|
Post by Admin on Apr 26, 2009 13:05:57 GMT -5
Thời Sự Y Học số 122 Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh 1/ CHẲNG BAO LÂU NỮA MỘT VACCIN CHỐNG BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG LOẠI 1 ? Theo một công trình nghiên cứu của Anh, người ta thường tìm thấy các entérovirus trong các đảo nhỏ của tụy tạng (ilôts pancréatiques) nơi những bệnh nhân mới đây đã phát triển bệnh đái đường loại 1, nhưng hiếm khi nơi những trẻ em của nhóm chứng. Công trình này cũng gợi ý rằng người ta tìm thấy các enterovirus nơi vài bệnh nhân đái đường loại 2. Một virus dạ dày thông thường có thể làm phát khởi bệnh đái đường, điều này làm nảy sinh hy vọng có thể phát triển một vaccin. Đó là kết luận của một công trình nghiên cứu, được thực hiện bởi một nhóm nghiên cứu người Anh, cho thấy rằng các entérovirus thường được tìm thấy trong các đảo nhỏ tụy tạng của các bệnh nhân bị bệnh đái đường loại 1, nhưng người ta cũng có thể tìm thấy nó nơi các bệnh nhân bị đái đường loại 2. Trong khi nhận xét rằng, càng ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu chứng tỏ rằng các tế bào bêta của các bệnh nhân bị bệnh đái đường loại 1 có thể bị nhiễm trùng bởi entérovirus, BS S.Richarson và các cộng sự viên đã muốn biết xem các nhiễm trùng thuộc loại này có rất thường xảy ra không và chúng có quan trọng trong tiến triển của bệnh lý hay không. Họ đã khảo sát tỷ lệ hiện diện của protéine vp1 của capside của enterovirus, trong một số lớn các mẫu nghiệm giải phẫu tử thi của những bệnh nhân đã vừa mới phát triển một bệnh đái đường loại 1 và trong một nhóm chứng. Các kết quả cho thấy rằng nhiễm trùng bởi enterovirus đã được phát hiện trong nhiều đảo nhỏ tụy tạng của 61% các bệnh nhân, so với chỉ 3% của nhóm chứng . Protéine vp1 đã được tìm thấy trong các tế bào bêta còn sản xuất insuline. 10 mẫu nghiệm tụy tạng của 25 bệnh nhân (40%) bị đái đường loại 2 cũng dương tính đối với vp1. ENTEROVIRUS NÀO ? G.S Noel Morgan, tác giả chính của công trình nghiên cứu, đã tuyên bố bị kích động bởi những kết quả này : “ Đó là lần đầu tiên các nhà nghiên cứu đã mang lại những bằng cớ, liên kết sự nhiễm trùng, bởi enterovirus, của những tế bào bêta của những đảo nhỏ tụy tạng, với sự phát triển của bệnh đái đường loại 1. Những giai đoạn kế tiếp sẽ nhằm vào việc xác định các enterovirus liên hệ, tìm hiểu làm sao các tế bào bêta bị biến đổi bởi nhiễm trùng và sau cùng, hiệu chính một vaccin có hiệu quả. Những khám phá này hẳn sẽ cho phép làm giảm một cách đáng kể số người sẽ bị bệnh đái đường loại 1 trên thế giới, và cũng có thể của bệnh đái đường loại 2 ”. Trước khi thấy được một vaccin như thế ra đời, những công trình nghiên cứu khác sẽ phải trả lời một số câu hỏi nào đó, như : Nhiễm trùng bởi enterovirus có xảy ra trước khi bệnh đái đường phát triển ? Những kết quả này có được lập lại trong một một nghiên cứu trên một dân số rộng lớn hơn ? Tuy nhiên, những dữ kiện này xác nhận giả thuyết theo đó sự nhiễm trùng sớm của các tế bào bêta bởi các enterovirus, nơi các trẻ em có tổ bẩm di truyền với bệnh đái đường loại 1, có thể thúc đẩy tính tự miễn dịch (auto-immunité). “Mặt khác, các tác giả kết luận, nơi những bệnh nhân mà tình trạng biến dưỡng đã bị xâm phạm, sau khi đề kháng với insuline, thì sự nhiễm trùng này có thế góp phần vào sự phát triển của một bệnh đái đường loại 2. ” (LE JOURNAL DU MEDECIN 17/3/2009) NHỮNG NGƯỜI NGỦ ÍT DỄ BỊ BỆNH ĐÁI ĐƯỜNG Những người ngủ dưới 6 giờ mỗi đêm trong tuần hầu như có 5 lần nguy cơ phát triển sự bất dung nạp đối với glucose (intolérancecau glucose) cao hơn so với những người ngủ lâu hơn. Thời gian ngủ có cho phép tiên đoán nguy cơ phát triển một bất dung nạp đối với glucose hay không ? Lisa Rafalson và nhóm nghiên cứu của đại học Buffalo ở Nữu Ước đã theo dõi trong 6 năm 1.455 người tham dự của công trình nghiên cứu Western New York Study. 91 người trong số những người tham dự đã có nồng độ đường huyết thay đổi từ 100mg/dl vào lúc bắt đầu công trình nghiên cứu năm 1996-2001, lên 100-125 mg/dl vào lúc được thăm khám theo dõi năm 2003-2004. Những nhà nghiên cứu đã xếp loại những bệnh nhân này và 273 người chứng tùy theo thời gian ngủ trong tuần lễ làm việc : những người ngủ ít (dưới 6 giờ), những người ngủ nhiều (trên 8 giờ) và trung bình (6-8 giờ). Sau khi điều chỉnh đối với những biến số khác nhau, họ đã nhận thấy một sự gia tăng đáng kể của nguy cơ phát triển sự bất dung nạp glucose (intolerance au glucose) nơi những người ngủ ít (petits dormeurs : dưới 6 giờ) so với những người ngủ trung bình (dormeurs moyens : 6-8 giờ). Trái lại, so với những người ngủ trung bình, những người ngủ nhiều (gros dormeurs : trên 8 giờ) không cho thấy một sự liên kết nào với sự rối loạn đường huyết lúc đói. PHỤ NỮ NGỦ ÍT DỄ BỊ CAO HUYẾT ÁP HƠN Trong một công trình nghiên cứu khác, cũng được trình bày trong Hội nghị của Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ, các nhà nghiên cứu đã khám phá một mối liên hệ giữa thời gian ngủ và nguy cơ bị cao huyết áp nơi các phụ nữ. Trong lúc so sánh số giờ ngủ của 3.027 người tuổi trung niên (43,5% đàn ông và 56,5% phụ nữ), họ đã nhận thấy rằng lúc ngủ ít (dưới 6 giờ), các phụ nữ có nguy cơ bị cao huyết áp gia tăng đáng kể so với những phụ nữ ngủ từ 6 đến 8 giờ mỗi đêm. Không có một liên hệ nào thuộc loại này đối với đàn ông. Mặt khác, tác dụng của giấc ngủ rõ nét nơi những phụ nữ trong thời kỳ tiền mãn kinh (préménopause) hơn nơi những phụ nữ đã mãn kinh. Những công trình nghiên cứu khác sẽ xác nhận những dữ kiện này. RỐI LOẠN GIẤC NGỦ LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ BỊ BÉO PHÌ. Cũng vẫn ở trong vấn đề thiếu ngủ, một công trình nghiên cứu thứ ba, được trình bày ở hội nghị của Hiệp Hội Tim Hoa kỳ và được thực hiện nơi 967 học trò (9-14 tuổi), cho thấy rằng chất lượng của giấc ngủ được liên kết với nguy cơ béo phì nơi các trẻ em. Các nhà nghiên cứu đã đo tầm vóc và trọng lượng của những người tham dự và đã thu nhận những dữ kiện về chất lượng của những giấc ngủ của những trẻ này ( “ thường ”, “ đôi khi ”, “ không bao giờ ” có những rối loạn giấc ngủ). Theo các kết quả, 22% tăng thể trọng (surpoids) và 10,3% béo phì (obèse). 36% đã “ thường ” có những rối loạn giấc ngủ và, so sánh với những trẻ “ không bao giờ ” hay “ đôi khi ” có những rối loạn giấc ngủ, những trẻ “ thường ” có rối loạn giấc ngủ có thêm 62% nguy cơ trở nên bị béo phì. (LE JOURNAL DU MEDECIN 20/3/2009) B.S. Nguyen Van Thinh - Y Duoc Ngay Nay
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 13:17:28 GMT -5
LOẠN NHỊP TIM NGHIÊM TRỌNG : KỸ THUẬT CẮT BỎ (TECHNIQUES D’ABLATION) Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh, Y Duoc Ngay Nay Nhân Ngày Hiệp Hội Tim Học của Pháp, G.S Jean-Yves Le Heuzey, thầy thuốc chuyên khoa tim của bệnh viện châu Âu Georges-Pompidou, đã trình bày kỹ thuật cắt bỏ mới bằng liệu pháp dùng lạnh (technique d’ablation par cryothérapie). Hỏi : Loạn nhịp tim (arythmie cardiaque) nghĩa là gì ? G.S Jean-Yves Le Heuzey. Loạn nhịp tim (arythmie) có nghĩa là “ rối loạn nhịp ” (trouble du rythme). Có nhiều loại, nhưng rung nhĩ (fibrillation auriculaire), thường xảy ra nhất, thông thường được gọi là loạn nhịp tim. Ở Pháp, bệnh này gây bệnh cho 750.000 người và người ta tiên đoán sẽ có 2 triệu người vào năm 2050 ! Bình thường các tâm nhĩ co bóp với những khoảng cách đều đặn, rồi thì tâm thất …Trong trường hợp rung nhĩ, các tâm nhĩ “đập loạn xạ” và các tâm thất hoạt động không đều (vì các bất thường luồng điện vào). Hậu quả : triệu chứng hồi hộp, với nguy cơ một cục máu đông được tạo thành trong tâm nhĩ và di chuyển đến một động mạch não (nghẽn mạch: embolie). Hỏi : Có những triệu chứng báo hiệu hay không ? G.S Jean-Yves Le Heuzey: Có 3 triệu chứng báo hiệu: hồi hộp không có lý do, khó thở, mệt. Hỏi : Làm sao xác lập một cách chắc chắn chẩn đoán ? G.S Jean-Yves Le Heuzey: Bằng một điện tâm đồ được thực hiện nơi thầy thuốc chuyên khoa tim hay bằng một holter có thể mang theo người, ghi hoạt động tim liên tục 24 hay 48 giờ. Cũng có những chiếc máy mang theo người khác, các máy ghi các biến cố “enregistreurs d’événements”, được đặt trên ngực vào lúc lên cơn hồi hộp. Hỏi : Có những người có tố bẩm không ? G.S Jean- Yves Le Heuzey : Đó là một bệnh của tuổi về hưu vì lẽ bệnh thường xuất hiện nhất vào khoảng 65 tuổi. Yếu tố làm dễ quan trọng là cao huyết áp : 80% các bệnh nhân là những người bị cao huyết áp ! Hỏi : Điều trị các loạn nhịp tim này nhằm vào những gì ? G.S Jean- Yves Le Heuzey : Có hai loại điều trị. 1. Một điều trị để ngăn ngừa các cơn. 2. Một điều trị kháng đông để ngăn cản sự tạo thành một cục máu đông rồi một nghẽn mạch (embolie) (antivitamine K hay aspirine). Về điều trị ngăn ngừa, amiodarone, một trong các thuốc hiện nay được sử dụng, có hiệu quả nhưng gây nên các rối loạn của tuyến giáp trạng do thuốc chứa iode. Trong một hay hai năm nữa, chúng ta sẽ có được một thuốc mới, dronédarone, không chứa iode. Hỏi : Hiện nay, những kết quả thu được với các thứ thuốc là gì ? G.S Jean-Yves Le Heuzey : Những thuốc này hủy bỏ hay làm giảm các triệu chứng. Nhưng sau khoảng 2 năm, 60% các bệnh nhân tái phát. Hỏi : Trong trường hợp thất bại, những phương sách khác là gì ? G.S Jean-Yves Le Heuzey : Những kỹ thuật cắt bỏ (techniques d’ablation) nhằm chữa lành thật sự. Người thầy thuốc đưa một cathéter lên tận tim để phá hủy mô tim bị bệnh, nguồn gốc của loạn nhịp tim. Phương thức được sử dụng nhất ngày nay là kỹ thuật tần số phóng xạ (technique par radiofréquence). Dưới sự kiểm soát của quang tuyến, cathéter (được nối với một máy phát tần số phóng xạ) được đưa vào bẹn, qua tĩnh mạch đùi lên tim, ở tâm nhĩ phải rồi trái. Kỹ thuật cắt bỏ này, do đốt cháy các mô bị bệnh, có thể chữa lành khoảng 60% các bệnh nhân. Hỏi : Kỹ thuật cắt bỏ mới nhất là kỹ thuật nào ? G.S Jean-Yves Le Heuzey : Đó là một kỹ thuật được hiệu chính ở Canada, không còn nhằm đốt cháy mà làm lạnh, bằng liệu pháp dùng lạnh (cryothérapie), để phá hủy các mô tim chịu trách nhiệm loạn nhịp tim. Cathéter, được nối với một máy làm lạnh, có ở đầu mút một quả bóng nhỏ (ballonnet), sẽ có thể tọa vị trong các tĩnh mạch phổi. Kỹ thuật này dễ điều biến hơn, an toàn hơn kỹ thuật tần số phóng xạ (technique par radiofréquence). Mặc dầu các kết quả tốt đang còn được đánh giá, chúng ta đã có thể biết rằng liệu pháp dùng lạnh (cryothérapie) có thể được áp dụng một cách an toàn hơn nhiều. Và để còn tăng cường độ chính xác, chúng ta có thể sử dụng một phương thức mới bằng “navigation magnétique” vừa được hiệu chính. Cathéter kim loại lúc đó được kiểm soát và hướng dẫn nhờ các nam châm (như thế không gây bức xạ cho bệnh nhân). Hiện nay chỉ có một máy duy nhất ở Bordeaux. (PARIS MATCH 19/3-25/3/2009).
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 13:50:52 GMT -5
CUỘC LUẬN CHIẾN VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA UNG THƯ VÀ SỰ TIÊU THỤ RƯỢU Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh, Y Duoc Ngay Nay
Các chuyên gia khẳng định: việc uống rượu đều đặn là việc không nên làm. Cuốn sách mỏng của Viện ung thư quốc gia và của Tổng giám đốc y tế, trong tháng qua đã giải thích rằng ngay việc uống một ly rượu mỗi ngày cũng làm gia tăng một ít nguy cơ bị ung thư, đã gây nên sự la ó ầm ĩ. Những nhà làm rượu, những người trồng nho, và ngay cả một vài thầy thuốc đã lâm chiến chống lại tài liệu này và xác nhận rằng sự tiêu thụ rượu với mức độ thấp là có lợi, đặc biệt là chống lại bệnh tim mạch. Ngay cả một cuốn sách mỏng nhằm nói chống lại cũng đang được sửa soạn để phát hành. “ Chủ đề này đã bị hiểu sai, giáo sư Dominique Maraninchi, tổng giám đốc viện quốc gia ung thư, đã giải thích như vậy. Chúng tôi đã muốn đưa ra một thông tin. Chúng tôi nói rằng, về rượu, ngưỡng tiêu thụ không gây nguy cơ, nghĩa là ngưỡng trong đó người ta không nhận thấy tác dụng có hại về mặt ung thư, là rất thấp. Những lời phát biểu của chúng tôi không phải là để cấm đoán bất cứ điều gì, nhưng chỉ là những thông tin.” Đối với giáo sư Michel Reynaud, “ tất cả vấn đề là xem liệu chúng ta có muốn có một cuộc sống với một nguy cơ số không hay là không. Nếu những lợi ích của một lượng nhỏ rượu vang trên các bệnh tim mạch vẫn không chắc chắn, trong khi những nguy cơ bị ung thư được xác lập khá rõ, thì việc tiêu thụ rượu vẫn có những lợi ích khác. Uống rượu đặc biệt cho phép con người ta cảm thấy thoải mái. Uống rượu làm dễ sự giao tiếp trong đời sống xã hội của mình. Ngược lại, điều chắc chắn là, những liều lượng nhỏ rượu, được tiêu thụ một cách đều đặn, là nguy hiểm hơn những liều nhỏ thuốc trừ sâu hay còn nguy hiểm hơn cả các antennes-relais ”. Nguy cơ của những liều lượng nhỏ rượu cũng được liên kết với một tố bẩm cá nhân, với sự liên kết với những độc chất khác như thuốc lá.. Sự phân tích các mối liên kết giữa ung thư và rượu được căn cứ trên những điều tra dịch tễ quy mô lớn, so sánh trên những nhóm người với số lượng to lớn, tỷ lệ mắc phải ung thư với những thói quen tiêu thụ rượu. Những nghiên cứu thí nghiệm cho phép kiểm tra tính đúng đắn của những kết luận này, bằng cách xem xét tác dụng của rượu lên các canh cấy tế bào, lên các mô hình động vật. MỘT SỰ VỮNG VÀNG KHÔNG THỂ TRANH CÃI Năm 2007, Viện ung thư quốc gia đã phát hành một báo cáo hoàn chỉnh về vấn đề này, xem xét mức độ nguy cơ tùy theo lượng rượu được uống vào. Các kết quả không phải là kết quả của một điều tra, nhưng là tổng số của nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới. Điều này mang lại một sự vững chắc không thể tranh cãi được. Mặc dầu vài con số khiến những giải thích dị biệt bởi vì dịch tễ học thường để tồn tại những vùng không rõ ràng. Bản báo cáo này, được biên soạn bởi một nhóm chuyên gia, dầu sao đảm bảo một cách rõ ràng rằng “ việc tiêu thụ rượu đều đặn là không nên. Sự gia tăng nguy cơ là đáng kể ngay cả đối với một sự tiêu thụ mức độ trung bình, với một nguy cơ càng cao nếu sự tiêu thụ càng cao. ” Ngay cả đối với những lợi ích tim mạch, mối liên hệ cũng không rõ ràng lắm. Trong những năm 1980, rượu vang với mức tiêu thụ thấp đã được xem là một yếu tố bảo vệ. Ngày nay, những điều chắc chắn này đã hơi bị tan biến đi. Vài chuyên gia, nhưng không phải là tất cả, cho rằng những kết quả này là thiên lệch. Từ nay uống rượu với mức độ thấp chỉ có lợi ích là cho cảm giác khoái trá và cảm giác dễ chịu. Trong thời buổi của chúng ta hiện nay, điều đó không phải là không đáng kể. (LE FIGARO 25/3/2009)
2/ SỰ GIẬN DỮ, LÒNG THÙ HẬN VÀ NGUY CƠ TIM MẠCH Một phân tích méta đã cho thấy rằng những cảm xúc như sự giận dữ và lòng thù hận được liên kết với một sự gia tăng 19% nguy cơ bị những biến cố động mạch vành nơi những người lành mạnh và 24% nơi những người đã bị những vấn đề động mạch vành. Mối liên hệ xuất hiện rõ hơn nơi những người đàn ông. Đó là kết luận của một duyệt xét các tư liệu, được thực hiện bởi Yoichi Chida và Andrew Steptoe (Unversity College de Londres), về sự xuất hiện những biến cố động mạch vành nơi những người lành mạnh và nơi những người đã có những vấn đề động mạch vành. Những công trình nghiên cứu, được tiến hành trên 80.000 người ở Úc châu, châu Á, châu Âu và Hoa Kỳ. Các tác giả đã chứng nhận rằng những cảm xúc như sự giận dữ và lòng thù hận được liên kết với một nguy cơ bị những biến cố động mạch vành cao hơn nơi những người lành mạnh và có một tiên lượng xấu nơi những người vốn đã có những vấn đề động mạch vành. Trong một bài xã luận đi kèm bài báo được đăng tải trong Journal of the American College of Cardiology, Johan Denollet và Susanne S.Pedersen (Tilburg, Hoà Lan) viết rằng công trình nghiên cứu này cho thấy những ý nghĩa lâm sàng quan trọng bởi vì nó ủng hộ giả thuyết cho rằng những yếu tố tâm lý âm tính can thiệp trong sự phát triển của một bệnh lý động mạch vành. Do đó những triệu chứng giận dữ và thù hận phải được xét đến một cách nghiêm chỉnh. Theo Denollet, điều này muốn nói rằng các thầy thuốc phải gợi ý với các bệnh nhân bị những cảm xúc quá mức như thế, phải nên theo một liệu pháp hành vi (thérapie comportementale). (LE JOURNAL DU MEDECIN 24/3/2009) 3/ ĂN ÍT LÀM GIẢM SỰ TĂNG TRƯỞNG CỦA CÁC KHỐI U Từ một thế kỷ nay, người ta đã biết rằng sự hạn chế ăn uống làm giảm sự tăng trưởng của vài khối u, nhưng người ta không biết lý do vì sao : các nhà nghiên cứu, công bố công trình nghiên cứu trong Nature số tuần này, đã thành công phát hiện vai trò của một enzyme, PI3K (phosphatidylinositol 3-kinase), đóng vai trò trọng yếu trong sự tăng sinh của các tế bào ung thư, bởi vì sự hoạt hóa của enzyme này kềm hãm những tác dụng của một chế độ ăn uống ít hơn. Vài khối u (đại tràng và hai dạng ung thư vú) giảm sự tăng trưởng dưới tác dụng của sự thu giảm chế độ ăn uống, trong khi những khối u khác (tiền liệt tuyến, não bộ và một dạng ung thư vú) không nhạy cảm với tác dụng này. “ Bằng cách điều biến sự hoạt hoá của PI3K, chúng ta có thể chuyển biến một khối u đề kháng với sự hạn chế ăn uống thành một khối u nhạy cảm với nó ” , các nhà nghiên cứu đã xác nhận như vậy. (LE SOIR 13/3/2009) 4/ CÀ PHÊ VÀ BỆNH ALZHEIMER Những người uống cà phê có mức độ, làm giảm 65% nguy cơ phát triển chứng sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer. Cà phê được biết là nguồn thực phẩm chính của caféine, phân tử mà các tác dụng lên hệ thần kinh đã được nghiên cứu từ lâu. Người ta thường tìm kiếm tác dụng kích thích tức thời của cà phê để chống lại sự mệt mỏi. Trái lại cà phê có thể làm khó ngủ. Nhưng những tác dụng về lâu về dài của cà phê lên hệ thần kinh trung ương vẫn còn không được biết đến nhiều. Sự thoái biến diễn ra chậm và dần dần của hệ thần kinh trung ương có liên quan trong chứng sa sút trí tuệ, mà thể thông thường nhất là bệnh Alzheimer. Bệnh Alzheimer hiện gây bệnh cho 13 triệu người trên thế giới. Xét vì sự lão hóa của dân số và sự vắng bóng của một phép điều trị thực sự, người ta có thể dự kiến một sự gia tăng của các trường hợp sa sút trí tuệ. Những công trình nghiên cứu trước đây đã gợi ý rằng sự tiêu thụ cà phê khả dĩ có một tác dụng lợi ích chống lại sự xuất hiện của bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, sự phát triển của chứng sa sút trí tuệ này bắt đầu nhiều năm trước khi xuất hiện những dấu hiệu lâm sàng. Do đó, tác động của chế độ ăn uống lên tiến triển của bệnh phải được xét đến khá sớm trước khi xuất hiện bệnh. Và chính đó là một con chủ bài quan trọng của một công trình nghiên cứu, được thực hiện bởi Đại học Kuopio (Phần lan), Viện Karolinska của Stockholm (Thụy Điển), và Viện Y Tế công cộng Phần Lan. Các nhà nghiên cứu đã theo dõi việc tiêu thụ cà phê và trà trong 21 năm, đồng thời mỗi 5 năm cập nhật các thói quen của những người tiêu thụ. Sau đó, các nhà nghiên cứu đã thăm khám lại 1.409 người tuổi từ 65 đến 79 tuổi, để chẩn đoán những trường hợp sa sút trí tuệ. Các kết quả được công bố trong Journal of Alzheimer’s Disease. MỘT SỰ TIÊU THỤ CÓ MỨC ĐỘ LÀM GIẢM CÁC NGUY CƠ BỊ SA SÚT TRÍ TUỆ Các dữ kiện tiêu thụ cà phê được xếp thành 3 nhóm : những người uống ít (0-2 tách mỗi ngày), những người uống mức trung bình (3-5 tách) và những người uống nhiều (trên 5 tách). Đối với trà, các tác giả đã sắp xếp những người tham gia thành những người uống (ít nhất một tách) và không uống (dưới một tách mỗi ngày). Phân tích các kết quả cho thấy rằng sự tiêu thụ cà phê trong thời kỳ theo dõi được liên kết với một nguy cơ phát triển sa sút trí tuệ thấp hơn. Những lợi ích lớn nhất xuất hiện đối với những người uống cà phê mức trung bình : nơi những người này, nguy cơ phát triển sa sút trí tuệ hay bệnh Alzheimer giảm 65%, so với những người không uống hoặc uống ít cà phê. Trái lại, đối với trà, cũng chứa caféine, nhưng với số lượng thấp hơn, sự việc uống hoặc không uống đã không có ảnh hưởng lên nguy cơ sa sút trí tuệ (có lẽ sự tiêu thụ không đủ quan trọng). Các tác giả xác nhận rằng sự khám phá của họ phải được xác nhận bởi những công trình nghiên cứu khác, nhưng nó đã mở ra cánh cửa của một khả năng can thiệp bằng chế độ ăn uống để làm biến đổi nguy cơ sa sút trí tuệ. (LE SOIR 16/3/2009)
5/ HÚT THUỐC LÚC CÒN TRẺ LÀM GIA TĂNG NGUY CƠ MẮC BỆNH XƠ CỨNG RẢI RÁC Vào đầu những năm 80, các nhà khoa học nghĩ rằng bệnh xơ cứng rải rác (sclérose en plaques) có thể được gây nên bởi các yếu tố (cho mãi đến khi đó vẫn không được biết) can thiệp vào giai đoạn sớm của đời sống. Mặt khác, một công trình nghiên cứu đã phát hiện một mối liên hệ giữa thuốc lá và bệnh xơ cứng rải rác. Joseph Finkelstein (John Hopkins University School of Medicine, Baltimore) và các cộng sự viên đã muốn biết xem việc hút thuốc ở một lứa tuổi tương đối trẻ có thể gây nên bệnh hay không. Cộng tác với Veterans Affairs MS Center for Excellence, họ đã phân tích một mẫu nghiệm đại diện, gồm 30.092 người đã tham gia vào công trình nghiên cứu 2002 National Health Interview Survey. Công trình nghiên cứu của họ sẽ được trình bày ở hội nghị hàng năm lần thứ 61 của Viện Hàn Lâm Thần Kinh Học Hoa Kỳ, sẽ diễn ra ở Seattle từ 25 tháng 4 đến 2 tháng 5 năm 2009. Các tác giả đã chứng thực rằng, trong nhóm những người không bị bệnh, 19,3% những người tham dự đã hút thuốc trước 17 tuổi. Trong nhóm những người bị xơ cứng rải rác, con số này lên đến 32 ,6%. Sau khi điều chỉnh đối với giống tính, trình độ học vấn và những yếu tố khác khả dĩ ảnh hưởng lên nguy cơ bị xơ cứng rải rác, họ đã nhận thấy rằng những người hút thuốc sớm có 2,7 lần nguy cơ nhiều hơn phát triển bệnh. Điều này không xảy ra nơi những người chỉ bắt đầu hút thuốc sau năm 17 tuổi. Theo các tác giả, thuốc lá gây thiệt hại lên các mô, làm dễ phản ứng viêm và ảnh hưởng lên hệ miễn dịch. Có lẽ chính những tác dụng này giải thích tại sao hút thuốc lúc còn trẻ được liên kết với một nguy cơ phát triển bệnh xơ cứng rải rác. (LE JOURNAL DU MEDECIN 6/3/2009) 6/ PARKINSON VÀ CÁC THUỐC MA TÚY : CÙNG NHỮNG NEURONE. Striatum, một trong những vùng của não bộ, đóng một vai trò chủ chốt trong chứng nghiện ma túy và bệnh Parkinson. Mỗi năm, khoảng 9 triệu người ở châu Âu được điều trị vì một vấn đề phụ thuộc chất ma túy (dépendance aux drogues) (rượu và/hoặc chất ma túy bất hợp pháp). “ Điều trị theo dõi gây tổn phí cho Cộng đồng 57 tỉ euros ”, ULB (Université Libre de Bruxelles) đã chỉ rõ như vậy. “Bệnh Parkinson về phần mình gây bệnh cho 1,2 triệu người và tổn phí 11 tỉ Euro mỗi năm”, các nhóm nghiên cứu của Alban de Kerchove d’Exaerde và của Laboratoire de neurophysiologie của Đại học Y Khoa đã xác nhận như thế. Hai nhóm nghiên cứu này vừa thực hiện một tiến bộ đáng chú ý về hai căn bệnh này. Thật vậy họ đã phát hiện vai trò bất ngờ của một nhóm tế bào thần kinh trong chứng phụ thuộc chất ma túy và trong sự kiểm soát vận động (bệnh Parkinson). Công trình nghiên cứu của họ được công bố trong tạp chí Nature Neuroscience. “Sự phụ thuộc vào các chất ma túy và bệnh Parkinson lần lượt có liên quan đến một sự thặng dư quá mức hay một sự thiếu hụt của chất dẫn truyền thần kinh dopamine, các nhà nghiên cứu đã xác nhận như thế. Dopamine chủ yếu được phóng thích trong một vùng của não bộ (striatum), có liên hệ đồng thời trong sự khen thưởng (récompense), nghĩa là trong sự phụ thuộc chất ma túy, và trong sự kiểm soát vận động, nghĩa là trong bệnh Parkinson.” Vùng này được cấu tạo chủ yếu bởi hai nhóm neurones, mà các vai trò lần lượt của chúng đến nay vẫn còn được bàn cãi. Để biết rõ hơn về vấn đề này, các nhà nghiên cứu của Phòng thí nghiệm sinh lý thần kinh đã phá hủy một trong hai nhóm neurone này trong một mô hình chuột. Như thế họ đã chứng minh in vivo rằng một trong hai nhóm neurone này, các neurones striatopallidaux, cản hoạt động vận động cũng như cản sự ưa thích hơn (préférence) và sự ghi nhớ (mémorisation) gây nên do sự tiêu thụ chất ma túy. Nói một cách khác, các chú chuột không có nhóm neurone này sẽ có một sự gia tăng hoạt động vận động và, một cách bất ngờ, chúng có một sự ưa thích lớn hơn và trong một thời gian lâu hơn, đối với nơi mà chúng nhận chất ma túy. Trong lúc phát hiện vai trò bất ngờ của nhóm neurone này, các nhà nghiên cứu mở ra một triển vọng điều trị mới : hoặc là kích thích nhóm neurone này trong trường hợp phụ thuộc chất ma túy, hoặc ức chế chúng trong trường hợp bệnh Parkinson. (LE SOIR 9/3/2009) 7/ VỚI NGÀY CÀNG NHIỀU NHỮNG CHUYẾN BAY ĐƯỜNG DÀI, TỶ LỆ MẮC CÁC BỆNH LÝ NGÀY CÀNG BAY CAO Hiện nay, số hành khách hàng không đạt gần 2 tỉ mỗi năm. Các nguy cơ huyết khối nghẽn tĩnh mạch (thromboembolie veineuse) trong các chuyến bay đường dài, sự tiếp xúc với các bức xạ vũ trụ, những tác dụng do lệch giờ giấc và những thiếu sót về chất lượng khí trong các cabine, kết hợp lại để làm gia tăng những vấn đề sức khỏe liên kết với những chuyến không hành. Từ nay, vấn đề năng lực vật lý để thực hiện một chuyến không hành được đặt ra một cách gay gắt, đứng trước số lượng rất quan trọng các cá nhân, các khách du lịch hay những hành khách đi công tác ; Các hành khách ngày càng ý thức những vấn đề liên quan với các chuyến bay. Các thăm dò cho thấy rằng 95% các cá nhân vốn có những vấn đề sức khỏe, thích được nhận nhiều lời khuyên về y tế trước khi bay. ĐỘ CAO TỪ 1524 ĐẾN 2438 m Đâu là những vấn đề sức khỏe liên kết với những chuyến bay thương mãi? Danielle Silverman và Mark Gendreau (Hoa Kỳ) đã điểm lại các tư liệu y học trong The Lancet. - Áp suất bên trong cabine : sự điều áp (pressurisation) tương ứng với một độ cao 1524 đến 2438m, điều này khả dĩ gây nên những triệu chứng của bệnh ở độ cao (mal de l’altitude) ngay sau 3 giờ bay. Một điều áp ở cao độ 2.438 m làm giảm Pa02 từ 95 mmHg xuống còn 60, với một sự giảm 3-4% độ bảo hòa của oxyhémoglobine; các hành khách bị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (BPCO) có thể bị một suy hô hấp nhẹ trong một chuyến bay. Sau một phẫu thuật quan trọng, nên khuyên bệnh nhân phải đợi 2 tuần trước khi bay vì lẽ khi áp suất bị giảm, sẽ có sự nỡ của chất khí (expansion des gaz) bên trong cơ thể. - Chúng ta không nghĩ đầy đủ đến sự kiện là một tình trạng thiếu oxy hơi giảm áp (une hypoxie légèrement hypobare) làm gia tăng độ keo (viscosité) của máu và rằng sự mất nước cũng làm gia trọng độ keo này. Sự phòng ngừa huyết khối (thromboprophylaxie) dựa trên những lời khuyên bỏ rượu, bỏ caféine, tránh sự bất động, với chỉ định dùng HBPM (héparine trọng lượng phân tử thấp) đối với những hành khách có nguy cơ ở mức độ vừa phải và đã không sử dụng thuốc kháng đông một cách thường quy. Việc sử dụng bas de contention thường hữu ích. NHỮNG BỨC XẠ MẶT TRỜI - sự tiếp xúc với các tia vũ trụ, nghĩa là những tia xuất phát từ hệ mặt trời, được liên kết với các hạt nhỏ (particules) của sưởi ấm mặt trời. Nhiều ung thư đã được liên kết với các tia vũ trụ (vú, da, u hắc tố) và những lời khuyến nghị đã được đưa ra nhằm giới hạn việc tiếp xúc của các nhân viên phi hành. Những nghiên cứu về vấn đề này mãi đến nay không cho phép xác định mối nguy cơ. Tuy nhiên, Cơ quan quản trị hàng không Hoa Kỳ khuyến nghị rằng các phụ nữ có thai (nhân viên phi hành hay hành khách) nên tìm kiếm trên Internet những thông tin phát xuất từ hệ báo động về những bức xạ mặt trời trước khi bay để không vượt quá giới hạn 1mSv (millisievert). - Sự chênh lệch giờ giấc (décalage horaire hay jet lag), được liên kết với sự bất đồng bộ của các đồng hồ sinh học. Những loại thuốc khác nhau đã được đề nghị, nhưng mélatonine vẫn là điều trị chuẩn. Một phân tích méta 10 công trình nghiên cứu (Cochrane) đã kết luận rằng uống 0,5 đến 5mg vào lúc ngủ trước khi đến, có hiệu quả làm giảm những cảm giác gây ra do sự thay đổi múi giờ. - Các bệnh nhiễm trùng : việc gò bó trong những khoảng không gian giới hạn, trong những khoảng thời gian kéo dài, làm dễ sự phát tán của những tác nhân nhiễm khuẩn. Từ năm 1946, những trận dịch đã được liên kết với các hành khách hàng không như bệnh đầu mùa, bệnh lao, bệnh cúm, bệnh sởi, SRAS, các viêm ruột do siêu vi trùng. Bây giờ các công ty hàng không sử dụng những máy lọc có hiệu quả cao để đổi mới hơn 50% không khí của cabine. Nguy cơ bị truyền bệnh trên máy bay được giới hạn vào những người ngồi gần một bệnh nhân, khoảng cách dưới hai hàng ghế. Người ta thiếu các dữ kiện về quy mô của các sự cố y khoa xảy ra trong các máy bay. Nhưng hầu hết đều không đáng kể và liên hệ đến những người trên 70 tuổi. (LE JOURNAL DU MEDECIN 3/3/2009)
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 13:52:34 GMT -5
8/ TIM ĐẬP CHẬM HƠN KỀM HÃM NHỒI MÁU CƠ TIMLàm chậm lại một cách hiệu quả tần số của những người bị bệnh tim, cho phép tránh được một nhồi máu thứ hai. Đó là kết luận của công trình nghiên cứu Beautiful mới được trình bày ở Hiệp hội tim châu Âu. Công trình nghiên cứu cho thấy rằng việc cho thêm một loại thuốc, ivabradine, một thứ thuốc chỉ tác dụng lên tần số tim, cho phép làm giảm 36% nguy cơ tim mạch nơi những người có bệnh động mạch vành được phát hiện. Hoặc khoảng 2 triệu người ở Pháp, G.S Yves Cottin, trưởng khoa tim của CHU Dijon đã xác nhận như vậy. Người ta đã biết rằng một tần số tim trên 70 đập /phút làm gia tăng 46% nguy cơ nhồi máu cơ tim. Thế mà, ivabradine có một cơ chế tác dụng phức tạp, chỉ tác động lên tham số của tần số. Đó là chất ức chế dòng Na và K đầu tiên, dòng được gọi là khử cực (courant de dépolarisation), được ghi nơi những tế bào tim. Được thương mãi hóa ở Pháp dưới tên Procolaran, tuy nhiên thuốc không được sử dụng nơi những người có tần số tim dưới 70 đập mỗi phút. Cần ghi nhận rằng việc đo tần số này, dầu chỉ là một động tác đơn giản, thế mà không phải luôn luôn được thực hiện bởi các thầy thuốc. (SCIENCES ET AVENIR 3/2009) 9/ CHẨN ĐOÁN CỦA UNG THƯ BUỒNG TRỨNG : LỢI ÍCH ĐƯỢC CHỨNG TỎ CỦA NGOẠI KHOA SOI Ổ BỤNG (COELIOCHIRURGIE)G.S Michel Canis, thầy thuốc chuyên khoa phụ sản của CHU Clermont-Ferrand, bình luận về những lợi ích của kỹ thuật vi xâm nhập này, được trình bày nhân dịp hội nghị chuyên đề vừa qua của Viện hàn lâm ngoại khoa quốc gia. Hỏi : Tỷ lệ mắc bệnh của ung thư buồng trứng (cancer de l’ovaire) là gì ? Michel Canis : Ung thư này không xảy ra thông thường. Ở Pháp, người ta thống kê được 4500 trường hợp mỗi năm, và dưới 5% trong số này có một yếu tố di truyền. Phần lớn được chẩn đoán vào một giai đoạn muộn bởi vì chúng tiến triển một cách thầm lặng. Khi những triệu chứng được biểu hiện, như là những cơn đau bụng hay một sự gia tăng thể tích bụng, thì bệnh đã phát triển nhiều rồi. Hỏi : Xét nghiệm nào cho phép chẩn đoán một khối u buồng trứng ? Michel Canine : Hiện nay không có chương trình phát hiện ung thư buồng trứng. Xét nghiệm thông thường nhằm phát hiện ung thư buồng trứng là siêu âm (échographie). Nhưng thông thường nhất là do tình cờ mà chúng ta khám phá ra nó. Hỏi : Đối với loại ung thư này, mức độ tin cậy của siêu âm là gì ? Michel Canine : Nhờ xét nghiệm chụp ảnh này, ta có thể thấy rõ một khối u buồng trứng (masse ovarienne), nhưng siêu âm không cho phép chẩn đoán tính chất hiền tính hay ác tính. Tuy nhiên xét nghiệm này cho vài yếu tố định hướng : khối u có thể là dịch (liquide), rắn (solide) hay nửa dịch nửa rắn (mi-liquide mi-solide). Khi khối u là dịch, có 99% khả năng là chúng hiền tính. Khi khối u nửa dịch nửa rắn, nguy cơ ung thư là 40% đến 50%. Khi khối u là rắn, nguy cơ hạ xuống 20%. Hỏi : Làm sao đảm bảo một cách dứt khoát về tính chất của khối u ? Michel Canine : Bằng ngoại khoa soi ổ bụng (chirurgie coelioscopique), sẽ cho phép thấy buồng trứng và biết được lấy đi bằng cách nào để khám dưới kính hiển vi (phân tích mô học). Vấn đề là, mãi cho đến ngày nay, kỹ thuật này đã không được sử dụng nhiều vì người ta e ngại một nguy cơ làm lan tràn (risque de dissémination). Thế mà, nguy hiểm này có thể hoàn toàn tránh được, khi động tác giải phẫu được thực hiện một cách nghiêm túc. Hỏi : Những hậu quả của việc không sử dụng soi ổ bụng (coelioscopie) để chẩn đoán là gì ? Michel Canine : Vài bệnh nhân, mà thương tổn thật ra là lành tính, đã phải chịu một cách hệ thống phẫu thuật mổ bụng cổ điển (laparotomie classique à ventre ouvert), với một đường xẻ thẳng đứng 10 cm (được thực hiện trong trường hợp xác nhận ung thư) thay vì chỉ cần một ngoại khoa vi xâm nhập (chirurgie mini-invasive). Hỏi : Chẩn đoán bằng ngoại khoa soi ổ bụng (coeliochirurgie) là gì ? Michel Canine : Can thiệp diễn ra dưới gây mê tổng quát và gồm nhiều giai đoạn. 1. Thầy thuốc bơm phồng bụng với thán khí (gaz carbonique), làm căng xoang bụng. 2. Qua một lỗ nhỏ 10 mm đường kính, một trocart được đưa vào. Trong trocart này một minicamera sẽ được chuồi vào, cho phép chiếu phẫu trường lên trên một màn ảnh. 3. 4 lỗ nhỏ khác đường kính 5mm được thực hiện để phẫu thuật viên có thể đưa dụng cụ ngoại khoa vào (đường kính 5mm). 4. Phẫu thuật viên xem xét ổ bụng và trích lấy chất dịch. 5. Nhà phẫu thuật lấy đi hoàn toàn khối u ; khối u này được đặt trước hết trong một túi nội soi (sac endoscopique) để tránh mọi nguy cơ làm lan tràn. Khối u được lấy ra và được thăm khám tại chỗ với kính hiển vi bởi nhà chuyên khoa mô học. Nếu sự khám xét này không phát hiện ác tính, phẫu thuật viên đóng lại các vết mổ. Bệnh nhân sẽ ở lại bệnh viện trong 48 giờ và sẽ cảm thấy rất ít triệu chứng. Trong trường hợp khối u là ung thư, thầy thuốc phụ khoa sẽ thực hiện kỹ thuật ngoại khoa cổ điển cùng lúc với phẫu thuật nội soi. Hỏi : Những chỉ định chính xác của kỹ thuật này (coeliochirurgie) là gi ? Michel Canine : Chúng tôi khuyên áp dụng kỹ thuật này ngay khi khám phá ra một khối u buồng trứng, và trong trường hợp u dịch kéo dài (tumeur liquide persistante). Hỏi : Nói tóm lại, những lợi ích của kỹ thuật chẩn đoán này là gì ? Michel Carine : 1. Độ tin cậy của chẩn đoán. 2. Có thể thực hiện chẩn đoán và, trong trường hợp cần thiết, điều trị ngoại khoa trong cùng thì giải phẫu. 3. Ưu điểm đối với các phụ nữ có một khối u lành tính là tránh được một giải phẫu nặng nề và chỉ phải chịu một động tác vi xâm nhập (un acte mini-invasif). (PARIS MATCH 5/3-11/3/2009) 10/ BUỒNG TRỨNG : CÁC XÉT NGHIỆM ĐẦY HỨA HẸN
Siêu âm bằng đường âm đạo (échographie vaginale) và xét nghiệm máu cho phép tăng gấp đôi số trường hợp ung thư được phát hiện sớm và có thể điều trị. Cũng như những dạng ung thư khác, như những ung thư tuyến tiền liệt hay ung thư tử cung, ung thư của buồng trứng (cancer de l’ovaire) có tiến triển chậm, đặc biệt khó được chẩn đoán sớm. Các buồng trứng cử động khá tự do trong ổ bụng. Đó là lý do tại sao vào lúc bắt đầu bị bệnh, các bệnh nhân có ít triệu chứng. Khi các triệu chứng xuất hiện, chúng rất ít đặc hiệu : đau bụng mơ hồ, cảm giác căng phồng, nôn, táo bón, đi tiểu thường xuyên một cách bất thường, gia tăng thể tích của bụng (quần áo chật). Mệt mỏi và mất cân có thể xuất hiện. Hậu quả, đó là những ung thư buồng trứng bị chẩn đoán muộn : 70% các phụ nữ bị ung thư buồng trứng ở vào một giai đoạn tiến triển, với một tỷ lệ sống còn khoảng 20 đến 30% vào 5 năm sau chẩn đoán. Thật là đáng tiếc, vì lẽ ung thư này nếu được phát hiện sớm, tỷ lệ chữa lành là 90%. Vậy có những phương tiện chắc chắn để phát hiện sớm là chiếc chìa khóa để cứu hàng ngàn sinh mạng : những tiến bộ của siêu âm bằng đường âm đạo (échographie transvaginale) và sự phát triển một điểm số nguy cơ (un score de risque) để giải thích những kết quả của một xét nghiệm máu tìm chỉ dấu ung thư (xét nghiệm “CA125”) đã gợi ý rằng một chương trình điều tra phát hiện sớm quy mô lớn là có thể thực hiện. Để kiểm chứng điều đó, giáo sư Ian Jacobs của Londres đã đánh giá hiệu quả của hai phương pháp (siêu âm và xét nghiệm máu) và hiệu quả của chúng lên tỷ lệ tử vong. Những người tham gia sẽ được trắc nghiệm cho đến cuối năm 2012 và được theo dõi về mặt y khoa cho đến cuối năm 2014, nhưng những kết quả đầu tiên, đầy hứa hẹn, được công bố tuần này bởi tạp chí Lancet Oncology. Giữa năm 2001 và 2005 ở Vương Quốc Anh, 202.638 phụ nữ mãn kinh, tuổi từ 50 đến 70, đã được phân chia thành các nhóm, với chương điều tra phát hiện theo hai phương pháp (siêu âm và xét nghiệm máu) hoặc chỉ theo một phương pháp (siêu âm). Theo các kết quả, chương trình điều tra đã cho phép phát hiện phần lớn các phụ nữ có một ung thư buồng trứng. Gần một nửa các ung thư được phát hiện ở các giai đoạn đầu, trong khi bình thường, chỉ một phần tư các ung thư xâm nhập (cancers invasifs) là được phát hiện vào giai đoạn đầu tiên hết. CHÍN LẦN ÍT PHẪU THUẬT HƠN Tổng cộng, 87 ung thư đã được phát hiện nhờ chương trình điều tra, có những tỷ lệ tương tự, với hai phương pháp kết hợp hay chỉ siêu âm mà thôi. Tuy nhiên, sự liên kết của hai xét nghiệm là đáng chú : ít thực hiện lại trắc nghiệm trong trường hợp kết quả bất thường và gần như 9 lần ít hơn bị phẫu thuật do ung thư được phát hiện. Tính toàn bộ, điều này mang lại một mối lợi hai năm về mặt thời gian trên bệnh. Mỗi năm bệnh ung thư buồng trứng giết chết khoảng 100.000 phụ nữ trên toàn thế giới. Một chẩn đoán nhanh hơn có thể cứu được nhiều mạng người. Tuy nhiên, để chắc chắn rằng một chương trình điều tra phát hiện như thế cho phép cứu được mạng người, sẽ phải đợi sự chấm dứt của các thử nghiệm lâm sàng, vào năm 2014. (LE SOIR 12/3/2009) BS NGUYỄN VĂN THỊNH (31/3/2009)
|
|
|
Post by Admin on Apr 26, 2009 14:05:45 GMT -5
Chuyển liều thuốc Hạ Huyết Áp vào Chiều Tối cho bệnh nhân Suy Thận Dược sĩ Lê văn Nhân
Người bình thường huyết áp buổi tối sẽ giảm hơn 10% tiếng Anh gọi là hiện tượng “dipping”, nhưng người bị suy thận bị mất khả năng này và gọi là hiện tượng huyết áp “nondipping”, và dẫn đến tăng bệnh suất và tử suất tim mạch ở toàn dân số cũng như ở người cao huyết áp. Tình trạng huyết áp không giảm ban đêm gặp rất nhiều ở bệnh nhân suy thận mãn, thường nhạy cảm với Na, ảnh hưởng lên kết quả tim mạch và liên quan đến nguy cơ cao tiến đến suy thận ở giai đoạn cuối, gợi ý cần chú ý bình thường hóa nhịp điệu sinh học hàng ngày (circadian rhythm) ở những bệnh nhân này. Một nghiên cứu mới cho thấy chuyển liều 1 món thuốc hạ huyết áp buổi sáng qua chiều tối sẽ tái tạo được huyết áp theo nhịp điệu sinh học ở bệnh nhân suy thận mãn. Theo lời bác sĩ Minutolo, đại học Naples nước Ý, tác giả bài báo cáo nghiên cứu, thì phương thức này giản dị nhưng rất quan trọng, vì giới hạn được hiện tượng huyết áp “nondipping” ban đêm đã được xác nhận là yếu tố nguy cơ tiến triển bệnh thận và phát sinh biến chứng tim mạch. Nghiên cứu này thực hiện để xem khi chuyển 1 món thuốc hạ huyết áp từ sáng qua chiều tối có tái tạo được nhịp điệu sinh học ở bệnh nhân suy thận mãn không tụt huyết áp buổi tối không. Nghiên cứu gồm 32 bệnh nhân suy thận mãn và không tụt huyết áp ban đêm, được định nghĩa là tỷ lệ huyết áp ban đêm so với ban ngày ở người đi lại bình thường cao hơn 0.9. Những người tham dự dùng trung bình 2.4 thuốc trị cao huyết áp. Mỗi bệnh nhân được chuyển 1 thuốc trị huyết áp từ sáng qua chiều tối và bệnh nhân được theo dõi trong vòng 8 tuần. Sau khi đã chuyển liều, tỷ số huyết áp ban đêm so với ban ngày giảm ở 28 bệnh nhân (93.7%) và nhịp điệu sinh học được tái lập ở 87.5% bệnh nhân. Huyết áp hạ ban đêm không làm huyết áp ban ngày tăng cao bất kể số lượng thuốc trị huyết áp hay loại thuốc hạ huyết áp, gợi ý có thể đã cải thiện tính dược động học của thuốc, theo lời tác giả nghiên cứu.
Giảm protein niệu: Việc chuyển 1 món thuốc hạ huyết áp qua buổi chiều liên quan đến giảm đáng kể protein niệu, mà tác giả nghiên cứu bảo là quan trọng vì giảm protein niệu ngắn hạn tiên đoán tiên lượng tốt hơn về thận và tim mạch trong dài hạn. Tuy nhiên, tác giả nghiên cứu bảo không khuyên tất cả bệnh nhân cao huyết áp chuyển qua dùng thuốc ban đêm mà không theo dõi huyết áp suốt 24 giờ, vì có thể làm cho những người có huyết áp hạ bình thường ban đêm có nguy cơ cao hơn về tim mạch. Do đó cần kiểm tra huyết áp 24 giờ ít nhất ở bệnh nhân có nguy cơ cao “nondipping” như bệnh nhân cao tuổi, bệnh tiểu đường và những người suy thận mãn.
Bài này tóm tắt bài báo của Minutolo R. Gabbai và cộng sự đăng trên Am. J Kidney Dis tháng 12 năm 2007.
Ds Lê Văn Nhân
|
|
|
Post by vietnam on Jun 22, 2009 3:39:54 GMT -5
Y KHOA VÀ KHOA HỌC
Do Hũu Học sinh họ Vương biên soạn
1.- Cách trị bệnh tiễu đường sẽ hoàn thành trong tương lai gần:
Các nhà nghiên cứu Mỹ cho biết một dược chất mới cho thấy đã tạo được kết quả khả quan trong việc chận đứng đà phát triển của một loại bịnh tiểu đường. Vài nhà nghiên cứu cho rằng kết quả cuộc nghiên cứu mới nhất nầy tạo thêm hi vọng là y giới Mỹ có thể tìm ra cách trị bịnh tiểu đường trong tương lai gần đây.
Tính chung khắp thế giới có áng chừng 130 triệu người bị tiểu đường. Họ là những người có mức đường glucose trong máu cao hơn bình thường. Glucose trong máu gia tăng khi cơ thể bị thiếu, hoặc không sử dụng được kích thích tố Insulin. Tuyến tụy là cơ quan trong cơ thể chúng ta sản sinh Insulin. Insulin giúp glucose vào được bên trong các tế bào khắp cơ thể chúng ta để tạo thành năng lượng cung ứng cho tế bào hoạt động. Vì thế mà nếu không có Insulin thì lượng Glucose trong máu sẽ tăng; nghĩa là người đó sẽ bị tiểu đường.
Bịnh tiểu đường phá hư mạch máu, tác hại thận, mắt và dây thần kinh. Nó làm cho máu không chảy xuống được tới chân và bàn chân; từ đó gia tăng nguy cơ làm người bịnh bị suy tim lẫn bị tai biến mạch máu não. Như nhiều vị đã biết. Tiểu đường có hai loại. Loại 2, còn được gọi là tiểu đường người lớn thường phát triển ở người vào lứa tuổi 30 khi cơ thể không sử dụng được Insulin do tuyến tụy sản sinh. Loại tiểu đường kia gọi là loại 1, hay tiểu đường thiếu niên, phát sinh ở trẻ thơ hay ở các thiếu niên khi hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công lầm và hủy hoại những tế bào tụy tạng có khả năng sản sinh Insulin. Đây chính là loại tiểu đường mà các nhà nghiên cứu hi vọng kiểm soát được bằng dược chất họ mới bào chế.
Các nhà nghiên cứu tại trường đại học Columbia ở thành phố New York và trường San Francisco thuộc Viện Đại Học California công bố kết quả các cuộc nghiên cứu của họ trong tập san y học New England Journal Of Medicine sau khi thực hiện các cuộc thí nghiệm với một dược chất có khả năng trấn áp hệ miễn dịch của cơ thể. Thuốc nầy ngăn không cho các bạch huyết cầu tấn công các tế bào tụy tạng sản sinh Insulin.
Tham dự cuộc nghiên cứu có 24 thiếu niên bị tiểu đường loại (1). 12 trẻ em trong số đó tiếp nhận thuốc tiêm trực tiếp vào mạch máu hàng ngày trong 2 tuần liền. 12 trẻ em kia thì không được điều trị gì cả. Sau 1 năm thì 9 em trong số các em được tiêm thuốc hoặc không mất, hoặc chỉ mất đôi chút khả năng sản sinh Insulin. Trong khi đó thì 10 trong số 12 em không được điều trị mất rất nhiều khả năng sản sinh Insulin.
Các nhà nghiên cứu nói rằng thuốc mới có thể giúp người bịnh kiểm soát tiểu đường loại 1 hữu hiệu hơn. Tuy nhiên như đã ghi, cuộc nghiên cứu được thực hiện trên một qui mô nhỏ cho nên theo lời các chuyên viên thì cần phải thực hiện thêm nhiều cuộc nghiên cứu khác nữa. Họ đang chuẩn bị thực hiện một cuộc nghiên cứu khác, sâu rộng hơn đôi chút trong 2 năm với sự tham dự của 80 bịnh nhân. Tới chừng đó thì kết quả ghi nhận chắc sẽ rõ ràng hơn.
Cũng trên một tập san y khoa, lần nầy là tập san của y sĩ đoàn Mỹ, kết quả một cuộc nghiên cứu về tác dụng của sinh tố E đối với bịnh Alzheimer đã được ghi nhận. Các nhà nghiên cứu thuộc trung tâm y khoa St. Luke của giáo hội Tin Lành Presbyterian ở Chicago muốn biết xem vài loại sinh tố được gọi là các chất chống ốcxít hóa, có thể góp phần ngăn chận bịnh Alzheimer, tức thứ bịnh làm chúng ta mất trí nhớ hay không.
Các chuyên viên đã nghiên cứu về số lượng chất chống ốcxít hóa đưa vào cơ thể 815 người già mà không có ai trong số đó bị Alzheimer khi bắt đầu cuộc nghiên cứu cả. Đến khi kết thúc cuộc nghiên cứu thì 130 người trong số đó được phát hiện là bị bịnh. Khi các nhà nghiên cứu coi lại số lượng các chất chống ốcxít hóa mà các ông bà cụ đó đã đưa vào cơ thể, kể cả các chất chống ốc xít hóa trong thức ăn lẫn các sinh tố C, E, beta carotene và những viên thuốc gồm nhiều loại sinh tố mà các ông bà cụ nầy uống hàng ngày, thì họ thấy rằng nguy cơ bị Alzheimer trong số những người nầy thấp hơn 70% so với những người chỉ đưa được vào cơ thể một lượng sinh tố E ít hơn cả, chỉ chứa trong những thức ăn hàng ngày của họ mà thôi.
BS Neil Buckholtz thuộc khoa nghiên cứu vấn đề mất trí nhớ của người già thuộc Viện Lão Niên Mỹ tổ chức tài trợ cuộc nghiên cứu nầy nhận xét rằng những kết quả ghi nhận được trong cuộc nghiên cứu cho thấy thêm bằng cớ chứng tỏ những bịnh như Alzheimer là do ốcxít hóa gây ra cho bộ óc. Nói cho rõ hơn, chính vì chúng ta hít thở nên mới có những phân tử bất ổn được gọi là những "gốc tự do" Anh Ngữ là "Free Radicals" xâm nhập cơ thể và tác hại các tế bào óc. Các chất chống ốcxít hóa tác động ngược lại. Các chất nầy giải trừ các phân tử bất ổn đó.
Ông Buckholtz nói thêm rằng cuộc nghiên cứu vừa rồi quan trọng ở chỗ nó chỉ cho chúng ta thấy ăn uống có chọn lựa cẩn thận có thể giúp một số người tránh được bịnh Alzheimer. Và cho dẫu không tránh được chăng nữa thì nó cũng sẽ trì hoãn thời điểm khởi phát bịnh nầy. Dù vậy thì các nhà nghiên cứu cũng thận trọng nhắc nhở mọi người là chớ nên vội vã uống thêm các chất chống ốcxít hóa với hi vọng nhờ đó mà tránh được bịnh Alzheimer.
2.- Y khoa có thể taọ thuốc chủng ngừa bệnh AIDS / SIDA vào năm 2005:
Một công ty của Hoa Kỳ cho hay có thể có được một loại thuốc chủng ngừa bệnh AIDS trước năm 2005.
Tại hội nghị thế giới về bệnh AIDS lớn nhất từ trước đến nay họp ở Barcelona bên Tây Ban Nha, các giới chức thuộc công ty VaxGen có trụ sở tại tiểu bang California cho biết đến năm đó có thể có được thuốc chủng ngừa này nếu và các cuộc thử nghiệm về hiệu quả thuốc và về sự an toàn cho con người đem lại các kết quả tốt đẹp nhu dự kiến.
Các giới chức của công ty này nói rằng thuốc chủng ngừa đã có hiệu lực đối với khỉ, và họ tỏ ra lạc quan rằng thuốc cũng sẽ hiệu nghiệm đối với con người. Nhưng các giới chức đó cho biết phải đến sang năm mới có được các kết quả đầu tiên. Họ nói thuốc chủng sẽ không ngăn ngừa được việc nhiễm virut HIV gây bệnh AIDS. Tuy nhiên, họ nói rằng thuốc sẽ tạo ra các kháng thể ngăn ngừa virut tấn công các tế bào, và như thế sẽ chận được sự phát triển toàn bộ của bệnh AIDS.
3.- Y khoa vưà khám phá chất Lutein tốt hơn chất Protein cho nhân loại:
Những cuộc nghiên cứu dạo gần đây gợi cho thấy một chất dinh dưỡng mang tên là Lutein có thể góp phần cải thiện sức khỏe chúng ta nhiều hơn chúng ta vẫn tưởng lâu nay. Lutein có thể được tìm thấy trong các loại thực vật có lá xanh tỉ như lá ê-pi-na và cải xà lách. Nó cũng có thể có trong các thứ trái cây và thực vật khác, tỉ như cam, bắp và broccoli. Ngoài ra thì Lutein cũng có trong tròng đỏ trứng gà.
Trên cơ thể con người thì Lutein được tìm thấy trong mắt chúng ta. Lutein và những chất tương tự, gọi là Carotenoids, tạo thành màu ở chỗ gọi là điểm vàng của mắt, tức là chỗ giúp chúng ta nhìn thấy từng chi tiết của vật thể trước mặt. Các cuộc nghiên cứu cho thấy khi số lượng các chất carotenoid tăng thì màu của điểm vàng cũng tăng. Các nhà khoa học tin rằng có nhiều màu hơn sẽ góp phần bảo vệ điểm vàng hữu hiệu hơn nữa.
Một cuộc nghiên cứu, với kết quả đăng trên tập san Optometry, tức tập san của các chuyên viên đo kiếng thuốc, cho rằng ăn những thức ăn chứa nhiều Lutein có thể giúp những người bị các chứng bịnh về mắt nhìn thấy rõ hơn. Một cuộc nghiên cứu khác nối kết việc gia tăng lượng Carotenoid với việc giảm các dấu hiệu đầu tiên của những tổn hại trên điểm vàng. Ngoài ra còn có 2 cuộc nghiên cứu sâu rộng cho biết Lutein có thể giảm bớt rắc rối ở người mắc bịnh kéo mây (cataract).
Giờ thì các cuộc nghiên cứu lại còn cho thấy Lutein có những ảnh hưởng thuận lợi khác nữa trên sức khỏe của chúng ta. Một phúc trình đăng trong tờ Circulation cho rằng Lutein có thể gi?m bớt nguy cơ bị suy tim và tai biến mạch máu não. Những người mà trong máu có nhiều Lutein thì đều giảm hạ được lượng một độc chất có hại cho mạch máu. Một cuộc nghiên cứu cho thấy dân thành phố Toulouse bên Pháp đều có lượng Lutein trong máu họ cao hơn nên nhờ vậy mà ít bị bịnh tim hơn người sống trong những miền khác. Ngược lại, máu của dân ở Belfast bên Bắc Ireland ít Lutein nên tỉ lệ người bị bịnh tim ở đó cao hơn. Các cuộc nghiên cứu khác còn gợi cho thấy Lutein cũng có khả năng chống ung thư vú và ung thư ruột.
Các chuyên viên nghiên cứu tại Boston trong tiểu bang Massachusetts đã chứng minh được là Lutein trong các loại thực vật có lá màu xanh đậm bảo vệ được cho da chúng ta trước các ảnh hưởng độc hại của nắng. Họ thí nghiệm bằng cách cho một nhóm chuột ăn thức ăn chứa Lutein liên tục 2 tuần lễ trong khi cho nhóm chuột thứ nhì ăn bình thường. Sau đó họ rọi tia cực tím lên tất cả số chuột nầy trong 22 tuần lễ thì thấy rằng số chuột ăn thức ăn chứa nhiều Lutein ít bị u ung thư, và nếu bị thì u ung thư cũng nhỏ hơn và sống lâu hơn nhóm chuột kia.
Một số người muốn gia tăng lượng Lutein trong máu bằng cách uống thêm thuốc bổ. Nhưng các nhà nghiên cứu nói rằng khả năng bảo vệ, tưởng là do riêng Lutein mang lại, có thể là tập hợp kết quả của nhiều chất dinh dưỡng trong thức ăn thử nghiệm. Vì thế mà họ khuyên là nên ăn những thức ăn chứa nhiều Lutein hơn là chỉ uống những viên thuốc Lutein ròng.
4.- Khoa Hoc chế được virus nhân tạo gây bệnh tê liệt. Như vậy không bao lâu bệnh này sẽ bị tiêu diệt:
Các nhà khoa học Mỹ nói rằng họ đã tạo ra virus gây bệnh tê liệt, dựa vào lam đồ gene được phổ biến trên Internet và những vật liệu có thể mua qua đường bưu điện. Các nhà khoa học vừa kể nói rằng diễn tiến này nâng cao nguy cơ về khả năng xảy ra một vụ tấn công khủng bố bằng vũ khí sinh học.
Trong bài viết đăng trên tạp chí Khoa Học, số ra ngày hôm nay, các khoa học gia cho biết họ đã tạo được virus gây bệnh sốt tê liệt trong ống nghiệm. Virus nhân tạo này gây tê liệt và giết chết các con chuột dùng trong cuộc thử nghiệm, in hệt như khả năng của virus sốt tê liệt tự nhiên.
Những người chỉ trích nói rằng công việc vừa kể của các nhà khoa học đã chỉ dẫn cho những phần tử khủng bố về việc chế tạo một loại vũ khí giết người. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu nói rằng tất cả những mà họ làm đã được phổ biến trên sách vở từ trước, và họ chỉ nối kết những kiến thức đó lại với nhau mà thôi.
5.- Đưá bé VN bị bệnh cao huyết áp hiếm có, nhờ Internet hướng dẫn nên em được thoát hiểm:
Sau một tuần điều trị, sức khỏe của em Trần Thành T, 15 tuổi bị bệnh cao huyết áp ác tính đã hồi phục. Các bác sĩ Bệnh viện Nhi đồng 2 (TP Hồ Chí Minh) đã phát hiện nguyên nhân gây bệnh là do phối hợp u tế bào ưa Chrôme và chít hẹp mạch máu thận, một bệnh lý cực kỳ hiếm gặp và khó điều trị.
Qua trao đổi bằng Internet với các giáo sư ở bệnh viện nhi đồng Robert Debré (Pháp), các bác sĩ đã tiến hành phẫu thuật và ca mổ đã thành công, sức khỏe bệnh nhân đã hồi phục rất tốt.
Theo y văn, đây là ca đầu tiên phát hiện ở Việt Nam.
6.- Dịch sốt siêu vi trùng ở Hà Nội:
Mùa hè năm nay, ở Hà Nội, số người mắc bệnh truyền nhiễm như quai bị, thủy đậu, sốt siêu vi trùng tăng. Theo thống kê của Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội, từ đầu năm đến nay, thành phố có tới 591 ca mắc quai bị, 500 người bị thủy đậu và 6.348 ca bị sốt siêu vi trùng. Con số bệnh nhân trên thực tế chắc chắn cao hơn nhiều vì nhiều bệnh nhân tự điều trị tại nhà. Tại Khoa Nhi, Bệnh viên Thanh Nhàn, có ngày 100% ca cấp cứu bị sốt siêu vi trùng. Các khoa Nhi, khoa Nội của BV Thanh Nhàn, St. Paul, khoa Truyền nhiễm của Bệnh viên Đống Đa đều bị quá tải do tăng đột biến số bệnh nhân quai bị, sốt siêu vi trùng, thủy đậu. Đây là những căn bệnh không nguy hiểm, nhưng khả năng lây nhiễm cao. Đáng lo ngại là số ca thương hàn tăng nhiều, gấp 2,5 lần so với cùng kỳ năm trước.
5.- Nhân bản cây sồi già để tưởng nhớ Puskin:
Để tưởng nhớ Puskin, các nhà khoa học ở miền nam nước Nga đã bắt đầu tiến hành dự án vào việc nhân bản cây sồi già ở Taganrog, nơi nhà thơ Nga vĩ đại đã từng sống. Cây sồi này đã từng là nguồn cảm hứng cho Puskin viết nhiều kiệt tác, trong đó có bài "Nước Nga và Lyudmila".
Tuy nhiên, vào tháng trước cây sồi này đã bị cháy trụi và người ta lo ngại rằng báu vật lịch sử này của văn hoá Nga sẽ mất đi mãi mãi. Dưới sự tài trợ của một nhóm nhà kinh doanh ở Taganrog, nhiệm vụ của các nhà khoa học ở thành phố Rostov-on-Don là sử dụng công nghệ nhân bản để dựng lại cây sồi từ những mô nhỏ xíu còn sót lại trong đống tro.
Ông Leonid Matusevich, người đứng đầu Hiệp hội doanh nghiệp ở Taganrog cho biết dự án tiến hành không hề vì mục đích lợi nhuận. Theo ông, các nhà kinh doanh ở địa phương cảm thấy phải có trách nhiệm bảo vệ một trong những di sản của văn hóa Nga. Ông nói, sự xuất hiện trở lại của cây sồi sẽ thức tỉnh tinh thần tự hoà văn hóa trên toàn bộ nước Nga.
7.- Bổ sung hormone nữ làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư:
Theo kết quả công trình nghiên cứu vừa được Hiệp hội Y học Mỹ công bố ngày 9/7, liệu pháp bổ sung hormone kết hợp estrogen/progestin (HRT) áp dụng đối với những phụ nữ ở thời kỳ tiền mãn kinh làm tăng nguy cơ mắc các bệnh như ung thư vú, đột quỵ, cục máu đông và bệnh tim.
Tiến hành nghiên cứu đối với 16.600 phụ nữ trên toàn nước Mỹ, các nhà nghiên cứu đã phát hiện rằng liệu pháp HRT giảm được nguy cơ loãng xương và ung thư ruột kết, nhưng lại làm tăng 41% số người bị đột quỵ, đau tim 29% và ung thư vú tăng 26%.
Người chủ trì công trình nghiên cứu, tiến sĩ Jacques Rossouw (Viện nghiên cứu quốc gia về tim, phổi và máu), khuyến cáo phụ nữ không nên sử dụng liệu pháp HRT để phòng chống bệnh tim và những bệnh mãn tính khác sau khi mãn kinh. Hiện có tới 13,5 triệu phụ nữ Mỹ đang áp dụng liệu pháp HRT.
Được biết, ngay sau khi công trình nghiên cứu được công bố, Hiệp hội Y học Australia cũng đã ra lời cảnh báo phụ nữ nước này ngừng áp dụng liệu pháp HRT.
|
|
|
Post by vietnam on Jun 22, 2009 3:40:48 GMT -5
KHOA HỌC:
A.- Phát hiện hành tinh mới giống với sao Thổ:
Các nhà khoa học vừa mới phát hiện một hành tinh khác ngoài Hệ mặt trời của chúng ta. Hành tinh này có nhiều đặc điểm giống với sao Thổ nhưng có khối lượng nhẹ hơn. Đây là một trong những hành tinh ở thể khí nhỏ nhất đã được phát hiện vì ngoài hành tinh mới phát hiện này, chỉ có 4 hành tinh thể khí khác có khối lượng nhỏ hơn sao Thổ.
Hành tinh mới chuyển động xung quanh ngôi sao HD 76700 và hoàn thành một chu kỳ trong 4 ngày. Sao HD 76700 cách Trái đất 194 năm ánh sách và có thể nhìn thấy bằng một kích viễn vọng nhỏ. Đây là một trường hợp đặc biệt mà một hành tinh khổng lồ với thành phần chính là khí gas lại có quỹ đạo chuyển động rất gần với sao mẹ. Quỹ đạo chuyển động của hành tinh mới phát hiện chỉ cách sao mẹ khoảng 6 triệu km. Các nhà khoa học tin rằng với cường độ bức xạ cao ở vị trí chuyển động hiện nay, quỹ đạo của nó sẽ vẫn ổn định trong hành tỉ năm nữa.
Đây là phát hiện của các nhà thiên văn học trong chương trình hợp tác giữa Anh và Australia. Các nhà khoa học đã phát hiện ra hành tinh này bằng việc quan sát chuyển động của sao mẹ. Quỹ đạo không theo một đường trơn của sao mẹ chứng tỏ nó phải nằm trong trường hấp dẫn của một hành tinh khác và đây là căn cứ ban đầu giúp các nhà khoa học phát hiện được hành tin mới này.
Hiện nay, đã có hơn 100 hành tinh ở thể khí đã được phát hiện nhưng trong số đó, chỉ có 5 hành tinh có khối lượng nhỏ hơn sao Thổ. Ngoài hành tinh mới phát hiện, các hành tinh khác là vệ tinh của các ngôi sao HD 49674, HD 16141, HD 168746 và HD 46375.
B.- Trung Quốc tìm thấy tháp phóng của người ngoài trái đất:
Trên núi Baigong ở tỉnh Thanh Hải, phía tây Trung Quốc, có một cấu trúc kỳ lạ mà dân địa phương tin là tháp phóng do người ngoài trái đất để lại. Cấu trúc này trông như một kim tự tháp, với 3 chiếc hang có cửa hình tam giác mở ra ở bên thân, bên trong là những chiếc ống màu đỏ dẫn vào núi.
Trong vài ngày tới, một nhóm gồm 9 nhà khoa học Trung Quốc sẽ lên đường tới tỉnh Thanh Hải để điều tra về cấu trúc bí ẩn này cũng như chủ nhân của nó.
Ở phía bắc núi Baigong là hai chiếc hồ song sinh có tên gọi "hồ tình yêu", một chứa nước ngọt và một chứa nước mặn. Công trình của "người ngoài trái đất" nằm ở bờ nam hồ nước mặn này, với chiều cao từ 50 đến 60 mét.
Mặt trước công trình là 3 chiếc hang miệng hình tam giác. Hang ở giữa là lớn nhất, với sàn cao 2 mét so với mặt đất và đỉnh cao 8 mét. Hang này sâu khoảng 6 mét, bên trong có một đường ống hình bán nguyệt đường kính khoảng 40 cm, chạy nghiêng từ đỉnh tới phần cuối đáy hang. Một chiếc ống khác có cùng đường kính nhưng đi xuống lòng đất. Bên trên hang là hàng chục ống dẫn có đường kính khác nhau chạy vào trong núi. Tất cả đều có màu nâu đỏ, cùng màu với những tảng đá xung quanh. Hai chiếc hang còn lại đã sụp đổ và không thể vào được.
Rải rác xung quanh "kim tự tháp" và bên bờ hồ là một số lớn các đường ống, những mảnh vụn sắt han gỉ và những khối đá có hình dạng bất thường, cùng một số ống dẫn chạy xuống hồ. Những mảnh sắt vụn này đã được đưa tới một xưởng nấu kim loại ở địa phương để phân tích. Kết quả cho thấy chúng chứa 30% oxit sắt, một lượng lớn silic dioxit và canxi oxide, và 8% còn lại không rõ thành phần.
"Hàm lượng lớn silic dioxit và canxi oxide trong các ống dẫn là kết quả của quá trình tương tác lâu dài giữa sắt và đá cát. Điều đó chứng tỏ những đường ống này đã có từ rất lâu", kỹ sư Liu Shaolin, người thực hiện các phân tích hóa học, cho biết.
Điều đặc biệt là trên vùng đất hoang vu và khắc nghiệt này, chưa từng có sự hiện diện của ngành công nghiệp hiện đại. Chỉ có một vài người dân du mục sống ở phía bắc của núi Baigong. Vì thế, người dân địa phương cho rằng cấu trúc kỳ lạ kia có lẽ là một cái tháp do người ngoài hành tinh để lại. Quả thật, khu vực này nằm cao so với mặt biển với tầng khí quyển mỏng và trong suốt, là điều kiện lý tưởng để thực hiện các nghiên cứu thiên văn.
C.- Có thể trồng rừng tràm không cháy?:
"Tràm là loại cây dễ bốc cháy vì chứa tinh dầu. Theo tôi, cần phải dùng chính biện pháp sinh học để phòng hỏa hoạn: Phải trồng tràm hỗn giao với các loại cây khó cháy. Như ở Vồ Dơi (U Minh Hạ) tràm mọc xen với trâm, mốp, bàng,... Vì thế, nạn cháy rừng chưa từng xảy ra ở đây”, GS-TS Thái Văn Trừng nhận định.
Theo giáo sư Trừng, nhiều biện pháp phòng chống cháy rừng tràm hiện đang được áp dụng như: làm kênh bao, đào hồ chứa nước trong rừng (Nông trường Sông Trẹm), đào kênh mương cắt rừng thành ô, đào ranh cản lửa... tuy có tác dụng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và tốn kém. Phải có hệ thống xổ nước phèn, nếu không sẽ gây độc hại cho các động vật thủy sinh và có khi làm thối rễ tràm khiến cây tràm bị chết như đã xảy ra ở lâm trường U Minh. Đào ranh cản lửa thì lửa vẫn có thể bò qua khi có gió lớn.
Giáo sư Trừng cho biết, cần phải học tập thiên nhiên trong việc phòng cháy này: Trồng tràm hỗn giao với nhiều loại cây khó cháy, như ở Vồ Dơi (U Minh Hạ) tràm mọc hỗn giao tự nhiên với các loại cây trâm, cây mốp, bàng..., ở dưới đất thì có cây mua, cây choại... Chính vì vậy, nạn cháy rừng chưa từng xảy ra ở đây.
Vấn đề chính là tìm ra loại cây nào thích hợp nhất, phù hợp với vùng đất ngập mặn, úng phèn. Ở Tịnh Biên, có cây gáo vàng ngập nước vẫn mọc và chịu cả đất phèn. Nếu trồng hỗn giao như vậy thì rừng tràm sẽ rất bền vững, không cháy. Ngoài cây gáo vàng, giáo sư Trừng cũng đề nghị trồng thử nghiệm cây mốp ở Long An, xem có chịu được đất úng phèn không. Có thể trồng xen cây tràm và cây mốp, cứ ba băng loại cây này thì xen vào ba băng loại cây kia. Ông Trừng còn cho biết, trước kia ông đã có kinh nghiệm trồng cây thông (loại cây có tinh dầu dễ cháy) hỗn giao với cây keo lá tràm ở Đông Hà (Quảng Trị), và nạn cháy rừng đã không còn xảy ra ở đó nữa.
D.- Phát hiện chiếc quan tài đá lâu đời nhất ở Ai Cập:
Đây cũng là một trong những chiếc quách đá nguyên vẹn nhất được tìm thấy gần kim tự tháp Giza, Ai Cập. Các nhà khoa học đoán rằng, bên trong nó chứa một xác ướp khoảng 4.500 tuổi, thuộc thời đại các Pharaoh thứ tư.
Quan tài màu vàng nhạt này được tìm thấy cách tượng nhân sư của kim tự tháp Giza khoảng 2 kilomét về phía đông nam. Nó thuộc triều đại của Pharaoh Khufu, người sáng lập kim tự tháp Giza khổng lồ (khoảng 2.600 năm trước Công nguyên).
Các chữ viết tượng hình ở quách đá cho thấy, nó thuộc về một người tên là Ny-Nsw-Wesert - một thủ lĩnh của lính ngự vệ hoàng gia Ai Cập cổ đại. Người này có lẽ đã có công xây dựng kim tự tháp cũng như hệ thống các hầm mộ và đền đài xung quanh
Ông Jeffrey Spencer, thuộc Viện Bảo tàng Anh ở London, nói "Đây là một phát hiện thú vị bởi chiếc quách đá còn nguyên vẹn. Điều này rất hiếm thấy, vì 99% các quan tài như vậy đều bị bọn săn lùng đồ cổ phá hủy".
Hiện người ta vẫn chưa mở lắp quan tài. Tuy nhiên theo các nhà khoa học, có lẽ sẽ không có nhiều hiện vật quý bên trong, ngoại trừ vài bức tượng nhỏ và bùa hộ mệnh. Theo ông Spencer thì xác ướp có thể được cuộn trong vải, nhưng không tinh xảo lắm, vì kỹ thuật ướp xác ngày đó còn ở giai đoạn đang phát triển.
E.-Người chết còn để lại tín hiệu?:
Vài tiếng đồng hồ sau vụ khủng bố ở New York hôm 11/9, cô Denise Esposito bỗng nhìn thấy hàng nghìn ngôi sao bay về bên cửa sổ. Cô nhìn lên bầu trời, nói “Mike, có phải anh đấy không?”. Một ngôi sao rớt xuống. Esposito tin rằng đó chính là linh hồn của Mike - chồng cô.
“Đó là một ngôi sao băng. Khi nó rớt xuống, tôi nói: Cảm ơn Mike! Lúc ấy tôi hiểu rằng linh hồn anh đã được thanh thản và anh trở để về nói với tôi rằng, mọi chuyện đều ổn cả”, cô Esposito nhớ lại.
Theo nhà tâm lý học Gary Schwartz, Đại học Harvard (Mỹ), thì chuyện của cô Esposito có thể là một ảo giác nào đó, nhưng ông cũng không loại trừ khả năng cô đã bắt được những tín hiệu sinh học do người chết để lại.
“Đời người cũng như một ngôi sao”, Schwartz nói, “Chúng ta liên tục phát ra các lượng tử ánh sáng có thể nhìn thấy và không nhìn thấy. Những photon này lang thang trong vũ trụ cũng tương tự ánh sáng của các ngôi sao xa".
Năm 1999, cùng với Michael Shermer - một cộng sự ở ĐH Harvard, ông Schwartz đã trình bày lý thuyết về tín hiệu và thông tin sinh học trong cuốn sách Năng lượng sống trong vũ trụ. Cuốn sách đã gây tranh cãi lớn trong giới khoa học. Không hiếm nhà khoa học uy tín cho rằng đó chỉ là sách lá cải. Tuy nhiên, sau vụ 11/9, nó bỗng được bán chạy bất ngờ.
Theo nhà tâm lý học Stuart Vyse thuộc Đại học Connecticut, thì người sống có hoài niệm sâu sắc với người thân đã chết. Khao khát hội ngộ mạnh mẽ đến nỗi nó tạo ra những lực liên hệ đặc biệt, vượt ra khỏi ranh giới của những cảm nhận bình thường. Khi đó, khoa học không thể giải thích được nữa.
Một nghiên cứu mới đây cho thấy, 38% người Mỹ cho rằng linh hồn người chết có thể trở lại trong những trường hợp nhất định (năm 1990, con số này là 25%); 25% tin rằng con người có khả năng nói chuyện với người chết và ngược lại (năm 1990, con số này là 18%).
F.-Thuốc diệt muỗi mới chế tạo từ cà chua:
Để chống lại các loài côn trùng nguy hiểm như muỗi sốt rét anopheles, các nhà khoa học Mỹ đã chiết lọc một chất hóa học từ thân cây cà chua, hiệu quả hơn các loại thuốc diệt muỗi hiện nay.
Thông thường, người ta thường dùng chất hóa học diethyloluamid (DEET) để diệt muỗi. Chất này đã được các bác sĩ quân đội Mỹ phát triển năm 1946 để chống các loài côn trùng nguy hiểm, trong đó có ruồi vàng và muỗi gây sốt rét anopheles.
Tuy nhiên DEET thường gây ra những tác dụng phụ, như dị ứng, khiến mắt bị tấy đỏ. Một vài trường hợp dùng không đúng quy cách, người sử dụng có thể bị mất tiếng hoặc ảnh hưởng đến thần kinh. Bởi thế, việc sử dụng DEET, nhất là với người già và trẻ em, là một vấn đề lớn.
Khắc phục nhược điểm này, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Bắc Carolina (Mỹ) đã chắt lọc được chất hóa học IBI-246 từ cà chua (chất này khiến cà chua có mùi ngái, giúp nó xua đuổi côn trùng, sâu bọ). Những thử nghiệm ban đầu cho thấy, IBI-246 có tác dụng chống muỗi tốt hơn và ít nguy hiểm hơn DEET.
IBI-246 không chỉ có tác dụng xua đuổi muỗi, mà cả rệp, bọ và gián đều phải bỏ chạy cả. Theo các nhà khoa học, khoảng tháng 8 năm nay, loại thuốc mới này sẽ được bán ở thị trường.
G.- Tin rất quan trọng trong tháng này (July.2002) Tại Mỹ: Người nhập cư am hiểu khoa học hơn người bản địa (trích từ CNN):
Một cuộc khảo sát mới đây của Hội khoa học Quốc gia Mỹ (NSF) cho thấy, 45% bằng Tiến sĩ về khoa học máy tính và 27% về công nghệ sinh học được cấp cho người nhập cư thuộc đệ tam quốc gia (sinh ra ở nước khác). Trong khi đó, mức độ hiểu biết về khoa học của đại chúng Mỹ ngày càng giảm xuống.
Kết quả khảo sát cũng chỉ ra rằng, gần một nửa người trưởng thành ở nước này không hiểu gì về ADN; chỉ có 25% số người định nghĩa được thế nào là một phân tử; 30% không hiểu gì về mục đích của các thí nghiệm khoa học. Gần một nửa số người không biết nguyên tử và điện tử khác nhau thế nào. Về câu hỏi: Bạn có thể tìm thấy chất diệp lục ở đâu, không ít người đã trả lời là ở toilet (đúng ra là ở cây xanh).
Tuy nhiên, ở các lĩnh vực khác, người Mỹ tỏ ra khá hiểu biết. Ví dụ 95% người hiểu rằng hút thuốc lá có thể gây ung thư, và 75% người hiểu phóng xạ gây hại cho sức khỏe.
"Các cuộc khảo sát này được thực hiện từ năm 1979, trung bình cứ 2 năm một lần, và kết quả hầu như không thay đổi nhiều”, bà Melissa Pollack, Hiệp hội Khoa học Quốc gia Mỹ, nói.
Tuy nhiên, đầu những năm 1990, những kết quả khảo sát cho thấy, người Mỹ am hiểu hơn hẳn công dân của 14 nước phát triển khác, nhưng đến nay, tỷ lệ này này ngày càng tụt xuống, và hiện đang ngang bằng với Hà Lan và Đan Mạch. Các nước có công dân hiểu biết nhiều nhất về khoa học thường thức là Thụy Điển và Áo.
Một xu hướng càng rõ ở Mỹ là người bản xứ ngày càng tụt hậu về tri thức khoa học so với người nhập cư. Một tổng kết năm 1999 cho thấy, 25% người làm bằng Tiến sĩ ở Mỹ là người sinh ra ở nước ngoài. Ở các lĩnh vực mũi nhọn như trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học, gần một nửa số bằng Tiến sĩ được cấp hàng năm thuộc về những người nhập cư từ Đông Âu, Ấn Độ và các nước khác.
H.- Thu được âm thanh của quái vật biển cả?:
Các nhà khoa học vừa tiết lộ một đoạn âm thanh bí ẩn mà họ cho rằng nó có thể là "bản độc tấu” của một sinh vật khổng lồ đang ẩn náu sâu dưới đại dương. Thứ âm thanh kỳ lạ không rõ tung tích này được gọi là Bloop.
Trong một bài báo đăng trên tờ New Scientist của Anh hôm thứ năm cho biết, Bloop tuy có chung đặc điểm về tần số dao động với âm thanh của các động vật biển, nhưng nó mạnh hơn tiếng kêu của bất kỳ sinh vật nào sống trên trái đất. Nó quá to đối với những con cá voi bình thường và người ta giả thuyết rằng âm thanh này thuộc về một con quái vật của biển sâu, có lẽ là một con mực khổng lồ nhiều tay.
Năm 1997, Bloop được các sensor “gián điệp” của hải quân Mỹ dò thấy trong khi đang theo dõi chuyển động của các tàu ngầm Xô Viết. Tần số âm thanh cho thấy nó hẳn phải lớn hơn nhiều so với bất kỳ tiếng ồn nào do động vật gây ra, kể cả những con cá voi to nhất.
Liệu có phải đó là một con bạch tuộc khổng lồ? Hãy nhìn lại thực tế: Tuy đôi khi chúng ta vẫn bắt gặp những con mực lớn bị quăng vào các bãi biển và cũng đã tìm thấy dấu vết các giác mút lớn trên những thân cá voi, nhưng chưa ai chứng kiến một động vật thân mềm vĩ đại đến thế trong tự nhiên. Con mực lớn nhất bị quăng vào bờ biển mà người ta đo được dài khoảng 18 mét, tính cả chiều dài râu, và không ai biết độ lớn tối đa của chúng. Mặt khác, trong nhiều năm, các thuỷ thủ vẫn truyền miệng câu chuyện về những hung thần của biển cả, với những tua bạch tuộc cực lớn, có thể vươn tới cột buồm chính của một chiếc tàu, và có thể đánh đắm những con thuyền.
Tuy nhiên, Phil Lobel, một nhà sinh vật học biển tại Đại học Boston, Massachusetts nghi ngờ về khả năng Bloop là sản phẩm của các “danh ca” mực khổng lồ. “Động vật thân mềm không có các túi khí, vì thế, chúng không có cách nào tạo ra loại âm thanh đó được”, ông nói. Dẫu thế, Lobel cũng đồng ý rằng âm thanh này nhiều khả năng có nguồn gốc sinh v?t.
Nhà khoa học Christopher Fox của Dự án quan trắc âm thanh, thuộc Cơ quan khí tượng và thuỷ văn Mỹ (NOAA) nhận định “Mỗi loại sóng âm có những đặc trưng riêng giống như của các giọng nói. Bạn có thể xem xét đặc điểm của nó và nói: đây là một con cá voi xanh, một con tàu, kia là một con cá voi lưng gù, và đây là những chấn rung trong lòng đất... Nhưng đôi khi vẫn còn những âm thanh chúng ta không thể hiểu nổi - như Bloop - con quái vật của đại dương sâu thẳm”.
|
|