Tiếp sau Paris Gun còn 1 khẩu kinh hoàng nữa cũng của người Đức chế tạo:
2.Gustav
-Gustav nặng 1.344 tấn, bao gồm một toa xe chạy trên đường ray, với cỗ máy có bốn tầng, rộng 6m và dài 42m. Nòng 800mm có thể bắn xuyên những bức tường thép dày 1m, tường bê tông dày 7m hoặc 30m đất.
- Gustav cũng do Công ty Vũ khí Friedrich Krupp A.G. của Đức chế tạo
- Vận hành Gustav cần đến ... 500 mạng.
- Mục đích thiết kế: Vào thế chiến 2, sau hiệp ước Versailles mong manh, Pháp xây dựng một mạng lưới các pháo đài vững chắc dọc biên giới với Đức. Hitler ra lệnh chế tạo 1 khẩu pháo có thể san bằng các pháo đài này. Gustav ra đời
- Hiệu quả sử dụng: phòng tuyến Maginot nhanh chóng bị chọc thủng bởi các lực lượng Đức. Pháp đầu hàng nhanh chóng làm cho Gustav chưa kịp khai hoả. Tháng 4/1942 nó bắt đầu nhả đạn tại Sevastopol Liên Xô. Một quả đạn đã phá huỷ một kho đạn của Hồng quân Liên Xô nằm bên dưới căn cứ quân sự Sevemaya 30m cho thấy độ kinh hoàng của nó thời bấy giờ. Khẩu súng này liên tiếp san bằng nhiều pháo đài đang bảo vệ Sevastopol.
Gustav đã bắn tổng cộng 300 quả đạn pháo vào Sevastopol và 30 quả khác trong cuộc nổi dậy năm 1944 tại Warsaw.
Thêm hình cận cảnh em Gustav, độ đồ sộ của nó thật đáng nể. Người Đức quả thực quá giỏi:
Phiên bản đầu tiên của PzH là PzH-1 của Đức 155mm 39 cal. nhưng không đạt kết quả như ý. Năm 1986 dự án PzH của Đức được liên kết với Anh-Pháp và nòng 155mm 52 cal đã được đề nghị đưa vào sử dụng.
Dỉ nhiên là PzH hoàn tất giai đoạn cuối rất lâu do các vấn đề về điều khiển và máy vi tính, nhưng nói về thiết kế nòng pháo thì từ 1986 nòng pháo 155mm 52 cal đã tồn tại và tính hiệu quả nó không thể kém 155mm 45 cal. của G5 được.
Viên đạn 800mm (0.8m) của Gustav nặng 7 tấn nằm bên cạnh chiếc T-34 của LX trong bảo tàng của Anh.
Cũng phải nói thêm là tính năng brust fire đúng là nhờ vào cơ khí hoá nhưng hệ thống nạp đạn tự động đã tồn tại khá lâu.
Còn về tính năng multiple round simultaneous impact (MRSI) (bắn nhiều phát nhưng đạn đến nơi đồng loạt) thì nhờ vào thiết kế của súng, không phải hoàn toàn ở máy vi tính. Lý do
-Để có thể bắn được 2 đường đạn cùng 1 mục tiêu súng phải sùng nòng trơn không phải nòng xoắn do hoạt động xoắn sẽ làm thay đổi đường đạn.
-Để bắn được 2 đường đạn cùng 1 mục tiêu súng phải có tỷ số độ dài nòng chia cho đường kính nòng cao (ở đây là 52). Thông thường Howizer hay gọi là pháo bắn cong (Gun là pháo bắn thẳng, còn Mortal là lựu pháo bắn vòng tầm gần) có tỷ số nòng ở tầm 30~45, kéo dài độ dài của nòng cho phép nòng pháo PzH 2000 có thể bắn góc trên 45 độ như là pháo tầm xa còn dưới 45 độ thì nó bắn như Gun, nên khi bắn dưới 45 độ thời gian đạn tiếp cận mục tiêu rất ngắn, còn trên 45 độ thì thời gian tiếp cận mục tiêu rất dài, do đó nó cho phép điều chỉnh nòng pháo. Dù không có hệ thống điều khiển vi tinh thì thợ ngắm tốt vẫn có thể tính sẳn 2 góc nòng và thao tác nhanh bảo đẩm ít nhất 2 loạt 3 (nghĩa là 6 viên) tới mục tiêu cùng lúc.
PzH 2000 dù cái tên có số 2000 nhưng đã đi vào service từ 1996 trong lực lượng phản ứng nhanh của Đức rồi.
sự so sánh giữa khẩu G-5 với khẩu PzH-2000 là hơi khập khiễng nếu xét về thời điểm ra đời cũng như bối cảnh.
Nếu muốn só sánh thì nên dùng khẩu Bhim, kết hợp giữa hệ thống pháo G-5 155mm nòng 52 cal. của công ty Danel Nam Phi, công ty sản xuất pháo G-5, và xe bánh xích dựa trên khung sườn của tăng Arjun của Ấn. Nó đã đánh bại tất cả các loại pháo tự hành tương tự ở hầu hết các thông số như Bofors của Anh-Thụy Điển, Soltam của Israel, Caesar của Pháp, ... để trở thành pháo được chọn.
Tuy nhiên, cuối cùng nó bị loại và Ấn mở lại cuộc thầu bởi Danel dính vào một vụ chi tiền hoa hồng ở một vụ mau bán khác. Ấn là một trong những nước có tình trạng tham nhũng phổ biến đến mức mà có một đạo luật ra đời quy định cấm tất cả các công ty đã dính lứu tới việc lót tay tham gia bất kỳ cuộc đấu thấu nào sau đó cho Ấn.
Còn về việc nòng dài 45 cal. hay 52 cal. là do mục đích người sử dụng. Về mặt lý thuyết thì pháo nòng dài 52 cal. sẽ có tầm bắn xa hơn pháo 45cal. nhưng lại nặng hơn rất nhiều, nòng cũng nóng hơn, tuổi thọ của nòng ngắn hơn và tất nhiên là cũng đắt hơn nhiều.
Vì thế dùng các pháo nòng 52 cal. để tấn công các mục tiêu gần thì lại quá phí chưa kể là nó quá nặng và kém cơ động. Ngay Ấn Độ cũng vậy, họ đang mở 2 gói thầu cho 2 loại pháo 155mm:
- Gói 1: Pháo tự hành bánh xích 155mm nòng 52 cal.
- Gói 2: Pháo kéo (Towed howitzer) nòng 39 cal. loại nhẹ để bảo đảm Ấn có thể sử dụng trực thăng Mi-17 để di chuyển cũng như đưa nó lên các vùng núi cao một cách nhanh chóng.
Giống như ý tưởng của Gerald Bull, dự án này vẫn sử dụng ý tưởng tên lửa phóng bằng súng của ông. Dự án LRLAP của Mỹ có tham vọng thiết kế một cây súng có thể bắn đạn xa tới 153 km đặt trên tàu và dự định sẽ được trang bị trên chiếc DD(X), có mấy hình ảnh về dự án này, mời các bác xem:
Súng 155mm :
Đạn là tên lửa có các cánh thu gọn vào trong thân
Vào ban đầu, Nam Phi tiếp cận SRCQ để được cung cấp 55.000 viên đạn pháo tầm xa cho những khẩu pháo mà quốc gia này có sẵn. Nước Mỹ âm thầm hỗ trợ thỏa thuận mua bán này thông qua Văn phòng kiểm soát đạn dược khi bỏ qua các yêu cầu kiểm tra xuất khẩu các thiết bị được miêu tả trên giấy tờ là “ phôi thép “. Hai nòng pháo “ vật chưa xác định” GC-45 dùng để giới thiệu cũng được chuyển đi cùng với số “ phôi thép”.
Vào năm 1977, bộ phận quốc phòng của chính phủ Nam Phi bí mật mua lại 20% SCRQ và một giấy phép từ Bull để sản xuất GC-45. Vào 1983, người Nam Phi đã bắt đầu đưa ra thị trường khẩu pháo của Bull, dưới cái tên G-5, dưới niềm hãnh diện là vũ khí do nền công nghiệp nước nhà “ tự trồng”.
Khi xì căng đan đổ vỡ vào 1980, Bull bị buộc tội đã vi phạm lệnh cấm vận vũ khí của Liên Hợp Quốc. Ông bị tuyên bố có tội và phải thụ án tù sáu tháng trong một nhà tù có mức độ an ninh bậc trung ở Allenwood, Pa. Đó là nỗi ô nhục nặng nề nhất. SRCQ phá sản, và sau khi đi ra tù, Bull hướng các hoạt động của mình về Brussels.
Ở đó ông ta ra vẻ như đang muốn sống một cuộc sống bình lặng. Hàng xóm xem ông như một người kín đáo và trầm lặng. Họ không có nhiều cơ hội để trông thấy ông. “ Ông dành ít nhất 20% thời gian ở Brussels”, Michel con ông kể, làm trưởng bộ phận điều hành cho SCRI ch đến 1980 và sau đó là một thành viên trong Ban Giám Đốc. “ Ông đi khắp nơi vì công việc. Còn khi ở Brussels thì ông vẫn cắm đầu vào việc kinh doanh. Ông làm việc cho đến tận khuya. Sở thích của ông chỉ là làm việc và đọc sách”.
“Ông ta không phải là một khoa học gia điên khùng, hoàn toàn không ý thức về môi trường xung quanh”, Michel Bull tiếp tục. “ Ông là một tay thích tiệc tùng. Ông ra ngoài để dùng bữa tối khá nhiều và rất thích bàn luận”.
Sự căm ghét nước Mỹ không bao giờ dịu đi. “ Ông ta thường nói đủ thứ điều linh tinh”, bạn đồng nghiệp của ông Charles Murphy nói. “ Hầu hết là vô ý thức. Ông từ chối quay trở về Bắc Mỹ trong suốt hai năm sau khi mãn hạn tù. Vợ phải thường xuyên đi sang Châu Âu để thăm ông”.
“ Rõ ràng đã có một số bất công dành cho cha tôi”, Michel nói. “Cha tin như vậy, và tôi cũng kết tội điều ấy. Họ đã sử dụng ông như con chốt thí cho mục đích chính trị. Chẳng có gì phạm pháp trong những việc làm của cha cả”.
Đối với những tay buôn bán vũ khí, các quốc gia có chiến tranh là thị trường béo bở nhất. Vào những năm 80, cuộc chiến tranh lớn nhất trông có vẻ không bao giờ kết thúc là cuộc chiến giữa Iran và Iraq. Và Iraq, với ngân sách chiến tranh hàng năm lên đến 14 tỷ dollars, là người mua then chốt.
Được khuyến khích bởi tình trạng hỗn loạn sau cuộc cách mạng Hồi giáo của Ayatollah Khomeini, Iraq đã tấn công người láng giềng Iran vào tháng 9-1980. Nhưng chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh ( blitzkrieg ) của Saddam nhanh chóng bị suy giảm bởi phiên bản chiến tranh hầm hào ( trench warfare ) trên sa mạc khắc nghiệt.
Đối mặt với tình trạng bị áp đảo quân số, Iran có dân số 53 triệu gấp 3 lần Iraq, người Iraq quay sang tìm kiếm các phương tiện chiến tranh tinh vi của Phương Tây để chống lại vô số các sư đoàn Vệ Binh Cách Mạng Iran, họ di chuyển nhung nhúc theo cách đánh biển người, dùng cả người làm kamikaze để băng qua các bãi mìn. Và trong các nhà cung cấp vũ khí Tây Phương làm việc với Iraq, đã xuất hiện Gerald Bull.
Iraq nhận được đơn đặt hàng đầu tiên của họ, 200 khẩu GC-45, vào 1985. Những khẩu pháo được sản xuất bởi công ty vũ khí Áo Voest-Alpine theo giấy phép nhượng quyền . Để đánh lừa lệnh cấm vận của Áo đối với việc bán vũ khí cho các quốc gia hiếu chiến, Jordan, một đồng minh thân cận với Iraq, đã cung cấp một chứng nhận người dùng cuối giả dối, trong đó thông báo rằng những khẩu pháo sẽ được sử dụng cho quân đội của họ. Chính phủ Áo, rất giỏi về những thủ đoạn, đơn giản chỉ cần giả mù là xong. Những khẩu pháo được thoải mái chuyên chở đến cảng Aqaba ở miền nam Jordan, sau đó lên đường thẳng tiến đến Iraq.
Ba năm sau, cuối cùng Bull cũng thuyết phục được người Iraq tài trợ cho dự án siêu pháo. Theo như sự xác nhận bởi Aldo Savegnago, một kỹ sư người Ý bị bắt giữ sau khi bộ phận khóa nòng của khẩu Siêu pháo bị phát hiện ở cảng Naples, dự án Babylon đã bắt đầu vào mùa xuân 1988. Đó là một kế hoạch khổng lồ, giăng ra trên bảy quốc gia Châu Âu và tiêu tốn hàng triệu dollars.
Savegnago khai rằng anh ta được thuê vào tháng 6/1989 bởi một kỹ sư người Anh tên John Heath, người đứng đầu Viện Công Nghệ Tiên Tiến, một công ty đăng ký ở Hy Lạp. Công ty đó có chi nhánh cả ở Brussels lẫn Baghdad, đã liên kết chặt chẽ với SRCI của Bull. Người tiền nhiệm của Heath ở Viện công nghệ tiên tiến là Christopher Cowley, cũng chính là người quản trị cùa SRCI.
Dự án, được quản lý bởi SRCI và ATI ( viện công nghệ tiên tiến ), chẳng dính dáng đến bất cứ điều gì ngoài 3 khấu pháo: một khẩu nguyên mẫu tương đối nhỏ, một khẩu thử nghiệm cỡ trung bình có đường kính 330mm và khẩu Siêu pháo thật sự đường kính 1000mm. Khẩu nguyên mẫu, được biết đến với cái tên Baby Babylon, đã đến được Iraq và bắn thử nghiệm gần thành phố Mosul miền bắc Iraq. Cả hai nhà máy luyện thép Anh quốc sản xuất các chi tiết là Sheffeild Foregemasters và Walter Somers đều trình bày rằng họ chỉ tiếp xúc với SRCI, và SCRI cam kết rằng họ chỉ làm việc cho Bộ Công Nghiệp Và Khai Thác Mỏ Iraq. Công ty SCRI gọi những ống thép họ đặt hàng là “ sản phẩm công nghiệp dầu khí”. Trong thực tế, chẳng có cái bộ nào tên là Bộ công nghiệp và khai thác mỏ Iraq cả, và số điện thoại trong các tài liệu chính là của Hussain Kamel, bộ trưởng Bộ Công Nghiệp và Công Nghiệp Quốc Phòng – đơn vị chịu trách nhiệm sản xuất và mua sắm vũ khí chính của Iraq. Savegnago thì khai công việc của anh ta là bảo đảm rằng các chi tiết sản xuất bởi công ty luyện thép Societa della Fucine cho Iraq phải thích ứng với màn kịch là cung cấp cho ATI thông qua anh ta. Savegnago, người nói rằng ATI cam kết với nhà máy luyện thép Ý rằng đó là “cổng đập nước”, cũng đồng thời thăm viếng Sheffield Forgemasters và nhà máy luyện thép Von Roll của Thụy Sĩ để kiểm tra các thành phần khác. Những thành phần được sản xuất bởi Von Roll sau này đã bị phong tỏa tại sân bay Frankfurt.
ATI cũng đồng thời đưa một đơn đặt hàng trị giá 5.4 triệu dollars vào 1988 với Poudreries Reunies de Belgique ở Bỉ cho “ những thiết bị tạo sức đẩy” lạ thường mà sau này kết quả điều tra gọi là những thiết bị cho khẩu pháo khổng lồ. Được tuyên bố điểm gửi đến là Jordan.
Savegnago cũng xác nhận rằng anh ta gặp Bull trong một bữa dạ tiệc cùng với một số nhân viên ATI tại Brussels. Sau khi Bull bị giết, anh ta nói, Heath, người đã thuê anh ta, gọi cho anh và nói rằng công việc tạm thời treo lại đó. Heath từ đó biến mất và được tin rằng vẫn đang ẩn nấp đâu đó ở Châu Âu.
Ít nhất cũng có một công ty đã tỏ ra cảnh giác cao độ trước đơn đặt hàng cùa SRCI vào năm 1988. Giám đốc điều hành công ty Walter Somers ở Birmingham không thể hiểu nổi tại sao những ống thép đường kính 330mm lại cần phải giao kèo là thiết kế phải đáp ứng được khả năng chịu áp lực gấp 12 lần tiêu chuẩn thông thường trong công nghiệp dầu khí? Giám đốc công ty này quen biết với một đại biểu quốc hội Anh sống ở địa phương đó, người đã lập tức liên hệ với MI6 ( tình báo Anh quốc ), cơ quan tình báo hải ngoại Anh quốc, Bộ Công Nghiệp và Thương Mại, nơi kiểm tra việc xuất khẩu các mặt hàng quân sự nhạy cảm, và Bộ Quốc Phòng. Cảnh báo của ông ta không được quan tâm. Mặc dù tất cả việc xuất khẩu hàng quân sự cho Iraq bị luật nước Anh cấm đoán, Somers đã được thông báo không cần phải có giấy phép xuất khẩu cho “những ống thép”.
Nói theo cách khác, công ty bị kéo theo kế hoạch tinh vi của một thiên tài sắp sẵn cho khẩu pháo vĩ đại nhất thế giới, với một thành tích khét tiếng trong buôn bán vũ khí, đang đóng giả một nhân viên đặt hàng cho Iraq những “ đường ống” phi thường. Và bằng cách nào đó mà không ai trong Bộ Thương Mại Anh Quốc tỏ ra có một chút nghi ngờ nào hết.
Trong một diễn biến khác, vào 9/1989, công ty trang thiết bị quân sự Anh Astra Holdings mua lại Poudreries Reunies de Belgique đang sa sút. Kiểm tra lại sổ sách, người giám đốc mới đã phát hiện hợp đồng chế tạo thiết bị tạo sức đẩy cho Jordan và lập tức thông báo cho Bộ Quốc Phòng Anh.
Theo thông báo của John Pike, giám đốc mới người Anh, các nhân viên Bộ Quốc Phòng tỏ ra rất quan tâm và yêu cầu cung cấp thêm thông tin. “Điều đó cho thấy họ biết rằng có những tín hiệu chỉ đến dự án ở Iraq”, ông ta nói, “Nhưng họ không chắc chắn lắm một số vấn đề mấu chốt. Họ không biết về hệ thống phóng hiện tại, không biết nó là một khẩu pháo quân sự hay để phóng vệ tinh, không am hiểu kỹ thuật về bệ khóa nòng pháo hay biết được nó điều khiển như thế nào, thậm chí trông nó như thế nào.”
Một trong những bí ẩn trong câu chuyện của Bull là những hành động của những người có trách nhiệm ở Anh quốc. Tình báo Anh Quốc chắc chắn biết Bull là ai và mối liên hệ khả nghi của ông với Iraq. Vào tháng 5/1989, chính phủ Anh đã từ chối cho phép SRCI hợp sức với một công ty Iraq để mua lại công ty Lear Fan Jet ở Belfast đang phá sản, lý do là sợ rằng công ty mới sẽ sản xuất và xuất khẩu thiết bị tên lửa nhạy cảm cho Iraq.
Tuy thế, người Anh đã không làm gì. Vào lúc Hải quan Anh truy quét cảng Teesports vào tháng 4, đã có 44 trên 52 chi tiết của khẩu Siêu pháo đã rời cảng đến Iraq thành công.
Một tuần sau cuộc phong tỏa bến cảng. Người phát ngôn cơ quan thương mại và báo chí thuộc văn phòng thủ tướng đã trút ra những lời lẽ miệt thị về giả thiết cho rằng đó là các thành phần của Siêu pháo, ông ta nói các thành phần đó “ hấu như chắc chắn chỉ là các ống dẫn”. Các nhân viên hải quan giận dữ vặn lại rằng họ chắc chắn các ống đó là “ những thành phần của một hệ thống phóng vệ tinh với chi phí thấp, cái có thể cũng được dùng cho đạn rocket.”
“ Nó thối tha tận trời mây”, một chuyên gia quốc phòng Anh dấu tên phát biểu. “ Chẳng có được một lời nói, một hành động chính trị nào nhằm chống lại Iraq. Cảm giác của tôi là ai đó trong Chính phủ phải biết được nhưng vì lý do nào đó mà chẳng làm gì cả. Hoặc là chúng ta kiếm được tiền từ việc ấy, hoặc là chúng ta mặc cả được vài quyền lợi chính trị trong chuyện ấy.”
Trong những hậu quả từ cuộc phong tỏa, Michel và Steven con của Bull thanh lý SRCI và lui vào bóng tối. Poudreries Reunies de Belgique bị phá sản nhanh chóng ngay sau đó. Hai doanh nhân người Anh, Christopher Cowley của SRCI và Peter Mitchell giám đốc điều hành Walter Somers đã bị hải quan kết tội liên can sâu sắc với việc xuất khẩu vũ khí bất hợp pháp. Hải quan Anh nói rằng cuộc điều tra sẽ vẫn được tiếp tục. Về phần mình, Michel Bull khăng khăng rằng SRCI chẳng có liên quan gì đến khẩu Siêu pháo: “Công ty của tôi và cả bản thân tôi hoàn toàn xa lạ với nó”.
Khẩu pháo đó để làm gì? Không ai ở Phương Tây có thể chắc chắn. Chỉ có một điều rõ ràng là trong quyển sách của mình, Bull đã tuyên bố rằng Siêu pháo có mục đích chính để phóng vệ tinh vào quỹ đạo thấp. Cũng có thể được dùng như là vũ khí để bắn đạn hóa học hay hạt nhân đi xa hàng ngàn dặm, mặc dù kích cỡ của nó làm cho nó dễ bị tổn thương trước các cuộc không kích.
Cho dù mục đích thật sự của nó là gì, khẩu Siêu pháo vẫn là một bước tiến quan trọng trong cuộc chạy đua vũ trang giữa Saddam Hussein và Irsael.
Dẫu cho người thiết kế nên Siêu pháo đã chết và một số bộ phận bị tịch thu, khẩu pháo vẫn không bị hủy bỏ. Điều đó cho thấy có thể người Iraq đã sở hữu được công nghệ chế tạo, và họ có được gần đủ các bộ phận. Chỉ còn lại một câu hỏi về thời gian hoàn thành khẩu pháo, trừ phi Iraq mắc lỗi lầm hoặc họ ngờ vực các nhà máy luyện thép nước ngoài trong việc hoàn tất những bộ phận bị mất trong trò chơi ghép hình. Gerald Bull vẫn có thể có được khẩu Siêu pháo của mình.
KHO VŨ KHÍ CỦA SADDAM HUSSEIN: PHẦN DO BULL CUNG CẤP
Kho pháo binh đầy ấn tượng của Iraq do Bull cung cấp tạo ra một nguy cơ đáng gờm đối với lực lượng tác chiến đa quốc gia ở Saudi Arabia trong trường hợp tấn công trên bộ.
Mối lo chủ yếu đến từ 300 khẩu pháo 155mm với các phiên bản từ khẩu GC-45 mà Bull phát triển từ những năm 1970. Hai trăm khẩu trong số đó, mang tên GH N-45, được chở đến Iraq từ Áo thông qua Jordan vào năm 1985. Chúng đã đóng một vai trò chính trong những cuộc đấu pháo giữa Iran và Iraq. Một trăm khẩu còn lại qua ngã Nam Phi, chúng được tiếp thị qua cái tên G-5.
“Nói về phạm vi tầm bắn và độ chính xác, G-5 vượt qua tất cả những loại pháo mà Quân Đội Hoa Kỳ có được”, đó là nhận xét của Christopher F. Foss, biên tập viên của tạp chí Jane''s Armour and Artillery. “ Nó cho Iraq một mũi dao sắc bén một khi họ tiến hành chiến tranh chống lại chúng ta”. Andrew Duncan, một nhà phân tích vũ khí của Viện Khoa Học Chiến Lược ở London, nói một cách đơn giản hơn, “ Nó là một khẩu pháo khát máu hoàn hảo.”
Khẩu pháo sử dụng một hệ thống “ base bleed” khéo léo được Bull hoàn thiện. Một liều thuốc cháy nhỏ ở phần đế đầu đạn sẽ phát cháy suốt dọc đường bay, làm giảm đáng kể sức trì và tăng cao tầm đạn, lên đến 25 dặm. Nhờ vào thiết kế đơn giản của nó, khẩu pháo có thể phóng đi những đòn giáng mang nhiều HE ( High Explosive – Thuốc nổ cực mạnh ) hơn, gấp đôi những hệ thống mà Phương Tây đang sử dụng.
“Ý tưởng là một khẩu pháo có thể bắn đi những viên đạn mang thật nhiều HE vào một mục tiêu”, Foss nói. “Không giống Bull, nước Mỹ sử dụng rocket hỗ trợ để tăng tầm cho những viên đạn của họ. Hệ thống đó có khuynh hướng làm giảm chính xác, và nếu bạn có một đoạn động cơ rocket ở phía sau đuôi, bạn buộc lòng phải giảm số lượng HE mang theo.
Vào cùng thời gian ông ta bắt tay vào chế tạo Siêu pháo, Bull còn thiết kế hai hệ thống pháo tự hành hiện đại khác cho Iraq: Chiếc Al Fao 210mm và chiếc Majnoon 155mm, cả hai được ra mắt trong Hội chợ Vũ Khí Baghdad 1989. Hệ thống được đặt trên xe bọc thép sáu bánh với quy mô nòng pháo lớn hơn tất cả các nòng pháo khác so với tiêu chuẩn vũ khí thông thường.
Khẩu Al Fao là khẩu pháo mạnh nhất trên thế giới. Với trọng lượng 48 tấn và tầm bắn 35 dặm ( 56,5 km ), nó có thể bắn bốn đầu đạn nặng 109Kg cho mỗi phút từ nòng pháo dài 11 mét của nó. Người Iraq xác nhận rằng Al Fao và Majoon có thể đạt được tốc độ từ 45 đến 55 dặm/giờ trên đường nhựa.
Khẩu Al Fao có tầm bắn xa hơn nhiều và ngoại hạng so với bất cứ thứ gì có trong kho vũ khí của thế lực phương Tây. Nhưng theo báo cáo tình báo mới nhất, cả hai hoặc ít nhất là Majnoon không được sản xuất với số lượng lớn.
Iraq không phải là quốc gia Vùng Vịnh duy nhất sử dụng pháo của Bull. Các nhà phân tích quân sự Phương Tây tin rằng trong cuộc chiến tranh Iran – Iraq. Iran đã mua được 140 khẩu GC-45 thông qua Lybia. Và UAE, trước các nguy cơ từ Iraq, đã thông báo một đơn đặt hàng cho 70 khẩu G-6, một phiên bản pháo tự hành trên cơ sở khẩu G-5, Nam Phi cung cấp.
Kết thúc.
Vào một buổi sáng tháng Ba yên tĩnh, tại Uccle, một vùng ngoại thành xanh tươi cây cỏ của thủ đô Brussels, Gerald Bull đi xuống hành lang dẫn đếncăn phòng của ông ta và tra chìa khóa vào cửa. Đó là hành động cuối cùng của ông.
Đằng sau ông, nấp trong bóng tối, một sát thủ bước đến và bắn hai phát đạn 7.65mm nhằm thẳng vào phía sau sọ của ông.
Cái cách giết chóc xác thực rằng nó đã được thực hiện bởi một kẻ chuyên nghiệp. Không ai nghe được những phát bắn giảm thanh hoặc tiếng động của thân thể sụm xuống sàn nhà. Không ai thấy được kẻ giết người. Và 20.000 dollars tiền mặt Bull mang theo người vẫn còn nguyên, không hề bị chạm đến.
Gerald Vincent Bull, con người chuyên nghiệp vĩ đại nhất trên thế giới về lĩnh vực pháo binh, đã không chết một mình. Vào lúc nhà khoa học 62 tuổi ngã xuống sàn nhà, nỗi ám ảnh đam mê suốt cuộc đời của ông cũng chết theo: Đó là giấc mơ chế tạo một khẩu siêu pháo, một khẩu pháo khổng lồ có thể phóng vệ tinh vào không gian hay bắn những viên đạn pháo bay xa hàng ngàn dặm vào lãnh thổ đối phương.
Hai tuần sau, trong một cái cảng hẻo lánh miền trung Anh Quốc, Teesport, Hải quan Anh Quốc đã phong tỏa tám ống thép khổng lồ, một máy đo tầm xa, được thết kế để sử dụng cho một nòng pháo dài 60 mét. Được gắn cái mác “ ống dẫn dầu”, chúng đã được sản xuất một cách ngây thơ bởi nhà máy Sheffeild Forge, một nhà máy luyện thép Anh, và đang chờ đợi để được chất lên một chiếc tàu hàng đi đến Iraq.
Trong vòng một tháng, các thành phần cho cái được biết đến như là Siêu pháo Iraq đã được phát hiện trong các kiện hàng được đóng gói ở năm quốc gia khác thuộc Châu Âu. Dự án Babylon, kế hoạch để chế tạo ra nó, đã hiện nguyên hình trở thành một kế hoạch phức tạp khổng lồ thu hút hàng triệu dollars cùng hàng tá hoạt động chạy đua vũ trang bất hợp pháp của Iraq
Nhưng dự án Babylon còn hơn là một kế hoạch vũ trang bị thất bại. Đó là một bi kịch Faustian, một câu chuyện về một nhà khoa học tỷ phú, người thất vọng vì sự từ chối hỗ trợ của Phương Tây đối với tầm nhìn vĩ đại của ông, đã bán mình cho một trong những chế độ khát máu nhất trên thế giới. Bắt đầu từ 1985, Iraq đã mua hàng trăm khẩu pháo tối tân được phát triển bởi Bull. Được chứng minh hiệu quả trong cuộc chiến Iran-Iraq, những khẩu pháo đó sau này trở thành một nguy cơ nghiêm trọng cho lực lượng đa quốc gia đồn trú tại Arab Saudi. Kế tiếp, Bull thiết kế cho Iraq hai khẩu pháo Mamoth gắn trên xe tự hành, đã được công khai trình diễn tại Hội chợ vũ khí vào năm sau. Còn khẩu siêu pháo Babylon lẽ ra đã là khẩu quan trọng nhất và đáng sợ nhất mà Bull đã đóng góp cho Saddam Hussein để phát triển kho vũ khí của ông ta.
Không người nào biết được ai đã giết Gerald Bull. Gia đình ông ta khẳng định rằng đó phải là cơ quan tình báo Irsael, Mossad. Một thời gian ngắn sau vụ ám sát, Michel con trai của Bull kể rằng một nhân viên tình báo ẩn danh đã cảnh báo cha anh ta về việc Mossad đang bám theo ông ( sau này anh ta đã khẳng định lại điều đó). Bất chấp sự phủ nhận của Israel, sự ngờ vực của gia đình Bull được chia sẻ rộng rãi bởi các nhà chuyên môn về tình báo. Trong quá khứ, Israel đã chứng tỏ rằng họ luôn hành động quyết liệt và nhanh chóng để loại bỏ bất cứ nguy cơ quân sự nào từ Iraq. Vào 1981, trong một màn đánh phủ đầu, các chiến đấu cơ Israel đã phá hủy lò phản ứng hạt nhân Osiraq gần Baghdad nhằm ngăn ngừa ý định sản xuất vũ khí hạt nhân của Iraq.
Nhưng nếu Mossad là nghi can hàng đầu, thì vẫn còn có nhiều kẻ khác luôn muốn Bull phải chết: người Iraq, người Anh, người Mỹ, người Nam Phi và ngay cả người Chi lê. Bull di chuyển trong một thế giới nguy hiểm của các cuộc thỏa thuận vũ trang bí mật và những cơ quan tình báo sát nhân. Bart Van Leysabeth, người phát ngôn của Viện Công Tố Bỉ phát biểu: “ đây là một trường hợp khó khăn”, cộng thêm rằng quyền hạn điều tra là “ không thật sự hứa hẹn”. Chỉ có một điều chắc chắn, Bull có một tham vọng nguy hiểm, và ai đó đã bơm hai viên đạn vào đầu ông ta để ngăn ông lại.
Câu chuyện của Gerald Bull và khẩu pháo của người Iraq bắt đầu còn lạ lùng hơn là khi nó kết thúc – với những tài liệu tuyệt mật từ những ngày cuối cùng của Đế chế Đức. Vào 1965, một phụ nữ trung niên người Đức đến Montreal để thăm hỏi một nhà khoa học khá vô danh tại Viện nghiên cứu không gian hoàn cầu MCGill. Nhà khoa học đó là chuyên gia Gerald Bull. Khi ấy 37 tuổi.
Loạt bài trên dịch từ bài viết của phóng viên Kevin Toolis, đăng trên báo New York Times vào 23 tháng 8 năm 1990. Hai tuần sau khi Iraq xâm lược Kuwait và Mỹ cùng liên quân đang gấp rút thực hiện xây dựng Lá chắn Sa Mạc.