Post by vietnam on Jun 18, 2009 2:58:07 GMT -5
Khổng Tử và Sách Lược Nhân Trị
1.Khổng Tử với Quan Niệm Nhân Trị
2.Ðại Học và Trung Dung
3.Mạnh Tử và Tư Tưởng Dân Vi Quý
4.Tuân Tử và Hàn Phi với Tư Tưởng Pháp Chế
5.Lão Tử với Quan Niệm Vô Vi
6.Trang Tử với Chủ Trương Vô Vi Xuất Thế
7.Mặc Tử và Quan Niệm Bác Ái
8.Tôn Dật Tiên với Chủ Nghĩa Tam Dân
9.Chính thư Huyết Hoa của nhà cách mạng Lý Ðông A
--------------------------------------------------------------------------------
(Trích từ Triết Lý Quốc Trị Ðông Phương của Dương Thành Lợi)
Ðối diện với tình trạng loạn ly do chiến tranh triền miên, tấm lòng nhân ái thương dân của Khổng Tử khiến ông phải gầy dựng sách lược quốc trị cấp tiến với mục đích cải tạo xã hội nhằm đạt được quốc thái dân an. Theo Khổng Tử, 'nhân đạo chính vi đại' (đạo người thì chính trị là lớn); vì vậy cho nên chính trường trở thành nơi bậc quân tử áp dụng phương pháp canh tân con người và xã hội theo Khổng giáo để an định quốc gia. Mặc dầu là thời thế loạn lạc không cho người yêu nước nhiều cơ hội an dân định quốc nhưng bậc quân tử vẫn phải cố gắng hành động, thay vì ngồi chờ đợi thời cơ đến tay rồi mới làm; người quân tử biết không thể làm được mà vẫn cứ làm. Chỉ khi loạn lạc mới cần đến sự hy sinh bởi vì khi thiên hạ đã đạt được đạo (an bình) rồi thì bậc quân tử đâu còn cần nỗ lực cải cách (định quốc) làm gì.
'Cái nhanh thành hiệu của đạo người là việc chính trị, cái nhanh thành hiệu của đạo đất là sự nẩy nở cây cối. Ấy là việc chính trị cũng như cây lau cây sậy vậy.' Theo sách lược nhân trị thì hai yếu tố nhân ái và tôn kính là nền tảng của chính trị. Khổng Tử trưởng thành trong xã hội phong kiến (quốc gia hoàn toàn bị các ông hoàng chi phối), và có lẽ vì vậy mà ông không thoát khỏi chiều hướng tôn quân đương thời. Bởi vì xã hội phong kiến chấp nhận tình trạng một người (lãnh tụ) có thể nắm trọn vận mạng quốc gia cho nên Khổng Tử chú trọng vào việc 'trồng người' và sách lược quốc trị của ông nhắm vào việc đào tạo 'con người chính trị' hơn là xây dựng 'hệ thống chính trị' (nhưng ngay cả khi chú trọng vào cơ chế chính trị như nhiều triết gia Tây phương từng cổ xúy, quốc gia vẫn phải tốn rất nhiều công sức để tiêu diệt xu hướng tập trung quyền hành trong tay cá nhân lãnh đạo).
Như đã bàn ở phần trên, Khổng Tử quan tâm đến việc hướng dẫn giai cấp lãnh đạo quốc gia tu thân để biết thương dân và trị nước một cách anh minh. Muốn được quốc thái dân an, lãnh tụ quốc gia phải thi hành đạo Nhân, luôn luôn tu thân và xử sự như bậc quân tử. Khi tham chánh, nhà lãnh đạo trước hết phải có 'chính danh.'
Chủ nghĩa Chính Danh là chánh lộ của sách lược Nhân Trị. Vào thời đại đen tối của Khổng Tử, người dân Trung Hoa đã phải chịu đựng quá nhiều đau khổ bởi loại [bất-] chính trị tàn bạo được bọc bởi lớp bình phong đạo đức giả với cảnh bạo quân được ca ngợi như minh quân, nhà nước phi nhân được tôn xưng là chính quyền. Khổng Tử đưa ra thuyết Chính Danh với hoài bão cải chánh lại tất cả các tiêu chuẩn tốt xấu nhằm hướng dẫn thành phần tham chánh chấm dứt việc sử dụng chính từ hay mỹ ngữ để ngụy biện cho các hành động bất chính.
Lãnh tụ quốc gia phải 'xưng danh đúng với phận (với nghĩa), và khi đã xưng (danh) thì phải làm đúng theo như vậy.' Sau khi đã minh định chính danh thì hành động của lãnh tụ quốc gia phải phản ảnh đúng tinh thần chính danh tiên định, hay các lời tuyên bố ban đầu. 'Nói một đường mà làm một nẻo' là đi sai với chính danh và có thể làm tiêu tan chính danh; do đó bậc quân tử cẩn thận cân nhắc từng lời trong việc xưng danh định phận và cố gắng hành động đúng với chính danh tiên định.
Nhà lãnh đạo phải có chính danh thì mới kêu gọi được sự đáp ứng của mọi người; nếu không có chính danh hay đánh mất đi chính danh vì các hành động sai trái thì khó mà được lòng dân. Khi có chính danh thì mới đạt được 'ngôn thuận' để hành sự, khi không có chính danh thì ngôn từ chỉ là lời ngụy biện không thể tâm phục nhân dân. 'Danh không chính thì nói không xuôi, nói không xuôi thì việc không thành.'
Học giả Hồ Thích tin tưởng rằng chủ nghĩa chính danh là 'điểm quan trọng nhất trong triết học họ Khổng' và suy luận rằng 'chủ nghĩa chính danh của Khổng Tử chỉ muốn ngụ ý phải trái, phân biệt thiện ác, khiến cho mọi người khi thấy 'tên' (danh) thiện tự nhiên sinh lòng yêu thích, thấy 'tên' (danh) ác tự nhiên ghét bỏ.' Lý luận này tương đối chính xác bởi vì phù hợp với chủ trương 'chính giả chính giã' (chấp chánh hay việc chính trị thì phải minh chánh, ngay thẳng) của Khổng Tử. Quân tử phải biết phân biệt phải trái khi định danh hay xưng danh. Kẻ xấu không thể được gọi là người tốt, và bạo quân không thể được tôn trọng như minh quân bởi vì làm như vậy không khác gì ngụy biện làm ố danh, tức là 'danh bất chính.'
Khi quản thống chính sự, nhà trị quốc phải cẩn thận lo trước tính sau, biết dùng người tài giỏi đúng theo sở trường riêng của họ, bỏ qua các lỗi lầm sơ sót nhưng không đáng kể chứ không phải chỉ đòi hỏi những người hoàn bị trước khi giao trách nhiệm. Nhà trị quốc phải định tâm để chế ngự lòng ham muốn thành công nhanh, lòng tham lợi nhỏ bởi vì lòng ham muốn thành công mau sẽ đem đến thất bại, và lòng tham lợi nhỏ sẽ khiến đại sự không thành. Nghệ thuật dùng người của bậc quân tử còn đòi hỏi lãnh đạo quốc gia phải thận trọng suy xét khả năng tài đức của quần thần và bỏ qua sự dèm pha hay lời ca tụng của kẻ khác. 'Nhân dân ghét người nào thì ta phải xét; nhân dân mến người nào thì ta cũng phải xét,' chớ dựa vào sự ghét hay lời khen ngợi của họ mà cho một cá nhân là kém tài hay có đức độ cao bởi vì hiền nhân nhiều khi bị hiểu lầm hoặc thường bị kẻ ác dèm pha.
''Tử Lộ hỏi: 'Thầy sai khiến ba quân thì chọn ai giúp?'
Khổng Tử trả lời: 'Kẻ bắt hổ, lội qua sông lớn, chết không tiếc thân thì ta không chọn theo giúp. Ta chọn người biết đắn đo dè dặt, thích dùng mưu cơ để đạt thành công.''
Lãnh tụ có tài đức thì quốc gia mới được hùng cường, nhân dân mới được ấm no. Tương tự như triết gia Hy Lạp cùng thời là Aristotle hay chính trị gia Burke sau này (Burke xướng ra chủ nghĩa Bảo Thủ ở Âu Châu với ý tưởng chính kinh nghiệm quý báu được tích trữ đã giúp cho nhân loại gầy dựng nên một tổ chức xã hội phức tạp và hoàn mỹ), Khổng Tử đánh giá kinh nghiệm lịch sử rất cao. Theo ông, các thành đạt của tiền nhân trong quá khứ cho nhân loại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Giới hậu sinh phải nghiên cứu kỹ lưỡng hầu rút tỉa kinh nghiệm để áp dụng một cách uyển chuyển trong xã hội đương thời. Do đó trong lãnh vực quốc trị, thuật trị nước của cổ nhân phải được tôn trọng bởi vì thế hệ hậu sinh có thể rút tỉa được từ đó nhiều bài học quý giá.
Theo Khổng Tử, trật tự quốc gia đòi hỏi toàn thể nhân dân đặt thiên tử vào vai trò lãnh đạo tối cao. Nhu cầu đoàn kết quốc gia để tránh thảm trạng chư hầu thôn tính lẫn nhau đem đến vô vàn đau khổ cho nhân dân khiến Khổng Tử chủ trương tôn quân một cách tuyệt đối - thần phục Chu triều. Giống như Machiavelli ở Tây phương - người đưa ra sách lược Ông Hoàng với các thủ đoạn chính trị quỷ quyệt nhằm giúp nhà cầm quyền đạt được mục tiêu thống nhất Ý quốc bằng hành động cụ thể - để hy vọng đạt được quốc thái dân an, Khổng Tử trao trọn quyền hành quốc gia vào trong tay của lãnh tụ (tôn quân quyền); nhưng khác với Machiavelli, ông trao quyền này cho một bậc quân tử thấu hiểu được nghệ thuật nhân trị. Ông Hoàng của Machiavelli là một nhân vật nham hiểm, nhà lãnh đạo của Khổng Tử là bậc anh minh có tài trị nước, có đạo đức, biết tôn trọng lời hứa, biết dùng hiền sĩ, thương dân, can đảm, khiêm tốn, là một thánh nhân không hơn không kém.
Chính trị là làm mọi việc cho minh chánh, lấy minh chánh mà trị người thì ai dám không minh chánh? Làm vua thì phải ra làm vua tức là vua phải xử sự như nhà lãnh đạo quốc gia (quân quân, thần thần). Khi vua, quan, dân không làm tròn trách nhiệm của mình thì quốc gia sẽ bị đại loạn. Khi giới lãnh đạo kém anh minh, quần thần sẽ trở nên quan liêu, bòn rút của dân khiến xã hội trở nên bất an; nhân dân sẽ bị lầm than và bất phục chính quyền khiến quốc gia trở nên xáo trộn. Ðối với thần dân mà dùng công minh để trị thì hiếm ai có thể bất nghĩa với mình; nhưng nếu bất chính với họ thì không thể bắt buộc họ trung chính với mình. Nếu nhà lãnh đạo anh minh thì không ra lệnh người ta cũng làm, nhưng nếu không anh minh thì dẫu có ra lệnh thì cũng không ai theo.
'Vua đối xử với thần đúng lễ, thần đối xử với vua thì giữ lòng trung.' Khi vua xử sự đúng đạo lý, quan tướng phải trung thành với vua, và nhân dân phải thần phục vua. Trong gia đình thì con cái phải nghe lời cha mẹ, khi ra đường thì dân phải tôn trọng phép nước. Vua nhận lãnh quyền lãnh đạo đất nước từ trời (vua là thiên tử hay con trời) cho nên thần dân phải tuân phục vua. Tuy vậy vua cũng không thể ỷ thế thiên tử mà làm điều thất đức bởi vì trời không thân riêng ai mà chỉ giúp người có đức; lòng dân cũng không tầm thường cho nên họ chỉ mến ơn lành. Các hành động lương thiện mặc dầu không giống nhau nhưng sẽ đưa đến bình trị; các hành vi tàn ác mặc dầu không giống nhau nhưng đều khiến loạn quốc.
Trời chỉ giúp cho bậc quân tử có tài đức trị quốc. Thiên mệnh không phải trời trao cho ai thì nhất định là người ấy sẽ giữ được mãi mãi; ai làm điều đạo đức thì giữ được thiên mệnh, còn ai tác quái gây ra tang thương cho dân thì sẽ mất vương quyền. Kẻ vô tài vô đức không thể trường tồn trong vai trò lãnh đạo vì không làm đúng ý trời. Nhưng làm sao biết được ý trời? Ý trời là ý dân cho nên muốn làm vừa ý trời thì phải quản trị quốc sự theo chiều hướng an dân. Vua thay trời hành đạo nhưng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước quốc dân nếu làm phật ý trời, tức là ý dân.
Trời thương dân cho nên dân muốn việc gì trời cũng theo. Vì thế cho nên muốn biết ý trời thì phải tìm hiểu ý của dân vì cái sáng suốt của trời là cái sáng suốt của dân, sự quang minh về việc thiện tránh ác của trời là sự quang minh về việc thiện tránh ác của dân, trời và dân trên dưới thông đạt với nhau; do đó lãnh tụ quốc gia (được xem như là phụ mẫu của dân) phải biết tôn trọng ý dân, tức ý trời.
Nhà trị quốc phải cố gắng bình định đất nước để cho nhân dân được an cư lạc nghiệp nhằm góp phần xây dựng quốc gia phú cường. Trong một đất nước thái hòa, vua và dân tôn trọng lẫn nhau thì dân lấy vua làm tâm, vua lấy dân làm thân thể; tâm mà trung chính thì thân thể thư thái, tâm mà nghiêm túc thì dung mạo cung kính; tâm thích cái gì thì thân thể yên vui cái đó; vua thích việc gì thì dân mến chuộng việc đó; vua sống nhờ dân mà mất cũng vì dân. Vua với dân trên thân dưới như tay chân với ruột lòng, dưới thân trên như con nhỏ đối với mẹ; trên dưới thân nhau như thế cho nên trên có lệnh thì dưới theo, trên thi thố điều gì thì dưới tuân hành; dân mến đức của người trên, kẻ gần thì vui lòng mà phục tùng, người xa thì đến quy phục, đó mới là thế chính trị tài giỏi đúng mức.
Khi nhà trị quốc tài đức quản thống quốc sự một cách anh minh công bằng thì dân sẽ học theo gương sáng của người ấy. Người trên thích điều nhân thì người dưới tranh nhau làm điều nhân; vì thế, lãnh tụ quốc gia phải quang minh, lập chính đạo để dạy dân biết tôn trọng điều nhân, yêu dân như con, và được như vậy thì dân sẽ hết sức làm điều thiện để người trên hài lòng. Người lãnh đạo tự giữ chính đạo thì không ra lệnh mà dân cũng làm theo; nhưng nếu bất chính thì, dẫu có ra lệnh, dân cũng không tuân theo. Chính sách quốc gia không những phải công bằng, có lợi cho dân mà còn cần phải giản dị để dân không bị phiền hà, quan tướng không lợi dụng vào sự thiếu minh bạch để bòn rút của dân; do đó người lãnh đạo quốc gia nên luôn luôn kính cẩn chăm lo quốc sự một cách bình dị và đơn giản, và nếu muốn khiến dân làm việc gì thì phải làm trước, bắt dân khó nhọc việc gì thì phải chịu khó nhọc trước. 'Làm sao để dân trung kính và làm lành?.. Giữ tư cách nghiêm chỉnh thì (dân) tất kính phục, hiếu từ thì (dân) tất trung thành, dùng hiền nhân, giáo dục kẻ vô năng thì (dân) tất làm lành.'
Nếu nhà trị quốc có tà ý, ban hành chính sách hà khắc, không biết thương dân thì nhân dân tất loạn. Dân chúng sẽ xa lìa quốc gia nếu điều kiện cho phép để chạy trốn các chính sách hà khắc. Sách Lễ Ký ở phiên Ðàn Cung Hạ II có ghi là khi thầy trò Khổng Tử đi ngang qua núi Thái Sơn thì gặp một người đàn bà đang khóc lóc thảm thiết bên mộ con. Họ đến hỏi lý do tại sao bà ta khóc thì được cho biết là bà khóc cho con, chồng và cha chồng đã bị cọp núi Thái Sơn bắt ăn thịt. Khổng Tử bèn hỏi tại sao gia đình không dọn đi nơi khác thì được bà thố lộ là: 'Ở đây không có hà chính' (hà chính: sách lược quốc trị hà khắc). Khổng Tử quay sang học trò và nói: 'Hà chính mãnh ư hổ giã' (sách lược quốc trị hà khắc còn ghê gớm hơn cọp).
Khổng Tử không chú trọng nhiều về chiều hướng pháp chế. Ông suy luận rằng chủ trương pháp chế chỉ là hạ sách để trị quốc. Quốc gia không thể không có luật pháp và hình phạt, nhưng bậc lãnh đạo trước hết phải áp dụng phương pháp nhân trị để quản thống quốc sự thì mới mong đạt được an bang tế thế. Theo ông, việc sử dụng luật pháp để trị quốc chỉ có thể làm dân sợ nhưng không thể khiến họ kính nể mà tuân phục một cách tự nhiên; ngược lại, nếu sử dụng nhân đức để trị nước thì sẽ được dân nể phục mà theo. Việc chính trị mà dùng đến hình pháp thì dân có thể tránh được tội nhưng không tự cảm thấy hổ thẹn (để sửa mình tu thân), nhưng nếu biết dùng đến đức mà dạy dân, dùng lễ mà trị dân thì dân không những tự biết sỉ nhục mà còn cố làm điều tốt. 'Muốn cai trị dân thì cần gì dùng đến cách sát nhân? Nếu tự chuộng thiện thì dân sẽ trở nên thiện.' Nếu người cầm quyền không tham dục thì, dẫu có thưởng, dân cũng không trộm cắp.
Về lãnh vực dân sinh, nhà trị quốc phải luôn luôn lưu tâm hai vấn đề quan trọng: (i) giúp cho dân giàu; và (ii) khi dân giàu thì phải giáo dục dân về đạo đức lễ nghĩa. Khi mà dân ít thì ráng làm cho dân số tăng lên nhưng lúc đã có nhiều dân thì phải giúp cho dân giàu bởi vì có thực mới vực được đạo; và khi dân đã no ấm thì phải dạy cho dân luân thường đạo lý. 'Nếu không dạy dân mà đem ra giết thì điều ác đó gọi là ngược, nếu không chăm sóc nhắc nhở mà bắt dân phải thành nhân thì điều ác đó gọi là bạo.' Dân mà không giàu thì quốc gia không hùng cường; dân mà không biết luân lý lễ nghĩa thì quốc gia tất loạn.
Chính sách quốc gia phải chú trọng ba lãnh vực: (i) lo cho dân no ấm; (ii) xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh; và (iii) làm cho dân tin tưởng nơi chính quyền. Khi lo cho dân ấm no thì phải chủ trương lo cho đồng đều để tránh cảnh có người quá nghèo và kẻ giàu xụ. 'Nếu được đồng đều thì không có sự nghèo, đã hòa thuận là không có ít người, đã an thì không có sự khuynh nguy.'
Tuy phải lo cho dân ấm no, chính sách quốc gia phải đặt mục tiêu 'tạo niềm tin nơi dân' trên hết, trên cả việc quốc phòng và sự no ấm của dân. Khi dân đã tin tưởng vào chính quyền thì đó là sức mạnh vô biên giúp cho việc xây dựng quốc gia thành công tương đối dễ dàng; nhưng khi dân không tin vào chính quyền thì dẫu có được no ấm thì họ cũng không phục nhà lãnh đạo, và sức mạnh muôn binh cũng không khiến họ sợ. Nếu tiềm lực quốc gia không cho phép chính quyền thực hiện cả ba mục tiêu trên thì phải bỏ việc quốc phòng để lo cho dân no ấm và 'tạo niềm tin nơi dân;' và nếu cần thì bỏ luôn cả mục tiêu lo cho dân no ấm để giữ vững niềm tin của dân bởi vì 'bỏ' ăn thì chết nhưng xưa nay người ta vẫn chết (có ăn no thì cũng phải chết khi về già), nhưng nếu dân mà không tin thì (chính quyền) không sao đứng vững được'.
Vũ trụ chính trị của Khổng Tử xoay quanh nhà lãnh đạo tài đức biết tu thân, thương dân, và hiểu cả cái đạo của trời đất để biết khi tiến, khi thủ, khi lùi. Nhưng trong xã hội thực tế của nhân loại khó kiếm ra được mẫu người quân tử như vậy. Thực tế cho thấy người cầm quyền dẫu có anh minh bao nhiêu, nếu không bị kiểm soát, dễ sa ngã vào hắc lộ lạm quyền. Khác với triết gia Hy Lạp cùng thời là Plato vốn đã nghĩ tới lưỡi gươm luật pháp kiềm chế lãnh tụ bất tài, Khổng Tử không đưa ra phương pháp kiểm soát quyền lực lãnh tụ mà chỉ mong muốn lãnh tụ quốc gia phải quản thống quốc sự theo ý dân và làm vua thì phải ra làm vua (quân quân, thần thần). 'Trời thương dân cho nên dân muốn việc gì trời cũng theo;' vì vậy, 'vua sống nhờ dân mà mất cũng vì dân.'
Nếu vua vô đạo đức mà không bị luật pháp kiềm chế thì dân có quyền nổi dậy làm cách mạng để lật đổ hay không? Khổng Tử không bàn về vấn đề này rõ ràng. Nhưng có một điều chắn chắn là ông chủ trương tôn vương (tái lập Chu triều mặc dầu Chu vương thực vô tài bất lực trong việc quản trị quốc sự); tuy vậy, vào thời điểm của Khổng Tử, nếu các chư hầu đều thực lòng tôn Chu thì ai cũng lo bình trị trong phạm vi tiểu quốc của họ theo sự sắp xếp từ trước của nhà Chu mà không gây chiến nhằm tranh giành thêm đất đai. Theo Khổng Tử, chủ trương tôn quân sẽ giúp an gia định quốc và nhân dân có thể tránh được được cảnh chiến tranh tương tàn. Nhân loại phải đợi đến sự chào đời của Mạnh Tử với chủ trương Dân Vi Quý thì câu hỏi nêu trên mới được trả lời minh bạch.
1.Khổng Tử với Quan Niệm Nhân Trị
2.Ðại Học và Trung Dung
3.Mạnh Tử và Tư Tưởng Dân Vi Quý
4.Tuân Tử và Hàn Phi với Tư Tưởng Pháp Chế
5.Lão Tử với Quan Niệm Vô Vi
6.Trang Tử với Chủ Trương Vô Vi Xuất Thế
7.Mặc Tử và Quan Niệm Bác Ái
8.Tôn Dật Tiên với Chủ Nghĩa Tam Dân
9.Chính thư Huyết Hoa của nhà cách mạng Lý Ðông A
--------------------------------------------------------------------------------
(Trích từ Triết Lý Quốc Trị Ðông Phương của Dương Thành Lợi)
Ðối diện với tình trạng loạn ly do chiến tranh triền miên, tấm lòng nhân ái thương dân của Khổng Tử khiến ông phải gầy dựng sách lược quốc trị cấp tiến với mục đích cải tạo xã hội nhằm đạt được quốc thái dân an. Theo Khổng Tử, 'nhân đạo chính vi đại' (đạo người thì chính trị là lớn); vì vậy cho nên chính trường trở thành nơi bậc quân tử áp dụng phương pháp canh tân con người và xã hội theo Khổng giáo để an định quốc gia. Mặc dầu là thời thế loạn lạc không cho người yêu nước nhiều cơ hội an dân định quốc nhưng bậc quân tử vẫn phải cố gắng hành động, thay vì ngồi chờ đợi thời cơ đến tay rồi mới làm; người quân tử biết không thể làm được mà vẫn cứ làm. Chỉ khi loạn lạc mới cần đến sự hy sinh bởi vì khi thiên hạ đã đạt được đạo (an bình) rồi thì bậc quân tử đâu còn cần nỗ lực cải cách (định quốc) làm gì.
'Cái nhanh thành hiệu của đạo người là việc chính trị, cái nhanh thành hiệu của đạo đất là sự nẩy nở cây cối. Ấy là việc chính trị cũng như cây lau cây sậy vậy.' Theo sách lược nhân trị thì hai yếu tố nhân ái và tôn kính là nền tảng của chính trị. Khổng Tử trưởng thành trong xã hội phong kiến (quốc gia hoàn toàn bị các ông hoàng chi phối), và có lẽ vì vậy mà ông không thoát khỏi chiều hướng tôn quân đương thời. Bởi vì xã hội phong kiến chấp nhận tình trạng một người (lãnh tụ) có thể nắm trọn vận mạng quốc gia cho nên Khổng Tử chú trọng vào việc 'trồng người' và sách lược quốc trị của ông nhắm vào việc đào tạo 'con người chính trị' hơn là xây dựng 'hệ thống chính trị' (nhưng ngay cả khi chú trọng vào cơ chế chính trị như nhiều triết gia Tây phương từng cổ xúy, quốc gia vẫn phải tốn rất nhiều công sức để tiêu diệt xu hướng tập trung quyền hành trong tay cá nhân lãnh đạo).
Như đã bàn ở phần trên, Khổng Tử quan tâm đến việc hướng dẫn giai cấp lãnh đạo quốc gia tu thân để biết thương dân và trị nước một cách anh minh. Muốn được quốc thái dân an, lãnh tụ quốc gia phải thi hành đạo Nhân, luôn luôn tu thân và xử sự như bậc quân tử. Khi tham chánh, nhà lãnh đạo trước hết phải có 'chính danh.'
Chủ nghĩa Chính Danh là chánh lộ của sách lược Nhân Trị. Vào thời đại đen tối của Khổng Tử, người dân Trung Hoa đã phải chịu đựng quá nhiều đau khổ bởi loại [bất-] chính trị tàn bạo được bọc bởi lớp bình phong đạo đức giả với cảnh bạo quân được ca ngợi như minh quân, nhà nước phi nhân được tôn xưng là chính quyền. Khổng Tử đưa ra thuyết Chính Danh với hoài bão cải chánh lại tất cả các tiêu chuẩn tốt xấu nhằm hướng dẫn thành phần tham chánh chấm dứt việc sử dụng chính từ hay mỹ ngữ để ngụy biện cho các hành động bất chính.
Lãnh tụ quốc gia phải 'xưng danh đúng với phận (với nghĩa), và khi đã xưng (danh) thì phải làm đúng theo như vậy.' Sau khi đã minh định chính danh thì hành động của lãnh tụ quốc gia phải phản ảnh đúng tinh thần chính danh tiên định, hay các lời tuyên bố ban đầu. 'Nói một đường mà làm một nẻo' là đi sai với chính danh và có thể làm tiêu tan chính danh; do đó bậc quân tử cẩn thận cân nhắc từng lời trong việc xưng danh định phận và cố gắng hành động đúng với chính danh tiên định.
Nhà lãnh đạo phải có chính danh thì mới kêu gọi được sự đáp ứng của mọi người; nếu không có chính danh hay đánh mất đi chính danh vì các hành động sai trái thì khó mà được lòng dân. Khi có chính danh thì mới đạt được 'ngôn thuận' để hành sự, khi không có chính danh thì ngôn từ chỉ là lời ngụy biện không thể tâm phục nhân dân. 'Danh không chính thì nói không xuôi, nói không xuôi thì việc không thành.'
Học giả Hồ Thích tin tưởng rằng chủ nghĩa chính danh là 'điểm quan trọng nhất trong triết học họ Khổng' và suy luận rằng 'chủ nghĩa chính danh của Khổng Tử chỉ muốn ngụ ý phải trái, phân biệt thiện ác, khiến cho mọi người khi thấy 'tên' (danh) thiện tự nhiên sinh lòng yêu thích, thấy 'tên' (danh) ác tự nhiên ghét bỏ.' Lý luận này tương đối chính xác bởi vì phù hợp với chủ trương 'chính giả chính giã' (chấp chánh hay việc chính trị thì phải minh chánh, ngay thẳng) của Khổng Tử. Quân tử phải biết phân biệt phải trái khi định danh hay xưng danh. Kẻ xấu không thể được gọi là người tốt, và bạo quân không thể được tôn trọng như minh quân bởi vì làm như vậy không khác gì ngụy biện làm ố danh, tức là 'danh bất chính.'
Khi quản thống chính sự, nhà trị quốc phải cẩn thận lo trước tính sau, biết dùng người tài giỏi đúng theo sở trường riêng của họ, bỏ qua các lỗi lầm sơ sót nhưng không đáng kể chứ không phải chỉ đòi hỏi những người hoàn bị trước khi giao trách nhiệm. Nhà trị quốc phải định tâm để chế ngự lòng ham muốn thành công nhanh, lòng tham lợi nhỏ bởi vì lòng ham muốn thành công mau sẽ đem đến thất bại, và lòng tham lợi nhỏ sẽ khiến đại sự không thành. Nghệ thuật dùng người của bậc quân tử còn đòi hỏi lãnh đạo quốc gia phải thận trọng suy xét khả năng tài đức của quần thần và bỏ qua sự dèm pha hay lời ca tụng của kẻ khác. 'Nhân dân ghét người nào thì ta phải xét; nhân dân mến người nào thì ta cũng phải xét,' chớ dựa vào sự ghét hay lời khen ngợi của họ mà cho một cá nhân là kém tài hay có đức độ cao bởi vì hiền nhân nhiều khi bị hiểu lầm hoặc thường bị kẻ ác dèm pha.
''Tử Lộ hỏi: 'Thầy sai khiến ba quân thì chọn ai giúp?'
Khổng Tử trả lời: 'Kẻ bắt hổ, lội qua sông lớn, chết không tiếc thân thì ta không chọn theo giúp. Ta chọn người biết đắn đo dè dặt, thích dùng mưu cơ để đạt thành công.''
Lãnh tụ có tài đức thì quốc gia mới được hùng cường, nhân dân mới được ấm no. Tương tự như triết gia Hy Lạp cùng thời là Aristotle hay chính trị gia Burke sau này (Burke xướng ra chủ nghĩa Bảo Thủ ở Âu Châu với ý tưởng chính kinh nghiệm quý báu được tích trữ đã giúp cho nhân loại gầy dựng nên một tổ chức xã hội phức tạp và hoàn mỹ), Khổng Tử đánh giá kinh nghiệm lịch sử rất cao. Theo ông, các thành đạt của tiền nhân trong quá khứ cho nhân loại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Giới hậu sinh phải nghiên cứu kỹ lưỡng hầu rút tỉa kinh nghiệm để áp dụng một cách uyển chuyển trong xã hội đương thời. Do đó trong lãnh vực quốc trị, thuật trị nước của cổ nhân phải được tôn trọng bởi vì thế hệ hậu sinh có thể rút tỉa được từ đó nhiều bài học quý giá.
Theo Khổng Tử, trật tự quốc gia đòi hỏi toàn thể nhân dân đặt thiên tử vào vai trò lãnh đạo tối cao. Nhu cầu đoàn kết quốc gia để tránh thảm trạng chư hầu thôn tính lẫn nhau đem đến vô vàn đau khổ cho nhân dân khiến Khổng Tử chủ trương tôn quân một cách tuyệt đối - thần phục Chu triều. Giống như Machiavelli ở Tây phương - người đưa ra sách lược Ông Hoàng với các thủ đoạn chính trị quỷ quyệt nhằm giúp nhà cầm quyền đạt được mục tiêu thống nhất Ý quốc bằng hành động cụ thể - để hy vọng đạt được quốc thái dân an, Khổng Tử trao trọn quyền hành quốc gia vào trong tay của lãnh tụ (tôn quân quyền); nhưng khác với Machiavelli, ông trao quyền này cho một bậc quân tử thấu hiểu được nghệ thuật nhân trị. Ông Hoàng của Machiavelli là một nhân vật nham hiểm, nhà lãnh đạo của Khổng Tử là bậc anh minh có tài trị nước, có đạo đức, biết tôn trọng lời hứa, biết dùng hiền sĩ, thương dân, can đảm, khiêm tốn, là một thánh nhân không hơn không kém.
Chính trị là làm mọi việc cho minh chánh, lấy minh chánh mà trị người thì ai dám không minh chánh? Làm vua thì phải ra làm vua tức là vua phải xử sự như nhà lãnh đạo quốc gia (quân quân, thần thần). Khi vua, quan, dân không làm tròn trách nhiệm của mình thì quốc gia sẽ bị đại loạn. Khi giới lãnh đạo kém anh minh, quần thần sẽ trở nên quan liêu, bòn rút của dân khiến xã hội trở nên bất an; nhân dân sẽ bị lầm than và bất phục chính quyền khiến quốc gia trở nên xáo trộn. Ðối với thần dân mà dùng công minh để trị thì hiếm ai có thể bất nghĩa với mình; nhưng nếu bất chính với họ thì không thể bắt buộc họ trung chính với mình. Nếu nhà lãnh đạo anh minh thì không ra lệnh người ta cũng làm, nhưng nếu không anh minh thì dẫu có ra lệnh thì cũng không ai theo.
'Vua đối xử với thần đúng lễ, thần đối xử với vua thì giữ lòng trung.' Khi vua xử sự đúng đạo lý, quan tướng phải trung thành với vua, và nhân dân phải thần phục vua. Trong gia đình thì con cái phải nghe lời cha mẹ, khi ra đường thì dân phải tôn trọng phép nước. Vua nhận lãnh quyền lãnh đạo đất nước từ trời (vua là thiên tử hay con trời) cho nên thần dân phải tuân phục vua. Tuy vậy vua cũng không thể ỷ thế thiên tử mà làm điều thất đức bởi vì trời không thân riêng ai mà chỉ giúp người có đức; lòng dân cũng không tầm thường cho nên họ chỉ mến ơn lành. Các hành động lương thiện mặc dầu không giống nhau nhưng sẽ đưa đến bình trị; các hành vi tàn ác mặc dầu không giống nhau nhưng đều khiến loạn quốc.
Trời chỉ giúp cho bậc quân tử có tài đức trị quốc. Thiên mệnh không phải trời trao cho ai thì nhất định là người ấy sẽ giữ được mãi mãi; ai làm điều đạo đức thì giữ được thiên mệnh, còn ai tác quái gây ra tang thương cho dân thì sẽ mất vương quyền. Kẻ vô tài vô đức không thể trường tồn trong vai trò lãnh đạo vì không làm đúng ý trời. Nhưng làm sao biết được ý trời? Ý trời là ý dân cho nên muốn làm vừa ý trời thì phải quản trị quốc sự theo chiều hướng an dân. Vua thay trời hành đạo nhưng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước quốc dân nếu làm phật ý trời, tức là ý dân.
Trời thương dân cho nên dân muốn việc gì trời cũng theo. Vì thế cho nên muốn biết ý trời thì phải tìm hiểu ý của dân vì cái sáng suốt của trời là cái sáng suốt của dân, sự quang minh về việc thiện tránh ác của trời là sự quang minh về việc thiện tránh ác của dân, trời và dân trên dưới thông đạt với nhau; do đó lãnh tụ quốc gia (được xem như là phụ mẫu của dân) phải biết tôn trọng ý dân, tức ý trời.
Nhà trị quốc phải cố gắng bình định đất nước để cho nhân dân được an cư lạc nghiệp nhằm góp phần xây dựng quốc gia phú cường. Trong một đất nước thái hòa, vua và dân tôn trọng lẫn nhau thì dân lấy vua làm tâm, vua lấy dân làm thân thể; tâm mà trung chính thì thân thể thư thái, tâm mà nghiêm túc thì dung mạo cung kính; tâm thích cái gì thì thân thể yên vui cái đó; vua thích việc gì thì dân mến chuộng việc đó; vua sống nhờ dân mà mất cũng vì dân. Vua với dân trên thân dưới như tay chân với ruột lòng, dưới thân trên như con nhỏ đối với mẹ; trên dưới thân nhau như thế cho nên trên có lệnh thì dưới theo, trên thi thố điều gì thì dưới tuân hành; dân mến đức của người trên, kẻ gần thì vui lòng mà phục tùng, người xa thì đến quy phục, đó mới là thế chính trị tài giỏi đúng mức.
Khi nhà trị quốc tài đức quản thống quốc sự một cách anh minh công bằng thì dân sẽ học theo gương sáng của người ấy. Người trên thích điều nhân thì người dưới tranh nhau làm điều nhân; vì thế, lãnh tụ quốc gia phải quang minh, lập chính đạo để dạy dân biết tôn trọng điều nhân, yêu dân như con, và được như vậy thì dân sẽ hết sức làm điều thiện để người trên hài lòng. Người lãnh đạo tự giữ chính đạo thì không ra lệnh mà dân cũng làm theo; nhưng nếu bất chính thì, dẫu có ra lệnh, dân cũng không tuân theo. Chính sách quốc gia không những phải công bằng, có lợi cho dân mà còn cần phải giản dị để dân không bị phiền hà, quan tướng không lợi dụng vào sự thiếu minh bạch để bòn rút của dân; do đó người lãnh đạo quốc gia nên luôn luôn kính cẩn chăm lo quốc sự một cách bình dị và đơn giản, và nếu muốn khiến dân làm việc gì thì phải làm trước, bắt dân khó nhọc việc gì thì phải chịu khó nhọc trước. 'Làm sao để dân trung kính và làm lành?.. Giữ tư cách nghiêm chỉnh thì (dân) tất kính phục, hiếu từ thì (dân) tất trung thành, dùng hiền nhân, giáo dục kẻ vô năng thì (dân) tất làm lành.'
Nếu nhà trị quốc có tà ý, ban hành chính sách hà khắc, không biết thương dân thì nhân dân tất loạn. Dân chúng sẽ xa lìa quốc gia nếu điều kiện cho phép để chạy trốn các chính sách hà khắc. Sách Lễ Ký ở phiên Ðàn Cung Hạ II có ghi là khi thầy trò Khổng Tử đi ngang qua núi Thái Sơn thì gặp một người đàn bà đang khóc lóc thảm thiết bên mộ con. Họ đến hỏi lý do tại sao bà ta khóc thì được cho biết là bà khóc cho con, chồng và cha chồng đã bị cọp núi Thái Sơn bắt ăn thịt. Khổng Tử bèn hỏi tại sao gia đình không dọn đi nơi khác thì được bà thố lộ là: 'Ở đây không có hà chính' (hà chính: sách lược quốc trị hà khắc). Khổng Tử quay sang học trò và nói: 'Hà chính mãnh ư hổ giã' (sách lược quốc trị hà khắc còn ghê gớm hơn cọp).
Khổng Tử không chú trọng nhiều về chiều hướng pháp chế. Ông suy luận rằng chủ trương pháp chế chỉ là hạ sách để trị quốc. Quốc gia không thể không có luật pháp và hình phạt, nhưng bậc lãnh đạo trước hết phải áp dụng phương pháp nhân trị để quản thống quốc sự thì mới mong đạt được an bang tế thế. Theo ông, việc sử dụng luật pháp để trị quốc chỉ có thể làm dân sợ nhưng không thể khiến họ kính nể mà tuân phục một cách tự nhiên; ngược lại, nếu sử dụng nhân đức để trị nước thì sẽ được dân nể phục mà theo. Việc chính trị mà dùng đến hình pháp thì dân có thể tránh được tội nhưng không tự cảm thấy hổ thẹn (để sửa mình tu thân), nhưng nếu biết dùng đến đức mà dạy dân, dùng lễ mà trị dân thì dân không những tự biết sỉ nhục mà còn cố làm điều tốt. 'Muốn cai trị dân thì cần gì dùng đến cách sát nhân? Nếu tự chuộng thiện thì dân sẽ trở nên thiện.' Nếu người cầm quyền không tham dục thì, dẫu có thưởng, dân cũng không trộm cắp.
Về lãnh vực dân sinh, nhà trị quốc phải luôn luôn lưu tâm hai vấn đề quan trọng: (i) giúp cho dân giàu; và (ii) khi dân giàu thì phải giáo dục dân về đạo đức lễ nghĩa. Khi mà dân ít thì ráng làm cho dân số tăng lên nhưng lúc đã có nhiều dân thì phải giúp cho dân giàu bởi vì có thực mới vực được đạo; và khi dân đã no ấm thì phải dạy cho dân luân thường đạo lý. 'Nếu không dạy dân mà đem ra giết thì điều ác đó gọi là ngược, nếu không chăm sóc nhắc nhở mà bắt dân phải thành nhân thì điều ác đó gọi là bạo.' Dân mà không giàu thì quốc gia không hùng cường; dân mà không biết luân lý lễ nghĩa thì quốc gia tất loạn.
Chính sách quốc gia phải chú trọng ba lãnh vực: (i) lo cho dân no ấm; (ii) xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh; và (iii) làm cho dân tin tưởng nơi chính quyền. Khi lo cho dân ấm no thì phải chủ trương lo cho đồng đều để tránh cảnh có người quá nghèo và kẻ giàu xụ. 'Nếu được đồng đều thì không có sự nghèo, đã hòa thuận là không có ít người, đã an thì không có sự khuynh nguy.'
Tuy phải lo cho dân ấm no, chính sách quốc gia phải đặt mục tiêu 'tạo niềm tin nơi dân' trên hết, trên cả việc quốc phòng và sự no ấm của dân. Khi dân đã tin tưởng vào chính quyền thì đó là sức mạnh vô biên giúp cho việc xây dựng quốc gia thành công tương đối dễ dàng; nhưng khi dân không tin vào chính quyền thì dẫu có được no ấm thì họ cũng không phục nhà lãnh đạo, và sức mạnh muôn binh cũng không khiến họ sợ. Nếu tiềm lực quốc gia không cho phép chính quyền thực hiện cả ba mục tiêu trên thì phải bỏ việc quốc phòng để lo cho dân no ấm và 'tạo niềm tin nơi dân;' và nếu cần thì bỏ luôn cả mục tiêu lo cho dân no ấm để giữ vững niềm tin của dân bởi vì 'bỏ' ăn thì chết nhưng xưa nay người ta vẫn chết (có ăn no thì cũng phải chết khi về già), nhưng nếu dân mà không tin thì (chính quyền) không sao đứng vững được'.
Vũ trụ chính trị của Khổng Tử xoay quanh nhà lãnh đạo tài đức biết tu thân, thương dân, và hiểu cả cái đạo của trời đất để biết khi tiến, khi thủ, khi lùi. Nhưng trong xã hội thực tế của nhân loại khó kiếm ra được mẫu người quân tử như vậy. Thực tế cho thấy người cầm quyền dẫu có anh minh bao nhiêu, nếu không bị kiểm soát, dễ sa ngã vào hắc lộ lạm quyền. Khác với triết gia Hy Lạp cùng thời là Plato vốn đã nghĩ tới lưỡi gươm luật pháp kiềm chế lãnh tụ bất tài, Khổng Tử không đưa ra phương pháp kiểm soát quyền lực lãnh tụ mà chỉ mong muốn lãnh tụ quốc gia phải quản thống quốc sự theo ý dân và làm vua thì phải ra làm vua (quân quân, thần thần). 'Trời thương dân cho nên dân muốn việc gì trời cũng theo;' vì vậy, 'vua sống nhờ dân mà mất cũng vì dân.'
Nếu vua vô đạo đức mà không bị luật pháp kiềm chế thì dân có quyền nổi dậy làm cách mạng để lật đổ hay không? Khổng Tử không bàn về vấn đề này rõ ràng. Nhưng có một điều chắn chắn là ông chủ trương tôn vương (tái lập Chu triều mặc dầu Chu vương thực vô tài bất lực trong việc quản trị quốc sự); tuy vậy, vào thời điểm của Khổng Tử, nếu các chư hầu đều thực lòng tôn Chu thì ai cũng lo bình trị trong phạm vi tiểu quốc của họ theo sự sắp xếp từ trước của nhà Chu mà không gây chiến nhằm tranh giành thêm đất đai. Theo Khổng Tử, chủ trương tôn quân sẽ giúp an gia định quốc và nhân dân có thể tránh được được cảnh chiến tranh tương tàn. Nhân loại phải đợi đến sự chào đời của Mạnh Tử với chủ trương Dân Vi Quý thì câu hỏi nêu trên mới được trả lời minh bạch.