|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 13:26:30 GMT -5
Việt Nam trên bàn cờ chính trị thế giớiTác Giả Lê Nguyên Hồng Đăng “Cá lớn nuốt cá bé”, câu tục ngữ từ đời xưa để lại chắc chắn sẽ mãi mãi không bao giờ lỗi thời cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. Con cá lớn phải ăn con cá bé, và con cá bé phải làm mồi nuôi sống con cá lớn. Dây chuyền quy luật tự nhiên đó giúp cân bằng sinh thái theo vòng xoay chuyển vần của tự nhiên, tạo thành chu kỳ khép kín cho sự sống của muôn loài… Đối với mỗi quốc gia trên thế giới, từ thời Cổ Đại đến thời Trung Cổ và gần hơn nữa là thời Cận Đại, họ đều lấy sức mạnh quân sự để khẳng định uy quyền của mình trong khu vực, châu lục, và đôi khi vượt ra xa hơn - Đến bên kia bờ đại dương. Nước lớn (và mạnh), thường hay xâm lược nước nhỏ, chèn ép nước nhỏ cũng là lẽ thường muôn thủa, như câu chuyện con cá lớn ăn con cá bé hơn là vậy. Không nói xa xôi, nước Việt xưa và đế quốc Phù Nam (Thái Lan cũ) cũng đã một thời tranh giành nhau xâu xé các nước nhỏ như Chiêm Thành, Cam Bốt. Lịch sử Việt Nam thì viết là “Cha Ông ta mang gươm đi mở cõi” cho có vẻ nhẹ nhàng bớt chuyện này. Giống như mang cày, mang cuốc đi… khai hoang vậy thôi! Sau Thế Chiến 2, trật tự trên thế giới được phân chia rành mạch thành hai phe. Phe Xã Hội Chủ Nghĩa, đứng đầu là Liên Xô, còn phe Tư Bản Chủ Nghĩa đứng đầu là Hoa Kỳ và các đồng minh. Trật tự tạm thời đó ngày nay đã bị thay đổi… Với những kiến tạo địa chất phức tạp, nhiều Đứt Gãy, nhiều đồi núi, nhiều vùng đất đỏ Ba Zan cho nên Việt Nam là một nước hứa hẹn có tiềm năng khoáng sản rất lớn. Việt Nam còn có đường bờ biển dài hàng ngàn km, rất thuận lợi cho việc khai thác thủy sản và giao thương buôn bán nhờ có nhiều các cảng biển. Mặt khác, về địa thế chiến lược quân sự thì Việt Nam là lá chắn trên Biển Đông cho Ba Nước Đông Dương và một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Nó cũng là địa bàn bàn đạp lý tưởng cho việc tập kết quân sự từ mặt Thái Bình Dương có thể tấn công vào sâu trong lục địa Châu Á. Chính vì Việt Nam có địa thế quan trọng về chiến lược quân sự và tài nguyên giàu có, cho nên ngay từ trước khi Thế Chiến 2 Kết thúc. Người Nga và cả Người Mỹ đã có những bước đi chiến lược, nhằm biến Việt Nam thành đồng minh đắc lực cho kế hoạch toàn cầu lâu dài của họ. Đối với các “đồng chí” Nga và sau này là Trung Quốc thì Việt Nam (đứng đầu là Hồ Chí Minh) có điều kiện gần gũi hơn, vì họ cùng có tư tưởng Cộng Sản. Phe Xã Hội Chủ Nghĩa thì mong Việt Nam thành một “tiền đồn của XHCN”, và họ có cơ sở thuận lợi, khi lãnh tụ của cách mạng tại Việt Nam lúc bấy giờ là Hồ Chí Minh từng được học tập và đào tạo nhiều năm bí mật tại Trung Quốc và Nga. Cho đến tận ngày nay, không mấy người Việt Nam biết rằng Hoa Kỳ đã “để mắt” tới Việt Nam từ trước năm 1945. Tuy Hoa Kỳ rất bận rộn với Chiến Tranh Thế Giới Lần 2, nhưng họ vẫn kịp nhận ra sự quan trọng của Việt Nam trên bàn cờ chính trị, và quân sự của thế giới. Ngày 12/11/1944 trung úy Shaw, một nhân viên tình báo của OSS (tiền thân của CIA ngày nay) lái một chiếc máy bay loại nhỏ từ địa phận Trung Quốc đến vùng trời Cao Bằng (khu căn cứ địa của Việt Minh). Lấy lý do là phi cơ bị trục trặc kỹ thuật nên viên sỹ quan tình báo này đã hạ cánh xuống căn cứ của Việt Minh. Ngay lập tức, con người dũng cảm này đã bị bắt làm tù binh. Qủa nhiên, từ vị thế của một tù binh, trung úy Shaw đã trở thành thượng khách của Hồ Chí Minh, sau khi tiết lộ danh tính và “khai” rằng mình là người Mỹ và có “quan hệ quen biết thân cận” với chính phủ Mỹ. Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp (lúc ấy chưa có quân hàm) đã nắm bắt lấy cơ hội quý báu này. Liền gửi thư cho chính phủ và quân đội Mỹ bày tỏ mong muốn của Việt Minh muốn “làm bạn” với Người Mỹ đồng thời xin giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật quân sự. Hồ Chí Minh đã cử người tin cẩn bảo vệ “viên phi công đi lạc” này sang tận bên kia biên giới Việt - Trung. Ngày 20/03/1945 tư lệnh quân Mỹ tại Trung Quốc là tướng Wedemeyer đã thừa lệnh chính phủ Hoa Kỳ, phát động một chiến dịch tình báo quân sự lớn tại Đông Dương, lấy tên là QUAIL. Ông đã ban hành lệnh cung cấp vũ khí và khí tài quân sự cho tất cả các tổ chức chống quân Nhật trên toàn cõi Đông Dương. Tất nhiên là “người bạn” Việt Minh đã giành được quyền ưu tiên số một. Không những thế, cơ quan tình báo Mỹ OSS còn cử một nhóm chuyên gia quân sự do viên sỹ quan đứng đầu OSS tại Đông Dương tên là Archimedes Patti, trực tiếp đến căn cứ Tân Trào của Việt Minh để huấn luyện và đào tạo một khóa nhân viên kỹ thuật điện báo cho Việt Minh. Đồng thời chỉ dẫn Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp chiến thuật đánh du kích, cũng như cách tổ chức quân đội. Sau hơn ba tháng lưu lại Tân Trào, nhóm tình báo Mỹ cải trang là người Pháp và người Hoa này đã rút đi, để lại nhiều khí tài quân báo cho Việt Minh. Như vậy, Hồ Chí Minh và Việt Minh đã tự nhiên được “Trời cho” một món quà vô giá từ người Mỹ. Nhưng quan trọng nhất, và có tính quyết định lịch sử cho Cách Mạng Tháng Tám của Việt Minh thành công. Chính là nhờ có tin tức thông qua liên lạc điện đài do tình báo Hoa Kỳ cung cấp thời điểm quân Đức thất thủ hoàn toàn. Và đặc biệt là ngày giờ quân Nhật đầu hàng Đồng Minh sau khi bị ném bom nguyên tử tại Hirosima và Nagasaki, để quân Việt Minh kịp thời báo tin cho lực lượng của họ tại Hà Nội cướp lấy chính quyền mà quân đội Nhật đã bỏ trống. Việc người Mỹ giúp Việt Minh giành chính quyền đã là một sai lầm lớn không thể sửa chữa. Tình báo Mỹ, cụ thể là OSS đã “trao trứng cho Ác” một cách vô tư mà không biết rằng, Hồ Chí Minh là người của Quốc Tế Vô Sản 3. Hồ Chí Minh sẽ đi theo CNCS chứ không thể đồng hóa bằng CNTB của Mỹ và Phương Tây. Người Mỹ đã chậm chân (và chủ quan) trong việc dưới cương vị làm nhiệm vụ quốc tế (thực chất là phân chia tầm ảnh hưởng với Người Nga trên bản đồ chính trị thế giới) tại Việt Nam. Vì sự chậm trễ do chủ quan tin tưởng vào Hồ Chí Minh, Người Mỹ đã phải tiêu tốn hàng trăm ngàn tỉ USD vào cuộc chiến Việt Nam, hàng trăm ngàn công dân Mỹ đã bị chết, bị thương trong cuộc chiến Nam - Bắc Việt Nam. Thực chất, đó là cuộc đối đầu giữa hai phe, XHCN và TBCN mà người dân Việt Nam và người dân Mỹ đã chịu nhiều mất mát về nhân mạng, của cải và tinh thần. Trong khi đó hậu thuẫn đắc lực cho CSVN đưa nhân dân Việt Nam ra làm vật hiến thân, làm lá chắn cho CNCS lại là Liên Xô và Trung Quốc chứ không phải ai khác!... Thay vì đem quân đổ bộ vào Việt Nam ngay lập tức, bất chấp người đồng minh Pháp già yếu và bạc nhược, thì Người Mỹ lại quá tin vào Việt Minh, quá tin vào “người học trò” của tình báo Mỹ OSS là Hồ Chí Minh. Hậu quả thảm khốc là nhân dân Việt Nam đã phải “giơ đầu chịu báng” bằng hai cuộc chiến tranh đẫm máu kinh hoàng! Hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nhỏ, người ta sẽ nói: Thì vẫn là nước nhỏ, làm sao nó “lớn” lên được? Có cách đấy! Đó là cần có nhiều đồng minh “ruột”. Vậy Việt Nam tìm đồng minh ở đâu? Nếu Việt Nam chọn đồng minh là Trung Quốc? Việt Nam là một chú “cá” bé đã nhiều lần bị con “cá” Mập Trắng Trung Quốc tấn công, mà bài học nóng “anh hai” CSTQ dạy cho Việt Nam tháng 02/1979 vẫn còn nguyên giá trị và dấu tích đau thương. Nhưng đó không phải là tất cả! Vì một lý do nào đó hai nước láng giềng xung đột vũ trang cũng là chuyện thường thấy. Quan trọng nhất là hiện nay Trung Quốc quá dư thừa dân số (khoảng 1 tỉ 300 triệu), chưa kể đến lực lượng Hoa Kiều khoảng vài trăm triệu rải ra khắp các nước trên thế giới. Cái gì quá nhiều thì không quý! Kể cả bạc vàng châu báu và con người cũng không là ngoại lệ. Vậy thì Trung Quốc chỉ cần đất đai và tài nguyên mà thôi. Như vậy chúng ta có thể đoán ra số phận của dân tộc Việt Nam sẽ ra sao, nếu Việt Nam hoàn toàn bị khống chế trong bàn tay của “đồng minh” Trung Quốc? Nếu Việt Nam chọn đồng minh là Mỹ? CSVN thời trước năm 1975 tuyên truyền rằng Mỹ là quân cướp nước. Nhiều người tin (tôi cũng tin)! Nhưng ngày nay chúng ta hãy kiểm chứng xem sự thật như thế nào? Sau năm 1945, người Mỹ đổ quân ra đồn trú làm nhiệm vụ quốc tế tại rất nhiều quốc gia là đồng minh của họ. Có thể kể ra như Nhật Bản, Nam Hàn vv…, cho đến nay chưa thấy người Mỹ cướp nước của ai, dù chỉ là vài thước đất, hay vài cm lãnh hải. Chỉ thấy các nước đó có tự do dân chủ văn minh, và đều là những nước giàu có hùng mạnh. Không nói đâu xa, năm 1975 so sánh hai miền Nam và Bắc Việt Nam với nhau cũng đã thấy một trời và một vực rồi. Thì ra quân “cướp” này có vẻ cũng đáng yêu đấy chứ! Nếu một mình tôi có giá trị như là một quốc gia, thì tôi cũng tự giác cho người Mỹ “ăn cướp”, “cai trị” giống như Nhật Bản, Hàn Quốc ngay lập tức, còn cái “độc nập” và “tự ro” theo kiểu cộng sản thì thôi, cũng phải xin kiếu… cả nón! Thế mà “mười sáu chữ vàng” của “người anh” Trung Quốc, với đủ những mỹ từ tốt đẹp, không hề có từ nào là từ “ăn cướp”, thì lại làm mất đi hàng trăm km2 lãnh thổ của Việt Nam, mất đi hàng chục ngàn km2 lãnh hải, hàng trăm hòn đảo lớn bé, nổi, chìm tại Hoàng Sa và Trường Sa! Là anh, muốn cho đàn em phục mình thì phải gương mẫu, quảng đại, hào phóng. Nhưng rõ ràng Trung Quốc (do ĐCS nắm quyền) không có những đức tính ấy. Vì vậy, những kẻ nào trong TƯĐCVN nuôi ý định núp bóng “người anh” hẹp hòi kia, hãy coi chừng, kẻo hối thì không bao giờ còn kịp nữa!!! Tuy vậy, nhưng hãy tin rằng: Người Mỹ không dám bỏ rơi Việt Nam trên bàn cờ chính trị thế giới! Thứ nhất, duyên nợ của nhân dân Việt Nam và nhân dân Mỹ vẫn còn. Những hứa hẹn chiến lược về kinh tế sẽ đem lại những mối lợi không nhỏ nhờ công nghệ Khai Khoáng, Hóa Dầu, Du Lịch vv… vẫn có sức hút mạnh các nhà đầu tư Mỹ tại Việt Nam. Thứ hai và là điều quan trọng nhất, đó là vị trí chiến lược của Việt Nam trong cuộc “so găng” giữa Mỹ với chính Trung Quốc nếu khả năng này xảy ra. Hiện nay Nga đã là NATO + 1, dù bề ngoài họ (Nga, Mỹ) có vẻ “gân guốc” với nhau. Nhưng dù sao thì điều đó cũng rất có lợi cho các nhà sản xuất vũ khí (Nga và Mỹ) hốt bạc nhờ vũ khí bán đắt hàng mà thôi. Vậy thì mối đe dọa đối với vị trí siêu cường số 1 của người Mỹ không có ai khác ngoài Trung Quốc! Ngày 12/06/2009 đại tướng Carrol Howic Chandler, tư lệnh không quân Mỹ khu vực Thái Bình Dương bất ngờ thăm Việt Nam. Sự kiện tiếp theo đó là tàu chiến của hải quân Mỹ xuất hiện để tìm và khai quật hài cốt danchimviet.com/articles/1199/1/Vit-Nam-cho-tu-Hi-quan-M-vao-tim-kim-nhan-o-ti-bin-ong/Page1.html binh sỹ Mỹ trên biển. Hai động thái này có vẻ như vô tình nhưng nó lại diễn ra đúng lúc tình hình trên Biển Đông căng thẳng bởi lệnh cấm đánh bắt cá của Trung Quốc, trên vùng biển mà họ cho rằng thuộc quyền kiểm soát của họ. Tại sao lại là một vị đại tướng tư lệnh không quân Mỹ thăm Việt Nam, mà không phải một binh chủng nào khác? Trong chiến tranh hiện đại thì không quân là một lực lượng phản ứng nhanh, có thể đánh đòn phủ đầu chớp nhoáng. Máy bay phản lực còn là phương tiện thông dụng chuyên chở và tấn công bằng bom (nhất là Bom Nguyên Tử). Không quân Mỹ cũng là lực lượng hùng mạnh nhất thế giới. Chỉ riêng Pháo Đài Bay B52 (mỗi chiếc trị giá khoảng 800 triệu USD) nước Mỹ đã có hàng ngàn chiếc bị liệt vào danh sách “quá hạn sử dụng” và đem vứt bỏ tại các nghĩa địa B52 như ở căn cứ không quân Davis Monthan, thành phố Tucson, bang Arizona. Những chiếc máy bay đó vẫn có thể bay tốt, nhưng Người Mỹ đã vứt bỏ vì dư thừa quá nhiều và nó được cho là đã lỗi thời với quân đội Mỹ. Một trong những thành công lớn nhưng vẫn còn trong vòng bí mật đó là Người Mỹ (và cả Người Anh) đã chế tạo thành công loại máy bay hình dạng đĩa mà nhiều người quen gọi là Đĩa Bay từ cuối thập niên 50 của thế kỷ trước. Loại Đĩa Bay này chính là một phát minh quan trọng của các nhà khoa học thời Đức Quốc Xã mà Người Mỹ đã đoạt được phát minh này, như một chiến lợi phẩm trong Thế Chiến 2. Những hiện tượng UFO xuất hiện trên bầu trời Nước Anh và Nước Mỹ từ năm 1957 đến nay, được cho là của Người Ngoài Hành Tinh và những câu chuyện về những vụ nổ UFO kỳ bí, sau này người ta điều tra ra được nhờ phương pháp Đồng Vị Phóng Xạ phân tích mảnh vỡ UFO mới biết được là nó do con người chế tạo nên. Nếu loại máy bay Đĩa Bay này được trang bị vũ khí hạt nhân, thì việc vô hiệu hóa hệ thống radar của đối phương và tấn công hủy diệt đối phương trong chớp nhoáng không còn là vấn đề. Sự xuất hiện của tư lệnh không quân khu vực Châu Á Thái Bình Dương tại Việt Nam là một lời “nhắc nhở” sức mạnh của không quân Mỹ đối với Trung Quốc! Có thể thấy rõ mối quan ngại của Người Mỹ đối với sự lớn mạnh của Trung Quốc, đặc biệt là khi Trung Quốc phóng thành công tàu vũ trụ Thần Châu. Tuy nhiên, người Mỹ hay lo xa, trên thực tế Trung Quốc rất yếu về không quân, hải quân. Họ chỉ mạnh pháo binh và bộ binh (chiến thuật Biển Người) mà thôi. Việt Nam hãy thân Mỹ, hãy biến người Mỹ thành đồng minh thân cận của mình. Giống như những chú cá nhỏ khôn ngoan nép mình dưới bụng chú cá Nhà Táng khổng lồ, vừa dễ bắt mồi vừa được an toàn cho bản thân, mà mình thì chẳng mất gì. Tuy nhiên, một yêu cầu đơn giản đặt ra là, ĐCSVN cần phải chấp nhận dân chủ kiểu Mỹ, xóa bỏ độc quyền chính trị. Như vậy vừa tháo bỏ được xiềng xích oan khiên mà nhân dân Việt Nam phải chịu đựng nhiều năm qua, vừa tạo cơ hội phát triển lành mạnh cho đất nước. Nếu hợp tác toàn diện với Mỹ và thực hiện dân chủ đa nguyên đa đảng, có thể ĐCSVN sẽ phải rời khỏi vị trí lãnh đạo đất nước. Nhưng cái lợi cho đất nước, cho nhân dân thì đã nhìn thấy quá rõ, qua những tấm gương thân Mỹ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan v.v… Vừa rồi đại sứ Mỹ tại Việt Nam ông Michael Michalak đã tuyên bố về vấn đề tự do tôn giáo là, Việt Nam chưa đến mức phải đưa vào danh sách CPI. Đó là sách lược của Người Mỹ. Việc đưa Việt Nam trở lại danh sách CPI không khó vì đã có đủ bằng chứng. Nhưng điều cần làm ngay là không để ĐCSVN tuột khỏi tay Người Mỹ và hoàn toàn chạy theo quan thầy là ĐCSTQ mới là điều mà Người Mỹ cần quan tâm hàng đầu. Người Việt Nam cũng đừng ảo tưởng về một nước Mỹ sẽ chiến đấu một cách vô điều kiện, mà không có gì gắn với những quyền lợi hoặc là vị thế của mình. Và đó cũng là điều bất công đối với họ! Người Mỹ quan tâm đến Việt Nam, chính là quan tâm đến quyền lợi của nước Mỹ. Đó cũng là điều mà các cử tri Mỹ mong muốn các vị tổng thống của họ phải làm tốt! Vị trí quan trọng của Việt Nam trên bàn cờ chính trị thế giới vẫn đang là cơ hội còn bỏ ngỏ .
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 13:31:07 GMT -5
Khi nào Trung Quốc tấn công Việt Nam?Tác Giả Trần Nam Nguồn: www.ddcnd.orgTrở về từ Trung Quốc, sau khi tham dự Thế Vận Hội Bắc Kinh 2008, Tổng thống Hoa Kỳ George Bush đã phản đối mạnh mẽ trước hành vi tấn công Georgia của Nga. Ông nói “Hoa Kỳ phản đối hành động Nga xâm lăng Georgia, một quốc gia có chủ quyền, dân chủ và là chính phủ hợp pháp do dân bầu”. Sự kiện Nga tấn công nước láng giềng Georgia trong bối cảnh hai nước tranh dành quyền lợi khí đốt và vị trí chiến lược quân sự. Điều này cũng phản ảnh tương lai của quan hệ Trung Quốc và Việt Nam. Không riêng gì thế giới chú tâm đến biến cố Nga – Georgia , mà cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều rút ra những bài học cho chính họ. Quan trọng nhất là phản ứng của Hoa Kỳ trước sự kiện Nga đã mở một cuộc tấn công đẫm máu, bất chấp dư luận thế giới, bỏ qua ảnh hưởng và vai trò của Hoa Kỳ đối với đồng minh Georgia. Nga tấn công Georgia không là điều bất ngờ vì cả hai nước đều có những bất hoà từ lâu, có những chỉ dấu cho thấy phải giải quyết bằng chiến tranh. Chính vì vậy mà Georgia đã tìm mọi cách bám sát Hoa Kỳ để có chổ dựa về kinh tế và quân sự. Phản ứng của Hoa Kỳ yếu ớt thấy rõ, nói cách khác vị trí của Hoa Kỳ về mặt quân sự và sự ràng buộc của cơ chế dân chủ đã không cho phép Tổng thống Hoa Kỳ có thể làm được điều gì khác. Tất cả, phụ thuộc vào chính bản thân quốc gia đang trong vòng tranh chấp. Chính phủ và nhân dân của họ phải có kế sách bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ trước viễn ảnh bị xâm lăng, bị đe doạ mất chủ quyền vì quốc phòng yếu kém, không có khả năng tự bảo vệ quốc gia của họ. Năm 1979 khi Đặng Tiểu Bình cho quân đội tràn qua các tỉnh biên giới phiá Bắc để dạy cho Việt Nam một bài học, lãnh đạo đảng CSVN choáng váng vì không đo lường được Bắc Kinh lại quyết định cạn tàu ráo máng như vậy. Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng Văn Tiến Dũng, lúc đó đang còn ở Nam Vang đã vội vã bay về Hà Nội. Việt Nam hoàn toàn bất ngờ. Hiện nay, bài học lần thứ hai đã được Bắc Kinh cảnh báo trước, lãnh đạo Đảng CSVN phải ý thức được khả năng tấn công lần thứ hai từ Trung Quốc có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Tờ báo Văn Hối ở Hồng Kông, một tờ báo được coi như cơ quan ngôn luận bán chính thức của đảng CSTQ hôm 31 tháng 7 vừa qua đã răn đe “Trung Quốc cần giảng cho Việt Nam một bài học về thế nào là đồng thuận”, sau khi Việt Nam đã ký hợp đồng với hãng dầu Exxon Mobil của Mỹ, tờ báo viết “Việt Nam muốn thực hiện ước mơ khai thác dầu ở Nam Hải với sự giúp đỡ của công ty Mỹ”. Trung Quốc cũng gián tiếp viết qua tờ Văn Hối rằng “nếu có gây chiến với Trung Quốc thì Việt Nam cũng hoàn toàn không có lợi thế”, một cách ám chỉ khả năng quân sự quá kém cỏi của Việt Nam đối với Trung Quốc. Qua nhiều ngõ từ giới chức ngoại giao, Bắc Kinh đã đe dọa trả nếu hãng dầu Mỹ Exxon Mobil cứ tiến hành ký kết với Việt Nam, khai thác dầu dọc theo phía Trung Nam biển Nam Hải. Không phải ngẫu nhiên mà qua cuộc viếng thăm Toà Bạch Ốc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai bên Việt- Mỹ đã ra thông cáo chung, trong đó Mỹ “khẳng định sự ủng hộ của Chính phủ Hoa Kỳ đối với chủ quyền quốc gia, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”. Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng Thống George Bush tại Nhà Trắng, 24 tháng 6, 2008 - Nguồn: White House Sau sự kiện Exxon, phát ngôn nhân Toà Bạch Ốc lên tiếng kêu gọi Trung Quốc và Việt Nam nên giải quyết ôn hoà, tôn trọng các nguyên tắc về lãnh hải. Ngược lại, Việt Nam cũng bày tỏ thái độ cứng rắn. Ông Lê Dũng, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố “Việt Nam ký kết với đối tác nước ngoài nằm trong phạm vi chủ quyền của Việt Nam". Khác lần đụng độ năm ngoái khi ký kết với hãng dầu BP của Anh Quốc, khai thác khí đốt các địa điểm nằm quanh quần đảo Hoàng Sa. Trước áp lực của Trung Quốc, hợp đồng gần 2 tỷ dollars phải hủy bỏ. Việt Nam đã không dám tuyên bố bất cứ điều gì về biến cố này. Theo tiết lộ của giới chức ngoại giao cao cấp Hoa kỳ, kể từ năm 2003, phiá Việt Nam đã bắn tiếng với Mỹ là họ lo sợ ảnh hưởng bành trướng của Trung Quốc. Trong khi Mỹ đang bận rộn với chiến tranh Iraq và Afghanistan thì Trung Quốc đã từng bước gia tăng ảnh hưởng chính trị, kinh tế và quân sự. Vũ Khoan, Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam, trong chuyến viếng thăm Washington hồi tháng 12 năm 2003, đã thay mặt Bộ Chính trị đảng CSVN chuyển thông điệp đến Hoa Kỳ qua cuộc họp với Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Colin Powell và Cố vấn Hội đồng An ninh Quốc gia, bà Condoleezza Rice. Sau cuộc trao đổi đó, chính quyền Bush đã đưa vấn đề ảnh hưởng và quan hệ với Trung Quốc lên hàng đầu trong sách lược ngoại giao của Mỹ ở Châu Á. Tháng 7 năm 2005 khi Thủ tướng Phan Văn Khải đến Hoa Thịnh Đốn, ông Khải đã thay mặt Chính trị bộ CSVN đồng ý ký kết bản thoả ước về giáo dục và huấn luyện quân sự (International Military Education and Training – IMET). Đây là một bước nhảy vọt quan hệ đến lãnh vực tế nhị nhất, đó là mặt quân sự. Bên cạnh thoả ước này, Hà Nội và Hoa Thịnh Đốn cũng đã đồng ý gia tăng trao đổi các lãnh vực tình báo và những vấn đề khác về an ninh. Bản thông cáo thể hiện sự quan tâm của hai nước như “Tổng thống Hoa Kỳ và Thủ tướng Việt Nam chia sẻ tầm nhìn về hoà bình, thịnh vượng và an ninh trong vùng Đông Nam Á và Thái Bình Dương và hai nước đồng ý cộng tác đơn và đa phương để đạt được những mục tiêu này”. Ngôn ngữ ngoại giao đề cập đến vùng Thái Bình Dương và Đông Nam Á được giới quan sát hiểu là ám chỉ đến quan tâm của Mỹ và Việt Nam đối với vai trò của Trung Quốc. Đầu tháng 4 năm 2007, Hoa Kỳ điều chỉnh lại các qui định về vũ khí nhằm cho phép Việt Nam được nhận một số vũ khí mang tính tự vệ. Trong khi đó, quỹ chi tiêu cho thoả ước (IMET) - huấn luyện quân sự và giáo dục cho Việt Nam 2008, đệ trình lên quốc hội Hoa Kỳ đã lên đến con số 200 triệu mỹ kim, tăng gấp đôi từ năm 2007. Thoả ước IMET ký năm 2005 là một tiến bộ mang tính quyết định, làm đòn bẫy cho quan hệ Mỹ- Việt đi đến chổ phối hợp tích cực về lãnh vực quân sự. Để đạt được việc ký kết, Hoa Kỳ và Việt Nam phải làm việc gần hai năm trời, trước đó thoả ước đã bị chận lại bởi chính những lảnh đạo đảng CSVN thân Trung Quốc nằm trong Bộ Quốc Phòng[1]. Sau chuyến đi Mỹ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hồi tháng 6 năm 2008, hàng loạt các tướng lãnh có khuynh hướng thân Trung Quốc đã bị cho về hưu. Trước sức ép, thái độ ngang ngược và hiếu chiến của Trung Quốc, lãnh đạo đảng CS Việt Nam đứng ở ngã ba đường. Đi với Trung Quốc thì bị mất chủ quyền, quyền lợi kinh tế bị tước đoạt, lãnh đạo bị mang tiếng nhu nhược, bán nước. Áp lực nội bộ và sự phẫn nộ từ nhân dân có khả năng đẩy đảng CSVN ra khỏi vai trò lịch sử. Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam chính là yếu tố mạnh mẽ nhất, đem lại cho Đảng Cộng sản những chiến thắng qua hai cuộc chiến chống Pháp và Mỹ. Cũng chính lòng yêu nước này sẽ là ngọn cờ chống lại đảng, khi đảng CSVN bị nhân dân coi là thành phần bán nước, phản bội lại quyền lợi dân tộc. Ngược lại, đến gần với Hoa Kỳ, trở thành một bộ phận trong chiến lược be bờ của Mỹ thì Hà Nội ngần ngại. Bên cạnh yếu tố có thể làm cho Trung Quốc nổi giận, Hà Nội sợ mất quyền độc tôn lãnh đạo vì ảnh hưởng của “diễn biến hoà bình”. Trung quốc lo sợ Mỹ tìm cách ngăn chận sự trổi dậy của họ về quyền lực ở Đông Nam Á, và đánh giá quan hệ của Mỹ với Nhật, Ấn và Việt Nam như là những bước đi chiến lược nhằm làm yếu và giảm ảnh hưởng của Trung Quốc. Ngược lại, Mỹ quan tâm đến sự kiện Trung Quốc đang tìm cách đối đầu và thử thách vai trò quân sự của Mỹ để ảnh hưởng đến sự ổn định và cân bằng quyền lực tại Đông Nam Á. Khi Đặng Tiểu Bình dạy cho Việt Nam bài học thứ nhất, bản Hiệp Ước về Yểm trợ Quân sự Song phương giữa Liên Xô và Việt Nam do Tổng bí thư Đảng CSVN Lê Duẩn ký năm 1978 vẫn còn chưa ráo mực. Liên Xô đã không làm gì được để cứu vãn Việt Nam. Lúc đó, quân đội Trung Quốc vẫn còn lạc hậu, chiến lược quân sự dạy Việt Nam bài học chỉ tóm gọn ba bước: 1) Bất ngờ đưa bộ binh mở mặt trận tấn công các tỉnh giáp biên giới Trung Việt 2) Nhanh chóng tiêu diệt quân đội Việt Nam và làm chủ các tỉnh giáp biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn v.v…. 3)Tàn phá và hủy diệt toàn diện các Tỉnh nằm trong sự kiểm soát của Trung Quốc trước khi rút lui khỏi Việt Nam. Bài học lần thứ hai sẽ không đơn giản như vậy. Trung quốc sau gần 30 năm hiện đại hoá, sức mạnh quân đội và chiến lược quân sự đã hoàn toàn thay đổi. Những chiến lược cổ điển “lấy thịt đè người” hay “tiền pháo hậu xung” trong cuộc chiến biên giới Lạng Sơn năm 1979 đã lỗi thời. Với những tiến bộ vượt bực về khoa học và tiềm lực quân sự hiện đại, câu hỏi đặt ra đối với những lãnh đạo quân đội là liệu Việt Nam có khả năng và kế hoạch để đối phó hiệu quả trước các hiểm hoạ sắp tới. - Trung quốc có thể vô hiệu hoá hệ thống cung cấp điện khí toàn thành phố Hà Nội, làm tê liệt khả năng phòng vệ, truyền tin và chỉ đạo trước khi tấn công? Giống như Mỹ đã tiến hành kế hoạch đó vài tiếng đồng hồ trước khi xâm chiếm Iraq. - Việt Nam phải đối phó thế nào trước viễn ảnh quân đội Trung Quốc sẽ làm tê liệt mạng tin học, sử dụng hacker hay vũ khí hiện đại Electro Magnetic Pulse (EMP) phá hỏng, làm tê liệt thông tin đất liền và trên không, đánh xập toàn bộ hệ thống tin học cả nước trước khi tấn công[2] – giống như Liên Xô đã làm trước khi xâm chiếm Georgia. - Trước tình trạng yếu kém về phòng thủ, liệu quân đội Việt Nam có khả năng tự vệ trước cơn bão lửa của hỏa lực không chiến và hoả tiễn đối không từ tàu ngầm, biến thủ đô Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá. - Liệu Việt Nam có thể bảo vệ quân đội và nhân dân trước thảm cảnh chiến tranh vi trùng mà quân đội Trung Quốc đã âm thầm nghiên cứu, thử nghiệm và sẳn sàng tấn công toàn diện, không sợ bị dư luận thế giới lên án. - Làm thế nào để Việt Nam vô hiệu hoá đạo quân thứ Năm của Trung Quốc? Những Trung kiều có thể phản bội Việt Nam theo Tổ quốc Đại Hán của họ, trước và khi chiến tranh xảy ra. - Làm thế nào Việt Nam đủ sức chống đỡ hoả tiễn hiện đại JL-2, bắn ra trong phạm vi 12.800km từ các tàu ngầm nguyên tử nằm trên căn cứ hải quân ngầm gần đảo Hainan, một căn cứ tối tân Trung Quốc bí mật xây dựng gần đây. Căn cứ này có khả năng che dấu các tàu ngầm nguyên tử, sử dụng kỹ thuật cao tránh được phát hiện của radar trên không và biển, vừa có thể tấn công các quốc gia lân cận, nhằm kiểm soát eo biển chiến lược Malacca Strait và toàn vùng biển Đông[3]. - Làm thế nào Việt Nam có thể nhanh chóng tân trang quân đội để tự vệ, đối trọng lại hiểm họa Trung Quốc với chi tiêu quốc phòng khổng lồ 197 tỷ dollars trong năm 2007, nhằm phục vụ cho ý đồ bá quyền của họ? Trong khi hai nước xung đột âm ỉ và căng thẳng vì quyền lợi kinh tế và quân sự. Viễn ảnh một cuộc chiến tranh nóng giữa Trung quốc và Việt nam rất khó tránh khỏi. Nếu có xảy ra, khác với trường hợp của Georgia, các nhà lảnh đạo đảng CSVN phải hiểu rằng lúc đó, vị Tổng Thống tương lai của Hoa Kỳ hoặc Cộng Đồng các quốc gia Âu Châu không thể lên tiếng ủng hộ và xác nhận “Việt Nam là một chính quyền dân chủ, hợp pháp và do chính nhân dân Việt Nam bầu ra”. Việt Nam là một nhà nước độc tài, chính quyền không do nhân dân bầu, mà do đảng Cộng sản tiếm quyền lãnh đạo. Một nhà nước chuyên chính chỉ mạnh đối với việc đàn áp nhân dân, nhưng không đủ sức để tự vệ khi đất nước có biến loạn, bị ngoại xâm. Lịch sử dân tộc cho thấy mỗi lần Trung Quốc xâm chiếm Việt Nam, họ thường nhân cơ hội vua tôi nước Việt bị chia rẽ, tranh dành quyền lực, bị suy yếu, hoặc làm mất lòng dân. Tình hình Việt Nam hiện nay đất nước đang suy đồi, quân đội không đủ sức bảo vệ lãnh thổ, lãnh đạo Việt Nam không do nhân dân bầu ra mà chỉ gồm những kẻ độc tài. Cả nước oán hận vì bị cai trị dưới bạo lực, chuyên chế. Trong bối cảnh bất hoà, khi đất nước bị xâm lăng, Việt Nam không khả năng tự bảo vệ chủ quyền đất nước, không thể huy động sức người sức của để “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”. Sự yếu hèn, bạc nhược, mất đoàn kết và không tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của đảng CSVN; những yếu tố đó có tác động quyết định thắng bại trong nhiều cuộc chiến tranh, kể cả chiến tranh bảo vệ Tố Quốc chống ngoại xâm. Có quá nhiều câu hỏi đặt ra trên bàn cờ chiến tranh Trung - Việt mà những lãnh đạo đảng trong quân đội CSVN với não trạng nông dân từ thời chiến tranh “chống Mỹ cứu nước” đã không đủ trí tuệ để được giáo dục và hiểu biết, kịp chuẩn bị tinh thần đối phó trước viễn ảnh mất nước. Nếu có tầm nhìn, lẽ ra từ hàng chục năm nay, Việt Nam thay vì dùng tiền của, tài nguyên quốc gia, để tân trang quân đội thì lại phung phí cho các dự án kinh tế hoang đường. Cần vận dụng sức người sức của, chuẩn bị cho tinh thần “Đoàn kết dân tộc bảo vệ Tổ Quốc” thì họ lại tìm mọi cách trấn áp nhân dân. Đảng CSVN đã chi tiêu những ngân khoản khổng lồ cho bộ máy an ninh, ngày đêm bao vây, đàn áp các lực lượng dân chủ chỉ nhằm bảo vệ chế độ độc tài, thay vì dồn tiền của, nhân lực, tâm trí cho các phương án bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ chủ quyền đất nước. Nếu chỉ để dạy dỗ đảng CSVN một bài học, với lợi thế về không và hải lực, thế trận Trung - Việt xảy ra trên không và hải chiến đủ sức tàn phá Hà Nội thành bình địa. Trường hợp cần lập ra chính quyền bù nhìn, trước quốc phòng lạc hậu, quân đội yếu kém, lo làm kinh tế hơn là chuẩn bị chiến tranh, Việt Nam bại trận trong cuộc tổng tấn công của Trung Quốc là điều khó tránh khỏi. Trong bối cảnh đó, một số lãnh đạo CSVN sẽ phản bội Tổ quốc trở thành tay sai Trung Quốc, một số ôm tài sản chạy trốn, kẻ ra nước ngoài, người tỵ nạn chính trị tại các toà đại sứ Tây Phương. Tổ quốc Việt Nam là nạn nhân trực tiếp của một chính quyền độc tài, vô cảm, đã đặt quyền lợi Đảng lên trên quyền lợi Dân tộc. Nhân dân Việt Nam, vì khiếp sợ trước bạo lực, vì thờ ơ trước vận mệnh đất nước, lại phải trả giá cho dòng sinh mệnh của dân tộc. Nước mất nhà tan, một cuộc di tản lần thứ ba lại có thể xảy ra. -------------------------------------------------------------------------------- [1] US Congressional research service, by Foreign Affairs on Vietnam and US relations – 2007 [2] US House Armed Services Committee report "The consequence of EMP is that you destroy the communications network,…. We are, as the Chinese also know, heavily dependent on sophisticated communications, satellite communications, in the conduct of our forces.China does have the capability to strike USA with powerful EMP (Electo-Magnetic Pulse) weapons and an army of government-financed computer hackers home and abroad that can knock US back into stone ages.” [3] Shishir Gupta - New Delhi Online - May 04, 2008
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 13:37:00 GMT -5
Việt Nam đã chuẩn bị chiến tranh, Trung Quốc còn chờ đợi điều gì?Tác Giả Hoàng Sa - Trường Sa dịch từ nguồn Sina Đây là tiêu đề của một bài Viết được đăng lên diễn đàn Sina vào tối hôm qua ( 27 tháng 8 ) tức là lập tức ngay sau khi thứ trưởng bộ ngoại giao Việt Nam đã có một phát biểu cứng rắn hợp lí khẳng định chủ quyền hợp pháp đối với các dự án dầu khí hợp tác với nước ngoài. Mặc dù mạng sina không phải là trang báo chính thức của chính phủ Trung Quốc, nhưng trang này vẫn phải thông qua kiểm duyệt và chính phủ TQ gián tiếp gửi thông điệp qua đây, vì thế các bài viết thường là của những người có khả năng và trình độ nhất định, sau đây là toàn bộ nội dung bài viết này do Hoàng Sa Trường Sa dịch: Hiện nay sau những thông tin về việc công ty dầu khí Exxon Mobil của Hoa Kỳ và Việt Nam ký hiệp định về thăm dò dầu khí được truyền ra ngoài, khiến cho bộ ngoại giao Trung Quốc rất quan ngại, người phát ngôn bộ ngoại giao Việt Nam khẳng định " các hiệp định được kí đều nằm trong chủ quyền của Việt Nam ". Về sau thậm chí có trang mạng của Việt Nam còn xuất hiện những luận điệu cứng rắn cái gọi là " không ngại một cuộc chiến tranh ". CHUẨN BỊ SẴN SÀNG Những luận điệu cứng rắn của Việt Nam dựa vào những tiềm lực quân sự trọng yếu tại Nam Sa ( tức Trường Sa ), quân đội Việt Nam đã tăng cường điều chỉnh bố trí lực lượng, ý đồ là tiến thêm một bước khống chế 29 đảo và vùng biển phụ cận Trường Sa mà đã phi pháp chiếm đóng. Chiếm đoạt và khống chế Trường Sa thành quyết tâm của quân đội Việt Nam Địa thế của Việt Nam từ bán đảo Trung Nam khu vực Đông bộ trải về hai phía Nam, Bắc hình thành địa hình chật hẹp chữ " S ". Sau một thời gian dài đến nay, quân đội Việt Nam đã vận dụng chiến lược " Bắc phòng Nam tấn " làm trọng điểm, dồn lực phát triển lục quân, tập trung quân lực phía Bắc Bộ, hải quân và không quân ở đây xây dựng tương đối lạc hậu. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 9 đề xuất " chiến lược phát triển biển " ý đồ hướng về biển phát triển, trở thành một " cường quốc hải dương ( biển ) " Vì thế mà chiến lược quân sự của quân đội nhân dân Việt Nam cũng được điều chỉnh thành " lục địa phòng thủ hải quân tiến công " hướng về Nam Hải ( tức Biển Đông ), đặc biệt là dã tâm chuẩn bị tốt về quân sự nhằm " chiếm đoạt và khống chế các đảo ở Trường Sa, Việt Nam đã đầu tư mạnh vào Hải quân và không quân, điều chỉnh các căn cứ theo chiều sâu kiến thiết trận tuyến địa Trường Sa, hình thành hệ thống kiến trúc trận địa Trường Sa 3 đại trụ cột. Hiện nay tổng binh lực của hải quân Việt Nam ước tính đạt tới 55, 000 người, phân thành 4 khu vực bộ tư lệnh hải quân 1, 3, 4, 5 trong đó Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 đặt tại Hải Phòng, quản lữ đoàn tầu chiến 170, lữ đoàn lục chiến 147. Bộ tư lệnh hải quân vùng 3 đặt tại Đà Nẵng quản lữ đoàn tầu chiến 161, Bộ tư lệnh hải quân vùng 4 đặt tại Vũng Tầu quản lữ đoàn tầu chiến 171, đoàn cảnh giới 103, Bộ tư lệnh quân khu vùng 5 đặt tại Rạch Giá quản lí lữ đoàn tầu chiến 175 , đoàn lục chiến 126. Tổng cộng các loại tầu chiến khoảng hơn 300 chiếc, các tầu chiến chủ chiến bao gồm các tầu hộ vệ 7 chiếc, tầu quét ngư lôi 5 chiếc, tầu đổ bộ 6 chiếc, các loại tầu phóng ngư lôi và tầu phóng hoả tiển hơn 40 chiếc, tầu đổ bộ cỡ nhỏ hơn 30 chiếc, 2 chiếc tầu ngầm Mini. Tổng binh lực của không quân Việt Nam khoảng 30, 000 người, quản lí 4 hàng không sư, 13 đoàn phi hành ( 5 đoàn chiến đấu cơ, 3 đoàn vận tải cơ, 3 đoàn huấn luyện cơ, 2 đoàn tăng cường lục chiến cơ ), có các loại máy bay Su - 27, Su - 30 và Mic - 23, Mic - 21 và nhiều loại khác tổng số hơn 480 chiếc, bộ đội phòng không quản lí 17 binh đoàn hoả tiển , 7 binh đoàn pháo cao xạ, 6 đoàn Rada, có các thiết bị cảnh giới trên không và Rada khoảng hơn 1000 bộ. Lợi dụng các đảo chiếm được làm căn cứ tiền tuyến Nhằm mục đích thay đổi bố trí trận địa trước đây là " Coi trọng phía Bắc, lớn ở phía Nam, gọn nhẹ ở giữa " quân đội Việt Nam đã đầu tư lớn xây dựng các căn cứ quân sự hướng về Biển Đông bao gồm 11 căn cứ hải quân: Vạn Hóa, Cẩm Phả, Hồng Gai, Hà Tiên, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Rạch Giá, Cam Ranh, TP Hồ Chí Minh, Quy Nhơn. 15 căn cứ không quân bao gồm: Nội Bài, Yên Bái, Hòa Lạc, Kiến An, Thọ Xuân, Đà Nẵng, Phú Cát, Phan Rang, Biên Hòa, Tân Sân Nhất, Tuy Hòa, Cam Ranh, Chu Lai... với dã tâm kết hợp vững chắc hải không quân. TRƯỜNG SA NAM YẾT Đồng thời quân đội Việt Nam gấp rút tiến hành xây dựng trận tuyến mạng nhện trên các đảo chiếm được, các đảo này đóng vài chục cho đến vài trăm quân, Năm 2004, 2005, hoàn thành việc xây cất sân bay trên hai đảo Nam Yết và Trường Sa lớn, nhờ vậy mà không quân Việt Nam có được chỗ hạ cất cánh tiên tiến tại Trường Sa. Một khối lượng lớn vũ khí và đạn dược được thông qua " hành lang trên không " không ngừng chuyển đến Trường Sa. Đặc công trên nước quấy rối các tầu thăm dò Trung Quốc Nhằm tăng cường khả năng tác chiến với " một quốc gia nào đó " Quân đội Việt Nam mấy năm trở lại đây đã đề xuất cái gọi là " thò ba đại cánh tay sắt " tức là kết hợp uy lực lớn của các tầu phóng hỏa tiễn với lực lượng máy bay chiến đấu tầm xa, cùng lực lượng đặc công trên nước tác chiến. Ý đồ nhằm dùng nhỏ khắc chế lớn, dùng ưu thế bất đối xứng tấn công. Dựa vào việc Việt Nam mua 4 tầu phóng ngư lôi cỡ lớn, có trang bị hoả tiển tầm trung từ Nga, và dựa vào Việc năm 2007 Việt Nam - Nga kí hiệp định cho phép Việt Nam sử dụng kĩ thuật của Nga xây dựng nhà máy đóng tầu chiến ở trong nước, chế tạo 10 tầu chiến cao tốc " tia chớp " trang bị hoả tiển Năm 2009 Nga sẽ còn bàn giao cho Việt Nam hai khu trục hạm trị giá 350 triệu đô la, với những trang thiết bị hiện đại nhất hiện nay, có thể tàng hình, tấn công từ xa...đã cho thấy quần đảo Trường Sa bị hải quân Việt Nam đặc biệt coi trọng, và dựa vào những hoàn cảnh phức tạp tại đây để lợi dụng " dùng nhỏ uy hiếp lớn ". Dựa vào việc Việt Nam trang bị các máy bay chiến đấu tầm xa tối tân ( 13 chiếc Su - 27 và 4 chiếc Su - 30 ), quân đội Việt Nam đang tập chung sức chiến đấu tại khu vực tranh chấp vùng biển Trường Sa, tiêu tốn 3,8 tỉ đô la Mỹ để mua 17 chiếc máy bay chiến đấu tiên tiến toàn bộ được đặt ở căn cứ không quân Phan Rang, hình thành bán kính vượt qua 1500Km, phủ rộng toàn bộ khu vực quần đảo Trường Sa tăng cường năng lực không - hải tác chiến. Theo tìm hiểu trong vài năm nữa Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư mua thêm nhiều máy bay chiến đấu Su - 27, Su - 30 và nhiều loại chiến đấu cơ tối tân nữa. Những binh chủng đặc biệt tác chiến trên biển đó là " truyền thống " của quân đội Việt Nam . Hiện nay tổng binh lực của lực lượng hải quân lục chiến của Việt Nam ước trừng khoảng 27 000 người quản lí lữ đoàn lục chiến 126, 147 binh đoàn đặc công nước 861 và một số binh chủng đặc biệt khác. " Tổng công ty khác thác hải sản Biển Đông " vốn thuộc công ty 128, 129, ( nguyên là thuộc lực lượng vũ trang ) cũng có những nhiệm vụ tác chiến đặc biệt. Để tăng cường thực tế khống chế Trường Sa, Việt Nam đã đưa vào huấn luyện, cả người nhái bí mật, tấn công chiếm đóng tầng cao, đặt thuỷ lôi, chi viện Trường Sa khi tác chiến làm trọng điểm. Trong lúc hải quân Việt Nam giám sát các tầu thăm dò của Trung Quốc, trong các hoạt động gây nhiễu có thể nhìn thấy ẩn hiện bộ đội đặc công Việt Nam trên mặt nước. Do các đảo ở Trường Sa không thể cố định đề phòng các tầu chiến,nhiệm vụ hải quân Việt Nam tuần tra trong vùng biển Trường Sa thông thường bao gồm hàng trăm các tầu cá vũ trang đảm nhiệm. Nói hoảng khi cho rằng " vì thế vận hội " nên Trung Quốc " chịu nhịn " Trong lúc tích cực chuẩn bị chiến tranh thì Việt Nam vẫn xử dụng chiêu bài " Hợp tung liêm hoành " , ý đồ mượn các thế lực bên ngoài để tiếp tục chiếm đóng các đảo Trường Sa, ở phương diện thứ nhất: về chính trị thì hợp tác liên minh với các nước ASEAN, đề cao lập trường nhất trí của các nước đối với Trung Quốc, đặc biệt là tăng cường hợp tác với Phillipin và Malayxia, một mặt khác Việt Nam lại kêu gọi nước ngoài đầu tư vào hợp tác khai thác dầu khí, ý đồ lôi kéo Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ .. và một số nước khác vào Trường Sa, khiến cho vấn đề Trường Sa bị Quốc tế hóa, đồng thời từng bước tăng cường hợp tác giao lưu quân sự với các nước Mỹ, Ấn, Nhật... đề cao vị thế của Việt Nam là một nước lớn trong khu vực. Như năm 2003, 2004, 2005 chiến hạm của Hoa Kỳ liên tục thăm viếng Việt Nam, tháng 7 năm 2007 hai bên Việt - Ấn ký hiệp định quốc phòng song phương, xác lập từ nay về sau Ấn Độ ưu tiên bán cho Việt Nam các trang bi quân sự trong đó có cả hoả tiển đạn đạo " Bulamobs " Ấn Độ còn giúp Việt Nam nâng cấp các máy bay chiến đấu Mig - 21 đã quá hạn đồng thời cũng phụ trách huấn luyện các phi công Việt Nam lái chiến đấu cơ Su - 30. Tháng 3 năm 2008, 2 tầu hộ vệ của Nhật Bản cũng đã viếng thăm thành phố Hồ Chí Minh và cùng hải quân Việt Nam tiếp hành liên hiệp diễn tập. Lần này Việt Nam đã cùng với công ty dầu khí quốc gia Mỹ Exxon tiếp ký hiệp định hợp tác dầu khí trong vùng biển tranh chấp Trường Sa, khi phán đoán rằng Trung Quốc trong một thời gian dài sau thế vận hội Bắc Kinh sẽ không có hành động cứng rắn nào trong khu vực vùng biển Trường Sa, công nhiên xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc. Việc phán đoán sai lầm này không chỉ bất lợi với cục diện ổn định ở Trường Sa, đồng thời cũng tổn hại đến bản thân của nền an ninh và phát triển của Việt Nam trong thời gian dài sau này. -------------------------------------------------------------------------------- Nguồn: en.wikipedia .org/wiki/Sina.com
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 13:49:02 GMT -5
Từ thời cơ vàng đến thảm họa đen Tác Giả Bùi Tín Đăng ngày 24.09.08
“Thời cơ vàng” và “thảm hoạ đen” là 2 khái niệm của ông Nguyễn Trung thường dùng trên báo mạng Tia Sáng ở Hà Nội từ 3 - 4 năm nay.
Ông Nguyễn Trung nguyên là cán bộ quân đội nhân dân, chuyển ngành sang bộ ngoại giao, làm đại sứ tại Bangkok (Thái Lan) rồi về hưu. Ông là một trí thức hiểu biết khá rộng, có tấm lòng với đất nước, có tư duy độc lập, không a dua, nói theo đuôi để giữ mình. Theo ông Nguyễn Trung, nước ta bước vào thế kỷ 21 với nhiều thời cơ thuận lợi quý hơn vàng. Hoà bình, thống nhất, mở cửa, đổi mới, thời đại của nền kinh tế tri thức, cuộc cánh mạng thông tin với computer, internet, vị trí đất nước nhiệt đới dựa vào Trường Sơn nhìn ra Thái Bình Dương, gia nhập tổ chức WTO, một dân tộc nhiều sinh lực, trẻ, cần cù cầu tiến... là những nhân tố thuận lợi tạo nên thời cơ vàng ngay trước mắt của nhân dân ta. Ông Nguyễn Trung nhận định rất đúng rằng tất cả vấn đề là ở lãnh đạo, là ở đường lối chính trị - kinh tế - văn hóa - đối ngoại, là ở bộ chính trị có ở tầm cao trách nhiệm và thử thách hay không; hoặc là sẽ dẫn đất nước vào thời kỳ phát triển cao, hài hòa, bền vững, có công bằng xã hội, có luật pháp nghiêm minh, có tình nghĩa dân tộc, có môi trường trong sạch, lành mạnh, nghĩa là có hạnh phúc cho toàn dân; hoặc là sẽ dẫn đến một xã hội sa sút về mức sống, đổ vỡ vì tham ô lãng phí, rạn nứt vì bất công, rữa nát về môi trường sống, nghĩa là đưa đất nước chìm dần vào thảm họa đen.
Vậy thì đến nay ta đã có thể sơ kết tình hình để phỏng đoán xem 14 vị trong Bộ chính trị hiện tại đang dẫn đất nước đến đâu, đến bến bờ “hạnh phúc cho toàn dân” hay đến bờ vực của “thảm họa đen”? Xin kính mời bà con ta trong cả nước cho ý kiến.
Theo tôi, theo dõi tình hình chặt chẽ hơn một chục năm nay, xu hướng hiện nay là nguy hiểm, cần báo động, vì bến bờ hạnh phúc cho toàn dân ngày càng xa vời, còn thảm họa đen thì cứ hiện dần lên lù lù ngay nhãn tiền, khá là đậm nét.
Đây rất nên là đề tài nghiên cứu, tìm hiểu kỹ, đánh giá một cách khách quan, khoa học, ngay cả trong cuộc họp Trung ương đảng CS cuối năm nay và cuộc họp thứ 4 của Quốc hội khoá XII sắp khai mạc vào ngày 20-10- 2008 tới, nếu như có một số vị quan tâm.
Những nét tiêu biểu của thảm hoạ đen
Chỉ xin chỉ ra vài dẫn chứng về môi trường. Khu vực Đồng Nai – Bà Rịa Vũng Tàu là khu vực trọng điểm hàng đầu về công nghiệp, đầu tư, khai thác dầu khí, du lịch của cả nước. Cả nước vừa được biết - quá ư chậm chạp - rằng dòng sông Thị Vải tại đó đang chết, nghĩa là bị ô nhiễm rất nặng nề bắt đầu từ năm 1994 đến nay, nghĩa là suốt 14 năm nay rồi; từ đó đến nay tôm cá quanh vùng vốn sung mãn đã chết dần và nay đã chết sạch; cuộc sống của 20 vạn cư dân ở 2 bên dòng sông Thị Vải vốn xanh tươi trù phú đã trở nên không thể sống nổi cho trẻ em, người già, cho cả người lao động, nghĩa là cho mọi người. Nước con sông Thị Vải nay ngả sang màu xám, mùi hôi tanh nồng nặc, chỉ cần nhúng tay xuống nước sông là móng tay đen sạm, bàn tay nhớp nháp, sau đó bị ghẻ lở. Không còn ai dám lội qua sông, chưa nói đến tắm rửa giặt rũ dọc theo 14 kilômét của dòng sông vốn nên thơ và trù phú này. Những thử nghiệm cho biết nhiều chất độc hại trong nước sông đã đạt đến gấp từ 1 nghìn đến 3 nghìn mức độ cho phép. Tội phạm gây nên thảm hoạ môi trường tại đây là nhà máy chế biến bột ngọt VEDAN, do tư bản Nam Hàn đầu tư 100%, dùng 1.800 lao động người Việt, bắt đầu xây dựng từ năm 1991, khai trương năm 1994, dùng nguyên liệu chính là sắn tươi (1 triệu tấn/năm). Cái gian xảo tội ác của bọn tư bản Nam Hàn VEDAN là tìm cách tẩu tán mỗi ngày 5.000 mét khối nước thải thối bẩn chưa hề thanh lọc xuống sâu dưới đáy sông, bằng nhiều ống bơm và ống xả chồng chéo nhau, thoát khỏi mọi kiểm tra kiểm soát của phía Việt nam từ trung ương đến địa phương, vốn cực kỳ vô trách nhiệm, lại dốt nát và tham nhũng, rất dễ bị mua chuộc bằng quà cáp và đôla (xin nhớ: tư bản Nam Hàn nổi tiếng là hung dữ với lao động Việt nam và rất ranh ma trong hối lộ, đút lót quan chức Việt nam. Bà con ta không quên Đỗ Mười khi sang Séoul trên cương vị tổng bí thư CS, đã nuốt mấy triệu đôla hối lộ nhưng không chùi sạch mép). Điều kinh dị ở đây không phải là mưu ma chước quỷ của tên phó chủ tịch hội đồng quản trị VEDAN tên là K.H.Yang mới đây leo lẻo xin lỗi phía Việt Nam và hứa bồi thường thiệt hại (bao nhiêu cho đủ!), hoặc thủ đoạn bịp bợm của 2 tên kỹ thuật viên Nam Hàn tên là Lâm Mậu Phủ và Vương Kim Điền được chủ giao cho việc điều hành hệ thống ống bơm và ống xả ma quỷ, luồn sâu đến 9, 10 mét dưới mặt sông. Điều kinh dị là sự im lặng, tê liệt của cả một hệ thống chính quyền từ xã Phước Thái, huyện Long Thành, đến chủ tịch tỉnh và bí thư tỉnh uỷ Đồng Nai, là sự mù mờ ấm ớ của các quan chức ở bộ Tài nguyên - Môi trường, ở bộ Kế hoạch - Đầu tư, các ban ngành của 2 bộ này, cho đến các đại biểu quốc hội của tỉnh Đồng Nai, cho đến các phó thủ tướng và thủ tướng... đều im re suốt 10 năm trời, kể từ khi vấn đề này bị phát hiện, qua hàng trăm lá thư tố cáo và kêu cứu của chính anh chị em lao động của VIDAN bị chủ đuổi vì dám nói lên việc làm tệ hại của chúng; và hàng trăm lá thư của nhân dân 2 bên bờ sông kêu cứu gửi chính quyền, trung ương đảng, thanh tra chính phủ, bộ y tế, hội phụ nữ, uỷ ban bảo vệ phụ nữ và nhi đồng, gửi các báo... Tất cả đều rơi vào im lặng. Cả một hệ thống vô hồn, vô cảm, theo gương ù lỳ của Bộ Chính trị.
Cho đến nay, bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường mới mở mồm “yêu cầu nhà máy SEDAN báo cáo về việc này”! (sau một cuộc kiểm tra không có kết luận, vì quá phức tạp rối rắm(!)). Ở bất cứ một nước dân chủ nào, công luận sẽ cất tiếng quyết liệt, và 2 bộ trưởng Môi trường và Đầu tư đã bị truy tố và mất chức từ lâu.
Một hệ thống chính quyền tê liệt, yếu ớt, quan liêu trước một thảm cảnh môi trường kéo dài 14 năm, một chính phủ lo chuyện đàn áp lương dân đòi lại đất, bắt bớ các công dân đòi tư do cho xã hội, làm ngơ trước sự tàn bạo tham lam của tư bản nước ngoài, một bộ chính trị 14 vị buông trôi trước mọi đau khổ của nhân dân thấp cổ bé họng đang lâm vào cõi chết tập thể, khi môi trường sống bị đe doạ tận gốc, vậy chính quyền ấy, bộ chính trị ấy có thể “biến thời cơ vàng thành hạnh phúc của toàn dân” hay không?
Môi trường đầu tư và môi trường chống tham nhũng sa sút rõ
Vụ án hối lộ của PCI - Pacific Consultant Institute (Nhật Bản ) và vụ án 4 nhà đầu tư Hoa Kỳ thuộc công ty kỹ thuật Nexus Technologies hối lộ một loạt công ty quốc doanh Việt Nam (từ dầu khí, điện lực, hàng không đến ngân hàng, quốc phòng...), 14 vị Bộ Chính trị bị dồn vào thế bí. Nếu hăng hái lao vào điều tra và xử lý thì những vụ bê bối bị phơi bày, có thể đụng đến những cấp cao nhất, nhưng nếu khoanh lại, ỉm đi như vụ Tổng cục II thì không thể được nữa, vì bộ máy tư pháp nghiêm của Nhật Bản và Hoa Kỳ đã khởi động không sao quay ngược. Đành phải chơi trò mua thời gian, miễn cưỡng, đủng đỉnh, từ từ vào cuộc, trì hoãn một cách bất lực sự bùng nổ của sự thật.
Hậu quả là các nhà đầu tư Nhật Bản, Hoa Kỳ (là 2 nước có vốn thực tế ODA và FDI, viện trợ và đầu tư, cao nhất) sẽ chờ đợi, cân nhắc kỹ và có thể nản chí.
Không phải ngẫu nhiên mà người phát ngôn của Ngân hàng thế giới WB cùng với báo Echos (Pháp) đều chỉ trích bộ trưởng dầu tư và kế hoạch Việt nam là “quá ngớ ngẩn và vụng về” khi chỉ trưng ra con số hứa hẹn đầu tư là 46 tỷ đôla, mà che dấu con số tiêu hoá, thanh khoản được có hơn 10 tỷ một năm. Họ lên lớp cho ông bộ trưởng Hà Nội là con số dự định đầu tư, có ý muốn đầu tư, chỉ là con số hứa hẹn miệng và trên giấy, chẳng có mấy ý nghĩa, một Bộ trưởng Đầu tư hơn ai hết không được tự ru ngủ mình, mà phải nhìn cho rõ sự thật là “vì sao mà tiếp thu đầu tư chậm như rùa bò”, chỉ hứa hão là “một cửa”, “thủ tục chỉ cần 2 tháng” mà thường vẫn kéo dài đến 2 năm!
Môi trường chống tham nhũng bị ô nhiễm và phá hoại bởi chính những người cầm đầu bộ máy chống tham nhũng, khi họ ngang nhiên bắt giam và tịch thu thẻ hành nghề của những nhà báo hăng hái chống tham nhũng nhất, kéo dài lê thê việc xét sử vụ án số 1: PMU 18 gần 3 năm trời mà chưa kết thúc cuộc điều tra! Chính phủ Anh, Thụy Điển, Nhật Bản... nhất loạt cảnh báo rằng họ sẽ không tiếp tục viện trợ nếu như việc xử dụng tiền viện trợ vẫn không minh bạch, phung phí tiền của chính phủ và của công dân đóng thuế của nước họ. Họ ghi nhận những lời hứa kiên quyết và vẫn còn chờ đợi việc làm.
Môi trường pháp lý vẫn còn tù mù
Trong thời đổi mới, vài chục bộ luật đã được thông qua, trường đào tạo luật sư mở rộng, toà án các cấp hoạt động, việc khiếu nại tăng nhanh, nhưng môi trường pháp lý vẫn tù mù, lạc hậu. Đầu tháng 9 này, Viện Điều tra Quốc tế vừa xếp Việt Nam vào thứ áp chót, nghĩa là gần “bét dem” về mặt pháp lý ở châu Á, nghĩa là về tôn trọng pháp luật, xử án công minh và thi hành án nghiêm chỉnh thì Việt Nam thua kém Thái Lan, Philipines, Indonesia, và cả Cambốt nữa.
Xin hỏi 14 vị trong Bộ Chính trị là các vị có quan tâm đến sự xếp hạng trên đây của cơ quan điều tra quốc tế về mặt pháp lý, để còn biết hổ thẹn và sửa chữa khuyết điểm rất nghiêm trọng của chính quyền do quý vị lãnh đạo, vì một nền pháp lý lạc hậu, trì trệ đến vậy thì làm sao có thể bảo đảm công bằng và hạnh phúc cho toàn dân.
Viết đến đây tôi nhận được điện thoại từ Hà Nội báo tin rằng ông Phạm Quang Nghị, uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội đang đích thân cùng viên giám đốc Sở Công an chỉ đạo cuộc đàn áp giáo dân đang cầu nguyện để đòi lại quyền sở hữu toà Khâm sứ công giáo 42 Nhà Chung, bằng biện pháp xử dụng công an, cảnh sát, dân quân cho đến bọn lưu manh của xã hội đen, được uống rượu để lao vào đập phá, hành hung, chửi bới và doạ nạt dân lành tay không. Vậy thì pháp lý ở đâu? bạo lực đến từ phía nào? Đâu là công bằng xã hội, là lẽ phải ở đời? Ông bí thư thành uỷ đang bảo đảm hạnh phúc cho toàn dân thủ đô như vậy hay sao? Ông có thích thú trước việc người dưới quyền ông đập chảy máu vỡ đầu trưởng đại diện hãng thông tấn AP ở Hà Nội Ben Stocking, rồi ông có xui người phát ngôn Lê Dũng chối bay chối biến? Pháp luật nào vậy, hay theo luật rừng?
Cuối năm nay, các đạo Luật về đất đai và Luật về báo chí sẽ được bàn cãi tại quốc hội, công luận đã và đang lên tiếng khá mạnh, với đầy đủ lý sự là: không phải sửa đổi, bổ xung luật đất đai, đã đến lúc đảng CS sòng phẳng trả lại quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân, sau khi đã trả lại quyền sở hữu tư nhân cho các nhà thương nghiệp và công nghiệp. Về luật báo chí không thể trì hoãn việc công nhận quyền tự do báo chí của tư nhân nghĩa là của mọi công dân như đã ghi rõ trong Hiến pháp, trong các văn kiện quốc tế về nhân quyền mà Việt nam đã cam kết tôn trọng.
Môi trường văn hoá suy đồi đến bi thảm
Nhiều trí thức, nhà văn hoá, nhà kinh tế đã nêu lên, cuộc đổi mới từ 1986 đến nay ngày càng lệch hướng. Văn hoá bị coi rất nhẹ, theo nghĩa văn hoá là đề cao vị trí “con người” trong xã hội, phục vụ người công dân, chứ không phải đề cao vật chất, tiền bạc, quyền lực; “văn hoá đầu tư” cũng lệch hướng vì xây dựng khách sạn, sân golf, casino, khu du lịch cao cấp nhiều hơn là các nhà máy kỹ thuật hiện đại, trường học và bệnh viện. Chưa có lúc nào nạn nghiện ngập, xì ke ma tuý, cờ bạc, chơi đề, buôn lậu, buôn phụ nữ, trẻ em, nhảy nhót trần truồng... có xu hướng phát triển không ngừng như hiện nay. Nhà nước tổ chức nhiều lễ hội, thi hoa hậu đủ kiểu hào nhoáng tốn kém để che dấu sự băng hoại về đạo đức và lối sống trong xã hội. Môi trường kinh doanh cũng phản văn hoá vì sự khống chế, hiếp đáp của các Tập đoàn kinh tế Quốc doanh đối với các nhà kinh doanh tư nhân ngay thật lương thiện và có tài năng.
Môi trường chính trị hư hỏng từ gốc
Vấn đề môi trường là vấn đề nóng bỏng, cấp bách ở Việt Nam. Môi trường mọi mặt đang kêu la cấp cứu.
Vấn đề con sông Thị Vải ở Đồng Nai bị bức tử 14 năm nay đang rẫy chết. Cả nước hãy quan tâm, lên tiếng và cấp cứu bà con ta ở huyện Long Thành đang sống dở chết dở. Hãy mời 2 bộ trưởng Tài nguyên - Môi trường và Đầu tư vào xắn quần lội xuống dòng sông đen ngòm ấy để may ra có thể giật mình nhận ra trách nhiệm của mình, không còn nể sợ tư bản Nam Hàn như cọp nữa.
Nhưng cần nhận rõ cái gốc của vấn đề là môi trường chính trị, là chế độ độc quyền của một chính đảng duy nhất, là quyền lực nằm trọn trong tay 14 vị trong bộ chính trị, không có lấy một lá phiếu bầu của người công dân. Ai kén họ, ai chọn họ, ai cử họ? có ma biết! Cái gốc của vấn đề có thể gọi là “dòng sông Thị Vải về chính trị”, là chế độ độc đoán độc đảng phi nhân tính, là chế độ độc quyền đảng trị phản dân chủ lạc lõng giữa thời đại mới, gây ô nhiễm xã hội ngày càng nặng nề suốt hơn nửa thế kỷ, đã đến lúc phải xoá bỏ gấp; phải thay thế nó bằng một dòng sông chính trị đa nguyên đa đảng từ lá phiếu tự do của toàn dân, dòng sông chính trị trong trẻo, xanh mát, với hoa thơm quả ngọt, làng mạc trù phú, ấm no, hoà thuận, có môi trường pháp lý công bằng cho mọi người, môi trường đầu tư có văn hoá vì hạnh phúc nhân dân, môi trường kinh doanh lành mạnh có ganh đua bình đẳng, hội nhập hẳn vào thế giới dân chủ và văn minh.
14 cái đầu bảo thủ của bộ chính trị không thể kìm hãm và bức tử toàn xã hội!
14 bộ mặt ấy nay đã lồ lộ tội làm tôi đòi cho bọn bành trướng cướp đất, cướp biển, cướp tài nguyên nước ta.
14 gương mặt đen tối mang màu sắc tử thần của dòng sông Thị Vải mà họ góp phần bức tử vì tư lợi và tư thông với tư bản nước ngoài.
Khi vài chục vạn công dân lương thiện có dũng khí lên tiếng, khi vài chục vạn đảng viên thường ở cơ sở chia sẻ với nhân dân nỗi nhục không có tự do, nỗi nhục đất nước bị mất đất, mất biển, mất đảo, để dấn thân vì Tổ quốc, khi môt bộ phận ưu tú của tuổi trẻ nước ta vào cuộc, xuống đường, đòi tự do, đòi quyền làm chính trị, đòi trong sạch hoá mọi thứ môi trường, thắng lợi sẽ chắc chắn trong tầm tay.
Môi trường tự do như dưỡng khí cho cuộc sống xã hội. Môi trường chính trị tư do là then chốt, là chìa khoá để lành mạnh hoá các môi trường văn hoá, đầu tư, pháp lý, kinh doanh, mở đường cho phát triển bền vững, mà thế giới gọi là “phát triển xanh, sạch” - le développement vert, propre - tránh khỏi sự phát triển xô bồ, khập khiễng, phát triển bệnh hoạn, giả tạo và bất công.
Không có một con đường nào khác dẫn đến hạnh phúc cho toàn dân.
Paris 24-9-2008
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 13:56:11 GMT -5
Thách đố của cộng đồng người Việt lưu vong về chuyện xâm lấn đảo của TQLâm Quang Thi – Nguyên Hân chuyển ngữ Ngày 11 tháng Năm năm 2009, chín ngày trước khi qua đời ở thành phố San Jose, tiểu bang California, vị thủ tướng cuối cùng của Nam Việt Nam, ông Nguyễn Bá Cẩn, đã đấu tranh để gìn giữ sự toàn vẹn lãnh thổ quê hương ông trước sự xâm lăng của Trung Quốc. Nhân danh cộng đồng người Việt lưu vong, ông đã nộp cho Liên Hiệp Quốc một hồ sơ xác định ranh giới bên ngoài thềm lục địa Việt Nam theo đúng Hiệp Ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc. Cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa ông Nguyễn Bá Cẩn Nguồn: OntheNet -------------------------------------------------------------------------------- Hồ sơ của ông Cẩn, được chuẩn bị với sự giúp đỡ của nhiều chuyên gia chuyên về luật quốc tế trong cộng đồng người Việt hải ngoại, đã trích dẫn bằng chứng lịch sử và địa lý để xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong lúc cộng đồng người Việt ở hải ngoại đang cố gắng giành quyền sở hữu hai quần đảo này, thì chế độ cộng sản Hà Nội, vốn nắm chính quyền qua chiêu bài độc lập và ái quốc, lại đang dâng hiến lãnh thổ của chính mình. Những quần đảo này sẽ cho Trung Quốc sự xác định nhiều quyền lợi của họ trong vùng lãnh hải này ở Biển Đông, quyền đánh cá và khả năng khai thác những khu vực có tiềm năng chứa dầu và khoáng sản. Lịch sử có khả năng tái diễn lạ lùng của nó. Thời xưa, vua Việt Nam gởi sứ sang Bắc Kinh định kỳ để triều cống những thiên triều phương Bắc đầy quyền năng nhằm đổi lấy sự che chở cho chính mình. Ngày nay Việt Nam dưới chế độ cộng sản cũng chẳng khác gì ngày xưa, nhưng có hai sự khác biệt chính: Những ông vua và chúa của một thời xa xưa hiện đang được thay bằng những nhà lãnh đạo cộng sản, và đá qúy, vàng bạc, ngà (voi, tê giác) được thay bằng sự nhượng bộ lãnh thổ, đi kèm vào đó là quyền (cho thiên triều phương Bắc) được đánh cá ngay trong lãnh hải của mình và tiềm năng của những nguồn dự trữ dầu. Hồ sơ của ông Cẩn đã thiết lập sự hợp pháp của Việt Nam Cộng Hòa trước đây (Nam Việt Nam); nhấn mạnh rằng hành động xâm lăng của Bắc Việt và sự xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa sau năm 1975 “đã không hủy bỏ gía trị ba hiệp ước quốc tế: Hiệp ước Geneve năm 1954, Thỏa hiệp Ba-Lê (Paris) ký năm 1973, cũng như Luật Cuối Cùng (Final Act) được ký vào ngày 2 tháng Ba năm 1973, và hành động xâm lăng của Bắc Việt và sự xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa này cũng không xóa đi sự hợp pháp và tính tồn tại “hợp pháp về mặt pháp lý" của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa theo luật quốc tế." Công hàm của Thủ tướng nước VNDCCH, Phạm Văn Đồng, gởi Chu Ân Lai, Tổng lý Quốc Vụ Viện Trung Quốc năm 1958 xác nhận chủ quyền trên lãnh hải của Trung Quốc. Nguồn: OntheNet -------------------------------------------------------------------------------- Ông Cẩn cũng có thể bác bẻ chuyện nộp đơn cùng lúc của Hà Nội cho Liên Hiệp Quốc; qua đó, nhà nước cộng sản Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên quần đảo Hoàng Sa một cách không chính thức, vốn nằm phía đông của thành phố Huế, và những tường thuật chỉ nói đến sự tranh chấp chưa ngã ngũ với Mã Lai Á trong quần đảo Trường Sa, nằm ở phía Nam của Hoàng Sa. Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa sau một trận hải chiến đẫm máu vào ngày 19 tháng Một năm 1974 với Việt Nam Cộng Hòa trong cùng thời gian với cuộc Chiến tranh Việt Nam. Hoàng Sa, vốn giàu nguồn năng lượng dầu hỏa, được các nước Việt Nam, Phi Luật Tân, Brunei, Mã Lai Á và Trung Quốc đều lên tiếng cho là của mình. Trung Quốc là nước duy nhất đã dùng quân đội xâm chiếm Hoàng Sa và chiếm năm đảo thuộc quần đảo này sau một trận hải chiến với Việt Nam vào ngày 14 tháng Ba năm 1988. Về phương diện địa lý, bản hồ sơ nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa nằm gần Việt Nam nhất với cự ly 135 hải lý; trong lúc khoảng cách gần bờ biển của quần đảo nằm phía cực bắc của Trung Quốc là 235 hải lý. Và quần đảo Trường Sa, nằm cách cảng Cam Ranh 250 hải lý, so với 310 hải lý từ đảo Hải Nam của Trung Quốc. Dựa vào yếu tố địa dư này, bản hồ sơ kết luận rằng, “cả hai nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa … phải thuộc về Việt Nam.” Bản đồ vùng biển đang tranh chấp. Đường chấm đỏ là lãnh hải mà Trung Quốc cho là của họ. Đường chấm xanh là vùng Đặc quyền Kinh tế kéo dài đến 200 hải lý theo quy định của UNCLOS, và những chấm màu xám là những quần đảo hiện đang còn tranh chấp. Nguồn: UNCLOS and CIA -------------------------------------------------------------------------------- Hồ sơ (của ông Cẩn) đưa ra những chứng cớ lịch sử để xác minh chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa này. Chứng cớ xưa nhất là bản đồ Hồng Đức được vẽ vào khoảng giữa năm 1460 và 1497 thời Vua Lê Thánh Tôn của triều An Nam. Nhưng tài liệu quan trọng nhất là Thỏa hiệp Tientsin được ký giữa Trung Quốc và Pháp năm 1885, công nhận Quyền Bảo hộ của Pháp trên lãnh thổ An Nam, mà lãnh thổ của nước An Nam này lúc đó đã bao gồm những quần đảo nói trên. Khi Đệ nhị Thế chiến chấm dứt, các nước thắng trận họp ở Potsdam năm 1945 để ký hiệp ước giải quyết những tranh chấp, kiện tụng liên quan đến những nước đã từng bị chinh phục bởi Nhật Bản và Đức trước đây. Những thỏa hiệp quốc tế này đã không thay đổi tính chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người ta không kỳ vọng Liên Hiệp Quốc sẽ giải quyết những vấn đề liên quan đến Thềm Lục địa trong thời gian sắp tới, nhưng sự nộp đơn của ông Nguyễn Bá Cẩn đã làm nới rộng tầm kích cuộc tranh đấu chống chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Nó cho thấy sự trổi dậy của một cộng đồng người Việt ở hải ngoại ngày càng năng động quyết tâm tiến hành một trận chiến cùng lúc ở hai mặt trận: chống quân xâm lăng ngoại quốc và đấu tranh cho một cải cách dân chủ ở Việt Nam .
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 16:27:39 GMT -5
Bản Tuyên Bố của Chu Ân Lai và Công Hàm của Phạm Văn Đồng Bản dịch tiếng Việt của dịch giả Trần Đồng Đức: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc (Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa) Đại biểu uỷ viên thường vụ đại hội nhân dân toàn quốc liên quan việc phê chuẩn quyết nghị công bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua) Quyết nghị Ngày 4 tháng 9 năm 1958 đại hội uỷ viên thường vụ đại biểu nhân dân toàn quốc hội nghị thứ 100 thông qua quyết định phê chuẩn về tuyên bố lãnh hải của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa Đính kèm: Công bố của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa về lãnh hải Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa tuyên bố: * Một: Lãnh hải của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa rộng 12 hải lý. Quy định này áp dụng cho toàn bộ lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, bao gồm Trung Quốc đại lục cùng với duyên hải của các hải đảo, với Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh cách đại lục bằng hải phận quốc tế, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc * Hai: Lãnh hải của Trung Quốc đại lục và duyên hải của các đảo được tính theo đường thẳng nối liền những điểm mốc ven bờ làm đường biên cơ sở, thuỷ vực từ đường biên cơ sở này hướng ra ngoài 12 hải lý là lãnh hải của Trung Quốc. Phần nước thuộc đường biên cơ sở này hướng vào bên trong, bao gồm vịnh Bột Hải, phần trong hải vực Quỳnh Châu, đều là phần nội hải của Trung Quốc. Các đảo thuộc đường biên cơ sở này hướng vào trong, bao gồm đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, đảo Mã Tổ, đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khưu, đảo Kim Môn lớn nhỏ, đảo Nhị Đảm, đảo Đông Định đều thuộc về các đảo thuộc nội hải của Trung Quốc. * Ba: Tất cả phi cơ và thuyền bè quân dụng của ngoại quốc, chưa được chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho phép, không được tiến nhập vào lãnh hải vào không gian trên lãnh hải. Bất cứ tàu bè ngoại quốc nào vận hành tại lãnh hải của Trung quốc, phải tôn trọng pháp lệnh hữu quan của chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. * Bốn: Dựa trên nguyên tắc quy định 2, 3 áp dụng cho cả Đài Loan cùng các hòn đảo xung quanh, những hòn đảo của khu vực Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) và những gì thuộc về những hải đảo của Trung Quốc. Đài Loan và Bành Hồ địa khu hiện nay đang bị Mỹ dùng vũ lực xâm chiếm. Đây là hành vi phi pháp xâm phạm chủ quyền và sự toàn vẹn của lãnh thổ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đài Loan và Bành Hồ đang chờ đợi để thu hồi, chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa sử dụng tất cả những phương pháp thích đáng tại một thời điểm thích đáng để thu phục những khu vực này, đây là chuyện nội bộ của Trung Quốc, không cho phép ngoại quốc can thiệp. 3. Nên chú ý, trong văn bản tuyên bố của Trung Cộng Tây Sa = Hoàng Sa = Paracel Islands Nam Sa = Trường Sa = Spratly Islands 4. Công Hàm của Phạm Văn Đồng, thủ tướng chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. (Mặc dù đa số các bác X-Cà điều đã đọc qua, tôi xin bốt lại cho những ai chưa đọc.) Thủ Tướng Phủ Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà Thưa Đồng chí Tổng lý, Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc. Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng./. Kính gửi: Hà-nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958. Đồng chí Chu An Lai (Ấn ký) Tổng lý Quốc vụ viện PHẠM VĂN ĐỒNG Nước Cộng hoà Nhân dân Trung-hoa Thủ tướng Chính Phủ tại BẮC KINH Nước Việt-nam Dân chủ Cộng Hòa 5. Nếu nhà nước VNDCCH chỉ tán thành vấn đề 12 hải lý nhưng không tán thành Hoàng Sa, Trường Sa nằm trong hải phận của Trung Cộng thì nhà nước VNDCCH phải lên tiếng chứ không thể "ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc" như thế. 6. Công hàm của ông Phạm Văn Đồng thủ tướng nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, vì vậy công hàm chỉ có thể được gởi đến Chu Ân Lai sau khi đã được thông qua, được sự đồng ý và chấp thuận của Bộ Chính Trị. Ông Hồ Chí Minh lúc đó là Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch nhà nước, nghĩa là ông đứng đầu BCT và đứng đầu chính phủ. Các bác thuộc thành phần cách mạng quang vinh nên tự suy nghĩ về lãnh tụ của các bác. 7. Công hàm của Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai xảy ra 2 năm sau khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa (miền Nam Việt Nam) ra tuyên bố tái xác nhận chủ quyền trên quần đảo Hoàng sa và Trường sa vào tháng 4 năm 1956. Điều này cho thấy là phía chính quyền miền Nam Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền trên các quần đảo của mình sau Hiệp định Genève năm 1954; trong khi Cộng sản Việt Nam ở miền Bắc thì lại phủ nhận sự kiện này, đứng về phía chủ trương của Trung Quốc. 8. Sáng ngày 21.9.1958, đồng chí Nguyễn-Khang, Đại sứ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tại Trung-quốc, đã gặp đồng chí Cơ Bàng-phi, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa và đã chuyển bức công hàm của ông pvđ đến ông chu ân lai. Nguồn Tham Khảo: * Bản tuyên bố của Chu Ân Lai tiếng tiếng Tàu www.hku.hk/law/conlawhk/sourcebook/10032.htm* Bản tuyên bố của Chu Ân Lai dịch qua tiếng Anh law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm* Công Hàm của phạm văn đồng www.vnfa.com/anews08/0809_287.htmlNên đọc thêm www.ptdcvn.org/modules.php?na...ticle&sid=1909 Giảm Thiểu Thiệt Hại Gây Ra Bởi Bức Công Hàm Của Phạm Văn Đồng (Phạm Văn Thanh)
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 16:32:26 GMT -5
ĐIỂM SÁCH
Tên sách: VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC Nhà xuất bản: Sự Thật, Hà Nội-1979 Người điểm sách: Vũ Doanh
Việc tôi có được bản photocopy cuốn sách này hoàn toàn là một sự tình cờ. Hôm đầu tháng 5-2009 tôi đang đi dạo trên sân của khu tập thể thì thấy hai cô đồng nát đang ngồi nghỉ chân. Một cô đang cầm trên tay cuốn sách cũ đã mất bìa ngoài, hờ hững lật qua lật lại từng trang sách chứ không ra vẻ đọc. Khi cô gấp cuốn sách lại, như có một sức hút kỳ lạ, tôi lao đến và hầu như giật lấy cuốn sách trong tay cô gái. Cái gì thế này? VẤN ĐỀ BIÊN GIỚI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội-1979, và trên trang cuối là:
Phụ trách bản đưa in: Phạm Xuyên, Nguyễn Hanh Trình bày bìa: Nghiêm Xuân Thành In 5.100 cuốn, khổ 12,5x19 tại Nhà máy in Tiến bộ-Hà Nội. Số in 528, Số XB 15/79 Xong ngày 15 tháng 4 năm 1979. Nộp lưu chiểu tháng 4-1979.
Đây là cuốn sách do Nhà xuất bản Sự Thật xuất bản từ năm 1979, một tài liệu chính thức của Đảng và Nhà nước được đưa ra công chúng từ 30 năm trước. Với những thông tin trên, bất cứ người nào làm công tác xuất bản hay lưu trữ đều có thể dễ dàng tìm thấy cuốn sách trong kho lưu chiểu của nhà nước, và ngoài cuốn sách đã vô tình rơi vào tay cô đồng nát, tôi tin rằng trong dân chúng vẫn còn một số lượng không ít cuốn sách này.
Tôi hỏi cô đồng nát để mua lại cuốn sách và được trả lời: Cháu không bán đâu! Thế thì cho bác mượn vậy, bác đưa cho cháu năm mươi ngàn, tiền đó là của cháu, bác chỉ mượn một lúc thôi, các cháu cứ ngồi đây chờ, không lâu đâu, bác sẽ trả lại.
Tôi vội vàng cầm cuốn sách chạy ra phố để có bản photocopy và vội vàng quay lại trả cho cô đồng nát bản gốc. Những gì viết trong cuốn sách đã làm tôi xúc động tận tâm can và tôi tin rằng bất cứ ai khi đọc cuốn sách này cũng sẽ có những ý nghĩ và tình cảm như tôi, những ý nghĩ và tình cảm khó đặt tên và viết ra trên trang giấy này. Sau đây là một số trích đoạn tôi muốn chia sẻ cùng các bạn:
Từ xâm canh, xâm cư đến xâm chiếm đất.
Lợi dụng đặc điểm là núi sông hai nước ở nhiều nơi liền một dải, nhân dân hai bên biên giới vốn có quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm nương rồi định cư những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng nương, cuối cùng nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ Trung Quốc.
Khu vực Trình Tường thuộc tỉnh Quảng Ninh là một thí dụ điển hình cho kiểu lấn chiếm đó. Khu vực này được các văn bản và các bản đồ hoạch định và cắm mốc xác định rõ ràng là thuộc lãnh thổ Việt Nam: đường biên giới lịch sử tại đây đi qua một dãy núi cao, chỉ rõ làng Trình Tường và vùng chung quanh là lãnh thổ Việt Nam. Trên thực tế, trong bao nhiêu đời qua, những người dân Trình Tường, những người Trung Quốc sang quá canh ở Trình Tường đều đóng thuế cho nhà đương cục Việt Nam. Nhưng từ năm 1956 phía Trung Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường, vải và nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang-Quảng Tây. Nhà đương cục Trung Quốc nghiễm nhiên biến một vùng lãnh thổ Việt Nam dài 6 km, sâu hơn 1,3 km thành sở hữu tập thể của một công xã Trung Quốc, thành lãnh thổ Trung Quốc. Từ đó, họ đuổi những người Việt Nam đã nhiều đời nay làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực này, đơn phương sửa lại đường biên giới sang đồi Khâu Thúc của Việt Nam. Tiếp đó họ đã gây ra rất nhiều vụ hành hung, bắt cóc công an vũ trang Việt Nam đi tuần tra theo đường biên giới lịch sử và họ phá hoại hoa màu của nhân dân địa phương. Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã Thanh Loa, huyện Cao Lộc (mốc 25, 26, 27) ở Lạng Sơn, Khăm Khau (mốc 17-19) ở Cao Bằng, Tà Lùng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà Tuyên, khu vực xã Nặm Chay (mốc 2-3) ở Hoàng Liên Sơn với chiều dài hơn 4 km, sâu hơn 1 km, diện tích hơn 300 ha. Có thể nói đây là một kiểu chiếm đất một cách êm lặng. (trang 8, trang 9)
Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam.
Năm 1955, tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300 m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đề nghị Chính phủ hai nước giao cho ngành đường sắt hai bên điều chỉnh lại điểm nối ray cho phù hợp với đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực khước từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn bộ vấn đề biên giới thì sẽ xem xét. Cho đến nay họ vẫn trắng trợn nguỵ biện rằng khu vực hơn 300 m đường sắt đó là đất Trung Quốc với lập luận rằng không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác.
Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 m trên đường quốc lộ để xoá vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kilômét số 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100 m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này.
Như vậy họ đã lấn chiếm một khu vực liên hoàn từ đường sắt sang đường bộ thuộc xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam dài 3,1 km và vào sâu đất Việt Nam 0,5 km. (trang 10)
Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.
Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.
Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 20 tháng 2 năm 1970 phía Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong, và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc. (trang 11, trang12) hết trích
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 16:39:14 GMT -5
Mao và Việt Nam
Trần Bình Nam
Mối lo hôm nay đối với người Việt Nam là tham vọng nuốt chửng Việt Nam của Trung quốc. Từng lời nói, từng hành động của các nhà lãnh đạo Trung quốc hiện nay đều nhắm vào hướng này.
Nhưng mộng bành trướng và khống chế Việt Nam của Trung quốc không phải trong thời đại đang vươn mình này của Trung quốc mới có. Đó là giấc mộng ngàn đời, từ thời đại các hoàng đế Trung quốc, qua các triều đại Minh, Nguyên, Thanh. Và gần đây Đặng Tiểu Bình, người được liệt vào bậc anh quân đã có đủ sáng suốt chuyển hướng chính trị đưa Trung quốc ra khỏi trận cuồng phong Mácxít và Maoít cũng là người đã ra lệnh cho hàng chục sư đoàn tiến đánh Việt Nam (2.1979). Và trước đó, Mao Trạch Đông, một nhà đại cách mạng Trung quốc, người được coi là một hoàng đế tân thời của Trung quốc hậu bán thế kỷ 20, người hết lòng giúp đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống Pháp giành độc lập cũng – trong mọi hành động của ông – đều có sự tính toán để uy hiếp và tối hậu thôn tính Việt Nam.
Người Trung hoa từ ngàn xưa vẫn xem Việt Nam là một phần đất của Trung quốc. Những khẩu hiệu Trung quốc- Việt Nam “núi liền núi, sông liền sông” , “môi hở răng lạnh” chỉ là những khẩu hiệu, và mới nhất là châm ngôn 16 chữ vàng “Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai.”cũng chỉ là chiêu bài để che đậy những ý đồ có tính lịch sử của Trung quốc .
Cho nên việc giữ nước lâu dài đòi hỏi các vua chúa Việt Nam hay những nhà lãnh đạo Việt Nam nắm vững yếu tính lịch sử đó để có chính sách phòng ngự thích hợp, dù đó là chính sách kinh tế, xã hội hay quốc phòng.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập (1930) cho đến năm 1992 nắm vững được yếu tính lịch sử này. Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp giành độc lập (1945-1954), thời kỳ xâm lăng miền nam Việt Nam (1960-1975) cũng như sau khi thống nhất Việt Nam các nhà lãnh đạo tại Hà Nội – dù được Trung quốc viện trợ – vẫn luôn luôn cảnh giác ý đồ của Trung quốc.
Nhưng từ năm 1992, do nhu cầu sống còn trước sự sụp đổ của Đông Âu và Liên bang Xô viết, đảng cộng sản Việt Nam trở nên lệ thuộc hoàn toàn vào Trung quốc và nền an ninh Việt Nam trở nên bị đe dọa. Sự bảo vệ biên giới đất liền, lãnh hải, hải đảo trở nên càng lúc càng yếu ớt.
Trở lại một ít lịch sử bang giao Việt Nam và Trung quốc sau khi Mao Trạch Đông đánh thắng Tưởng Giới Thạch và thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc năm 1949.
Trong cuốn sách mới nhất về Mao Trạch Đông của bà Jung Chang viết chung với ông Jon Halliday nhan đề “Mao: The Unknown Story” (Những Câu Chuyện Chưa Được Tiết Lộ về Mao) (1) bà Jung Chang đã để dành một chương để nói về các ý đồ của Mao đối với Việt Nam (trang 560 -566).
Theo bà Jung Chang, mỗi hành động của Mao đối với Hồ Chí Minh đều có hậu ý. Trung quốc giúp huấn luyện và trang bị quân đội cho ông Hồ trong chiến dịch biên giới (1950) chủ ý là không để cho các thành phần Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch bị tảo thanh tại Trung quốc chạy trốn sang Bắc Việt Nam có điều kiện trở lại tấn công Mao (2).
Nhưng đến năm 1954, Việt Nam mới thật sự nghi ngờ Trung quốc trước thái độ tráo trở của Bắc Kinh trong cuộc hội đàm tại Geneve năm 1954.
Năm 1954 Mao phát động chương trình canh tân để biến Trung quốc thành một siêu cường (Superpower Program). Trung quốc cần hiểu biết kỹ thuật và trang thiết bị lúc đó đang bị Tây phương cấm vận. Trung quốc tranh thủ viện trợ của Liên bang Xô viết, nhưng Mao biết chưa đủ nên Mao vận động giải tỏa cấm vận từ Pháp vì Pháp là nước giữ được tính độc lập với Hoa Kỳ nhiều nhất.
Lúc đó Pháp đang lúng túng tại Đông Dương. Ý của Mao là giúp Hồ Chí Minh đẩy Pháp vào chân tường rồi sẽ ra tay gỡ kẹt cho Pháp để đổi lấy điều kiện đòi giúp đỡ kỹ thuật. Tháng 5.1953 khi cuộc chiến tranh Triều Tiên sắp chấm dứt, Trung quốc chuyển sĩ quan và cố vấn sang thẳng biên giới Việt Nam chuẩn bị cho chiến trường Đông Dương mà cao điểm là cuộc chiến thắng có tính quyết định ván bài Việt Nam của trận Điện Biên Phủ tháng 5.1954.
Theo tài liệu của bà Jung Chang, trước khi hội nghị Geneve họp (26.4.1954) Mao đã quyết định sẽ giúp Pháp và tìm một giải pháp nhẹ nhàng cho Pháp chứ không để cho đảng Cộng sản Việt Nam nhân cuộc chiến thắng Điện Biên Phủ đòi những điều kiện bất lợi cho Pháp. Thống nhất Việt Nam bằng cách đẩy mạnh các cuộc tấn công quân sự, đuổi Pháp một lèo ra khỏi Đông Dương là một trong những chương trình của đảng Cộng sản Việt Nam .
Ngày 7.5.1954 Điện Biên Phủ thất thủ. Ngày 17.5 chính phủ Pháp sụp đổ. Theo kế hoạch của Mao sẽ dùng chiến trường Việt Nam đổi chác với Pháp, ngày 23.5 thủ tướng Chu Ân Lai gặp riêng tân thủ tướng Pháp Mendes France tại Geneve và đưa ra món hàng đổi chát. Phái đoàn đảng Cộng sản Việt Nam do thủ tướng Phạm Văn Đồng cầm đầu hoàn toàn không hay biết sự đối chác này.
Phạm văn Đồng đưa ra một chương trình ở thế mạnh gồm chấm dứt chiến tranh, Pháp rút ra khỏi Đông Dương, thành lập Liên bang Đông Dương Việt Miên Lào, và không đồng ý chia cắt Việt Nam như gợi ý của phái đoàn Chu Ân Lai. Ông Đồng nghĩ rằng quân đội Cộng sản Việt Nam đang làm chủ chiến trường Bắc Việt, và đã kiểm soát một khu rộng lớn tại miền Nam Trung bộ và Nam bộ nên không có lý do gì chấp nhận giải pháp chia cắt. Mặt khác với sự mất tinh thần của quân đội Pháp sau trận Điện Biên Phủ và thời gian hứa hẹn của thủ tướng Mendes France (3), Hà Nội có thể đẩy mạnh các cuộc tấn công quân sự là đủ buộc đối phương phải nhượng bộ chấp nhận chương trình của Hà Nội.
Tuy nhiên Chu Ân Lai chỉ trích chương trình của Phạm Văn Đồng và vừa áp lực vừa dọa rằng nếu Hà Nội tiếp tục thừa thắng tấn công đẩy Pháp vào chân tường Hoa Kỳ và Liên hiệp quốc có thể nhập cuộc như đã xẩy ra tại Triều Tiên. Chu Ân Lai cho biết nếu Hà Nội không ký một bản hiệp ước tạm thời chia cắt Việt Nam thì đảng Cộng sản Việt Nam sẽ phải tự lực chiến đấu, Trung quốc không có điều kiện để tiếp tục giúp đỡ (4).
Hồ Chí Minh biết không thể làm ngược lại ý của Trung quốc, hơn nữa Hồ Chí Minh cũng không muốn thấy cuộc chiến tranh Việt Nam biến thành một trận chiến tranh Triều Tiên thứ hai nên Hồ Chí Minh ra lệnh cho Phạm Văn Đồng ký Hiệp định hòa bình chấm dứt chiến tranh và chia đôi Việt Nam qua vĩ tuyến 17. Theo các nhân chứng tại Geneve, Phạm Văn Đồng đã khóc mà tuân lệnh Hồ Chí Minh. Chọn vĩ tuyến 17 thay vì vĩ tuyến 16 là một món quà “phụ thêm” của Trung quốc tặng cho Pháp vì quốc lộ số 9 nối liền Lào với biển nằm giữa vĩ tuyến 16 & 17.
Mối nghi ngờ giữa đảng Cộng sản Việt Nam và Trung quốc nẩy mầm từ đó.
Đầu năm 1965, khi Brezhnev bắt đầu chương trình tăng viện trang bi nặng cho đảng Cộng sản Việt Nam như súng phòng không và hỏa tiễn để chống cuộc không tập của không quân Hoa Kỳ vào miền Bắc Việt Nam, Mao thuyết phục Brezhnev nên dành tài nguyên đó để đương đầu phía Âu châu hơn là giúp Việt Nam. Mặt khác Mao thuyết phục Hồ Chí Minh chớ nên quá lệ thuộc vào Mạc Tư Khoa. Chu Ân Lai - suy bụng ta ra bụng người - từng nói với Phạm Văn Đồng rằng: “Các anh không nên nhận viện trợ của Liên bang Xô viết … Liên bang Xô viết giúp các anh chỉ để tạo điều kiện thương thuyết làm hòa với Hoa Kỳ thôi.”
Trong khi đó Mao nỗ lực o bế Hồ Chí Minh. Mao cho đổ vào Việt Nam tiền bạc và hằng ngàn tấn vật liệu và vũ khí nhẹ cùng với 130.000 binh sĩ để giúp điều khiển súng phòng không và bảo trì hệ thống lưu thông chống cuộc oanh tạc của Hoa Kỳ. Theo bà Jung Chang, Trung quốc còn dùng mỹ nhân kế giới thiệu một thiếu phụ trẻ đẹp làm vợ Hồ Chí Minh, nhưng Hồ từ chối không nhận.
Ngày 31.3.1968 khi tổng thống Johnson tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ 2 (11.1968) và đề nghị thương thuyết, Trung quốc khuyên Hà Nội đừng nhận lời, nhưng Hà Nội vốn nghi ngờ thiện chí của Trung quốc đã nhất định đi tới và ngày 3.4.68 tuyên bố nhận lời đề nghị của tổng thống Johnson.
Khi cuộc thương thuyết tại Paris bắt đầu. Chu Ân Lai nói với Hà Nội rằng Trung quốc có nhiều kinh nghiệm thương thuyết với Hoa Kỳ nên Hà Nội cần cố vấn của Trung quốc trong phái đoàn thương thuyết, nhưng Hà Nội tư chối. Để trả đũa Trung quốc tìm cớ ngăn cản sự chuyển vận vật liệu chiến tranh cho Bắc Việt (của Trung quốc và của Nga chở qua đường Trung quốc) và cắt đứt các cuộc dàn xếp viện trợ tương lai. Hà Nội được yêu cầu đừng gởi phái đoàn thương thuyết viện trợ dự tính đi Bắc Kinh tháng 10.1968.
Dù bị Trung quốc làm khó khăn Hà Nội vẫn không để cho Trung quốc nắm cuộc thương thuyết tại Paris.
Không dùng viện trợ uy hiếp được Bắc Việt, Mao dùng phương pháp gián tiếp. Mao thành lập một đảng Cộng sản Cambốt lấy tên là Khmer Đỏ do Polpot cầm đầu, vừa chống Sihanouk vừa chống Việt Nam, và năm 1967 Mao định đảo chánh lật đổ Sihanouk để thiết lập một chế độ thân Trung quốc tại đó nhưng không thành.
Cơ hội tới khi Lonol (với sự tổ chức của cơ quan tình báo Hoa Kỳ CIA) đảo chánh lật đổ Sihanouk ngày 18.3.1970. Mao vội vàng đưa Sihanouk sang Bắc Kinh và thuyết phục Việt Nam phối hợp với Sihanouk thành lập một mặt trận Đông Dương chung chống Mỹ (lẽ dĩ nhiên) dưới sự lèo lái của Trung quốc.
Chính sách của Mao đối với Hà Nội thống nhất ở chỗ tạo trở ngại không cho Việt Nam thống nhất và ngăn cản không để Việt Nam tạo ảnh hưởng tại hai nước Miên, Lào. Ngay cả Mặt Trận Giải Phóng miền Nam do Hà Nội nặn ra do nhu cầu chính trị xâm lấn miền Nam Trung quốc cũng không bỏ lỡ cơ hội ve vuốt, mua chuột để tách Mặt Trận này ra khỏi ảnh hưởng của Hà Nội. Chính sách trước sau của Trung quốc là không để cho Việt Nam trong bất cứ trường hợp nào trở thành một quốc gia thống nhất và hùng mạnh .
Trong thời kỳ chiến tranh (chống Pháp 1946-1954), và xâm lấn miền Nam (1960-1975) Hà Nội dùng chính sách đi dây giữa Trung quốc và Liên bang Xô viết để bảo đảm nguồn viện trợ quân sự và kinh tế, nhưng sau khi thống nhất Việt Nam (1975), Hà Nội bắt đầu có thái độ độc lập hơn với Trung quốc.
Để giải tỏa gọng kềm của Trung quốc chọc từ phía Cam bốt, tháng 12.1978 Hà Nội tấn công lật đổ chế độ Polpot thân Trung quốc. Hậu quả là cuộc tấn công trả đũa của Trung quốc qua biên giới phía Bắc tháng 2.1979.
Hà Nội cũng chứng tỏ chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung quốc vẫn thường tuyên bố là thuộc Trung quốc. Khi Hà Nội đẩy mạnh cuộc tấn công trên bộ chiếm miền Nam năm 1975 Hà Nội đã cho các đơn vị hải quân ra trú đóng tại một số đảo quan trọng trong quần đảo Trường Sa để chận trước sự “xí phần” của Trung quốc. Sự hiện điện của quân đội Cộng sản Hà Nội tại các đảo Trường Sa là điều làm cho Trung quốc rất khó chịu và đã dẫn đến cuộc đụng độ tại Trường Sa năm 1988 làm cho hơn 80 chiến sĩ hải quân Việt Nam tử trận.
Các diễn biến trên chứng tỏ rằng cho đến năm 1992 dù bị áp lực nhiều phía của Trung quốc các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam vẫn cố gắng thực hiện truyền thống bảo vệ tổ quốc trước cuộc xâm lấn không mệt mỏi của Trung quốc.
Nhưng vào năm 1992 tình hình thế giới chuyển biến đột ngột. Liên bang Xô viết sụp đổ và Hoa Kỳ đã rút ra khỏi vùng Thái Bình Dương trong khi Trung quốc trở nên lớn mạnh về cả hai mặt quân sự và kinh tế. Hà Nội trước sự đe dọa sụp đổ đã phải nhờ cậy vào Trung quốc để sống còn nên mất tư thế của một nước có chủ quyền đối với Trung quốc.
Hình như các nhà lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay không đủ bản lãnh để hoạch định một chính sách giữ nước trong những điều kiện mới. Và từ sự thiếu vắng chính sách và nhân sự lãnh đạo vững vàng là một chuổi dài thua thiệt và nhượng bộ.
Hà Nội phải ký hai Hiệp ước đất liền (1999) và biển (2000) với những điều khoản bất lợi cho Việt Nam. Mất thêm đất trong vùng Ải Nam Quan, thác Bản Giốc, và nhiều chục ngàn hải lý rộng trong vịnh Bắc Việt. Vùng đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vịnh Bắc Việt và ngoài khơi biển Nam Hải bị hạn chế do chính sách “gunboat” của Trung quốc. Ảnh hưởng của Việt Nam đối với hai nước láng giềng Cam Bốt và Lào dần dần bị thu hẹp. Trung quốc đã thả hai gọng kềm hai bên hông Việt Nam, một bên là Lào nay hoàn toàn tùng phục Trung quốc, một bên là căn cứ tàu ngầm tại cực nam đảo Hải Nam. Tương lai của Việt Nam còn lệ thuộc vào nguồn dầu hỏa trên biển Đông thì Việt Nam hiện nay cũng không có điều kiện khai thác. Nỗ lực khai thác qua việc ký giao kèo tìm dầu khí với công ty BP của Anh (2007) và ExxonMobil của Mỹ (2008) không thành trước áp lực của Trung quốc.
Việt Nam hình như đang mất sự tự do tối thiểu của một quốc gia độc lập.
Ngư dân bị tàu Trung quốc bắn chết (1.2005) trong Vịnh Bắc Việt Hà Nội không dám lên tiếng công khai phản đối và đòi bồi thường.
Trung quốc lấy đất của Việt Nam ghép vào quận huyện của Trung quốc (12.2007) Hà Nội không dám để cho nhân dân biểu tình bày tỏ sự phản đối .
Và năm nay, kỷ niệm 30 năm trận chiến bảo vệ biên giới năm 1979, báo chí Hà Nội không được viết lách tự do ca ngợi các chiến sĩ đã hy sinh bảo vệ tổ quốc. Và làm lễ chào mừng các chiến sĩ đang trú đóng tại Trường Sa mà báo chí và các cơ sở truyền thông do chính phủ kiểm soát không loan tin… Và còn nữa!
Vậy phải làm gì?
Phát huy nội lực và liên kết với đồng minh là sách lược ngàn đời để cứu nước.
Liên kết với ai? Nếu không phải với Hoa Kỳ, Úc châu, Nhật Bản, Ấn Độ, Liên bang Nga, Liên hiệp Âu châu, Hiệp Hội Asean trong đó có trọng lượng nhất là Hoa Kỳ. Nhưng chính Hoa Kỳ cũng đang gặp khó khăn vì cuộc khủng hoảng kinh tế và trong kế hoạch chấn hưng kinh tế Hoa Kỳ cũng đang nhờ sự hợp tác tài chánh của Trung quốc. Trung quốc đã không ngần ngại cho biết thế yếu của Hoa Kỳ và cảnh giác Hoa Kỳ chớ quá nóng vội giúp đỡ Việt Nam.
Bà Hillary Clinton tân bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ trong chuyến công du đầu tiên đến Trung quốc (2.2009) đã lỡ lời “thỉnh cầu” Trung quốc mua trái phiếu quốc gia của Hoa Kỳ để cùng có lợi chung thì liền ngay sau đó Trung quốc cho tàu chiến nghênh tàu của Hoa Kỳ trong biển Đông trong một vùng biển được hiểu là hải phận quốc tế. Để áp lực Hoa Kỳ nhượng bộ trên biển Đông, thủ tướng Ôn Gia Bảo lên tiếng nhắc khéo rằng “không biết trái phiếu Trung quốc đang mua của Hoa Kỳ có bảo đảm không?”
Vậy chỉ còn phát huy nội lực là chính. Và phát huy nội lực đòi hỏi sự đoàn kết của toàn dân sau lưng người cầm quyền. Và toàn dân chỉ đoàn kết sau lưng nhà cầm quyền khi họ có đầy đủ quyền tự do dân chủ.
Chính sách từ Mao, đến Đặng Tiểu Bình, rồi nay đến Hồ Cẩm Đào trước sau vẫn là khống chế Việt Nam. Và trong chiến lược lâu dài đương đầu với Hoa Kỳ để giành quyền bá chủ, Trung quốc sẽ phải chủ động mở con đường về phía nam trước. Bất cứ gì trên con đường tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương đều phải được thôn tính.
Việt Nam ở ngay trên con đường tiến của Trung quốc. Chừng nào thì những người lãnh đạo tại Hà Nội nhận thức được mối nguy mất nước để đoàn kết quốc dân cùng cứu nước?
Trần Bình Nam
|
|
|
Post by vietnam on Jun 17, 2009 17:32:26 GMT -5
Thế Đối Trọng Với Bắc Kinh?
Gần đây TQ đã gia tăng các hành vi nhằm chứng tỏ sự khẳng định uy lực quân sự, và chủ quyền cương giới của họ trong vùng biển Đông.
Lệnh cấm đánh bắt thủy sản trên 128.000 cây số vuông diện tích biển, áp dụng đối với ngư dân VN, dù đã được cố làm ra vẻ là "tạm thời" nhằm ngăn chặn hiện tượng đánh bắt "quá tải" --theo bản tin Xin Hua ((Ngày 9 tháng Sáu năm 2009)) -- Nhưng thực chất có thể là vĩnh viễn, vì không có nước nào lại đi cho phép nước khác được phép vào đánh bắt trong lãnh hải của mình.
Tất cả các hành vi này có thể diễn giải là sự tiếp tục lợi dụng thời cơ trong lúc Hoa Kỳ đang bận hai tay với hai cuộc chiến Iraq và Aghanistan và sự phân tâm của chính phủ Obama trước nhiều khó khăn đối nội và đối ngoại khác.
Nhưng tại sao Việt nam? Trong khu vực chung quanh hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa cũng có bao nhiêu tàu bè các nước khác (Hàn, Mã, Indo, Phi, v...v...)trong khu vực đến đánh cá, qua lại trên vùng biển ấy chứ đâu riêng gì Việt nam?!
Câu trả lời có thể là vì Việt nam là đối tượng dễ bị đè bẹp, khuất phục nhất. Việt nam chưa có một thực lực quân sự nào đáng kể và Việt nam không có một liên kết chính trị hay một liên minh quân sự nào khả dĩ dùng làm thế ỷ bối để có thế phản kháng lại TQ một cách có trọng lượng và có hiệu quả. Cấm Việt nam đánh bắt thủy sản trong vùng, phạt nặng hay bắt giữ ngư dân, thâm chí tông ủi cho chìm tàu bè gây chết người ...v..v... là cách ít tốn kém nhất (trên các phương diện chính trị, quân sự trong quan hệ quốc tế) để một mặt trừng phạt đứa đàn em tội bất phục tùng, cùng lúc phát tín hiệu răn đe toàn bộ các nước nhỏ khác trong khu vực.
Thực vậy, Việt nam với chánh sách đối ngoại bị tác động bởi nhiều động cơ không phải vì quyền lợi quốc gia nên đã tự đưa đất nước vào một vị trí hoàn toàn yếu thế và bị động trước các hành vi dương oai diệu võ của Trung quốc.
Cũng mới đây, lại có mẫu tin của AFP đưa (Ngày 9 tháng Sáu, 2009) , là có chuyến cuộc gặp gỡ cấp Thứ trưởng giữa Hoa Kỳ và Việt nam bàn về các "hợp tác chiến lược". Nhân đấy có dư luận cho rằng Việt nam nên xúc tiến mạnh liên kết với Hoa Kỳ để tạo thế đối trọng với Bắc Kinh. Nay thử xét đại lược xem Hoa Kỳ có thể nào trở thành một lực lượng liên kết của Việt nam để tạo nên thế đối trọng, hầu ngăn chặn, hay ít ra cũng kềm hãm bớt thái độ trịch thượng và các hành vì bành trướng của Bắc kinh đối với Việt nam hay không.
Đại lược vị thế của Hoa Kỳ hiện nay:
Đối nội là cơn khủng hoảng tài chính kéo theo suy thoái kinh tế đến mức khủng khiếp chưa từng thấy. Nhà nước bơm tiền vào các khu vực tài chính, ngân hàng, công nghiệp sản xuất xe hơi, kích cầu kinh tế, bảo trợ cho người dân giữ nhà ở, nạn thất nghiệp cao ngút ...v..v.. Trong vòng ba tháng đầu tiên của chính phủ Obama, nhà nước chuẩn chi đến mấy trillion Mỹ Kim để tài trợ, hổ trơ, cho vay v...v..., mà coi bộ vẫn chưa ...thấm vào đâu! tất cả các biện pháp cứu nguy, gỡ rối, hay hổ trợ kinh tế đưa ra đều bị cho là chỉ có giá trị rất giới hạn và không ai có thể đưa ra được một lời tiên đoán có tính khẳng địng là liệu đến bao giờ thì cơn khủng hoảng kinh tế sẽ bắt đầu hồi phục.
Đối ngoại, thì trước mặt là hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan đang là vấn đề nan giải cần tập trung nhân vật lực. Các hiểm hoạ khác trong khu vực Trung đông và Nam Á Thì trường kỳ hiểm họa là các vấn đề Do thái và Palestine, Lebanon là Hamas. Cộng thêm nguy cơ của một nước Iran có khả năng chế tạo vũ khí nguyên tử, và một nước Parkistan có hiểm hoạ bị quân hồi giáo cực đoan Taliban tràn ngập và chiếm lấy kho vũ khí nguyên tử. Tại Nam Mỹ thì Hoa Kỳ có hiểm hoạ là sự chỗi dậy của chế độ thiên tả độc tài Chavez tại Venezuela dẫn theo việc thắng thế trên chính trường tại các nước lân bang. Cộng thêm một nước Mexico với hiểm hoạ di dân bất hợp pháp và sự lấn lướt tay trên của các trùm ma tuý đối với chính quyền sở tai. Tại Bắc Á thì một Chí Phèo Bắc Hàn nay cào mặt mai xâm mình đe doạ khắp xóm làng nào là cho nổ nguyên tử, nào phóng hoả tiễn liên lục địa, nào là sẽ chủ động tấn công giải phóng sạch sẽ dân số...Nam Hàn!
Nội bấy nhiêu chuyện nêu trên cũng đủ để biết vấn đề Việt nam có thứ tự ưu tiên gần chót trên lịch làm việc của các cơ quan, định chế và các quan chức hữu trách tại Hoa Kỳ rồi đó.
Chưa kể, trong khi đó, mối quan hệ giữa Mỹ và TQ thì lại càng ngày càng rất phức hợp, và phức tạp! TQ xuất khẩu sang Hoa Kỳ trên 7% sản lượng toàn quốc, và TQ là bạn hàng mậu dịch lớn nhất của HK. Tổng sản lượng TQ và HK gộp lại là 30% trên toàn thế giới. Dĩ nhiên với sức mạnh kinh tế hiện nay và số lượng dân số khổng lồ lớn nhất trên thế giới, TQ đương nhiên sẽ phải có các kế hoạch mở rộng phạm vi hoạt động trên mọi lãnh vực chính trị quân sự đối ngoại, và các toan tính chiếm lĩnh, bành trướng ...Chỉ riêng các điểm này thôi đủ cho thấy mực độ quan trọng khiến Hoa Kỳ phải nhất thiết có ưu tiên chú tâm trong quan hệ đối với TQ chứ không thể nhất thời lơ là với TQ mà mặn mà với CSVN.
Vị trí và tình huống của Việt nam:
Việc mở cửa kinh tế từ cuối thập niên 1880 đã đặt Nhà cầm quyền và Đảng Cộng sản Việt nam trước một thực tại mâu thuẩn đồng thời là một thách đố sinh tử: Làm sao để vừa phát triển kinh tế, vừa có thể sinh tồn dưới cái vỏ ngoài là một đảng Cộng sản vốn không còn chỗ dựa vào ngoại bang CS nào khác; mà bên trong bao gồm tầng lớp đảng viên có rất nhiều tài trong phá hoai-một ưu điểm troong chiến tranh tiêu hao--nhưng lại là một nhược điểm chí tử trong xây dựng hoà binh- Nay lại tham quyền, cố vị, và chỉ biết vơ vét cho quyền lợi bản thân .
Và để sinh tồn -- Như mọi người đã rõ -- họ đã chọn lựa áp dụng vô số các chính sách bất cập, bất chấp gây hậu quả lớn lao lên tài nguyên của đất nước, bất chấp quyền lợi của toàn dân, và nền an ninh của Quốc gia.
Ở đây chỉ xin lướt qua vài điểm đáng chú ý gần đây trên phương diện đối ngoai.
Chánh sách đối ngoại của Hà nội hiện nay vẫn còn áp dụng thái độ "đu dây" đã từng thực hiện trong chiến tranh Việt nam (1).
Trong lúc đối diện với tình thế hiện nay --dù thực tế đã xoay chiều khác hẳn --thì các con khỉ già tại Hà nội (2) lại chỉ quen hành động theo kiểu phản xạ có điều kiện. Họ chỉ biết dở lại cái ngón quan hệ đối ngoại đa phương (Omnidirectional foreign plolicy). Trên chừng mực nào đó, họ thành công trong việc tái lập được quan hệ với nhiều nước trên thế giới, nhưng lại không có khả năng tạo ra một quan hệ mật thtiết với bất cứ một nước nào hay một khối quốc gia nào. Như thế lấy gì để làm thế đối trọng với TQ như hiện nay!?
Quan hệ giữa Việt nam và Hoa Kỳ thì cũng rơi vào trong bối cảnh đó.
Giới lãnh đạo CSVN luôn luôn làm ra vẻ tìm kiếm cơ hội cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ một phần vì lo ngại ảnh hưởng bành trướng của TQ tại Đông Nam Á, và ước mong tiếp tục nhận được trợ giúp của Hoa Kỳ để có thể cải tổ kinh tế. Nhưng cũng có dư luận cho rằng CSVN chỉ muốn "đu giây" để tạo thế thăng bằng với TQ. Đồng thời có một số quan chức lãnh đạo CSVN tại Hà nội vẫn còn nghi ngờ mục đích đường dài của Hoa Kỳ là chấm dứt sực độc quyền của Đảng CS Việt nam qua tiến trình "diễn biến hoà bình". Tại sao? Vì các tín hiệu từ Hà nội phát ra chứa đựng nhiều mâu thuẩn, tiền hậu bất nhất, và lắm khi chứa đựng nhiều âm mưu bất chính.
Trong lãnh vực kinh tế, thì dù Hoa Kỳ là bạn hàng Mậu dịch của Việt nam lớn hàng thứ nhì chỉ sau TQ nhưng Việt Nam dường như vẫn không có thực tâm muốn cải thiện.
Tính từ sau khi van xin và chụp được qui chế PNTR (Permanent normal trade relation) và vào được WTO (World Trade Organization) với sự hổ trợ và chấp thuận của Hoa Kỳ vào tháng 12 năm 2006 thì CSVN bắt đầu tỏ thái độ lạm dụng, bất cần, và gây ra nhiều hậu quả tai hại.
Số lượng mậu dịch có tăng nhanh giữa hai nước (5). Nhưng do lề thói làm ăn chụp giựt, kiếm lợi trước mắt của Đảng và NN tại Hà nội dẫn đến không biết bao nhiêu rối ren. Tranh chấp trên các mặt hàng chiến lược như cá Basa, tôm, hàng may mặc, và các loại thực phẩm có nhiều chất độc hại là các vấn đề tiêu biểu.
Ngoài ra Ngân Hàng Nhà Nước VN bị khiếu tố rất nhiều trong việc lại áp dụng cách thức (củA TQ là) không thả nổi tiền đồng mà lại quản lý tỉ giá tiền đồng, giới hạn lên xuống trong vòng 0.75%.
Mặt khác, trong khuôn khổ của WTO thì VN lại bị chỉ định là một trong các quốc gia phi kinh tế thị trường (Non Market Economy) cho đến năm 2019. Điều này khiến cho VN rất dễ bị các công ty ngoại quốc kiên dưới các luật lệ chống bán tháo hàng hóa (anti-dumping).
Trong lãnh vực nhân quyền và tự do tôn giáo thì quan hệ giữa VN và Hoa Kỳ càng ngày càng có chiều hướng gia tăng căng thẳng.
Chế độ CS độc đảng, toàn trị và Nhà nước do họ dựng ra luôn luôn làm ra vẻ tôn trọng tự do tôn giáo bằng cách cho phép việc thờ phượng tôn giáo trong các giáo hội tôn giáo quốc doanh, họ đăng cai tổ chức lễ Phật đản quốc tế, mời các sư sải (loại có nhiều tai tiếng xấu xa) về nước xu phụ họ trong công tác tuyên truyền này. Nhưng lại thẳng tay đàn áp khốc liệt bất cứ cá nhân, cư sĩ, tu sĩ, hay tổ chứ tôn giáo nào mà họ cho là đe doạ quyền lực hay quyền lợi của chế độ độc đảng. Ngoại trừ một số người dân bị lừa mị vì thiếu phương tiện thông tin để nhận biết, còn sự thực kết quả tai hại của chính sách tôn giáo vận của CSVN tai hại đến dường nào thì ai cũng rõ,
Trong lãnh vực nhân quyền, khi bị kết án vi phạm trắng trợn các công ước nhân quyền hay các thoả ước nhân quyền như điều kiện để mở rộng hợp tác, viện trợ, thì họ bào chữa một cách vô lý như thường lệ, là Đảng và NN Việt nam định nghĩa nhân quyền rất khác với Tây phương, và theo quan niệm của họ thì họ mới chính là quốc gia tôn trọng nhân quyền hơn cả Mỹ!
Họ chỉ cho phép người dân chỉ trích các vụ tham ô nhỏ, các chính sách kinh tế địa phương thất bại, và các vấn đề bảo quản môi sinh, ô nhiễm môi trường cục bộ.
Mặt khác họ thẳng tay đối phó với các hành vi bị xem là chống đối Đảng và NN CS. CS VN bắt giam hàng loạt các nhà đấu tranh (2007), đàn áp dân oan khiếu kiện dất đai (mùa hè 2007). Đảng CS và NN Việt nam còn đàn áp, khủng bố người dân tộc thiểu số Tây Nguyên và Cao nguyên Tây Bắc, các cuộc chạm trán giữa người Thượng và Công An, quân đội CS tiếp diễn từ 2001 đến nay.
Tất cả các báo cáo loại này--được thực hiện với sự chính xác và dè dặt cố hữu của ngành ngoại giao -đều có khả năng gây tác hại hoặc làm sút giảm mối quan hệ giữa Mỹ và VN. Phía Hoa Kỳ, cả hai ngành Hành Pháp và Lập pháp đều có những hành động chống lại các chính sách đàn áp nhân quyền, khủng bố tôn giáo của Hà nội.
Từ việc TT Bush và Phó TT Dick Cheney gặp gỡ các nhà tranh đấu tại Bạch cung (2007), cho đến viêc-trong khoảng thời gian một năm, tính từ 2007 đến 2008 -- có đến 15 bản nghị quyết từ Quốc hội Mỹ để phản đối và lên án Hà nội được thông qua đủ cho thấy thái độ khinh tởm của Mỹ đối với Hà nội trong lãnh vực nhân quyền và tự do tôn giáo như thế nào!
Thế nhưng thái độ của Hà nội lại là lam ngơ trước các sự kiện này. Mỗi khi có các phản đối từ Washington, thì Hà nội lại thả con vẹt Le Dung ra nói dăm ba câu chống chế rồi gạt phắt qua mọi chuyện. Thậm chí có nhiều lúc lại còn kết án ngược lại phía Hoa Kỳ là chen vào nội tình, nội bộ VN v..v.. thóa mạ, chửi bới các dân cử Hoa Kỳ v...v...
Dù vậy, trong quan hệ Quân sự và Chính trị đối ngoại; có lẽ Hoa kỳ vốn biết trước sẽ có các biến động bất ổn xẩy ra tại Châu Á Thái bình dương một khi TQ chỗi dậy mưu toan làm đàn anh khu vực nên đã có nổ lực "chìa tay" cho tất cả các nước nhỏ trong khu vực, kể cả Hà nội. Ngược lại, đối với Hoa Kỳ Việt nam luôn luôn giữ thái độ "đu giây" với các nước "khối tư bản" Tây phương nói chung như đã đề cập ở phần trên, lại còn thêm vẫn giữ thái độ nghi kỵ đối với Hoa Kỳ, và lắm khi là lấm la lấm lét dè chừng, lắm khi lại thậm thụt tấu hót với TQ, nên các tiến triển cho đến nay rất là khiêm tốn, nếu không muốn nói là không có gì.
Năm 2005 Việt Mỹ ký thoả ước IMET (International Military Education Trainning), là thoả thuận đã bị giới quân sự Hà nội ngăn chặn nhiều năm trước đó. Năm 2006 Bộ trưởng QP Hoa Kỳ Donal Rumsfeld viếng thăm VN và đạt được thoả thuận là hai bên sẽ mở rộng trao đổi,hợp tác quân sư. Sau đó, năm 2007 là một chuỗi thăm viếng của các tướng lãnh cao cấp thuộc Không quân và Hải quân phía Hoa kỳ, thảo luận về các việc phòng chống chuyên chở, buôn lậu các vũ khi sát thương tập thể, huấn luyện công tác cứu hộ trên biển, v...v...các cuộc thăm viếng thân hữu hay công tác y tế nhân đạo của các tàu Hải Quân Hoa Kỳ ... Trong ngân sách năm 2007 TT Bush yêu cầu một ngân sách là 200 triệu dành cho IMET. Cuối năm 2007 Thủy sư Đô đốc Tư Lệnh Hạm đội Thái bình dương viếng thăm Việt nam.
Tất cả các nỗ lực "chìa tay" ra của phía Hoa Kỳ với VN nói trên chỉ mang lại kết quả là một loạt các chuyến đi "cải thiện" của phía quân sự Hà nội, "toàn bộ chi phí do phía nước ngoài bao chi" với kết quả là sẽ ...đưa mấy chục quân nhân qua Mỹ để học ..sinh ngữ!
Thử hỏi, một quan hệ đối ngoại mà miệng lưỡi thì hô hào cải thiện, cởi mở, một mặt thì thực tế lại quay ngoắt 180 độ trái ngược như thế, thì làm sao tạo được sự tin tưởng trong các hợp tác chiến lược khác trong lãnh vực chính trị, quân sự đối ngoại?
Nhìn vào hiện tượng ấy, người ta chỉ có thể kết luận chủ trương hợp tác của Hà nội đối với Tây phương ( mà họ vẫn quen gọi là "khối tư bản") chỉ là một quan hệ có bản chất lừa lọc. Nghĩa là họ chỉ muốn lừa để lấy tiền viện trợ cho vào túi tham ô, và những việc gì tuy có ích quốc lợi dân nhưng không có mối lợi tư riêng, thì họ lọc ra không thèm tiến hành, để có câu giờ, đợi có thời cơ thì lừa tiếp! Những vụ án tham nhũng động trời và cung cách xử lý khuất tất, bao che cho đồng đảng của họ đã thực sự chứng minh điều này.
Như vậy ai mà dám làm bạn chân thành và hợp tác với VN trên các lãnh vực khác?
Tóm lại, thực chất trong quan hệ giữa Việt nam và Hoa Kỳ hiện nay chỉ đủ quan trọng đến mức người ta phải nhăn mặt nhíu mày vì kinh tởm chứ chưa đủ quan trọng để được xem như một thành viên chân thành, đắc lực trong một sự hợp tác trung thực lâu dài và có lợi cho cả hai bên.
Xoay sang quan hệ giữa VN và TQ:
TQ vừa là một bạn hàng Mậu dịch lớn nhất Việt nam lại vừa là một lực cạnh tranh khủng khiếp với Việt nam trong lãnh vực thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường trong lãnh vực gia công giá rẻ.
Thế yếu của VN thấy rõ trên tất cả các thị trường quốc tế vì hàng hoá TQ tràn ngập khắp nơi trên toàn cầu. Ngay cả tại đất nước Việt nam, hàng hóa TQ, loại thứ phẩm, bất chấp qui cách, bất chấp an toàn, bất chấp độc hại đã tràn vào như cơn lũ, và đang lần mòn giết chết nền công nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp mọi ngành của Việt nam. VN chỉ còn biết lâu lâu khẽ khàng than phiền về mức thâm thủng, chênh lệch cán cân chi phó mậu dịch quá lớn!
Trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và TQ thì Việt nam lại luôn luôn chấp nhận lép vế. Hiệp ước biên giới năm 1999 và hiệp ước lảnh hải năm 2000 đầy dẫy mâu thuẩn và thiệt thòi. (3)
Tuyên bố chung năm 2002 giữa ASEAN và TQ là một thoả thuận không bó buộc, nhằm giới hạn các tranh chấp trong vùng Nam hải về quyền hải hành và quyền phi hành lại rất mơ hồ về địa giới. Việt nam đã thất bại lớn trong việc đưa Hoàng Sa vào thoả hiệp này.
Lý do được đưa ra để giải thích sự nhân nhượng đến ô nhục -- sau khi có những phản ức gay gắt từ phía người dân (4)-- qua các kênh chính thức -- là Việt nam cần nhượng bộ, để giữ vững quan hệ hửu hảo với láng giềng phương Bắc, nhằm mua lấy sự an toàn và ổn định cho công cuộc phát triển kinh tế.
Thực ra, có lẽ Đảng CS Việt nam muốn mua lấy thời gian và an toàn cho chính bản thân họ để giữ quyền cai trị Việt nam muôn năm thì đúng hơn. Đảng CS TQ là đồng chí duy nhất trên thế giới mà họ có thể dựa vào để bắt chước các chiêu thức sinh tồn. Xem TQ là khuôn mẫu trong mục tiêu vừa phát triển kinh tế vừa cầm nắm quyền lực muôn năm, CSVN không bao giờ dám thực hiện một động tác ngoại giao nào quan trọng mà không ngó trước ngó sau, thăm dò, hay dè chừng các phản ứng của TQ.
Mặt khác, thói thường là quan hệ chiến lược nào đó giữa hai nước nào cũng đòi hỏi các nỗ lực song phương để xây dựng, củng cố và phát triển. Sẽ không bao giờ có chuyện người ta mang pháo cho mình đốt. Nhất là khi "mình" lại chỉ đóng vai một kẻ bất lực hoàn toàn trên cả hai mặt khả năng nội tại và viễn kiến chính trị trên trường bang giao quốc tế. Kinh nghiệm chiến tranh Việt nam đã chứng minh rằng cả hai miền Nam Bắc Việt Nam đã trả giá rất đắt để kinh qua điều này. (Tại Miền Nam, khi Hoa kỳ không còn cảm thấy VNCH còn giá trị gì trong chiến lược mới của họ sau khi đã bắt tay được với TQ thì VNCH liền bị bức tử cho đỡ tốn công tốn của! Ngoài Miền Bắc thì ngay sau khi Hà nội tỏ vẻ bất tuân Thiên triều, lại tiến đánh Kampuchia thì lập tức tình đồng chí, nghĩa đồng minh trở thành một trận đòn thù ngay lập tức vào năm 1979!)
Các mối quan hệ này đã gây ra thảm cảnh máu xương khủng khiếp trong ký ức của người Việt nam đến độ hiện nay có những người chỉ cần nghe nhắc đến một liên minh hay hợp tác với nước ngoài (ngoài cuộc "lương duyên" với TQ) là đã kinh hãi thốt lên: "Rồi !! Cuối cùng cũng chỉ là làm tay sai cho ngoại bang! Bán nước, hại dân, Blah, Blah, Blah!!"
Những người này nếu thực có xu hướng muốn Việt nam "tự đứng trên hai chân mà vươn lên" thì câu nói rất thiết tha với ý chí giữ vững độc lập cho Tổ quốc rất đáng biểu dương. Nhưng tiếc thay hiện nay không có một quốc gia nào trên trái đất này có thể "tự đứng trên hai chân mà vươn lên" như thế cả, kể cả các chàng khổng lồ như Hoa Kỳ hay Nga sô và gồm cả các chàng tí hon như các đảo quốc Fiji, Pulau ...Nhất là trong giai kỳ "Toàn Cầu Hóa" hiện nay! Vấn đề là liên minh, hợp tác như thế nào?
Điều này cũng có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ không bao giờ đảm đương trách nhiệm đẩy lui sự bành trướng của Bắc Kinh, để bảo vệ an ninh cương thổ và lãnh hải "dùm" cho Việt nam. Lại nữa, cũng sẽ không bao giờ có chuyện Hoa Kỳ đơn phương can thiệp vào các hành động của TQ trong khu vực với thái độ của một tên "sen đầm quốc tế" --theo định kiến của CSVN -- nếu không có sự tham gia đóng góp của các nước trong khu vực, nhất là trong nhiệm kỳ (từ 4-8 năm) của chính phủ Obama.
Thái độ khôn ngoan của Việt nam là hãy học hỏi nơi các nước chung quanh mình như Nhật bản, Hàn quốc, Nam dương, Mã lai, Tân gia ba, Phi luật tân v..v.. Hay xa hơn tí như Do Thái, Jordan, Turkey, v..v...để tự trả lời câu hỏi: Đối với một nước nhỏ yếu, thì cần phải hành xử ra sao để đạt một hợp tác song phương dựa trên quyền lợi hổ tương, bình đẳng, và giữ tính độc lập, trong mối quan hệ với một nước lớn trong tinh thần tự trọng?
Cần nhất là Việt nam nên bỏ ngay thái độ thù nghịch, nghi kỵ cố hữu. Và cũng nên rất là khiêm tốn, đừng tự cho mình "vĩ đại" hay "anh hùng" hơn các nước nhỏ khác chung quanh. Vì chính ra là họ hơn mình rất nhiều măt. Quan trọng hơn là họ biết cách hợp tác trong quan hệ quốc tế, để tự định vị, và có một kết nối liên minh khu vực làm đối trọng trước nguy cơ bành trướng của Bắc kinh.
Thực sự, cho dù đến nay mới tỉnh ra, và bắt đầu thật tâm mong muốn như thế, CS Việt nam vẫn chưa có khả năng để tạo ra một thế liên kết hợp tác song phương và đa diện với Hoa Kỳ và các nước trong khu vực. Nói như thế thì có vẻ hơi viễn mơ, nếu biết rõ căn chất của một chế độ Cộng sản biến thái thành một thứ cung đình hôn ám. Không thể nói là tuyệt vọng, vô phương, nhưng tình thế đã khá muộn màng.
Có một giải pháp khác. Đó là các giai tầng trí thức trung lưu trẻ trong nước dám từ chối các thoả hiệp với Đảng và NN CS Việt nam. Từ bỏ các quyền lợi, ưu đãi tạm bợ để tự đứng lên đấu tranh cho bản thân, và tự lãnh đạo đất nước, gánh vác trọng trách quốc gia.
Khốn nỗi, khi mà chính các thành phần trí thức trung lưu trẻ trong nước hiện nay lại cảm thấy rất thoải mái khi tự đặt tên cho mình là "đám dân Lừa trong xứ Lừa" một cách phổ biến -- từ trong nhà ra đến ngoài ngõ, từ văn phòng máy lạnh nơi cao ốc ra đến quán nhậu vỉa hè -- thì yêu cầu như thế có vẻ không tưởng và bất khả thi./
TC.
--------- Ghi chu’:
(1) Lúc bấy giờ khi có khủng hoảng quan hệ giữa TQ và Liên Sô, với thái độ anh nói "anh nói vậy thì anh phải, ả nói thế thì ả hay" Hà nội đã trong chừng mực nào đó giữ được nguồn quân viện từ cả hai phía TQ và Liên sô tuôn vào miền Bắc để phục vụ cho chiến tranh xâm lược miền Nam. Trong nội bộ, các quan chức Đảng và NN Việt nam luôn luôn ca ngợi và tự hào về chiến lược Ngoại giao "hàng hai" này. Họ quên một điều là lúc bấy giờ cả TQ lẫn Liên sô đều dùng Hà nội như một con bài để ngả giá với Hoa Kỳ. Ngưng "tham chiến" tại Việt nam qua việc cắt đứt viện trợ cho Hà nội, là họ bị loại ra khỏi cuộc chơi, vì họ còn rất ít lực đòn bẩy trong tay để đánh bạc với Hoa Kỳ.
(2) Gọi là bầy khỉ già vì đám lãnh đạo chóp bu già nua của Đảng và NN CSVN tại Hà nội có cá tính hơi giống loài khỉ, là thích "đu giây" và "đòng đưa". Đu giây trong đối ngoại chỉ để xin xỏ, kiếm tiền viện trợ bỏ túi riêng. Họ cũng rất thích "đòng đưa" trong các quyết định đối nội, mục đích là kiếm lợi trước mắt. Họ tìm kiếm cách đặt ra lắm thứ nhiêu khê, bẫy rập trong hành chính quản lý, luật pháp ...để qua cách lý giải tuỳ tiện, họ có cơ hội tham ô, bóc lột người dân.
(3) Tựu trung là phía TQ đưa ra bản đồ mà họ cho là lãnh địa hay lãnh hải của họ, rồi Việt nam ...cuối cũng chấp nhận gần như toàn bộ yêu sách của đối phương. Kết quả nực cười đến độ chiếu theo các hiệp ước vừa nêu thì người ta phải đi sâu vào lãnh thổ TQ để đến thăm Thác Bản Giốc là một vùng đất vốn thuộc Việt nam trước kia. Hoặc người ta nếu muốn hải hành ra hải phận quốc tế từ biển Việt nam thì trước hết phải ...quá quan hải phận TQ hằng mấy trăm hải lý!
(4) Các hiệp ước “bán đất -bán biển”. Thực ra đã có nền móng từ công hàm công nhận chủ quyền biển của TQ (bao gồm Trường Sa, Hoàng sa) từ thời Thủ Tướng Phạm văn Đồng.
(5) 2005: Hoa Kỳ nhập từ VN: 6.5 tỉ USD, VN nhập từ Hoa Kỳ:1.1 tỉ USD 2007: Hoa Kỳ nhập từ VN: 10.5 tỉ USD, Vn nhập từ Hoa Kỳ: 1.8 tỉ USD
- Tham khảo thêm: U.S.-Vietnam Relations: Background and Issues for Congress (2008)
|
|