ích: phòng ngừa bệnh cho cả một thế hệ, trẻ bị nhiễm ở lứa tuổi sơ sinh rất dễ chuyển thành mạn tính và trở thành nguồn lây.
Chủng ngừa viêm gan siêu vi B được xem là rất an toàn và chưa có một chống chỉ định nào – nghĩa là ai cũng chủng ngừa được.
Có nên xét nghiệm trước khi tiêm ngừa viêm gan siêu vi B?
Với trẻ sơ sinh
Tiêm chủng càng sớm càng tốt mà không cần xét nghiệm.
Với trẻ em và người lớn
Ở Việt Nam có đến 15% dân số bị nhiễm viêm gan siêu vi B, nên nhiều trẻ em và người lớn có khả năng đã bị nhiễm. Do đó, trước khi tiêm phòng cần xét nghiệm máu xem mình đã bị nhiễm chưa. Xét nghiệm tối thiểu trước khi chủng ngừa là HbsAg (cho biết có đang nhiễm hay không) và antiHBs (cho biết cơ thể đã được bảo vệ hay chưa)
- Viêm gan siêu vi B cấp có HbsAg(+), men gan tăng cao 3-4 lần bình thường nhưng tự khỏi trong 90-95% bệnh nhân, có sự biến mất HBsAg và tế bào gan lành lại sau 4-6 tuần lễ mắc bệnh. Khoảng 5-10% viêm gan B lại diễn tiến thành thể mạn tính có HbsAg(+) lâu dài trong máu, một số ít diễn tiến viêm gan mạn có xét nghiệm máu HbsAg(+), Hbc(+): khó làm ở nước ta, men gan SGOT, SGPT tăng nhẹ, HbeAg(+).
- Nếu HBsAg (-) va antiHBs (+) nghĩa là đã bị nhiễm nhưng đã khỏi bệnh và cơ thể đủ sức tạo ra kháng thể bảo vệ nên không cần tiêm ngừa.
- Nếu HbsAg (-) và antiHBs (-) là cơ thể hoàn toàn chưa bị nhiễm thì nên chích ngừa.
- Nếu HbsAg (+) và antiHBs (-) là cơ thể đang bị nhiễm mà chưa được bảo vệ cũng không cần phải chủng ngừa, mà tùy theo tình trạng cụ thể của bệnh nhân mà bác sĩ quyết định điều trị hay theo dõi.
Lịch tiêm ngừa viêm gan siêu vi B như thế nào?
Hiện nay, đa số các trường hợp, người ta áp dụng lịch chủng ngừa: 0-1-6, có nghĩa là hai mũi tiêm đầu cách nhau một tháng để tạo miễn dịch cơ bản ban đầu, còn mũi thứ ba tiêm nhắc lại cách sáu tháng tính từ mũi đầu tiên. Tuy nhiên, một số trường hợp đặc biệt cần kích thích nhanh đáp ứng miễn dịch của cơ thể, nhất là ở trẻ sơ sinh có mẹ bị nhiễm siêu vi B mãn tính, người ta tiêm 4 mũi theo lịch: 0-1-2-12, có nghĩa là 3 mũi đầu cách nhau một tháng để tạo miễn dịch cơ bản, còn mũi thứ tư cách mũi đầu tiên 12 tháng là mũi tiêm nhắc lại.
Tiêm phòng viêm gan siêu vi B ở đâu?
Trạm y tế xã, trung tâm y tế phường, bệnh viện huyện, tỉnh, thành phố, quốc gia là những nơi bạn có thể đưa con em mình đến để tiêm phòng viêm gan B theo lịch tiêm chủng quốc gia.
Đối với người lớn, trước khi tiêm phòng viêm gan B, cần phải đi xét nghiệm xem mình đã bị nhiễm bệnh chưa, do đó, bạn nên tìm đến những địa chỉ tin cậy có đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất để có thể cho kết quả xét nghiệm một cách chính xác.
Ở thành phố Hồ Chí Minh: Trung Tâm Chẩn Ðoán Y Khoa đường Hoà Hảo hay Viện Pasteur.
Ở Hà Nội: Tung tâm y tế dự phòng 50C Hàng Bài, Bnh viện Bạch Mai, Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới là những địa chỉ bạn có thể tìm đến.
Có phải khi nào mắc viêm gan siêu vi B cũng phải điều trị?
Căn cứ vào kết quả xét nghiệm bác sĩ sẽ quyết định bạn có cần phải điều trị hay không. Những người chỉ có HBsAg(+ ) thường là tình cờ phát hiện sau khi thử máu, cócần phải chích ngừa không? Những người này không thể chích ngừa vì vô ích, không tác dụng, phí tiền. Những người này hoàn toàn khỏe mạnh, không có gì là người bệnh nếu không thử máu gọi là người lành mang mầm bệnh. Bạn vẫn có thể sống bình thường với siêu vi B đến suốt đời không sao cả. Có điều thỉnh thoảng nên thử men gan xem có viêm gan mạn mới cần điều trị. Bạn không cần phải ăn kiêng vì gan bạn không thương tổn, có điều nên chích ngừa cho những người thân tránh nhiễm thêm. Bạn không cần phải điều trị với bất cứ thuốc gì vì đến nay y học vẫn chưa khám phá ra thuốc nào diệt được siêu vi B thật sự ngay cả Interferon. Người ta đã thấy Interferon trị tốt viêm gan mạn đến 40-50% nhưng với người lành mang mầm bệnh thuốc lại ít tác dụng. Bạn cũng không cần Liv 52, Legalon, Carsil. Chỉ phí tiền và uống 5,6 tháng cũng không thay đổi gì tình trạng bạn được.
Người viêm gan mạn là người có tiền sử viêm gan nhiều tháng, nhiều năm trước đây có những dấu hiệu gợi ý như đau hạ sườn phải, mệt mỏi, ăn khó tiêu nhất là các chất mỡ. Thử máu có HBsAg + , HBeAg+ , AntiHBc+ và men gan hay SGOT SGPT tăng trên 50UI/ml. Tùy theo tình trạng tài chính, bác sĩ có thể cho dùng các thuốc không chuyên biệt, giảm thiểu tổn thương tế bào gan như Nissel, Fortec, Legalon, hoặc thuốc thật đắt tiền như Interferon.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:00:15 GMT -5
Phần VII - HIV Căn bệnh thế kỉ
HIV là gì?
HIV là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh Human Immuno-deficiency Virus, có nghĩa là virút gây suy giảm miễn dịch ở người.
HIV gây hại gì trong cơ thể người ta?
Hệ thống miễn dịch rất quan trọng với cơ thể con người. Nhờ có hệ thống này con người được bảo vệ trước các tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, vi rút, ký sinh trùng của môi trường ngoài và kể cả môi trường trong của cơ thể. Hệ thống miễn dịch bao gồm miễn dịch tế bào (các bạch cầu) và miễn dịch dịch thể do các tế bào lymphô tiết ra. Khi bị nhiễm HIV hệ thống miễn dịch đặc biệt là các tế bào lymphô bị virus HIV tấn công và xâm nhập vào bên trong tế bào, phát triển và nhân lên trong tế báo lymphô sau đó phá vỡ các tế bào này gây tình trạng suy giảm miễn dịch ở người.
Với tình trạng suy giảm miễn dịch cơ thể chúng ta bị suy yếu và dễ nhiễm các bệnh nhiễm trùng khác như viêm phổi do nấm, tiêu chảy kéo dài, lao... đồng thời lâm vào tình trạng suy kiệt và có thể dẫn đến chết nếu các bệnh nhiễm trùng và suy kiệt này không được cứu chữa kịp thời và tích cực.
Khả năng tồn tại của HIV
Trong cơ thể người nhiễm HIV, virus HIV tồn tại suốt đời cho đến khi chết. Sau khi, người nhiễm bị chết thì HIV vẫn tiếp tục tồn tại trong tử thi khoảng 1 – 2 ngày nữa. HIV rất dễ bị tiêu diệt trong điều kiện đun trong nước sôi, hấp, sấy hoặc dưới tác động của các dung dịch sát khuẩn.
HIV có thể tồn tại khoảng 72 giờ trong máu khô ở ngoài môi trường.
Do vậy, bất kỳ dụng cụ hay bề mặt nào bị nhiễm HIV cũng phải được xử trí bằng nhiệt hoặc hoá chất.
HIV lây truyền trong điều kiện nào?
Phải có mặt của vi rút HIV: Vi rút HIV không tự sinh ra. Với một người không có vi rút HIV thì người đó có làm gì dính đến máu hay quan hệ tình dục không dùng bao cao su thì người đó cũng không thể có trong mình vi rút HIV được. Nhưng cái khó là thường người ta không thể biết được là người ta có bị nhiễm HIV hay không.
Phải có lượng HIV đủ lớn: HIV tồn tại trong rất nhiều chất dịch của cơ thể con người nhưng có những dịch không có chứa HIV hoặc là chứa rất ít không đủ để có thể làm lây nhiễm, chẳng hạn như: dịch nước bọt, nước mắt, nước tiểu, mồ hôi... HIV có nhiều nhất ở trong máu và trong chất dịch sinh dục (dịch âm đạo và tinh dịch), đây là thủ phạm làm lây nhiễm vi rút HIV lớn nhất. Ngoài ra, sữa mẹ cũng có khả năng làm lây nhiễm HIV tuy nhiên, ít hơn nhiều so với máu và các dịch tiết của cơ thể.
Vi rút phải đi vào trong cơ thể: Lớp da bình thường bên ngoài cơ thể là một vỏ bọc chắc chắn, nếu không bị sây sát gì thì HIV không đi qua được. Vi rút HIV đi được vào cơ thể theo kim tiêm đâm vào đường máu. Nó cũng có thể đi vào cơ thể qua vết xước da. Ngoài ra, nó còn đi qua được lớp niêm mạc (da mỏng) trong âm đạo, trong lỗ dương vật, bên trong hậu môn để vào máu.
Hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS)
Hiểu biết đầy đủ về khái niệm về hội chứng suy giảm miễn dịch (AIDS) sẽ rất quan trọng đối với mỗi chúng ta!
Là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, do virút HIV gây ra. AIDS được viết tắt từ cụm từ tiếng Anh Acquired Immuno Deficiency Syndrome. Bệnh này còn được gọi là SIDA (theo tiếng Pháp là Syndrome d'Immuno Deficience Acquise).
AIDS là hội chứng vì nó tập hợp nhiều triệu chứng gây ra do suy giảm miễn dịch vì nhiễm virus HIV. Đây là một hội chứng mắc phải vì người bệnh bị nhiễm bệnh này từ người khác mà không do di truyền mà có bệnh.
Triệu chứng – các giai đoạn của bệnh
Các biểu hiện lâm sàng của nhiễm trùng HIV được chia theo 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1. Nhiễm trùng cấp (còn gọi là sơ nhiễm)
2-8 tuần sau khi nhiễm HIV, bất kỳ qua con đường nào, 20% bệnh nhân có biểu hiện của một nhiễm trùng cấp với sốt (38-40 độ C), đau cơ, đau khớp, vã mồ hôi, mệt mỏi, chán ăn, nôn ói, tiêu chảy, viêm họng, phát ban đỏ ngoài da (xuất hiện ở 50% bệnh nhân), hạch to, lách to. Một số bệnh nhân có biểu hiện thần kinh như viêm não, viêm màng não, viêm dây thần kinh ngoại biên… Các triệu chứng này hiện diện trong vòng 5-10 ngày và tự khỏi hoàn toàn.
Trong giai đoạn này, mới có sự hiện diện của kháng nguyên trong máu. Phải chờ 2-12 tuần sau kháng thể mới xuất hiện và lúc này mới có thể xác định được bằng các xét nghiệm sàng lọc và chẩn đoán nhiễm HIV thông thường (huyết thanh chẩn đoán).
Trong thời gian này, do không biết mình nhiễm bệnh, người nhiễm HIV rất dễ truyền bệnh cho những người khác.
Giai đoạn 2. Nhiễm virus không triệu chứng
Sau thời kỳ nhiễm trùng cấp, bệnh nhân nhiễm HIV rơi vào giai đoạn dài không triệu chứng lâm sàng, nhưng chẩn đoán huyết thanh lại khá dễ dàng, dựa vào sự hiện diện của kháng thể kháng HIV.
Giai đoạn 3. Hội chứng hạch to toàn thân và kéo dài
Sau khi huyết thanh dương tính, 50-70% trường hợp xuất hiện hội chứng hạch to toàn thân và kéo dài. Hội chứng này được chẩn đoán khi có đủ các điều kiện sau:
Có ít nhất 2 hạch khác nhau (không kể hạch bẹn).
Mỗi hạch thường có đường kính trên 1 cm.
Hiện diện kéo dài trên 1 tháng.
Không giải thích được lý do nổi hạch (như nổi hạch không do nhiễm trùng tại khu vực đó hoặc viêm hạch...)
Hay gặp nhất là hạch cổ, hạch dưới hàm và hạch nách. Một số hạch ít gặp hơn là hạch ở khuỷu tay, trung thất (trong lồng ngực), trong ổ bụng.
Giai đoạn 4. Biểu hiện lâm sàng thực sự của AIDS
Khi bệnh nhân được chẩn đoán là AIDS nghĩa là nhiễm trùng do HIV đã đến giai đoạn cuối cùng. Thời gian từ lúc xác định bệnh đến lúc chết thường không quá 2 năm, trung bình là 18 tháng. Riêng đối với trẻ em, thời gian này thường ngắn hơn, độ 10-12 tháng. Biểu hiện lâm sàng chính thường là nhiễm trùng cơ hội (ở phổi, hệ thần kinh, hệ tiêu hoá) hoặc ung thư. Thời gian bắt đầu có biểu hiện lâm sàng từ khi nhiễm HIV là từ 2 năm đến 10 năm. Thông thường nếu cơ thể yếu, có bệnh khác hoặc suy kiệt do sử dụng chất gây nghiện thì giai đoạn này sẽ đến sớm hơn.
- Sốt kéo dài trên 1 tháng
- Tiêu chảy kéo dài trên 1 tháng
- Ho kéo dài trên 1 tháng
- Viêm ngứa da toàn thân
- Gầy (giảm trêm 10% trọng lượng cơ thể)
- Xuất hiện nhiều bệnh như ung thư, lao, … Người bệnh nhanh chóng tử vong tuỳ theo điều kiện chăm sóc và điều trị.
- Xét nghiệm HIV dương tính.
Bài 1 - Các đường lây truyền HIV
HIV có thể lây truyền từ người này sang người khác theo ba con đường chính:
Đường tình dục
Xác suất lây truyền qua quan hệ tình dục với người bị nhiễm HIV (không sử dụng biện pháp bảo vệ) là 1/1.000 đến 1/100 (được tính trên quần thể). Nhưng với từng cá nhân có hành vi tình dục không bảo vệ thì xác suất lây nhiễm HIV luôn là 1 hoặc 0. Do vậy, cách tự biện minh cho hành vi nguy cơ của mình là 100 lần quan hệ mới có thể nhiễm virus là hoàn toàn sai lầm và nguy hại. Khả năng lây nhiễm này sẽ tăng gấp nhiều lần, nếu một trong hai người bị mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục như: Lậu, giang mai, sùi mào gà, nấm, Herpes...
HIV có thể lây truyền qua tất cả các cách giao hợp, nhất là các cách giao hợp gây xây xước hoặc có thương tổn từ trước (qua đường hậu môn, giao hợp dương vật miệng có tổn thương dương vật và chảy máu chân răng). Hướng lây nhiễm trong quan hệ tình dục đường miệng từ tinh dịch, dịch tiết âm đạo đến môi miệng người dùng miệng nếu có tổn thương. Hướng ngược lại cũng có thể xảy ra nhưng ít hơn.
Chúng ta không thể biết được một người nào đó có nhiễm HIV hay không bằng mắt thường vì vậy nguy cơ lây nhiễm sẽ tăng lên đáng kể nếu quan hệ tình dục với nhiều người.
Đường máu
HIV có thể lây truyền qua truyền máu hoặc các chế phẩm từ máu bị nhiễm HIV. Dùng chung các dụng cụ xuyên chích qua da không được vô trùng hoặc không đảm bảo nguyên tắc khi khử trùng hoặc vô trùng như: Bơm kim tiêm, kim châm cứu, kim xăm mình, xăm lỗ tai,… Những người sử dụng chất gây nghiện đường tiêm chung bơm kim tiêm thì nguy cơ lây nhiễm sẽ rất cao.
Từ mẹ sang con
Người mẹ bị nhiễm HIV có khả năng truyền cho con trong thời kỳ mang thai, trong khi đẻ hoặc cho con bú. Khoảng 30 – 40% trẻ em sinh ra từ người mẹ bị nhiễm HIV sẽ bị nhiễm virus này.
Trong thời kỳ mang thai, HIV có khả năng di chuyển từ máu người mẹ qua rau thai rồi vào cơ thể bào thai. Trong khi đẻ là do sây sát niêm mạc và da, tạo đường xâm nhập của vi Virus từ người mẹ sang trẻ. Và trong thời gian cho con bú, HIV có thể lây nhiễm cho con qua sữa mẹ hoặc do sây sát.
Những trường hợp không lây nhiễm HIV
Muỗi đốt: Người ta đã nghiên cứu và thấy vi rút HIV không sống và sinh sản trong cơ thể muỗi.
Khi muỗi đốt người thì máu từ cơ thể người đi vào cơ thể muỗi chứ không đi từ cơ thể muỗi sang cơ thể người. Muỗi chỉ tiết vào cơ thể người một ít nước bọt có chứa chất chống đông máu để máu chảy được vào cơ thể muỗi. HIV không tồn tại và sinh sản trong cơ thể muỗi nên nó không có trong nước bọt của muỗi, do đó không đi vào cơ thể người.
Đây là điểm khác với ký sinh trùng gây bệnh sốt rét. Ký sinh trùng gây bệnh sốt rét sống và sinh sản trong cơ thể muỗi nên nó đi vào cơ thể người từ nước bọt của muỗi. Cấu trúc vòi muỗi rất tinh tế phức tạp, khiến cho máu đi vào bên trong cơ thể muỗi mà không bị dính ở ngoài. Do đó, không có chuyện máu của người bị đốt trước dính vào người bị đốt sau. Các tiếp xúc thông thường như dùng chung các dụng cụ lao động, dùng chung nhà vệ sinh, bồn tắm, bể bơi, khăn tắm, bắt tay, ôm, ho, hắt hơi, ăn chung, dùng chung chén, bát, ly, cốc, ngủ chung không gây lây nhiễm HIV vì muốn nhiễm được vào một người thì vi rút HIV phải đi vào đường máu của người đó.
Hôn: Hôn nhau ít khi người ta chỉ hôn bên ngoài. Sẽ rất buồn nếu mỗi lần say đắm lấn sân thì lại thót tim: "Không biết có lây SIDA không nhỉ? Nước bọt trộn lẫn liệu có lây không?" Chúng ta đừng quá lo lắng. Các nhà khoa học đã phân tích thành phần các chất dịch của cơ thể và kết luận rằng nước bọt của người mang vi rút HIV chỉ có một lượng HIV vô cùng nhỏ bé, do đó không thể truyền HIV được.
Hôn lưỡi hay còn gọi là "hôn sâu" thì sao?
Chỉ có trường hợp hai người cùng bị loét, xước da ở trong miệng hay chảy máu rǎng mà hôn sâu làm tiếp xúc máu thì mới có khả nǎng lây nhiễm.
Tiếp xúc khác
Muốn nhiễm được vào một người thì vi rút HIV phải đi vào đường máu của người đó. Do đó, mà tiếp xúc thông thường không làm lây HIV. Tất cả các kiểu tiếp xúc như cùng ǎn uống, mặc chung quần áo, ôm ấp, hôn, bơi chung bể bơi, ở cùng nhà, ngủ chung giường (tất nhiên là không có quan hệ tình dục!), làm việc cùng cơ quan, đi xe đạp mượn, dùng chung nhà vệ sinh, cắt tóc... đều không làm cho ai bị nhiễm HIV của người khác.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:00:57 GMT -5
Bài 2- Phòng lây nhiễm HIV
Các biện pháp phòng nhiễm HIV
Các biện pháp phòng tránh HIV/AIDS hiệu quả hiện nay là điều không ít người quan tâm
Phòng lây nhiễm HIV qua đường máu
- Không dùng chung bơm, kim tiêm khi tiêm hay chích. Nên sử dụng bơm kim tiêm dùng 1 lần rồi bỏ đi. Tốt nhất là không tiêm chích ma tuý.
- Hạn chế truyền máu, sử dụng các loại thuốc tiêm chích.
- Không dùng chung những vật xuyên qua da và niêm mạc như: bàn chải đánh răng, dao cạo râu, kim xăm mình, kim xuyên lỗ tai, …
- Khi đi cắt tóc không nên sử dụng chung lưỡi dao cạo, đồ dùng ngoái tai vì những đồ dùng này vẫn có thể gây tổn thương da và lây nhiễm HIV/AIDS
Phòng nhiễm HIV qua đường tình dục
- Khi chưa có đủ điều kiện, không biết rõ về lịch sử của người tình không nên vội vàng có quan hệ tình dục. Việc tránh có quan hệ tình dục là biện pháp phòng tránh HIV/AIDS và các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục hiệu quả nhất
- Đã có bạn tình hoặc đã lập gia đình, việc sống chung thuỷ đối với cả hai người là cách phòng tránh hữu hiệu nhất cho việc lây nhiễm HIV/AIDS và nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục
- Trong trường hợp có quan hệ với một người mà mình không biết rõ về lịch sử tình dục của họ thì việc dùng bao cao su đúng cách là rất cần thiết. Cần phải dùng bao cao su khi có quan hệ tình dục kể với tất cả các đường âm đạo, miệng và hậu môn.
- Phát hiện sớm và chữa trị kịp thời các bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng giúp giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS vì những tổn thương do nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục sẽ là cửa vào lý tưởng cho HIV
Phòng lây nhiễm HIV từ mẹ sang con
- Người phụ nữ bị nhiễm HIV thì không nên có thai, nếu đã có thai thì không nên sinh con.
- Trường hợp muốn sinh con, cần đến cơ sở y tế để được tư vấn về cách phòng lây nhiễm HIV cho con.
- Sau khi đẻ nếu có điều kiện thì nên cho trẻ dùng sữa bò thay thế sữa mẹ.
Bài 3-Phơi nhiễm HIV tại cộng đồng - Hướng xử trí và điều trị
Hiện nay, không chỉ những người trực tiếp chăm sóc, điều trị, chữa bệnh hay có công việc liên quan đến những người có HIV như nhân viên ngành y tế hay công an mới có nguy cơ phơi nhiễm HIV mà bất cứ người dân nào cũng có nguy cơ này. Thậm chí trẻ em cũng không tránh khỏi nguy cơ bị phơi nhiễm.
Cách đây không lâu dư luận đã vô cùng căm phẫn khi một em bé 6 tuổi ở Hải Phòng bị một người nhiễm HIV dùng bơm tiêm đâm vào làm em bị nhiễm HIV và đã tử vong. Vì vậy, hiểu biết về nguy cơ lây nhiễm HIV và cách xử trí khi gặp tình trạng phơi nhiễm sẽ giúp hạn chế được phần nào những tai nạn, rủi ro không đáng có …
1. Những trường hợp nào có nguy cơ lây nhiễm HIV?
Về mặt lý thuyết, chỉ khi nào có sự tiếp xúc trực tiếp với máu và các dịch tiết của cơ thể người có HIV thì mới có nguy cơ lây nhiễm HIV. Cụ thể là:
- Máu, chất dịch cơ thể của người có HIV bắn vào các vùng da bị tổn thương (chàm, bỏng, vết loét, xây xước từ trước) hoặc bắn vào niêm mạc (mắt, mũi, họng …)
- Tổn thương qua da do các ống đựng máu hoặc chất dịch của người có HIV bị vỡ đâm vào.
- Vết thương do bị bơm kim tiêm hoặc các dụng cụ sắc nhọn đã hoặc đang dùng cho người có HIV đâm vào.
- Quan hệ tình dục với người có HIV mà không sử dụng bao cao su.
2. Làm gì khi rơi vào tình huống có nguy cơ lây nhiễm HIV?
Trước hết, cần xử lý vết thương ngay tại chỗ:
Đối với những tổn thương da gây chảy máu cần xối ngay vết thương dưới vòi nước sạch (lưu ý là không được kỳ cọ vết thương, chỉ để vòi nước xối vào vết thương). Sau đó, để vết thương chảy máu trong một thời gian ngắn. Cuối cùng, rửa kỹ vết thương bằng xà phòng và nước sạch, rồi sát trùng bằng các dung dịch sát khuẩn như: Dakin, Javen1/10 hoặc cồn 70o trong thời gian ít nhất 5 phút.
Trong trường hợp bị máu hoặc dịch tiết của người có HIV bắn vào mắt, mũi cần rửa mắt hoặc nhỏ mũi bằng nước cất hoặc nước muối NaCl 0,9% liên tục trong 5 phút. Nếu bắn vào miệng thì cần xúc miệng bằng dung dịch NaCl 0,9% nhiều lần.
Sau đó, cần đánh giá nguy cơ phơi nhiễm:
Nếu máu và dịch tiết của người có HIV bắn vào những vùng da lành (không bị tổn thương hay xây xước) thì không có nguy cơ lây nhiễm HIV.
Nguy cơ lây nhiễm cũng thấp khi tổn thương da xây xát nông, không chảy máu hoặc chảy máu ít hoặc máu và chất dịch cơ thể của người bệnh bắn vào niêm mạc không bị tổn thương viêm loét.
Những trường hợp có nguy cơ lây nhiễm cao là tổn thương da sâu, rộng, chảy nhiều máu, máu và chất dịch cơ thể của người có HIV bắn vào các vùng da, niêm mạc bị tổn thương viêm loét rộng từ trước.
Điều trị dự phòng phơi nhiễm bằng ARV (thuốc kháng virus HIV):
Đối với những trường hợp không có nguy cơ lây nhiễm thì không cần điều trị. Còn đối với những trường hợp có nguy cơ thấp hoặc nguy cơ cao đều có thể điều trị dự phòng bằng ARV.
Cần tiến hành điều trị ARV ngay cho người bị phơi nhiễm, đặc biệt là những người có nguy cơ lây nhiễm cao, càng sớm càng tốt. Tốt nhất là điều trị ARV sớm từ 2 đến 6 giờ sau khi bị phơi nhiễm và không nên điều trị muộn sau 72 giờ. Thời gian điều trị ARV kéo dài trong 4 tuần và có thể sử dụng các phác đồ sau theo chỉ định của bác sỹ: ZDV + 3TC hoặc d4T + 3TC. Trong trường hợp có nguy cơ phơi nhiễm cao, có thể sử dụng thêm NFV/ LPV hoặc EFV. Hiện nay, chỉ các trường hợp bị phơi nhiễm khi đang làm nhiệm vụ chuyên môn mới được điều trị dự phòng miễn phí còn các trường hợp phơi nhiễm cộng đồng không được cấp chế độ này. Tuy nhiên, những người bị phơi nhiễm có thể mua thuốc tại các hiệu thuốc theo chỉ định của bác sỹ. Theo Bác sỹ Trần Quốc Tuấn, bệnh viện Đống Đa, Hà Nội, chi phí cho một lần điều trị phơi nhiễm bằng thuốc ARV do nước ta sản xuất khoảng 1.200.000 đồng, còn nếu là thuốc ngoại thì khoảng 4.500.000 đồng. Các bạn có thể nháy chuột vào địa chỉ sau để xem danh sách chi tiết các điểm bán thuốc ARV ở Việt nam.
Trong thời gian điều trị dự phòng ARV cần theo dõi tác dụng phụ của thuốc ARV thông qua các xét nghiệm: Xét nghiệm công thức máu, đo chỉ số men gan ALT/SGPT lúc bắt đầu điều trị và sau khi điều trị được 2 tuần, xét nghiệm đường máu. Đồng thời, người bị phơi nhiễm cần xét nghiệm HIV sau 1, 3 và 6 tháng kể từ thời điểm bị phơi nhiễm. Trong thời gian này, người bị phơi nhiễm cần thực hiện các biện pháp dự phòng lây nhiễm cho người khác.
Sau 6 tháng xét nghiệm HIV mà cho kết quả âm tính, người bị phơi nhiễm có thể yên tâm rằng đã không bị lây nhiễm HIV trong tình huống đó. Việc dự phòng lây nhiễm HIV khi gặp tình huống rủi ro có sự tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc các dịch tiết từ cơ thể người có HIV là rất quan trọng và rõ ràng là giúp người bị phơi nhiễm giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, hiện nay, những người bị phơi nhiễm còn gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận với việc điều trị dự phòng phơi nhiễm bằng ARV, đặc biệt là tại tuyến huyện, xã. Hướng giải quyết khó khăn này xin dành cho Ngành Y tế và hy vọng rằng trong tương lai không xa, khi nguồn thuốc ARV giá rẻ chính thức được đưa vào sử dụng, cơ hội của những người không may bị phơi nhiễm sẽ được mở rộng, không còn chỉ giới hạn ở các cán bộ y tế, công an …
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:01:36 GMT -5
img167.imageshack.us/img167/4010/vngirl05xk5.jpgmg]Bài 4- Địa chỉ tư vấn, xét nghiệm HIV MIỄN PHÍ tại Hà Nội Đội y tế dự phòng - Trung tâm y tế quận Hoàn Kiếm Địa chỉ: 45 Hàng Lược, Hoàn Kiếm, Hà Nội Điện thoại: (04) 8284827 Trung tâm y tế quận Hai Bà Trưng Địa chỉ: 16B Phạm Đình Hổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội Điện thoại: (04) 9723143 Đội y tế dự phòng - Trung tâm y tế quận Đống Đa Địa chỉ: 24 ngõ 34 Ngô Sĩ Liên, Hà Nội Điện thoại: (04) 7473128 Trung tâm y tế quận Thanh Xuân Địa chỉ: phòng 4, tầng 3, ngõ 282 Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội Điện thoại: (04) 5571196 Trung tâm y tế quận Ba Đình Địa chỉ: số 101 Quan Thánh, Ba Đình, Hà Nội Điện thoại: (04) 8230243 Trung tâm y tế quận Long Biên Địa chỉ: số 485, đường Ngô Gia Tự, phường Đức Giang, Gia Lâm, Hà Nội Điện thoại: (04) 8779171 Trung tâm y tế Từ Liêm Địa chỉ: tầng 3, thị trấn Cầu Diễn Điện thoại: (04) 7646978 Trung tâm y tế Gia Lâm Địa chỉ: số 1, đường Ngô Xuân Quảng, Châu Quỳ, Gia Lâm Điện thoại: (04) 6760268 Phòng tư vấn xét nghiệm, bệnh viện Phụ Sản Hà Nội Địa chỉ: đường Đê La Thành, Ba Đình, Hà Nội Điện thoại: (04) 7754266 Phòng tư vấn xét nghiệm – Trung tâm y tế dự phòng Địa chỉ: 50 C Hàng Bài, Hà Nội Điện thoại: (04) 9434738 Phòng xét nghiệm - Trung tâm y tế huyện Văn Điển Địa chỉ: thị trấn Văn Điển Điện thoại: (04) 8612715 Phòng xét nghiệm - Trung tâm y tế huyện Sóc Sơn Địa chỉ: xã Tiên Dược, Sóc Sơn Điện thoại: (04) 8840227 Phòng tư vấn, xét nghiệm - Trung tâm y tế quận Cầu Giấy Địa chỉ: phường Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội Điện thoại: (04) 7680014 Phòng xét nghiệm - Trung tâm y tế huyện Đông Anh Địa chỉ: xã Uy Nỗ, Đông Anh Điện thoại: (04) 8832857 Nhóm Hoa Hướng Dương - Hội chữ thập đỏ quận Đống Đa Địa chỉ: Số 5, Ngõ 180, phố Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội. Điện thoại: (04) 5118755 Bài 5 -Địa chỉ bán thuốc ARV tại Việt Nam (thuốc chống Phơi nhiễm HIV ) Dưới đây là địa chỉ các Công ty dược phẩm và hiệu thuốc trên cả nước hiện có bán thuốc đặc trị kháng virus HIV (ARV) bao gồm 3TC, d4T, AZT, NVP do công ty liên doanh STADA – Việt Nam sản xuất: 1. Công ty dược phẩm Nam Định, 148 Hàng Cấp, Nam Định. ĐT: (0350) 849970 – 865060 2. Công ty dược phẩm DOP, 234 – 236 Trần Phú, phường Lam Sơn, Thanh Hoá. ĐT: (037) 854396 3. Công ty dược phẩm Hương Linh, 123 Nguyễn Đức Cảnh, Hải Phòng. ĐT: (031) 700460 4. Công ty dược phẩm Phương Đông, 245 Lương Ngọc Quyến, Thái Nguyên. ĐT: (0280) 754779 5. Công ty dược phẩm Sao Mai, 182 Lý Bôn, Thái Bình. ĐT: (036) 833216 6. Công ty cổ phần dược phẩm Thành Công, 48 Trần Phú, TP Vinh, Nghệ An. ĐT: (038) 842659 7. Công ty dược phẩm Trường Tiền, 2 Trần Hưng Đạo, Thừa Thiên Huế. ĐT: (054) 523902 8. Công ty dược phẩm Hồng Dương, số 1 tổ 1 khu 1 Trần Hưng Đạo, Hạ Long, Quảng Ninh. ĐT: (033) 826754 9. Hiệu thuốc Khánh Thuỵ, 232 Lê Lợi, thị xã Bắc Giang. ĐT: (0240) 856317 10. Hiệu thuốc tư nhân Dược sĩ Lương Văn Lưu, Tống Bạt, Ba Vì, Hà Tây. ĐT: (034) 621175 – 625625 11. Hiệu thuốc Khương Duy, quầy số 37, Trung tâm dược phẩm Ngọc Khánh, Hà Nội. ĐT: (04) 7720418 12. Văn phòng Khương Duy, số 2 ngách 84/33 Ngọc Khánh, Hà Nội. ĐT: (04) 7719820 – 7716301 13. Hiệu thuốc Phước Huy, 50/1 đường Núi Sam, phường A, thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:02:16 GMT -5
Xuất tinh thường xuyên có thể chống lại ung thư tuyến tiền liệt Thursday, April 08, 2004 NguoiViet Online
CHICAGO - Hoạt động tình dục không gây ra ung thư tuyến tiền liệt, và những người đàn ông xuất tinh thường xuyên có thể tự bảo vệ để chống lại căn bệnh này. Ðó là theo các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ công bố hôm Thứ Ba 06 Tháng Tư 2004.
Cuộc nghiên cứu, trên hơn 29,000 người đàn ông khỏe mạnh và bao gồm tất cả các loại hoạt động sinh lý - trong đó có nạn thủ dâm và xuất tinh vào ban đêm - xác nhận lại các kết luận tương tự trong một cuộc nghiên cứu nhỏ hơn của người Úc Tháng Bảy vừa qua.
Tác giả chính của cuộc nghiên cứu trên, Michel Leitzmann, cho biết: Phần lớn các cuộc nghiên cứu trước nhắm vào vấn đề là liệu hoạt động tình dục thường xuyên có gây ra ung thư tuyến tiền liệt hay không, và việc sản xuất số lượng kích thích tố nam testosterone tăng thêm có thể thúc đẩy tế bào tuyến tiền liệt tăng trưởng hay không.
Nhưng cuộc nghiên cứu mới này cho thấy rằng “việc xuất tinh thường xuyên không có liên quan gì với việc gia tăng nguy cơ bị ung thư. Và... số lần xuất tinh nhiều hơn hình như bảo vệ cho những người đàn ông ngăn được bệnh ung thư tuyến tiền liệt đang trên đà phát triển,” theo lời một bác sĩ và cũng là một nhà nghiên cứu của Viện Ung Thư Quốc Gia.
Cuộc nghiên cứu đưa ra giả thuyết là việc xuất tinh thường xuyên có thể giảm bớt sự tập trung các chất hóa học sinh ra ung thư đã tích lũy sẵn trong chất lỏng của tuyến tiền liệt.”
Tuyến tiền liệt là một tuyến nhỏ sản xuất ra một số chất lỏng cho tinh dịch. Ung thư tuyến tiền liệt là loại ung thư phổ biến đứng vào bậc nhì, được chẩn đoán trong số những người đàn ông Hoa Kỳ, và cơ hội được khỏi bệnh rất cao nếu phát hiện sớm.
Cuộc nghiên cứu mới này, bắt đầu vào năm 1986, được công bố trong tạp chí American Medical Association, căn cứ trên một cuộc nghiên cứu đang được tiến hành nhắm vào nhiều vấn đề sức khỏe của hàng ngàn người đàn ông từ tuổi 40 đến 75. Năm 1992 họ được yêu cầu báo cáo số lần xuất tinh trung bình mỗi tháng của họ trong các khoảng thời gian, từ 20 đến 29, từ 40 đến 49 tuổi và trong những năm trước. Về sau, họ được yêu cầu báo cáo xem họ có bị bệnh ung thư tuyến tiền liệt hay không.
Cuộc nghiên cứu của người Úc trước đó, được Hội Ðồng Cancer Council Victoria công bố vào Tháng Bảy 2003, thấy rằng những người đàn ông ở giữa lứa tuổi 20 và 50 càng xuất tinh nhiều thì càng có thể ít bị ung thư tuyến tiền liệt hơn.
Cuộc nghiên cứu đó, bao gồm 1,079 bệnh nhân đã bị ung thư tuyến tiền liệt và 1,259 người đàn ông mạnh khỏe, nhận thấy rằng nhưng ai có giao hợp ít nhất một lần mỗi ngày trong những năm 20 tuổi, thì một phần ba có khả năng ít bị bệnh này hơn.
Leitzmann cho biết cuộc nghiên cứu mới của ông phù hợp với những sự khám phá ở Úc. (N.Y.)
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:03:17 GMT -5
ĐÀN ÔNG NGỒI NHIỀU MỘT CHỖ DỄ BỊ CHỨNG BẤT LỰC Friday, February 13, 2004 SYDNEY, Úc Đại Lợi.- Nhân viên ngân hàng và kế toán là những người hay đến gặp bác sĩ về vấn đề bất lực hơn bất cứ ngành nghề nào khác. Trong khi đó, những anh chàng làm các công việc "đàn ông" như thợ mỏ và luật sư thì ít khi tìm đến sự giúp đỡ về trục trặc khó nói này. Kết quả của công trình nghiên cứu do Stephen Carroll (Hiệp Hội Tâm Lý Liệu Pháp Sydney) thực hiện còn tìm thấy những người làm tài xế taxi hoặc xe buýt là dễ bị mắc chứng liệt dương hơn cả do có chế độ ăn uống kém và ngồi một chỗ cả ngày, ít vận động bên ngoài. Hiện nay khoảng 40% đàn ông mắc các triệu chứng khác nhau của liệt dương. Stephen Carroll cho biết: "Những gì chúng tôi tìm thấy là những ai làm trong lĩnh vực tài chính như môi giới, nhân viên nhà băng, kế toán là những người chịu khó gõ cửa các bác sĩ để thổ lộ về chứng liệt dương của mình. Còn những anh chàng làm các công việc tay chân thì thường tự cho rằng mình miễn dịch với căn bệnh này. Vì thế mà bỏ qua những dấu hiệu trong nhiều năm và không chịu đi gặp bác sĩ"” Công trình nghiên cứu đã tìm ra mối liên quan giữa mức độ stress của những nhân viên tài chính với chứng bất lực. Các mạch máu tại dương vật thường rất nhỏ và những tác hại của tiểu đường, cholesterol cao và nhiều bệnh khác có thể gây tác động lên từ rất sớm. Theo khảo sát, trong số những bệnh nhân có mắc triệu chứng này thì chỉ 25% là tự đến khai báo với bác sĩ. Số còn lại thường lờ đi và giấu nhẹm nỗi đau cho đến khi đủ dũng cảm để thổ lộ với bác sĩ. Một số quan niềm về tình dục của Phương Đông cổ đạiFriday, February 20, 2004 (Theo tạp chí Sức Khỏe Và Ðời Sống) Tình ý phù hợp là một trong những điều kiện để thành công trong chuyện vợ chồng. Phương Ðông cổ đại lấy lý thuyết âm dương và ngũ hành làm cơ sở để giải thích mọi hiện tượng trong đời sống tình dục. Theo đó, nam là dương, nữ là âm. Nếu âm, dương không cân bằng, không hòa hợp thì con người sẽ phát sinh bệnh tật và tổn thọ. Theo triết học cổ đại phương Ðông, âm dương là những thế đối nghịch nhau của sự vật như trời - đất, mặt trời - mặt trăng, nam - nữ, trắng - đen, ngày - đêm... Theo Kinh dịch, âm dương có giao cảm với nhau thì sự sống mới tồn tại và phát triển. Âm dương luôn phải tương ứng, tương sinh, đó là nguyên lý bao quát trong cả đời sống tình dục. Sách Tố Nữ Kinh giải thích sự suy nhược cơ thể dựa trên thuyết Âm dương ngũ hành: Trong trời đất có 5 yếu tố chính là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (ngũ hành); chúng tương khắc và tuần hoàn. Nếu thủy tính (nữ nhân) quá mạnh thì dễ hại tới hỏa tính (đàn ông). Cát Hồng - nhà khoa học thời Tấn - cũng cho rằng: “Âm và dương không giao cảm với nhau sẽ làm tổn thương sinh mệnh”. Người phương Ðông xưa coi trọng tình dục và các phương pháp tăng cường sức mạnh tình dục (bổ thận và cường dương). Sách Mạnh Tử viết: “Ăn uống, sắc dục là bản tính”. Sách Lễ Ký viết: “Ăn uống, quan hệ nam nữ là nhu cầu lớn trong bản năng sinh tồn”. Tình dục không chỉ là nhu cầu của tuổi thanh niên mà ngay cả người có tuổi cũng vẫn cần. Người Trung Quốc vốn nổi tiếng với các thang thuốc cường tinh tráng thể giúp kéo dài tuổi thọ và đời sống tình dục. Theo quan niệm phương Ðông, tình dục phải hòa nhịp với thiên nhiên. Sách viết về tình dục của Trung Hoa cổ xưa coi chuyện nam nữ là một bộ phận vũ trụ. Lão Tử viết: “Bốn mùa, trời đất, âm dương, con người phải luận theo”. Cách thức giao hợp cũng phải theo những thế đối nghịch nhau của sự vật như trời (dương) trùm lên đất (âm), trời đất hòa quyện liền nhau thành nhất thể nên mãi mãi trường tồn... Thời điểm thụ thai lý tưởng được coi là giờ Tý (11 giờ khuya đến 1 giờ sáng) hay giờ Sửu (từ 1 đến 3 giờ sáng). Trong khoảng thời gian này, can mạch (mạch liên quan tới gan) hoạt động, trong đó có mạch nối với cơ quan sinh dục, khiến cho sự giao hợp được thoải mái và có thể kéo dài. Can mạch hoạt động lên đến tuyệt đỉnh vào lúc 2 giờ sáng, vì vậy nên xuất tinh vào giờ này. Theo sách Tố Nữ Kinh, không được giao hợp vào ngày đầu tháng (âm lịch), giữa tháng và cuối tháng. Sau này, nhiều nhà nghiên cứu của Ðông y đã phê phán những quan niệm quá khắt khe đó, nhưng vẫn giữ lời khuyên tránh giao hợp vào những ngày giông bão, mưa to gió lớn... Họ cho rằng điều kiện môi trường đột biến thì trạng thái cơ thể cũng phải biến động để thích nghi, do đó không nên làm cho tinh khí tiết xuất. Các nghiên cứu về thời sinh học ngày nay cho thấy những lời khuyên của người xưa có nhiều điều hợp lý. Hoạt động tình dục hợp lý, đúng cách cũng là một phương pháp dưỡng sinh. Cát Hồng viết: “Dù cho có uống trăm ngàn thứ thuốc mà không biết thuật phòng trung (các phương pháp thực hành tình dục) thì cũng chỉ là vô ích”. Thuật phòng trung thực chất là các phương pháp điều hòa hơi thở, những tư thế trong quan hệ tình dục để đem lại khoái cảm, không làm hao tổn sức khỏe mà còn có thể chữa được bệnh. Sách Ngọc phòng thiết yếu quyết cũng viết: “Phàm ở đời, thân thể người ta thường bị suy mòn do không nắm được phép tắc giao tiếp giữa âm và dương (nữ và nam). Người biết đạo âm dương thì có được sự vui vẻ, người không biết thì thân thể và sinh mệnh sẽ bị hủy hoại...” Y lý phương Ðông khuyên nên thực hành tình dục dưỡng sinh ngay từ khi còn trẻ vì những người trẻ dễ coi thường sức khỏe và làm phương hại đến hạnh phúc gia đình. Mọi người cần biết nên làm gì và tránh những gì. Ðiều này cũng phù hợp với kết quả các nghiên cứu khoa học gần đây: Thực hành tình dục an toàn và lành mạnh sẽ đem lại sức khỏe. Khác với quan niệm tình dục hiện đại, các “nhà tình dục học” phương Ðông phân biệt rõ những tư thế tình dục để lấy khoái cảm (30 tư thế) và những tư thế nhằm mục đích dưỡng sinh, chữa bệnh (24 tư thế gồm cửu pháp, bát ích, thất tổn). Cửu pháp (9 thế) chủ yếu dựa trên sự kiềm chế xuất tinh, nhờ đó có thể tiêu trừ những chứng bệnh sinh ra do buồn giận, ghen ghét (thế thứ 4), giữ tinh lực giúp cho thân thể cường tráng (thế thứ 5), tiêu giải được trăm thứ bệnh (thế thứ 6, 7), tăng tuổi thọ và sức khỏe (thế thứ 9). Có người cho rằng những mô tả về cửu pháp đã cung cấp nhiều gợi ý cho 2 nhà nghiên cứu tình dục học nổi tiếng người Mỹ là Master và Johnsons khi xây dựng liệu pháp tình dục chữa xuất tinh sớm (những năm 1940-1950). Những chỉ dẫn về thực hành tình dục của người xưa còn hướng đến mục đích sinh con khỏe mạnh. Người xưa chưa biết đến tinh trùng và noãn mà chỉ suy luận rằng sinh con là nhờ vào tinh cha và huyết mẹ; hai yếu tố âm dương ấy hòa với nhau tạo nên bào thai. Nếu tinh và huyết cường thịnh thì thai nhi sẽ khỏe mạnh. Vì vậy, đạo sinh con phải lấy dưỡng tinh và dưỡng huyết làm trọng. Hoạt động tình dục điều hòa thực chất cũng là cách bảo vệ tinh cha, huyết mẹ. Ngoài ra, muốn có con cái khỏe mạnh, trai gái cần phải kết hôn ở độ tuổi thích hợp.
|
|
|
Post by votieugiap on May 8, 2010 19:06:11 GMT -5
Những bí mật về “sex” của các chàng Thường xuyên đạt cực khoái có tác động tích cực làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú ở nam giới. Vì vậy, nếu đạt cực khoái thường xuyên, các chàng sẽ ít bị ung thư vú ghé thăm. Hooc môn tuyến yên làm tăng cảm giác tin tưởng ở nam giới Sự ôm ấp, âu yếm không chỉ ảnh hưởng đến phụ nữ trong những phút ái ân mà hormone do tuyến yên tiết cũng có tác dụng tương tự với các chàng đấy. Nội tiết tố ở chàng liên kết rất chặt chẽ với cảm xúc, điều này làm tăng sự tin tưởng cho các chàng đấy. Nhiều Testosterone đôi khi có thể nguy hiểm Nhiều testosterone được xem là một điều tốt cho sức khỏe tình dục ở chàng nhưng nó có thể dễ dàng dẫn chàng đến một bản chất lạm dụng và mạnh mẽ hơn trong “chuyện ấy”. Và mọi sự thái quá đều không tốt phải không nào? Giữ bí mật về các vấn đề sức khỏe tình dục của chính mình Nhiều nghiên cứu cho rằng khoảng 40% nam giới bị ám ảnh bởi một số các vấn đề về sức khỏe tình dục mà vẫn không được điều trị? Hàng triệu đàn ông bị liệt dương nhưng họ có xu hướng giấu nó, mặc dù biết thực tế là nó có thể dễ dàng điều trị bằng thuốc Viagra hay Cialis. Thường xuyên đạt cực khoái có thể ngăn ngừa bệnh ung thư vú ở nam giới Thường xuyên đạt cực khoái khi thực hành chuyện ấy có thể có tác động tích cực làm giảm tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú ở nam giới. Vì vậy, nếu đạt cực khoái thường xuyên, các chàng sẽ ít bị ung thư vú ghé thăm. Đàn ông “yêu” nhanh hơn phụ nữ Bạn biết đấy, các chàng luôn là người vội vàng, hay “đánh nhanh thắng nhanh” khi “yêu” bởi vì một lý do rất đơn giản: chàng khó lòng hoặc thậm chí không thể kiểm soát nổi mình sau khi ngửi thấy một mùi hương hấp dẫn, mùi cơ thể ngọt ngào từ các nàng được. Và khi ấy, họ phải “yêu” ngay lập tức. Khi có gia đình mức testosterone bị suy giảm nghiêm trọng Bạn biết không, khi có gia đình, hàm lượng testosterone (hoóc môn liên quan tới sức sống và năng lượng của đàn ông) cũng bị giảm xuống đấy. Có thể do bệnh tật, nguyên nhân tuổi tác hoặc stresss chăng? Testosterone lên tới đỉnh khi người đàn ông ngoài 20 tuổi nhưng sẽ suy giảm dần và sau tuổi 30 thì giảm mỗi năm 1,5%. Lê Nhi "Chuyện ấy": Chồng "chèo" vợ "chống" Nghe có vẻ vô lý nhưng việc các ông chồng phải một mình “gánh vác” chuyện phòng the, thiếu bàn tay phụ nữ không hiếm chút nào. Chăn gối vốn là việc cho để nhận nên không thể thiếu sự hợp tác đôi bên. Tuy vậy, thực tế chỉ xét phương diện “thực hành” không ít quý ông phải lâm cảnh đơn thương độc mã. Việc này có cái bất lợi của nó. Người ta khuyên trong chăn gối không phải đợi đến lúc các ông “hỏng bộ đánh lửa” mà bất kỳ lúc nào các bà các cô cũng có thể xắn tay áo lên giúp chồng một tay. Hợp tác trước hết là sự đồng thuận. Thực tế không ít quý bà quý cô “giao” toàn quyền hành động cho ông nhà, dẫn đến quá thụ động làm cụt hứng người cầm cương. “Cái gàu tát bể đông” quý ông đưa ra có thể đơn giản chỉ là vài thể nghiệm động tác mới, một đề nghị nơi chốn khác lạ, dù thế nào cũng rất cần vài cú vỗ tay khích lệ, thậm chí... bằng mặt không bằng lòng cũng được! Trực tiếp hơn, sự đồng lòng còn nằm ở yếu tố “cộng hưởng” ngay trong cuộc. Trước hết, với một số tư thế chăn gối rất cần sự hiệp lực (nghĩa đen) của hai bên mới thật sự phát huy hiệu quả. Tương tự, sự phấn khích dễ lây nên các bà các cô không nên bỏ qua cơ hội nhất hô bá ứng với ông nhà. Cũng như mọi sự cộng hưởng, cốt lõi là chọn trúng thời điểm. Do vậy, người ta khuyên khi yêu thay vì nhắm mắt lại, các bà các cô nên thường xuyên mở mắt ra để phát hiện lúc nào cần nhất tề “nội công ngoại kích” giúp chồng. Sự cộng hưởng còn đặc biệt hữu lợi trong trường hợp quý ông bắt đầu có dấu hiệu trục trặc trong vấn đề “đề nổ” hay gặp khó với việc đưa độ cương lên mức “tải” được. Khá nhiều trường hợp các bác sĩ nam khoa chỉ cần gọi bà xã của bệnh nhân ra “nói nhỏ” là sau đó bệnh tình của ông chồng thuyên giảm trông thấy. Thật ra, một lần nữa cũng như nhiều cái khó của phụ nữ trong chuyện phòng the, không phải các bà các cô không nhận ra hiệu quả việc chồng chèo vợ chống, nhưng đôi khi vì ngại, vì sợ ông nhà đặt dấu hỏi về sự rành rẽ hay nguồn gốc “sở học” mà đành chọn vai thứ. Ngọn ngành có thể còn từ “gia quy” của không ít ông: trong chăn gối đàn ông tung tẩy thế nào thì mặc, còn phụ nữ “bày đặt” là không xong. Lưu ý, việc “phu xướng phụ tùy” ở đây không phải lúc nào cũng phải là một đôi bừng bừng khí thế mới được. Ngược lại, lắm khi các bà các cô phải thể hiện vai trò tản nhiệt của mình. Chẳng hạn, với các tân lang trẻ mắc xuất tinh sớm thì sự “cộng hưởng âm” của các cô rõ ràng có vai trò lớn trong việc giữ cho đức lang quân không “rời sân” ngay sau sau tiếng còi khai cuộc. Thiết thân hơn với những quý ông có vấn đề về tim mạch, hô hấp có thể nguy hiểm tính mạng thì đại kị những cú thăng hoa “nước lên tới đâu thuyền lên tới đó”, chàng gọi thiếp vâng. Nghe có vẻ vô lý nhưng việc các ông chồng phải một mình “gánh vác” chuyện phòng the, thiếu bàn tay phụ nữ không hiếm chút nào. Người ta nhận thấy những ông chồng “trẻ lâu” trong chăn gối thường cũng có bà nhà “xốc vác” một chút. Theo SK&ĐS
|
|