Post by vietnam on Jun 17, 2009 16:47:17 GMT -5
PHẠM XUÂN ẨN
nhìn từ bên ngoài
Nguyên tác:The spy who loved us
Tác giả: THOMAS A. BASS
Không chỉ có đồng nghiệp Mỹ quý mến ông Phạm Xuân Ẩn mà cuộc đời và sự nghiệp của ông Ẩn còn thu hút những người Mỹ không phải là đồng nghiệp, trong đó có giáo sư Thomas A. Bass dạy sử học và văn học, Trường Đại học California. Ông Bass đã đến nhà, trò chuyện và viết một bài báo dài trên 10.000 từ về nhà báo, nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (báo Người Lao Động ngày 13.9.2007)
Thiếu tướng tình báo, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa và mất ngày 20-9-2006 tại TP.Hồ Chí Minh, hưởng thọ 80 tuổi.
Chúng ta đã từng xem phim, xem sách báo trong nước viết về ông. Ở đây chúng tôi muốn giới thiệu một cái nhìn mới từ bên ngoài Việt Nam về Phạm Xuân Ẩn.
Người phóng viên cuối cùng của báo Time đánh điện về trụ sở chính của báo ở New York vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 một thông tin có nội dung như sau, “ Đây là Phạm xuân Ẩn . Tất cả những phóng viên Mỹ đều được di tản bởi tình trạng khẩn cấp. Văn phòng báo Time hiện nay được điều hành bởi Phạm xuân Ẩn.” Ẩn tường trình thêm 3 bản tin từ Sài Gòn trong khi quân đội Bắc Việt khép chặt vòng vây Sài Gòn. Rồi tin tức điện về bị cắt đứt. Trong suốt năm sau, Ẩn hành xử như là phóng viên duy nhất của báo Time trong giai đoạn hậu chiến tranh Việt Nam, báo đăng những bài của Ẩn như “Cuộc chia tay tàn nhẫn cuối cùng “ (The Last Grim Goodbye), “Những người chiến thắng: Là những người làm nên lịch sử“ (Winners: The Men who made the history) và “Sài gòn: Một tuần yên tĩnh dưới chế độ Cộng sản “ (Saigon: A calm week under communism “ ). Ẩn là một trong số 39 phóng viên ngoại quốc làm việc cho báo Time khi văn phòng ở Sài Gòn bị đóng cửa và tên của ông ta bị xóa bỏ trên danh sách ban biên tập của báo vào ngày 10 tháng 5 năm 1976.
Được công nhận là một chuyên viên phân tích chính trị tài giỏi lỗi lạc, Ẩn bắt đầu làm việc trong thập niên 1960 cho hãng thông tấn Reuters và rồi cho báo Herald Tribune ở New York cùng báo The Christine Science Monitor, và cuối cùng làm phóng viên cho báo Time trong vòng 11 năm. Phạm xuân Ẩn dường như làm tốt công việc của mình trong việc trao đổi tin tức với những đồng nghiệp ở tiệm café Givral nằm trên đường Catinat cũ. Ở đây ông ta điều động chuyện cung cấp tin tức vào mỗi buổi trưa và được coi như nguồn tin chính xác nhất ở Sài Gòn. Ông ta được phong là “ Thủ lãnh của đội quân báo chí Việt Nam “ và “ Tiếng nói của đài phát thanh Catinat “ – tin đồn cứ thế mà lan xa ra. Với bản tính khôi hài hóm hỉnh cố hữu, ông thích những cái tên khác dành cho ông như “ Bác sĩ về sinh lý “, “ Giáo sư đảo chánh”, “ Tư lệnh huấn luyện chó quân sự” (một ám chỉ đến con chó bẹc-giê thường đi theo ông), “ Tiến sĩ về cách mạng” hay đơn giản: “Tướng Givral”.
Giờ đây chúng ta biết đó chỉ là một nửa công việc mà Ẩn đã làm với chức vụ phóng viên, chứ không phải là nửa phần kia. Ẩn đã gửi cho Bắc Việt Nam đều đặn những tài liệu quân sự bí mật và những thông điệp được viết bằng một thứ mực không nhìn thấy, nhưng tài liệu ông đánh máy gửi đi, hiện giờ nằm trong văn khố tình báo của Việt Nam và chỉ được chúng ta biết đến nhờ những bảo sao tường trình, sẽ được đánh giá một cách không nghi ngờ gì nữa là kiệt tác của ông ta. Ông dùng một máy đánh chữ hiệu Hermes do cơ quan tình báo Bắc Việt cung cấp để đánh những bản tường trình, có khi dài cả trăm trang vào ban đêm. Được chụp lại và chuyên chở dưới dạng những phim ảnh chưa rửa, những bản tường trình của Ẩn được giao liên đưa đến vùng địa đạo Củ chi, nơi được dùng làm Tổng hành dinh dưới đất của Cộng sản. Mỗi vài tuần, từ năm 1952, đích thân Ẩn rời văn phòng ở Sài Gòn,lái chừng 20 dặm về phía Tây Bắc về phía rừng Hố Bò, rồi lẩn vào những đường hầm để nghiên cứu về chiến thuật cho phe Cộng sản. Từ Củ chi, tài liệu của Ẩn được quân hộ tống đưa đến núi Bà Đen ở biên giới Campuchea, rồi tới Nam Vang, từ đây được đưa bằng máy bay đến Guangzhou (Quảng Đông) ở phía Nam Trung Hoa, và rồi được chuyển nhanh về cho bộ chính trị ở Bắc Việt Nam. Bản tường trình sống động và chi tiết cho đến nỗi nghe nói Tướng Giáp và ông Hồ chí Minh xoa tay và hân hoan đón nhận từ Trần văn Trung (bí danh của Phạm Xuân Ẩn). Ông Giáp và ông Hồ sung sướng kêu lên“ Chúng ta đang ở trong phòng chiến tranh của Mỹ !” . Một số người trong bộ chính trị sau này cho biết như thế.
Khi Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản, Ẩn cũng như những phóng viên đồng nghiệp của ông, hy vọng là sẽ được di tản đi Mỹ. Cơ quan tình báo Việt Nam có chương trình tiếp tục công việc ở Mỹ. Bộ chính trị biết rằng sẽ có một giai đoạn cay đắng của sự vận động chính trị trong đó Mỹ tiến hành những chiến dịch quân sự bí mật và cấm vận đối với Việt Nam. Còn ai báo cáo tốt hơn Phạm xuân Ẩn về những dự tính của Mỹ? Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, vợ của Ẩn và bốn đứa con được máy bay bốc đi ra khỏi Việt Nam và tái định cư ở Washington, D.C. Ẩn nóng lòng chờ đợi chỉ thị để thi hành, rồi lời truyền đến từ Bộ chính trị miền Bắc cho biết là ông không được rời khỏi nước.
&
Ẩn được phong làm Anh Hùng của quân đội võ trang nhân dân, được tặng thưởng 4 huy chương quân đội,và được thăng chức lên cấp bậc thiếu tướng. Ông bị gửi đi trại cải tạo (thực ra là đi chỉnh huấn-ND) và cấm gặp khách phương Tây. Gia đình ông được đem trở lại Việt Nam sau một năm ra đi. Vấn đề của Phạm xuân Ẩn, dưới cái nhìn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là ông yêu nước Mỹ, người Mỹ và những giá trị dân chủ, và tính khách quan trong báo chí. Ông xem Mỹ như là một kẻ thù ngẫu nhiên vốn sẽ trở lại để thành một người bạn khi nhân dân ông giành được độc lập. Ẩn là loại người Việt Nam im lặng, một nhân vật đại diện có thời là một người làm cách mạng cả cuộc đời và là một người ngưỡng mộ nồng nhiệt nước Mỹ. Ông nói ông không bao giờ nói dối với ai, ông đưa những phân tích chính trị giống nhau cho báo Time cũng như đưa cho Hồ chí Minh. Ông là một con người bị giằng xé bởi sự chính trực tuyệt đối, một người sống như một người dối trá nhưng luôn luôn nói sự thật.
David Halberstam nói, “ Câu chuyện của Ẩn làm tôi sực nhớ ngay đến Graham Greene “ . Davis Halberstam vốn là bạn của Ẩn khi ông làm phóng viên báo Time ở Việt Nam. “ Nó đề cập đến tất cả những câu hỏi căn bản : Trung thành là gì? Yêu nước là gì? sự thật là gì? Anh là ai khi anh nói ra những sự thật đó? “ Ông nói tiếp, “ Có một sự mâu thuẫn trong con người Ẩn mà chúng ta hầu như khó tưởng tượng được. Nhìn lại, tôi thấy ông là người bị chặt đứt ngay ở giữa.”
Trong cuốn sách xuất bản năm 1965 nói về Việt Nam, “ Sự làm nên vũng lầy “ (The making of a quagmire) , Halberstam diễn tả Ẩn như là một người chủ chốt của “ một mạng lưới tình báo tuy nhỏ nhưng rất hữu hiệu” trong giới ký giả và nhà văn. Ông nói Ẩn có những đường dây tiếp xúc về quân sự rất tốt trong nước.” Giờ đây Halberstam biết câu chuyện của Ẩn, liệu ông có thái độ hằn học với Ẩn không? Ông trả lời, “ Ồ, không” Ông nói lên ý kiến của hầu hết những đồng nghiệp cũ của Ẩn, “ Đó là một câu chuyện đầy những kích thích tò mò, khói và gương, nhưng tôi vẫn nghĩ tốt về Ẩn. Tôi không bao giờ có cảm giác bị phản bội bởi Ẩn. Ông ta phải đối diện với chuyện là người Việt Nam trong một giai đoạn nguy kịch trong lịch sử, đó là thời kỳ không có gì ngoài sự phản bội đầy tràn trong không gian.
&
Thành phố Hồ chí Minh – hay vẫn thường được gọi là Sài Gòn – là một nơi thuần túy thương mại. Những xe đẩy và những xe bán hàng rong nối đuôi nhau để bán tất cả mọi thứ, từ cháo đến CD, những đường phố vang lên inh ỏi tiếng xe máy Trung quốc. Khói bay mù mịt đến nỗi những người đàn bà xinh đẹp của Sài Gòn bắt đầu dùng khẩu trang để che mặt. Cậu thanh niên tên Việt, ngồi phía sau chiếc xe máy Honda chở tôi quanh thành phố này, nói, “ Chúng tôi tất cả đã trở thành người Hồi giáo rồi !”
Để đến nhà của Ẩn – một cái villa ở quận 3, một vùng đông đúc dân cư gần ga xe lửa – chúng tôi băng ngang một đoạn đường cắt đầy những tiệm sửa xe và đến một con đường chuyên bán cá nhiệt đới, trong đó bao gồm thứ cá đá Thái Lan mà Ẩn ưa thích. Tôi ấn tay vào cái chuông treo trên cánh cửa sắt màu xanh của nhà ông. Những con chó bắt đầu sủa, và tôi nhìn hé qua tấm lưới sắt để thấy Ẩn lê bước xuống tầng cấp. Đầu tóc rối, ông mặc một cái áo sọc ngắn tay với cây bút máy trong bọc, quần xám lòng thòng,và đôi giày sandal bằng cao su. Ông hụt hơi khi đến nhưng mỉm cười, và chào đón tôi rồi bắt tay bằng đầu những ngón tay. Ông mới bị nhập viện vì lá phổi hư, đó có lẽ là kết quả của một đời hút thuốc Lucky Strikes, nhưng ông tướng Givral, dù ở tuổi 78, khi ông cười nhăn răng toe toét thì ông vẫn có nét tinh quái như thuở nào.
&
Lần cuối tôi thăm Ẩn vào đầu thập niên 90 trong lúc viết một cuốn sách về trẻ Mỹ lai – là những trẻ con của lính Mỹ và những người yêu Việt Nam. Khi sách được xuất bản, tôi gửi tặng ông một bản, và tôi còn gửi cho ông nhiều sách khác khi có bạn bè chung của ông và tôi thăm viếng Việt Nam. Ẩn biết tôi thích thú muốn nghe câu chuyện của ông. Ông tiếp đãi khách thăm nồng hậu, đó là những người khách được phép thăm ông sau khi Việt Nam thi hành chính sách Đổi Mới, đó là một dạng của chính sách đổi mới Perestroika của Liên xô vào những năm cuối của thập niên 1980. Ông bỏ ra hàng giờ để giải thích lịch sử và văn hóa Việt Nam. Nhưng có một đề tài ông im lặng : cuộc đời ông là một viên gián điệp. Dường như ông là loại người bí hiểm cho đến cuối, có thể là do tính trung thành với bạn bè hay sợ chính phủ trả thù. Dù sao vào tháng giêng năm 2004, tôi nhận được một thông điệp cho biết cuối cùng ông có thể nói chuyện với tôi, không dưới hình thức phỏng vấn nghiêm túc mà là những cuộc đối thoại thân mật giữa bạn bè. Chuyện này bắt đầu vào Tết ta và tiếp tục sau đó vài tuần lễ vào đầu mùa mưa khoảng tháng 5 ( Tôi gặp Ẩn lại thêm vài ngày vào tháng 3 năm 2005.)
Ẩn dẫn tôi đi ra vườn, đó là một khoảng đất tươi tốt sum sê đầy những cây khế và dâu. Nó tỏa đầy hương thơm từ cây hoa đại điểm với màu của cây mơ và hoa lan đang trổ bông. Có con chim ưng và 3 con gà đá của An nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Chúng tôi dừng ở giữa vườn để ngắm nghía với vẻ thích thú cái tượng chó làm bằng sành. Đó là một trong những con chó bẹc-giê yêu quí của Ẩn. Ẩn nói ông học cách dùng chó trong nghề gián điệp từ một viên chức CIA là Đại tá Edward Lansdale – là nhân vật tưởng tượng của nhà văn Graham Greene trong tiểu thuyết “ Người Mỹ trầm lặng “ (The quiet American). An nói thêm, “ Tôi huấn luyện con chó để nó có thể báo cho tôi biết là cảnh sát đang lùng sục nhà ai đó, dù cách xa cả dặm. Nó là một điệp viên giỏi .”
Bà Thu Nhàn vợ Ẩn đang làm việc trước nhà, bà dùng một cây chổi ngắn để quét cổng. Bà là một phụ nữ dễ thương và mái tóc búi sau lưng. Bà nhỏ thua An mười tuổi, bà đang bận lau chùi quét dọn nhà để đón khách thăm viếng rộn rịp nhân dịp Tết, trong đó có cô con gái hiện đang sống ở California. Treo trên cổng và từ những cọc dọc theo đường đi là những chuồng nuôi chim của Ẩn trong đó có những loại chim như chim hét, vàng anh, ác là, bạch yến, và nhiều loại chim hót khác. Một con chim An độ màu xanh có cái mỏ vàng cất tiếng nói, “ Ông ơi, có điện thoại gọi ông! “ Con chim bắt chước tiếng nói của cháu ông An, đứa cháu này hiện đang sống chung với 3 người con trai lớn của ông.
Chúng tôi tháo giày và bước vào một căn phòng lớn vẫn được thường dùng làm nơi làm việc và thư viện của Ẩn, cũng như phòng tiếp khách và phòng ăn. Những ngăn bằng kiếng được sắp thành hàng ở phía tường xa để chứa những sách của ông. Một tranh thủy mạc Trung Hoa treo trên cái trường kỷ màu xanh và những ghế. Phía dưới những cửa sổ mở là một cái thùng nước chứa cá được dùng như một thành phần vật liệu thứ ba tạo nên chuồng thú của Ẩn. Ẩn nói, “ Chó thì trung thành. Chim luôn nhảy nhót loanh quanh trong chuồng, giữ vẻ bận rộn. Cá dạy cho ta biết câm miệng. Không may thay trong khi tôi nằm bệnh viện thì đa số cá của tôi chết .”
Căn phòng có phần thay đổi kể từ cuộc viếng thăm lần trước của tôi. Trên một hốc tường gần cửa chính, có đặt một cái bàn giấy của Ẩn, tủ đựng giấy tờ cùng đống sách báo cao đến trần nhà, có thêm một cái đàn Dương cầm của con trai Ẩn đặt ở đó. Một lát sau, tôi khám phá ra những gì xảy đến cho phòng của Ẩn khi ông và tôi đi ngang qua bàn thờ gia đình và ra ngoài băng ngang qua nhà bếp đến phía đường xe đi ở phía sau căn nhà. Ẩn nói, “ Đây là chỗ vợ tôi quăng tất cả những giấy tờ của tôi.” . Ông chỉ vào hai cái hộc tủ màu xám đựng hồ sơ và một cái bàn giấy chứa đầy những tài liệu vàng ố. Tất cả được che chở bảo vệ từ môi trường bên ngoài bởi một cái mái bằng plastic bé nhỏ.
Khi chúng tôi nhìn chằm chằm vào đống giấy chất chồng nằm trên lối đi, Ẩn nói pha trò, “ Vợ tôi nói với tôi là đã đến lúc dọn phòng cho thế hệ trẻ hơn, nhưng tôi chưa chết mà . Không có chỗ nào cho tôi đi cả. Địa ngục được dành cho những tên điếm đàng, lừa đảo, bọn này ở Việt Nam bây giờ nhiều lắm, đầy rẫy khắp mọi nơi.”
Ẩn có đôi tai dài lòng thòng, cái trán cao vuông vắn, mái tóc ngắn đen dày, và cặp mắt nâu sống động. Mắt trái của ông hơi lớn hơn mắt phải, giống như ông đang đồng thời cùng một lúc dùng nhãn quang dài và ngắn để quan sát những vấn đề của thế giới. Những bức ảnh chụp ông hồi thập niên 1950 cho thấy ông bận comlê sát người, áo trắng và quần đen, Ẩn giống như một trong những thanh niên dễ thương, gọn ghẽ tham gia vào Hội sinh viên đại học và sành điệu về chè chén. Ông ấy cao hơn một người Việt Nam trung bình, là một võ sĩ thích đánh lộn và bơi lội, sau khi thi rớt hai năm liền, ông có thể trở thành một thứ du đãng anh chị. Ông không muốn nói nhiều về bản thân, ông nói – Có quá nhiều thứ để nhớ . Thật là khó. Và dài dòng quá. Tôi lại già rồi.”. Rồi ngả người về phía trước, ông bắt đầu nói về bản thân ông, nhắc lại từng chi tiết và thời gian những chuyện xảy ra cách đây 50 năm. Ông khoa những ngón tay dài nhợt nhạt vì tuổi tác già nua. Ông tạo dựng khoảng không trước mặt ông như là một trái cầu mềm nhão, thỉnh thoảng lại đấm vào nó. Ông chia những nhận định của mình về giềng mối tam cương ngũ thường của Khổng giáo hay vẽ một đường vòng lượn thể hiện một trong những nữ thần, mà ông ta cho rằng sự thành công trong đời ông là do sự ban phước che chở của những nữ thần đó.
Ẩn có thể nói hàng giờ về những biến cố thế giới, chỉ ra những sự tương đồng song song, như trường hợp Việt Nam và Iraq (ông nói có những kỹ thuật được phát triển đầu tiên ở Á châu và sau đó đem tới sa mạc) hay đánh giá ngành điệp báo của thế giới (“Người Mỹ là bậc thầy trong việc thâu lượm tin tức tình báo, nhưng họ không biết làm gì với nó”)
&
Phạm xuân Ẩn tuổi con mèo, sinh giờ sửu, vào ngày 12 tháng 9 năm 1927 ở Bệnh viện tâm trí Biên Hòa, 20 dặm về phía Đông Bắc Sài Gòn. Vào lúc đó, bệnh viện này là cơ sở y khoa duy nhất ở Nam kỳ mở ra phục vụ cho người Việt Nam. Là con trai đầu của một viên chức hành chánh cao cấp, một thành phần có giáo dục trong nền hành chánh thuộc địa, An có cái vinh dự nhận được giấy khai sinh của nhà bảo hộ thuộc địa Pháp.
Dòng họ ông vốn bắt nguồn từ Hải Dương, được coi là trái tim của Bắc Việt Nam, là một vùng đông đúc dân cư ở vùng châu thổ sông Hồng, nằm giữa Hà Nội và bờ biển, ông cố của Ẩn là một người thợ bạc, được triều đình nhà Nguyễn gọi vào Huế , Trung phần, làm những huy chương. Ông nội Ẩn được thăng chức trong giới quan lại để trở thành thầy giáo và giám đốc một trường sơ cấp dành cho nữ sinh, mang một trong những mề đay vàng đó trên ngực . Có tấm ảnh chụp lại hình đó được để ở vị trí trung tâm trên bàn thờ gia đình. Ông được nhà vua trao một mề đay bằng kim loại to bằng cánh hoa Tulip gọi là Kim Khánh, đã nói lên ông giữ một chức vụ tương đương với một bộ trưởng trong chính phủ. Sau đó Ẩn chỉ cho tôi coi một tấm ảnh của ông hồi còn bé đeo cái huy chương kim loại này trước ngực. Tôi hỏi ông còn giữ cái huy chương này không? Ông trả lời, “ Nó đã được gửi cho Hồ chí Minh nhân tuần lễ vàng”. Ý ông muốn nói đến chuyện ông Hồ dùng vàng hối lộ cho đám quân Tàu chiếm đóng năm 1945 để thuyết phục chúng rút ra khỏi Bắc Việt Nam sau Thế chiến hai.
&
Cha của Ẩn được huấn luyện thành một kỹ sư tại Đại học Hà Nội, làm việc thăm dò địa dư, thiết lập những đường ranh đất đai và hồ sơ thuế ở biên giới phía Nam Việt Nam. Ông xây dựng đường ở Sài Gòn và kênh rạch chạy xuyên qua rừng U minh, dọc theo vịnh Thái Lan. Trong lúc đi đo đạc ở Cambốt, ông gặp mẹ Ẩn, là một người nữa di cư từ miền Bắc. Bà là một người cần cù, siêng năng, trình độ học vấn lớp 2 giúp bà đọc và viết. Công việc của một người thăm dò địa chất thời thuộc địa làm việc ở vùng hoang dã miền Nam bao gồm cả chuyện điều động những nông dân bị bắt lính mang những dây xích băng ngang qua những vùng đầm lầy sông Cửu Long và xây dựng những tháp canh trong rừng để thiết lập những đường ranh nhìn thấy được. Ẩn nói, “ Khi anh đi thăm dò địa chất và xây dựng đường phố, kênh rạch, anh thấy những người dân nghèo Việt Nam ráng làm thêm để sống. Anh thấy hệ thống bóc lột lao động, đánh đập và nhiều điều hành hạ khác của người Pháp. Cách duy nhất chống lại những sự ngược đãi hành hạ đó là phải chiến đấu giành độc lập. Người Mỹ đã làm tương tự như thế vào năm 1776. Gia đình tôi luôn có tấm lòng yêu nước mong muốn đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Việt Nam.”
Trong thời thơ ấu, Ẩn sống trên một chiếc thuyền tam bản ở trong rừng tràm ở phía Nam Việt, rồi Ẩn bị thổi bay ra khỏi thuyền và gần chết đuối. Ông được gửi về ông bà nội ở Huế , rồi lại bị gửi về Nam khi bà nội qua đời, và gửi ra Bắc lại khi ông thi rớt lớp 3. Cha ông tách ông ra khỏi anh em và đày ông về ở dưới làng Truồi quê mùa, với mục đích cho ông thấy sự khổ cực của nông dân sẽ làm cho ông sợ mà cố gắng học nhiều hơn. Thay vào đó, Ẩn chỉ thích trốn học đi chơi quanh vùng quê này. Khi ông thi rớt lần nữa, ông bị cha ông dùng roi đánh và tống cổ về Sài gòn để có chương trình giáo dục nghiêm khắc hơn dành cho ông.
Ẩn yêu mến ngay Sài Gòn, lúc ấy là một tiền đồn thuộc địa chậm chạp bao quanh bởi những đồn điền cao su. Ông bỏ ra hàng giờ để đi dọc theo sông Sài Gòn, đu đưa trên những cây đa rồi nhảy ùm xuống nước. Ông làm bạn với những công nhân ở xưởng đóng tàu Ba Son, họ cho ông những đồng tiền đẹp để chơi. Ông đi xe điện đến Chợ Lớn là quận của người Hoa, rồi đi về rạp chiếu bóng nằm gần cầu ở Dakao. Ở đây ông xem tất cả những phim Johnny Weissmuler đóng vai Tarzan đu dây trong rừng. An nói về những phim này như sau, “ Đó là một giấc mơ đẹp về tự do trong rừng. Tôi nghĩ dưới chế độ Cộng sản tôi sẽ sống như Tarzan. Tôi hướng giấc mơ này vào cuộc cách mạng.”
Ẩn kêu lên, “ Hãy nhìn Tarzan! Anh ta có gì? Chỉ có cái khố quấn ngang lưng. Đó là chủ nghĩa Cộng sản ở trạng thái nguyên thủy, một cảnh điền viên thôn dã của Rousseau. Đó là thứ triết học Cộng sản thời trung học mà Ẩn thâu lượm được từ những sách gửi đến cho học sinh thuộc địa bởi Đảng Lao Động Pháp. Ông nói, “ Vâng, tôi là người Cộng sản. Chủ nghĩa Cộng sản là một lý thuyết rất đẹp và nhân bản. Sự dạy dỗ về Thượng đế, Đấng sáng tạo cũng như thế. Cộng sản dạy người ta thương yêu nhau, chứ không giết nhau. Cách duy nhất để có thể làm được điều này là mọi người trở thành anh em, vốn mất cả triệu năm. Đó là một chuyện không tưởng, nhưng nó đẹp .”
nhìn từ bên ngoài
Nguyên tác:The spy who loved us
Tác giả: THOMAS A. BASS
Không chỉ có đồng nghiệp Mỹ quý mến ông Phạm Xuân Ẩn mà cuộc đời và sự nghiệp của ông Ẩn còn thu hút những người Mỹ không phải là đồng nghiệp, trong đó có giáo sư Thomas A. Bass dạy sử học và văn học, Trường Đại học California. Ông Bass đã đến nhà, trò chuyện và viết một bài báo dài trên 10.000 từ về nhà báo, nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (báo Người Lao Động ngày 13.9.2007)
Thiếu tướng tình báo, Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Phạm Xuân Ẩn sinh ngày 12-9-1927 tại Biên Hòa và mất ngày 20-9-2006 tại TP.Hồ Chí Minh, hưởng thọ 80 tuổi.
Chúng ta đã từng xem phim, xem sách báo trong nước viết về ông. Ở đây chúng tôi muốn giới thiệu một cái nhìn mới từ bên ngoài Việt Nam về Phạm Xuân Ẩn.
Người phóng viên cuối cùng của báo Time đánh điện về trụ sở chính của báo ở New York vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 một thông tin có nội dung như sau, “ Đây là Phạm xuân Ẩn . Tất cả những phóng viên Mỹ đều được di tản bởi tình trạng khẩn cấp. Văn phòng báo Time hiện nay được điều hành bởi Phạm xuân Ẩn.” Ẩn tường trình thêm 3 bản tin từ Sài Gòn trong khi quân đội Bắc Việt khép chặt vòng vây Sài Gòn. Rồi tin tức điện về bị cắt đứt. Trong suốt năm sau, Ẩn hành xử như là phóng viên duy nhất của báo Time trong giai đoạn hậu chiến tranh Việt Nam, báo đăng những bài của Ẩn như “Cuộc chia tay tàn nhẫn cuối cùng “ (The Last Grim Goodbye), “Những người chiến thắng: Là những người làm nên lịch sử“ (Winners: The Men who made the history) và “Sài gòn: Một tuần yên tĩnh dưới chế độ Cộng sản “ (Saigon: A calm week under communism “ ). Ẩn là một trong số 39 phóng viên ngoại quốc làm việc cho báo Time khi văn phòng ở Sài Gòn bị đóng cửa và tên của ông ta bị xóa bỏ trên danh sách ban biên tập của báo vào ngày 10 tháng 5 năm 1976.
Được công nhận là một chuyên viên phân tích chính trị tài giỏi lỗi lạc, Ẩn bắt đầu làm việc trong thập niên 1960 cho hãng thông tấn Reuters và rồi cho báo Herald Tribune ở New York cùng báo The Christine Science Monitor, và cuối cùng làm phóng viên cho báo Time trong vòng 11 năm. Phạm xuân Ẩn dường như làm tốt công việc của mình trong việc trao đổi tin tức với những đồng nghiệp ở tiệm café Givral nằm trên đường Catinat cũ. Ở đây ông ta điều động chuyện cung cấp tin tức vào mỗi buổi trưa và được coi như nguồn tin chính xác nhất ở Sài Gòn. Ông ta được phong là “ Thủ lãnh của đội quân báo chí Việt Nam “ và “ Tiếng nói của đài phát thanh Catinat “ – tin đồn cứ thế mà lan xa ra. Với bản tính khôi hài hóm hỉnh cố hữu, ông thích những cái tên khác dành cho ông như “ Bác sĩ về sinh lý “, “ Giáo sư đảo chánh”, “ Tư lệnh huấn luyện chó quân sự” (một ám chỉ đến con chó bẹc-giê thường đi theo ông), “ Tiến sĩ về cách mạng” hay đơn giản: “Tướng Givral”.
Giờ đây chúng ta biết đó chỉ là một nửa công việc mà Ẩn đã làm với chức vụ phóng viên, chứ không phải là nửa phần kia. Ẩn đã gửi cho Bắc Việt Nam đều đặn những tài liệu quân sự bí mật và những thông điệp được viết bằng một thứ mực không nhìn thấy, nhưng tài liệu ông đánh máy gửi đi, hiện giờ nằm trong văn khố tình báo của Việt Nam và chỉ được chúng ta biết đến nhờ những bảo sao tường trình, sẽ được đánh giá một cách không nghi ngờ gì nữa là kiệt tác của ông ta. Ông dùng một máy đánh chữ hiệu Hermes do cơ quan tình báo Bắc Việt cung cấp để đánh những bản tường trình, có khi dài cả trăm trang vào ban đêm. Được chụp lại và chuyên chở dưới dạng những phim ảnh chưa rửa, những bản tường trình của Ẩn được giao liên đưa đến vùng địa đạo Củ chi, nơi được dùng làm Tổng hành dinh dưới đất của Cộng sản. Mỗi vài tuần, từ năm 1952, đích thân Ẩn rời văn phòng ở Sài Gòn,lái chừng 20 dặm về phía Tây Bắc về phía rừng Hố Bò, rồi lẩn vào những đường hầm để nghiên cứu về chiến thuật cho phe Cộng sản. Từ Củ chi, tài liệu của Ẩn được quân hộ tống đưa đến núi Bà Đen ở biên giới Campuchea, rồi tới Nam Vang, từ đây được đưa bằng máy bay đến Guangzhou (Quảng Đông) ở phía Nam Trung Hoa, và rồi được chuyển nhanh về cho bộ chính trị ở Bắc Việt Nam. Bản tường trình sống động và chi tiết cho đến nỗi nghe nói Tướng Giáp và ông Hồ chí Minh xoa tay và hân hoan đón nhận từ Trần văn Trung (bí danh của Phạm Xuân Ẩn). Ông Giáp và ông Hồ sung sướng kêu lên“ Chúng ta đang ở trong phòng chiến tranh của Mỹ !” . Một số người trong bộ chính trị sau này cho biết như thế.
Khi Sài Gòn rơi vào tay Cộng sản, Ẩn cũng như những phóng viên đồng nghiệp của ông, hy vọng là sẽ được di tản đi Mỹ. Cơ quan tình báo Việt Nam có chương trình tiếp tục công việc ở Mỹ. Bộ chính trị biết rằng sẽ có một giai đoạn cay đắng của sự vận động chính trị trong đó Mỹ tiến hành những chiến dịch quân sự bí mật và cấm vận đối với Việt Nam. Còn ai báo cáo tốt hơn Phạm xuân Ẩn về những dự tính của Mỹ? Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến, vợ của Ẩn và bốn đứa con được máy bay bốc đi ra khỏi Việt Nam và tái định cư ở Washington, D.C. Ẩn nóng lòng chờ đợi chỉ thị để thi hành, rồi lời truyền đến từ Bộ chính trị miền Bắc cho biết là ông không được rời khỏi nước.
&
Ẩn được phong làm Anh Hùng của quân đội võ trang nhân dân, được tặng thưởng 4 huy chương quân đội,và được thăng chức lên cấp bậc thiếu tướng. Ông bị gửi đi trại cải tạo (thực ra là đi chỉnh huấn-ND) và cấm gặp khách phương Tây. Gia đình ông được đem trở lại Việt Nam sau một năm ra đi. Vấn đề của Phạm xuân Ẩn, dưới cái nhìn của Đảng Cộng sản Việt Nam, là ông yêu nước Mỹ, người Mỹ và những giá trị dân chủ, và tính khách quan trong báo chí. Ông xem Mỹ như là một kẻ thù ngẫu nhiên vốn sẽ trở lại để thành một người bạn khi nhân dân ông giành được độc lập. Ẩn là loại người Việt Nam im lặng, một nhân vật đại diện có thời là một người làm cách mạng cả cuộc đời và là một người ngưỡng mộ nồng nhiệt nước Mỹ. Ông nói ông không bao giờ nói dối với ai, ông đưa những phân tích chính trị giống nhau cho báo Time cũng như đưa cho Hồ chí Minh. Ông là một con người bị giằng xé bởi sự chính trực tuyệt đối, một người sống như một người dối trá nhưng luôn luôn nói sự thật.
David Halberstam nói, “ Câu chuyện của Ẩn làm tôi sực nhớ ngay đến Graham Greene “ . Davis Halberstam vốn là bạn của Ẩn khi ông làm phóng viên báo Time ở Việt Nam. “ Nó đề cập đến tất cả những câu hỏi căn bản : Trung thành là gì? Yêu nước là gì? sự thật là gì? Anh là ai khi anh nói ra những sự thật đó? “ Ông nói tiếp, “ Có một sự mâu thuẫn trong con người Ẩn mà chúng ta hầu như khó tưởng tượng được. Nhìn lại, tôi thấy ông là người bị chặt đứt ngay ở giữa.”
Trong cuốn sách xuất bản năm 1965 nói về Việt Nam, “ Sự làm nên vũng lầy “ (The making of a quagmire) , Halberstam diễn tả Ẩn như là một người chủ chốt của “ một mạng lưới tình báo tuy nhỏ nhưng rất hữu hiệu” trong giới ký giả và nhà văn. Ông nói Ẩn có những đường dây tiếp xúc về quân sự rất tốt trong nước.” Giờ đây Halberstam biết câu chuyện của Ẩn, liệu ông có thái độ hằn học với Ẩn không? Ông trả lời, “ Ồ, không” Ông nói lên ý kiến của hầu hết những đồng nghiệp cũ của Ẩn, “ Đó là một câu chuyện đầy những kích thích tò mò, khói và gương, nhưng tôi vẫn nghĩ tốt về Ẩn. Tôi không bao giờ có cảm giác bị phản bội bởi Ẩn. Ông ta phải đối diện với chuyện là người Việt Nam trong một giai đoạn nguy kịch trong lịch sử, đó là thời kỳ không có gì ngoài sự phản bội đầy tràn trong không gian.
&
Thành phố Hồ chí Minh – hay vẫn thường được gọi là Sài Gòn – là một nơi thuần túy thương mại. Những xe đẩy và những xe bán hàng rong nối đuôi nhau để bán tất cả mọi thứ, từ cháo đến CD, những đường phố vang lên inh ỏi tiếng xe máy Trung quốc. Khói bay mù mịt đến nỗi những người đàn bà xinh đẹp của Sài Gòn bắt đầu dùng khẩu trang để che mặt. Cậu thanh niên tên Việt, ngồi phía sau chiếc xe máy Honda chở tôi quanh thành phố này, nói, “ Chúng tôi tất cả đã trở thành người Hồi giáo rồi !”
Để đến nhà của Ẩn – một cái villa ở quận 3, một vùng đông đúc dân cư gần ga xe lửa – chúng tôi băng ngang một đoạn đường cắt đầy những tiệm sửa xe và đến một con đường chuyên bán cá nhiệt đới, trong đó bao gồm thứ cá đá Thái Lan mà Ẩn ưa thích. Tôi ấn tay vào cái chuông treo trên cánh cửa sắt màu xanh của nhà ông. Những con chó bắt đầu sủa, và tôi nhìn hé qua tấm lưới sắt để thấy Ẩn lê bước xuống tầng cấp. Đầu tóc rối, ông mặc một cái áo sọc ngắn tay với cây bút máy trong bọc, quần xám lòng thòng,và đôi giày sandal bằng cao su. Ông hụt hơi khi đến nhưng mỉm cười, và chào đón tôi rồi bắt tay bằng đầu những ngón tay. Ông mới bị nhập viện vì lá phổi hư, đó có lẽ là kết quả của một đời hút thuốc Lucky Strikes, nhưng ông tướng Givral, dù ở tuổi 78, khi ông cười nhăn răng toe toét thì ông vẫn có nét tinh quái như thuở nào.
&
Lần cuối tôi thăm Ẩn vào đầu thập niên 90 trong lúc viết một cuốn sách về trẻ Mỹ lai – là những trẻ con của lính Mỹ và những người yêu Việt Nam. Khi sách được xuất bản, tôi gửi tặng ông một bản, và tôi còn gửi cho ông nhiều sách khác khi có bạn bè chung của ông và tôi thăm viếng Việt Nam. Ẩn biết tôi thích thú muốn nghe câu chuyện của ông. Ông tiếp đãi khách thăm nồng hậu, đó là những người khách được phép thăm ông sau khi Việt Nam thi hành chính sách Đổi Mới, đó là một dạng của chính sách đổi mới Perestroika của Liên xô vào những năm cuối của thập niên 1980. Ông bỏ ra hàng giờ để giải thích lịch sử và văn hóa Việt Nam. Nhưng có một đề tài ông im lặng : cuộc đời ông là một viên gián điệp. Dường như ông là loại người bí hiểm cho đến cuối, có thể là do tính trung thành với bạn bè hay sợ chính phủ trả thù. Dù sao vào tháng giêng năm 2004, tôi nhận được một thông điệp cho biết cuối cùng ông có thể nói chuyện với tôi, không dưới hình thức phỏng vấn nghiêm túc mà là những cuộc đối thoại thân mật giữa bạn bè. Chuyện này bắt đầu vào Tết ta và tiếp tục sau đó vài tuần lễ vào đầu mùa mưa khoảng tháng 5 ( Tôi gặp Ẩn lại thêm vài ngày vào tháng 3 năm 2005.)
Ẩn dẫn tôi đi ra vườn, đó là một khoảng đất tươi tốt sum sê đầy những cây khế và dâu. Nó tỏa đầy hương thơm từ cây hoa đại điểm với màu của cây mơ và hoa lan đang trổ bông. Có con chim ưng và 3 con gà đá của An nhìn chằm chằm vào chúng tôi. Chúng tôi dừng ở giữa vườn để ngắm nghía với vẻ thích thú cái tượng chó làm bằng sành. Đó là một trong những con chó bẹc-giê yêu quí của Ẩn. Ẩn nói ông học cách dùng chó trong nghề gián điệp từ một viên chức CIA là Đại tá Edward Lansdale – là nhân vật tưởng tượng của nhà văn Graham Greene trong tiểu thuyết “ Người Mỹ trầm lặng “ (The quiet American). An nói thêm, “ Tôi huấn luyện con chó để nó có thể báo cho tôi biết là cảnh sát đang lùng sục nhà ai đó, dù cách xa cả dặm. Nó là một điệp viên giỏi .”
Bà Thu Nhàn vợ Ẩn đang làm việc trước nhà, bà dùng một cây chổi ngắn để quét cổng. Bà là một phụ nữ dễ thương và mái tóc búi sau lưng. Bà nhỏ thua An mười tuổi, bà đang bận lau chùi quét dọn nhà để đón khách thăm viếng rộn rịp nhân dịp Tết, trong đó có cô con gái hiện đang sống ở California. Treo trên cổng và từ những cọc dọc theo đường đi là những chuồng nuôi chim của Ẩn trong đó có những loại chim như chim hét, vàng anh, ác là, bạch yến, và nhiều loại chim hót khác. Một con chim An độ màu xanh có cái mỏ vàng cất tiếng nói, “ Ông ơi, có điện thoại gọi ông! “ Con chim bắt chước tiếng nói của cháu ông An, đứa cháu này hiện đang sống chung với 3 người con trai lớn của ông.
Chúng tôi tháo giày và bước vào một căn phòng lớn vẫn được thường dùng làm nơi làm việc và thư viện của Ẩn, cũng như phòng tiếp khách và phòng ăn. Những ngăn bằng kiếng được sắp thành hàng ở phía tường xa để chứa những sách của ông. Một tranh thủy mạc Trung Hoa treo trên cái trường kỷ màu xanh và những ghế. Phía dưới những cửa sổ mở là một cái thùng nước chứa cá được dùng như một thành phần vật liệu thứ ba tạo nên chuồng thú của Ẩn. Ẩn nói, “ Chó thì trung thành. Chim luôn nhảy nhót loanh quanh trong chuồng, giữ vẻ bận rộn. Cá dạy cho ta biết câm miệng. Không may thay trong khi tôi nằm bệnh viện thì đa số cá của tôi chết .”
Căn phòng có phần thay đổi kể từ cuộc viếng thăm lần trước của tôi. Trên một hốc tường gần cửa chính, có đặt một cái bàn giấy của Ẩn, tủ đựng giấy tờ cùng đống sách báo cao đến trần nhà, có thêm một cái đàn Dương cầm của con trai Ẩn đặt ở đó. Một lát sau, tôi khám phá ra những gì xảy đến cho phòng của Ẩn khi ông và tôi đi ngang qua bàn thờ gia đình và ra ngoài băng ngang qua nhà bếp đến phía đường xe đi ở phía sau căn nhà. Ẩn nói, “ Đây là chỗ vợ tôi quăng tất cả những giấy tờ của tôi.” . Ông chỉ vào hai cái hộc tủ màu xám đựng hồ sơ và một cái bàn giấy chứa đầy những tài liệu vàng ố. Tất cả được che chở bảo vệ từ môi trường bên ngoài bởi một cái mái bằng plastic bé nhỏ.
Khi chúng tôi nhìn chằm chằm vào đống giấy chất chồng nằm trên lối đi, Ẩn nói pha trò, “ Vợ tôi nói với tôi là đã đến lúc dọn phòng cho thế hệ trẻ hơn, nhưng tôi chưa chết mà . Không có chỗ nào cho tôi đi cả. Địa ngục được dành cho những tên điếm đàng, lừa đảo, bọn này ở Việt Nam bây giờ nhiều lắm, đầy rẫy khắp mọi nơi.”
Ẩn có đôi tai dài lòng thòng, cái trán cao vuông vắn, mái tóc ngắn đen dày, và cặp mắt nâu sống động. Mắt trái của ông hơi lớn hơn mắt phải, giống như ông đang đồng thời cùng một lúc dùng nhãn quang dài và ngắn để quan sát những vấn đề của thế giới. Những bức ảnh chụp ông hồi thập niên 1950 cho thấy ông bận comlê sát người, áo trắng và quần đen, Ẩn giống như một trong những thanh niên dễ thương, gọn ghẽ tham gia vào Hội sinh viên đại học và sành điệu về chè chén. Ông ấy cao hơn một người Việt Nam trung bình, là một võ sĩ thích đánh lộn và bơi lội, sau khi thi rớt hai năm liền, ông có thể trở thành một thứ du đãng anh chị. Ông không muốn nói nhiều về bản thân, ông nói – Có quá nhiều thứ để nhớ . Thật là khó. Và dài dòng quá. Tôi lại già rồi.”. Rồi ngả người về phía trước, ông bắt đầu nói về bản thân ông, nhắc lại từng chi tiết và thời gian những chuyện xảy ra cách đây 50 năm. Ông khoa những ngón tay dài nhợt nhạt vì tuổi tác già nua. Ông tạo dựng khoảng không trước mặt ông như là một trái cầu mềm nhão, thỉnh thoảng lại đấm vào nó. Ông chia những nhận định của mình về giềng mối tam cương ngũ thường của Khổng giáo hay vẽ một đường vòng lượn thể hiện một trong những nữ thần, mà ông ta cho rằng sự thành công trong đời ông là do sự ban phước che chở của những nữ thần đó.
Ẩn có thể nói hàng giờ về những biến cố thế giới, chỉ ra những sự tương đồng song song, như trường hợp Việt Nam và Iraq (ông nói có những kỹ thuật được phát triển đầu tiên ở Á châu và sau đó đem tới sa mạc) hay đánh giá ngành điệp báo của thế giới (“Người Mỹ là bậc thầy trong việc thâu lượm tin tức tình báo, nhưng họ không biết làm gì với nó”)
&
Phạm xuân Ẩn tuổi con mèo, sinh giờ sửu, vào ngày 12 tháng 9 năm 1927 ở Bệnh viện tâm trí Biên Hòa, 20 dặm về phía Đông Bắc Sài Gòn. Vào lúc đó, bệnh viện này là cơ sở y khoa duy nhất ở Nam kỳ mở ra phục vụ cho người Việt Nam. Là con trai đầu của một viên chức hành chánh cao cấp, một thành phần có giáo dục trong nền hành chánh thuộc địa, An có cái vinh dự nhận được giấy khai sinh của nhà bảo hộ thuộc địa Pháp.
Dòng họ ông vốn bắt nguồn từ Hải Dương, được coi là trái tim của Bắc Việt Nam, là một vùng đông đúc dân cư ở vùng châu thổ sông Hồng, nằm giữa Hà Nội và bờ biển, ông cố của Ẩn là một người thợ bạc, được triều đình nhà Nguyễn gọi vào Huế , Trung phần, làm những huy chương. Ông nội Ẩn được thăng chức trong giới quan lại để trở thành thầy giáo và giám đốc một trường sơ cấp dành cho nữ sinh, mang một trong những mề đay vàng đó trên ngực . Có tấm ảnh chụp lại hình đó được để ở vị trí trung tâm trên bàn thờ gia đình. Ông được nhà vua trao một mề đay bằng kim loại to bằng cánh hoa Tulip gọi là Kim Khánh, đã nói lên ông giữ một chức vụ tương đương với một bộ trưởng trong chính phủ. Sau đó Ẩn chỉ cho tôi coi một tấm ảnh của ông hồi còn bé đeo cái huy chương kim loại này trước ngực. Tôi hỏi ông còn giữ cái huy chương này không? Ông trả lời, “ Nó đã được gửi cho Hồ chí Minh nhân tuần lễ vàng”. Ý ông muốn nói đến chuyện ông Hồ dùng vàng hối lộ cho đám quân Tàu chiếm đóng năm 1945 để thuyết phục chúng rút ra khỏi Bắc Việt Nam sau Thế chiến hai.
&
Cha của Ẩn được huấn luyện thành một kỹ sư tại Đại học Hà Nội, làm việc thăm dò địa dư, thiết lập những đường ranh đất đai và hồ sơ thuế ở biên giới phía Nam Việt Nam. Ông xây dựng đường ở Sài Gòn và kênh rạch chạy xuyên qua rừng U minh, dọc theo vịnh Thái Lan. Trong lúc đi đo đạc ở Cambốt, ông gặp mẹ Ẩn, là một người nữa di cư từ miền Bắc. Bà là một người cần cù, siêng năng, trình độ học vấn lớp 2 giúp bà đọc và viết. Công việc của một người thăm dò địa chất thời thuộc địa làm việc ở vùng hoang dã miền Nam bao gồm cả chuyện điều động những nông dân bị bắt lính mang những dây xích băng ngang qua những vùng đầm lầy sông Cửu Long và xây dựng những tháp canh trong rừng để thiết lập những đường ranh nhìn thấy được. Ẩn nói, “ Khi anh đi thăm dò địa chất và xây dựng đường phố, kênh rạch, anh thấy những người dân nghèo Việt Nam ráng làm thêm để sống. Anh thấy hệ thống bóc lột lao động, đánh đập và nhiều điều hành hạ khác của người Pháp. Cách duy nhất chống lại những sự ngược đãi hành hạ đó là phải chiến đấu giành độc lập. Người Mỹ đã làm tương tự như thế vào năm 1776. Gia đình tôi luôn có tấm lòng yêu nước mong muốn đánh đuổi quân Pháp ra khỏi Việt Nam.”
Trong thời thơ ấu, Ẩn sống trên một chiếc thuyền tam bản ở trong rừng tràm ở phía Nam Việt, rồi Ẩn bị thổi bay ra khỏi thuyền và gần chết đuối. Ông được gửi về ông bà nội ở Huế , rồi lại bị gửi về Nam khi bà nội qua đời, và gửi ra Bắc lại khi ông thi rớt lớp 3. Cha ông tách ông ra khỏi anh em và đày ông về ở dưới làng Truồi quê mùa, với mục đích cho ông thấy sự khổ cực của nông dân sẽ làm cho ông sợ mà cố gắng học nhiều hơn. Thay vào đó, Ẩn chỉ thích trốn học đi chơi quanh vùng quê này. Khi ông thi rớt lần nữa, ông bị cha ông dùng roi đánh và tống cổ về Sài gòn để có chương trình giáo dục nghiêm khắc hơn dành cho ông.
Ẩn yêu mến ngay Sài Gòn, lúc ấy là một tiền đồn thuộc địa chậm chạp bao quanh bởi những đồn điền cao su. Ông bỏ ra hàng giờ để đi dọc theo sông Sài Gòn, đu đưa trên những cây đa rồi nhảy ùm xuống nước. Ông làm bạn với những công nhân ở xưởng đóng tàu Ba Son, họ cho ông những đồng tiền đẹp để chơi. Ông đi xe điện đến Chợ Lớn là quận của người Hoa, rồi đi về rạp chiếu bóng nằm gần cầu ở Dakao. Ở đây ông xem tất cả những phim Johnny Weissmuler đóng vai Tarzan đu dây trong rừng. An nói về những phim này như sau, “ Đó là một giấc mơ đẹp về tự do trong rừng. Tôi nghĩ dưới chế độ Cộng sản tôi sẽ sống như Tarzan. Tôi hướng giấc mơ này vào cuộc cách mạng.”
Ẩn kêu lên, “ Hãy nhìn Tarzan! Anh ta có gì? Chỉ có cái khố quấn ngang lưng. Đó là chủ nghĩa Cộng sản ở trạng thái nguyên thủy, một cảnh điền viên thôn dã của Rousseau. Đó là thứ triết học Cộng sản thời trung học mà Ẩn thâu lượm được từ những sách gửi đến cho học sinh thuộc địa bởi Đảng Lao Động Pháp. Ông nói, “ Vâng, tôi là người Cộng sản. Chủ nghĩa Cộng sản là một lý thuyết rất đẹp và nhân bản. Sự dạy dỗ về Thượng đế, Đấng sáng tạo cũng như thế. Cộng sản dạy người ta thương yêu nhau, chứ không giết nhau. Cách duy nhất để có thể làm được điều này là mọi người trở thành anh em, vốn mất cả triệu năm. Đó là một chuyện không tưởng, nhưng nó đẹp .”