“Phage Therapy” : Làm sao trị bệnh do vi khuẩn gây nên một khi trụ sinh không còn công hiệu ?
Saturday, May 02, 2009
Tại xứ Georgia: Các con “phages” (màu xanh lá cây) được người ta “tín nhiệm” chả khác gì đối với thuốc aspirin.
Bên trong vết thương: Bước đầu tiên trong việc trị liệu bằng “Phage therapy” là xác định thành phần trong cơ cấu của một đám vi khuẩn như trong hình.
Hình qua kính hiển vi điện tử cho thấy các vi rút tấn công ồ ạt vào nhóm vi khuẩn anthrax.
Trong sách vở Y Khoa, chữ “phage” trong tiếng Anh là tên gọi tắt của chữ “bacteriophage”, trong đó “bacterio” chỉ vi khuẩn, còn chữ “phage” theo gốc Cổ Hy Lạp có nghĩa là “ăn”. “Bacteriophage” (mà trong bài tiếp theo đây sẽ được gọi tắt là “phage/s”) có nghĩa là các con vi rút có khả năng ăn tươi nuốt sống và tức là tiêu diệt các con vi khuẩn gây nên bệnh này tật kia nơi con người.
Trường hợp các vi khuẩn nơi một vết thương không còn trị liệu được bằng trụ sinh do sức đề kháng của vi khuẩn hoặc do chúng đã “quen thuốc” thì từ nhiều năm nay ở Ðông Âu người ta đã trị liệu những trường hợp đó với kết quả đáng được chú ý bằng cách sử dụng các vi rút truyền vào cơ thể con người để chúng đóng vai một “đạo quân thứ năm” nhằm tiêu diệt các vi khuẩn gây nên những vết thương khó trị kia.
Tại Hoa Kỳ thì phương pháp đó chưa được áp dụng vì muốn được áp dụng thì phải có phép của cơ quan FDA có chức năng kiểm tra thực phẩm và được liệu trên toàn quốc.
Sau đây là câu chuyện có liên quan đến đề tài quan trọng đó.
Thoạt tiên thì tưởng như không có gì đáng ngại. Vệt đỏ trên đùi bên phải của Roy Brillon trông như thể bị một con nhện độc gì đấy nó cắn. Thế nhưng ngày qua ngày thì vết đó cứ lan ra. Cho đến tháng 12 năm 2004 thì vết u tưởng chừng như vô hại kia đã loét ra rộng bằng bàn tay. Người trị liệu cho ông Brillon, Bác Sĩ Randy Wolcott, cho đến thời điểm đó đã kê toa cho bệnh nhân đủ loại thứ trụ sinh mà ông ta có thể nghĩ ra được thế nhưng vết lở lói mỗi ngày một thêm trầm trọng. Ông Brillon, một thợ sơn nhà 62 tuổi ở Lubbock, Texas, nay đã nghỉ hưu, nói rằng: “Thiệt là tệ hại. Tôi đành phải bỏ nghề vì không còn leo thang được nữa”.
Ông Brillon có cảm giác như thịt da của mình ở chỗ vết thương bị ăn mòn từ trong ra. Và quả đúng là như thế. Nếu để yên không chữa chạy cho đến nơi đến chốn thì các loại vi khuẩn như streptococcus và staphylococcus sẽ ăn dần ăn mòn những tế bào mỏng manh để tự nuôi sống chúng, để lại những mép đỏ ửng và tanh banh, cứ thế lan rộng ra bên ngoài càng lúc trông càng dễ sợ. Bệnh nhân đau đến độ mà BS chữa trị phải cho dùng morphine. Nhưng ông Brillon vẫn cho biết là “Tôi chỉ được kê đơn cho uống hai viên một ngày nhưng rốt cuộc thì tôi phải uống đến ba viên lúc ban sáng và ba viên vào lúc xế trưa. Ðau không tả xiết, và tôi chỉ còn nước cắn răng mà chịu đựng”.
Là trưởng trung tâm Southwest Regional Wound Care Center của thành phố Lubbock, BS Wolcott thừa biết rằng đối với những bệnh nhân bị viêm nhiễm nhưng các loại thuốc trụ sinh không còn ứng nghiệm thì các triệu chứng dự đoán tiêu biểu về diễn biển của căn bệnh sẽ là: tình trạng thối hoại, phải cưa cắt và, đối với khoảng 100.000 người Mỹ trong một năm, dẫn đến tử vong.
Ông nói: “Một vết thương kinh niên” có nghĩa là “không cách chi chữa chạy”. Phương thức chủ yếu là mình phải cưa hoặc mình phải khoét. Trông dã man lắm”. BS Wolcott hầu như tuyệt vọng trong việc tìm cho ra một phương cách chữa trị nào đấy mà không phải sử dụng trụ sinh hoặc đến cái nước phải tiến hành làm những việc như vừa nêu ở trên. Hàng ngày ông đã phải ngồi ở trung tâm đó 10 tiếng đồng hồ, thường khi lại còn phải ở lại cho tận khuya để nghiên cứu các tài liệu y khoa có những bài khảo cứu mới mẻ nhất trong việc chữa trị các vết thương, nhằm coi xem có phương thức gì đấy - bất luận là phương thức nào - để có thể giúp chữa trị những bệnh nhân bị viêm nhiễm nhưng với kiến thức chuyên môn của ông vẫn không còn biết đường nào mà lần.
Khi ông Brillon đến tái khám ba tuần lễ sau đó thì BS Wolcott bước vào phòng mạch với một ống nhỏ thuốc trong một tay và trong tay kia thì ông cầm một cái lọ nhỏ, trong đựng một dung dịch trông có vẻ khả nghi, chả khác gì nước ao. Dung dịch đó hóa ra là món như được mô tả ở trên là mang tính cách “bất cứ thứ gì có thể giúp mình trị liệu”. Ðấy là một dung dịch chứa đựng loại vi rút (“virus”) có thể ăn vi khuẩn (“bacteria”) và các vi rút đó được mệnh danh là “bacteriophages”.
Trước đó thì BS Wolcott đã giải thích cho ông Brillon rằng các bác sĩ bên Ðông Âu đã từng sử dụng loại “bateriophages” một cách an toàn từ thập niên 1920 để chữa trị những trường hợp mà trụ sinh loại thông thường không còn hiệu nghiệm đối với vi trùng “Strep” và vi trùng lao cũng như đối với bệnh tình của ông Brillon. Ngay cả những công ty được phẩm tại Hoa Kỳ này cũng đã từng bán ra loại “bacteriophages” này vào hồi đầu thập niên 40, khi “penicillin” bắt đầu xuất hiện, dễ sử dụng hơn, thường là hiệu nghiệm hơn và rốt cuộc thì bán ra dễ sinh lợi hơn về mặt kinh doanh so với món “bacteriophages”. BS Wolcott nhìn nhận rằng loại vi trùng ăn vi khuẩn này có thể không “giúp được gì” thế nhưng nếu sử dụng chúng mà không có hại thì tội gì không thử coi xem sao?
Có điều là ông Brillon cũng chả cần được thuyết phục chi cho nhiều, bởi tình trạng của ông ta thì có phải thử nghiệm phương cách trị liệu gì cũng đều là chuyện phải làm cả. Thế nhưng đối với cơ quan Food and Drug Administration có nhiệm vụ kiểm tra thực phẩm và dược liệu của Hoa Kỳ thì lại là cả một vấn đề khác.
Từ năm 1963 cơ quan này đã đề ra một quy trình rất chặt chẽ trong việc cho phép tất cả các dược liệu được bán ra trên đất Mỹ. Phương pháp trị liệu bằng loại “Phage” - mượn tay vi trùng này để tiêu diệt vi khuẩn kia - rồi ra còn phải được sự chấp thuận của cơ quan đó, bởi thế mà BS Wolcott còn phải kiến nghị lên ủy ban điều hành nơi tiểu bang của mình để chỉ được phép sử dụng đối với những ai mà ông không còn cách trị liệu nào khác. Và rồi vì chả có loại “thuốc” “Phages” nào ở các hiệu thuốc tại Hoa Kỳ, ông ta buộc lòng phải liên lạc qua mãi tận bên nước Georgia, một trong các thành viên của 15 nước Cộng Hòa Liên Xô khi xưa, để có cho được món hàng đó. Ở bên đó thì người ta lại bán nó ở các hiệu thuốc mà chẳng cần toa bác sĩ. Ông đặt mua ba chai, mỗi chai 2 dollars, trong đó chứa đựng hàng trăm loại vi rút có thể ăn được các vi khuẩn khác.
“Có thế thôi à?” Brillon hỏi sau khi BS Wolcott nhỏ vài giọt chất lỏng màu vàng nhờ nhờ lên vết thương ông ta. Chất nước đó chả có làm cho đau đớn gì cả.
Mà trong một vài ngày đầu thì cũng chả có gì đáng nói xảy ra, và ông Brillon lại phải dọn mình để chờ đợi thêm một phen phải thất vọng nữa. Thế nhưng với tuần lễ cứ thế trôi qua thì chỗ vết thương lại bắt đầu có sắc nhạt đi dần thành một màu hồng trông lành mạnh hơn, và rồi một vùng da mới trông lành mạnh bắt đầu ló dạng, mỗi ngày một lan ra đều đặn. Chỉ trong vòng ba tuần lễ, vết thương hoàn toàn lành lặn. Ông Brillon nói với BS Walcott của mình: “Ông nên chụp ít tấm ảnh, chứ còn bằng không thì sẽ chẳng ai tin cả!”
Cứ theo như bản chất của các “vi-rút” mà nói thì loại ăn tươi nuốt sống được các vi-khuẩn khác là thuộc loại hiền lành. Chúng là những vi sinh vật xuất hiện đông đảo nhất trên quả đất này. Chúng “có mặt” hầu như khắp mọi nơi - trong đất, trong nước uống, trong nước cống rãnh. Thực ra thì mỗi người trong chúng ta có hàng tỉ con “vi-rút” loại đó trong cơ thể của mình.
Mà bọn chúng thì chỉ săn bắt vi khuẩn chứ không bao giờ làm hại đến tế bào nơi cơ thể con người. Chúng ít khi di cư từ một người này sang một người khác, và quan trọng hơn cả là vi khuẩn thì khó mà có hệ thống đề kháng chống lại chúng. Vì là những cơ thể sống, cũng là sinh vật, cho nên đám vi rút ăn được vi khuẩn này thay đổi một cách thường xuyên nhằm thích nghi với bọn vi khuẩn để dễ bề xơi tái bọn này. Cách trị liệu bằng phương thức “Phage” do đó có thể loại trừ được cái vòng luẩn quẩn tai hại theo đó vi khuẩn biến hóa thế nào đấy để cưỡng lại được với thuốc trụ sinh, dẫn đến việc phải kiếm ra loại dược liệu khác mạnh hơn, để rồi rốt cuộc thì đâu cũng lại vào đấy.
Thế nhưng cũng lại có một điều khá lấn cấn. Chính đặc tính khiến cho các “vi-rút” (Phages) hiệu nghiệm như thế - có khả năng thay đổi hình dạng một cách điệu nghệ của chúng - lại là một vấn đề cam go khi phải qua con mắt giám sát của các cơ quan kiểm tra của Hoa Kỳ. Mặc dù chưa có những bản tường trình nào về những tác dụng bất lợi từ các sự thay hình đổi dạng của loại “vi-rút” đó thế nhưng những con nào không thường cư ngụ trong cơ thể con người vẫn có khả năng hoán chuyển “gien” với bọn sống trong cơ thể con người để tạo nên các chất đạm (“protein”) ngoại lai tạo nên phản ứng đề kháng. Và rồi cũng không thể nào xác quyết xem một con “vi-rút” sẽ thay hình đổi dạng ra sao khi tiếp cận với những vi khuẩn khác loại, theo như lời của Paul Sullam, một nhà vi sinh vật học tại University of California ở San Francisco.
Cũng vì lý do đó, trong số các lý do khác nữa, mà phát ngôn viên Karen Riley của cơ quan FDA nói rằng phương thức trị liệu bằng “phage” để chữa chạy cho con người phải được quy định như là một sản phẩm thuộc dạng sinh vật. Ðiều đó có nghĩa là nếu như các con “vi-rút” cho thấy có nhiều dấu hiệu rõ rệt để thay hình đổi dạng hoặc thay đổi trong các cuộc thử nghiệm về mặt lâm sàng thì cho dù những thay đổi đó không có nguy hại gì đến bệnh nhân, các cuộc thử nghiệm như thế vẫn bị coi như khó được chấp thuận. Ðiều đó giải thích lý do tại sao các giới bào chế thuốc không mấy sốt sắng trong việc tiến hành các cuộc thử nghiệm như thế.
Ông Sullam nói: “Tôi hiểu cách nhìn của cơ quan FDA, bởi mỗi con ‘vi-rút’ (“Phage”) đều nói lên một mức độ rủi ro nào đấy. Một khi mà các “vi-rút” có khả năng trao đổi với nhau các thành phần có liên quan đến “gien” thì điều đó khiến người ta lo lắng áy náy dữ lắm.”
Ðối với cơ quan FDA thì chất dung dịch mà BS Randy Wolcott nhỏ lên vết thương nơi bệnh nhân của ông là chuyện mới mẻ và chưa được chứng minh. Thế nhưng đối với các khoa học gia làm việc tại viện nghiên cứu George Eliava Institute of Bacteriophage, Microbiology and Virology ở nước Cộng Hòa Georgia thì người ta tín nhiệm phương thuốc đó như thể đối với aspirin vậy. Kể từ năm 1923, khi cơ sở đó được dựng lên, các nhà khoa học đã chữa trị thành công cho hàng triệu con người bằng phương thức trị liệu mệnh danh là “phage therapy” và cũng đã đệ trình hơn 100 đề án nghiên cứu tại các cuộc hội nghị quốc tế để minh chứng cho giá trị của phương pháp đó về mặt lâm sàng.
BS Wolcott gọi Eliava là “con tàu mẹ của công cuộc nghiên cứu về phage”, một thứ đất thánh cho toàn thế giới với những ai bị viêm nhiễm nhưng các thuốc trụ sinh thông dụng không thể chữa lành. Chỉ có điều là nơi đấy không trông giống như một nơi mình muốn đi nếu như có vấn đề sức khỏe gì đấy trong người. Khi ông Wolcott đến đấy để tìm đường cứu chữa cho các bệnh nhân của mình thì tòa nhà cao bốn tầng đó trông gần giống với một bệnh viện tâm thần ít được chăm sóc thì đúng hơn. Tường vách này kia chẳng có vôi vữa gì hết, các phòng đều tối om, còn máy móc trang thiết bị này kia trông cổ lỗ sĩ như đồ vật trong một viện bảo tàng. Ông nói: “Ðiều kiện làm việc ở đấy thì chán lắm, ấy vậy mà thành quả về mặt khoa học thì lại đáng ngạc nhiên”.
Ông Wolcott bỏ ra năm ngày theo sát các nhân viên ở đấy để tự mình tận mắt coi xem người ta trị liệu theo “phage therapy” ra làm sao. “Họ có những bộ phận cấy men cao 10 “feet”, chả khác gì các nồi nấu ăn và họ sử dụng chúng để tạo ra hàng triệu liều (“doses”) thuốc hàng năm với giống “phages” trong đó”, ông ta kể lại. Ðiều khiến ông ngạc nhiên hơn cả, ngoài các mặt tang trí phòng ốc trông buồn thảm đó, là cách thức công phu mà mỗi toa thuốc được điều chế theo điều kiện đặc thù cửa từng bệnh nhân. Các giống “Phages” đều được phân ra thành từng chủng loại cụ thể, tức là từng loại khác nhau thì chuyên tấn công từng nhóm vi khuẩn khác nhau. Vì một số các vết thương có thể là môi trường sinh sôi cho hàng trăm loại vi khuẩn khác nhau cho nên các y sĩ làm việc tại đó cấy một mẫu tế bào nơi chỗ bị viêm nhiễm để xác định coi xem thành phần các loại vi khuẩn ở đó ra sao. Bước kế tiếp là tạo nên một hỗn hợp dành cho từng trường hợp viêm nhiễm cá biệt, lắm khi bao gồm cả trăm loại “phages” khác nhau mà người ta lọc lựa tư “kho hàng” của viện nghiên cứu đó với cả nghìn loại như thế.
Trọn một quy trình như thế có khi phải bỏ ra bốn ngày. Còn quá trình trị liệu - thường thì thuốc được truyền qua một đường ống có nhiệm vụ nhỏ giọt từ một cái bao theo kiểu “truyền nước biển” xuống chỗ vết thương của bệnh nhân suốt 24 tiếng một ngày - có thể kéo dài đến hai tuần lễ.
Tuy nghe có phần bất tiện như vậy thế nhưng ít có bệnh nhân nào than phiền. Các kết quả thì thật là ngoạn mục, ông Wolcott cho biết: “Tôi gặp một phụ nữ mắc chứng viêm kinh niên trong lỗ tai. Bà ta trở lại bệnh xá đó để điều trị lần cuối. Họ truyền thuốc cho bà ta, và trong nội một tuần, bà ta hoàn toàn lành bệnh.” Thật vậy, các bản nghiên cứu được ấn hành trong nhiều thập niên vừa qua, căn cứ vào những cuộc thử nghiệm tại Eliava cũng như những nơi khác ở Ðông Âu đã cho thấy rằng phương pháp “phage therapy” có mức độ thành công từ 80 đến 90 phần trăm đối với những chủng loại vi khuẩn có sức đề kháng đối với thuốc trụ sinh như giống Staphylococcus aureus và Escherichia coli. Ngược lại thì nhiều loại trụ sinh lại vô hiệu năng ngay khi được sử dụng để chống lại các loại vi khuẩn gây bệnh đó. Hồi Tháng Sáu năm 2005, một giống vi khuẩn có khả năng kháng cự lại loại trụ sinh imipenem, mới và mạnh nhất, đã gây nguy kịch cho hơn 50 bệnh nhân tại các bệnh viện ở New York City. Trong số những bệnh nhân mà tình trạng viêm nhiễm lan vào trong huyết mạch thì tỷ lệ tử vong là 47 phần trăm.
Với tình hình vi khuẩn đề kháng lại được với các loại trụ sinh đến mức kỷ lục trên toàn thế giới thì phương thức trị liệu bằng “phage therapy” không còn là địa hạt nghiên cứu riêng cho bên các nước Ðông Âu. Công ty kỹ thuật vi sinh Biocontrol bên Anh Quốc năm vừa qua đã tổng kết đợt II về thử nghiệm phương pháp trị liệu theo “Phage therapy” về mặt lâm sàng tại Tâu Âu với những kết quả khiến ai ấy đều phải sửng sốt. Phương hướng trị liệu thử nghiệm đó đã chống lại được loại vi khuẩn Pseudomonas aeruginosa gây ra những trường hợp viêm nhiễm nghiêm trọng đối với phổi và tai và cái giống này thì có sức đề kháng cao đối với trụ sinh.
Các bệnh nhân bị viêm nhiễm nhưng không chữa chạy được bằng trụ sinh và được trị liệu theo “phage therapy” đã thấy các triệu chứng về bệnh tình của mình thuyên giảm đến 50 phần trăm, so với tỷ lệ 20 phần trăm của nhóm không được trị liệu bằng “phage therapy”.
Ông Dan Nelson, một nhà hóa sinh (“biochemist”) tại University of Mary land có mặt tại hội nghị ngày hãng Biocontrol cho công bố kết quả đã phát biểu: “Thực lòng mà nói, tôi choáng váng trước những kết quả đó.”
Ðối với ông Wolcott, người từng chứng kiến cái cảnh hàng trăm bệnh nhân chết hàng năm về những trường hợp viêm nhiễm tưởng chừng như không gì cứu chữa được thì các loại “vi-rút” có tác dụng chữa trị này mà được công khai sử dụng ở trên đất Mỹ này sớm ngày nào thì hay ngày ấy.
“Cần du nhập cấp kỳ phương thuốc trị liệu này. Nó có hiệu quả. Nó là phương pháp trị liệu hoàn toàn tự nhiên. Có lý do gì mà không xịt chất thuốc đó vào cổ họng một đứa trẻ ngay từ bây giờ?”
Sự thực thì phương pháp trị liệu theo “phage therapy” đã có mặt ở xứ này rồi, chỉ có điều là người ta không làm nó theo cái kiểu mà ông Wolcott coi như thực tiễn nhất. Vì góc cạnh kỹ thuật về mặt quy định cho nên các giới sản xuất có thể sử dụng các “phages” vào các loại món ăn được chế biến để ăn liền, nhằm tránh không cho vi khuẩn gây độc hại, thế nhưng các bác sĩ thì lại không thể kê toa sử dụng loại đó cho người bị viêm cổ họng nặng. Theo cơ quan FDA thì khác biệt là ở nơi việc ứng dụng: Cho xịt “phages” vào một món thịt loại “to go” để ăn trưa chẳng hạn thì đấy như thể thêm vào một cái gì đấy cho thức ăn. Còn nếu như đưa nó vào cơ thể một ai đấy đang bị viêm nhiễm thì nó lại trở thành một dược liệu.
Năm 2006, hãng kỹ thuật vi sinh Intralytic lợi dụng các điều lệ ít chặt chẽ hơn đối với các phụ phẩm cho thức ăn để được cơ quan FDA thông qua cho bán loại “phages” dưới dạng thuốc xịt để giết loại vi khuẩn Listeria, một căn nguyên phổ thông gây tình trạng ngộ độc vì thức ăn. Hãng đó cũng đang phát triển nhiều loại chữa trị bằng “phages” dành cho người, và một trong các đối tượng cho việc trị liệu kiểu đó đã được đưa vào quá trình thử nghiệm về mặt lâm sàng, nhờ công đóng góp thúc đẩy của ông BS Wolcott.
Ông Wolcott tiếp xúc với John Vazzana, tổng giám đốc điều hành của Intralytic tại một hội nghị về “phage” ở Texas ba tháng sau khi ông từ Âu Châu trở về. Hai người chuyện trò với nhau hết giờ này sang giờ khác về số phận cam go của các “phages” tại Hoa Kỳ. Khi hội nghị đó kết thúc thì cả hai đã lập ra được một kế hoạch để thuyết phục cơ quan FDA để cho họ làm một cuộc thử nghiệm về mặt lâm sàng. Intralytix sẽ cung cấp các “phages”, còn ông Wolcott sẽ cung cấp bệnh nhân.
Rốt cuộc thì cơ quan FDA cũng đã chấp thuận, với điều kiện là họ phải giới hạn cuộc thử nghiệm với tám nhóm 'phages” đã được hãng Intralytic điều nghiên kỹ lưỡng. Ông Wolcott cấp tốc tuyển mộ 39 bệnh nhân, tất cả đều bị lở loét nơi bắp chân, và sắp xếp để tiến hành làm thử nghiệm trong vòng hai năm. Ðây là việc làm đầu tiên như thế ở phía bên này Ðại Tây Dương.
Mỗi tuần lễ như thế, các người tham gia chương trình của ông Wolcott đều đến bệnh xá và tiếp nhận các “phages” qua một dụng cụ siêu âm thuộc loại cầm tay, tức là một hình thức được cải tiến ở dạng kỹ thuật cao cấp để thay thế cho dạng nhỏ thuốc qua đường dây loại “truyền nước biển” như ở bên Ðông Âu. Dụng cụ này vừa xịt một dung dịch “phages” có chất muối đi theo, vùa tiêu diệt các mô bị nám đen hoặc đã chết, giúp cho các “phages” được truyền sâu vào chỗ vết thương. Cũng như tất cả các cuộc thử nghiệm về mặt lâm sàng khác, chương trình thử nghiệm của ông Wolcott được thiết kế nhằm thẩm định mức độ an toàn của phương pháp trị liệu chứ không nhằm vào kết quả tức thời của nó về mặt hiệu năng. Trong bối cảnh này thì công cuộc khảo sát này đã đem đến những dấu hiệu đầy triển vọng cho tương lai. Không một ai trong số các bệnh nhân tham gia báo cáo là có dấu hiệu phản ứng phụ nghiêm trọng nào hết, thế nhưng mức độ hiệu nghiệm thì đã chẳng mấy khả quan. Gần 70 phần trăm các người tình nguyện tham gia đã có triệu chứng lành bệnh đáng kể sau 24 tuần lễ chữa trị, nhưng con số người không được trị liệu như vậy cũng ghi nhận từng ấy tỷ lệ về mặt kết quả.
Ông Wolcott cũng đã dự trù như thế rồi, và coi sự việc đó như do nơi dung dịch để trị liệu đã không được điều chế để trị chủng loại vi khuẩn nơi những vết thương của các bệnh nhân của ông, như người ta vẫn thường làm bên nước Georgia, và điều đó đã hạn chế mức độ hiệu nghiệm của các “phages” chọn không đúng chủng loại thích hợp.
Và đây là giai đoạn ông Wolcott đi vào ngõ bí. Các giới chức của FDA đã nói với ông rằng nếu ông muốn sử dụng “phages” cho bệnh nhân của mình thì ông phải làm từng cuộc thử nghiệm về mặt lâm sàng riêng rẽ ra cho từng chủng loại “phage” hoặc hỗn hợp các “phages” mà ông ta muốn đưa ra để thử điều trị, y hệt như khi ông ta sử dụng từng loại dược liệu bằng hóa chất theo quy trình về mặt điều lệ thử nghiệm. Nhưng vì mỗi vết thương nơi mỗi bệnh nhân của ông có thể chứa chấp hàng trăm loại vi khuẩn khác nhau cho nên ông ta không thể nào tìm cách thử nghiệm với hàng nghìn hỗn hợp các “phages” để chống lại tất cả các vi khuẩn đó, nhất là một khi còn phải xét đến các mặt phí tổn, khi mà việc thử nghiệm với một dược liệu không thôi thì cũng đã có thể tốn kém đến cả mấy triệu dollars.
“Dân xứ này người ta có cái quyền được nổi khùng lên khi thấy chúng ta có một tình trạng rất khác biệt so với Âu Châu về mặt trị liệu bằng các “phages”, bà Betty Kutter, một nhà nghiên cứu về “phage” ở Evergreen State College phát biểu. “Toàn bộ mội trường về mặt kiểm soát điều hành của chúng ta xưa giờ vẫn là một động lực căn bản kềm chân người ta khi người ta muốn thực hiện một việc gì đấy”.
Một cuộc thử nghiệm đợt II quy tụ từ 100 đến 200 bệnh nhân bị thương tật sẽ tốn kém khoảng 9 triệu Mỹ kim - và nếu như phương thức trị liệu được đem ra thử nghiệm chỉ bao gồm một vài loại “phages” thôi, như trong đợt I, thì e là nó sẽ không có kết quả mỹ mãn đối với các bệnh nhân có vết thương bị gây ra do nhiều nhóm vi khuẩn cùng lúc. Và cứ theo như các điều lệ hiện hành thì ông Vazzana cũng không chắc là ông sẽ tìm ra vồn liến để chi cho cuộc thử nghiệm này.
Thế nhưng các nhà nghiên cứu về “phages” như Ben Burrowes thuộc Texas Tech University Health Sciences Center thì lại có cái nhìn lạc quan. “Ðến một lúc nào đấy thì các ông ty sẽ cho sản xuất các sản phẩm có “phages” trong đó”, ông ta nói thế, “và một khi mà những hãng đầu tiên lọt qua được quy trình để được phép sản xuất thì cơ quan FDA sẽ nới lỏng các quy định của mình đi phần nào”.
Riêng nhà sinh vật học Vincent Fischetti của Rockefeller University thì lại không phải có thái độ chờ đợi hay chần chừ gì. Ông Fischetti tin chắc là hiện đang có một lỗ hổng lớn trong khu vực chăm sóc sức khỏe cho đại chúng, và nới cái lỗ hổng đó lẽ ra phải có những phương thuốc hiệu nghiệm để trị vi khuẩn. Chỉ có điều là ông không biết chắc xem phương thức trị liệu bằng “phages” có phải là cái để lấp cái lỗ hổng vừa nêu hay không mà thôi. Ðối với ông thì Wolcott và các bạn đồng hành đeo đuổi phương pháp “Phage therapy” chẳng qua cũng giống như nhưng người duy trì tình trạng hòa bình nhưng không có chính phủ hậu thuẫn: tất nhiên họ có tâm huyết là cái chắc nhưng rồi ra khó mà thành công đến khi chung cuộc. “Tôi không nghiên cứu về “Phage therapy” đâu, ông ta nhấn mạnh như thế, khi ông hướng dẫn tôi quanh co trong khu nhà thí nghiệm của ông ta ở lầu Sáu mà từ đấy có thể có tầm nhìn bao quát ra khu viện nghiên cứu trong khuôn viên khu đại học ở Manhattan. “Tôi đang ra công nghiên cứu về phương thức trị liệu lấy “phage làm nền tảng”.
Sự phân biệt về danh xưng đó có phần bí hiểm đối với những ai không là những nhà sinh vật học, thế nhưng trong cách suy nghĩ của ông Fischetti thì sự phân biệt đó là then chốt. Trong khi ông Wolcott xem các “phages” như một phát hiện độc đáo về mặt trị liệu thì ông Fischetti lại chỉ coi đấy như một bước chuyển tiếp hướng đến một thế hệ mới với những công cụ chống vi khuẩn hiệu nghiệm hơn. Ông chủ trương là cuộc chiến để vượt qua được hàng rào các điều lệ quy định cũng như các rủi ro phát xuất từ khả năng chuyển hóa của các “phages” khiến cho các công ty sản xuất dược liệu không dám liều mạng xông vào thử thời vận về mặt kinh doanh đối với dạng “thuốc” đó. “Việc điều trị bằng “phages” giỏi lắm cũng sẽ chỉ được thực hiện ở múc độ cá thể chứ không cách gì hơn được”, ông ta nói thế.
Như vậy thì ông ta chọn một giải pháp hoán thế khác, bằng cách lọc con “phage” để trích ra chất tiêu tố - “lysin” - tức là chất “enzim” mà con “phage” dùng để phá vỡ cái màng nơi con vi khuẩn. Ông ta tuyển mộ nhân viên của mình để sắm vai các nhà thăm dò đi thu thập các giống “vi-rút” có khả năng giết vi khuẩn từ những khu đầm lầy, sông ngòi, bất kỳ nơi đâu mà họ có thể phát hiện ra chúng. Ông ta chỉ vào một túi cứt dơi hôi hám trên bục cửa sổ của mình. “Ta có thể lôi đám “phages” ra từ đấy”, ông nói.
Sau khi đã quan sát để thấy tiêu tố (“lysin”) là các “hợp chất tích cực” của giống “phages” thì ông Fischetti nhắm đến việc gom góp chất tiêu tố từ giống đó và dùng các chất tiêu tố đó vào việc chế tạo các được liệu ổn định để chống lại vi khuẩn. Nếu thành công thì ông ta có thể thực hiện được hai việc cùng một lúc mà trước đây ít một ai nghĩ có thể làm được: dùng các mặt thuận lợi của phương tiện trị liệu qua việc sử dụng các “phages” để cứu chữa bệnh nhân mà khỏi phải va vào bức tường của những điều lệ như đám ông Wolcott phải đối đầu.
Trong khi các giống “phages” phải tiến hóa để thích ứng với sự tiến hóa của các vi khuẩn thì các tiêu tố - “lysins” - lại như một công cụ thô sơ có khả năng tiêu diệt hàng loạt chủng loại vi khuẩn, và như vậy là khỏi cần phải tách ra hàng nghìn loại hợp chất để rồi lại phải thử nghiệm như cá nhà khoa học bên Georgia người ta làm. Nhưng cho dù cơ quan FDA có thể nhìn chất “lysin” bằng con mắt thuận lợi hơn so với các “phages” thì vẫn có người nói rằng các enzim cũng có những chỗ sở đoản của chúng. Các tiêu tố lysin chỉ có tác dụng đối với loại vi khuẩn thuộc diện “Gram-positive” như “strep” và “staph”, chứ lại không hiệu nghiệm đối với các vi khuẩn loại “Gram-negative” như E.coli và slmonella - tức một loại vi khuẩn loại “Gram-negative” có một màng bọc bên ngoài mà chất tiêu tố “lysin” không xâm nhập vào lọt. Các “phages” thì ngược lại, chúng có khả năng tấn công cả hai loại vi khuẩn đó. Và khác với phương thức trị liệu thông thường bằng các “phages”, chất enzim có tiêu tố thì lại chưa từng được thử nghiệm về mặt lâm sàng do đó mà tuy có nhiều hứa hẹn đấy thế nhưng vẫn chưa ai biết là trong khung cảnh của một bệnh viện thì kết quả nghiên cứu có dẫn đến thành quả gì không.
Rõ ràng là trừ phi cơ qua FDA quyết tâm xét lại các định chuẩn trong việc cho phép lưu hành loại thực phẩm này hay loại được liệu kia, còn ngoài đấy ra thì phương pháp chữa trị theo “phage therapy” tại Hoa Kỳ sẽ cứ phải ở trong thế chờ một cách vô hạn định. Và tại Lubbock thì cuộc đời của Roy Brillon cũng đã rơi vào tình trạng lấp lửng như vậy. Giống vi-rút trị được vi khuẩn nơi vết thương của Brillon mà ông Wolcott đem từ xứ Georgia về thì quả đã chữa được vết thương nơi chân của ông ta nhưng từ bấy đến nay thì ông ta lại có vấn đề với những cái “van” kiểm soát lượng máu lưu thông trong các mạch máu nơi bắp chân ông ta và cứ thế các chỗ sưng khác lại phát triển. Ông ta giải thích rằng:
“Máu chảy xuống theo các mạch máu của tôi nhưng không lưu thông trở ngược lên được. Các vết sưng teo tóp đi nhưng rồi lại nẩy sinh ở một nơi nào khác trên chân của tôi”.
Ông Wolcott cho biết rằng điều mà ông Brillon cần là một hỗn hợp các “phages” được điều hợp cho khớp với tình trạng nơi vết thương của ông ta. Cho nên rốt cuộc bây giờ lại phải quay trở về với các loại trụ sinh vẫn thường sử dụng. Có đôi lúc thì lũ vi khuẩn kia có vẻ như không đề kháng lại được với các loại trụ sinh đó và vết thương lại có triển vọng lành lại, nhưng có khi lại không được như thế. Ông Brillon vẫn phải băng vết thương của mình với những loại băng hiệu Ace như thể người ta băng vết bỏng. “Nếu không băng bó cho chặt”, ông ta nói,” thì chân lại sưng và bấy giờ các vết lở kia lại xuất hiện”.
Thế nhưng ông ta vẫn không bàn dông dài về các khó khăn, trở ngại. Thay vào đó thì ông ta chỉ mường tượng là một ngày nào đó ông ta sẽ có thể không còn phải bận tâm đến các chỗ bị viêm nhiễm của mình và có thể dành thêm thời gian để đi câu cá hoặc chơi đùa với đám cháu ở gần đấy. Ông ta chỉ nghĩ rằng nếu như có một ai đấy có thể giúp ông ta có được cái ngày tốt lành đó thì ấy là ông Wolcott với đạo quân vi-rút-trị-vi-khuẩn của ông ta. Ông Brillon kết luận: “Ông Wolcott ông ấy rất bực mình khi ông ấy nắm bắt được một cái gì đấy nhưng rồi lại không giải quyết được cho đến nơi đến chốn. Ông ấy nói với tôi: “Tôi sẽ không bao giờ bỏ rơi anh”
(Trang Nguyễn - viết theo tài liệu của “Popular Science”)